There is no way to happiness - happiness is the way.

There is no way to happiness - happiness is the way.

Thich Nhat Hanh

 
 
 
 
 
Tác giả: Pavel Xudoplatov
Thể loại: Tùy Bút
Nguyên tác: Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Dịch giả: Nguyễn Văn Thảo
Biên tập: sach123
Upload bìa: Hải Trần
Số chương: 73 - chưa đầy đủ
Phí download: 8 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1895 / 18
Cập nhật: 2016-02-08 22:14:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 13 : Những Năm Giam Cầm Đấu Tranh Để Được Minh Oan​
. Kỹ thuật thanh trừ các nhân chứng chính trị bất lợi đối với chính quyền
Lại bắt đầu những cuộc hỏi cung. Lần này đã không còn Tsaregradxky tiến hành vụ án của tôi (muộn hơn tôi nghe nói ông ta bị sa thải khỏi viện công tố vì ăn hối lộ). Thay ông ta là Preobrajenxky, trợ lý đặc biệt của Rudenko, làm việc cùng cặp với điều tra viên chính Andreev. Preovrajenxky đã ngoài 50, ông ta đi chân giả, điều ảnh hưởng đến tính cách của ông - cau có và kín đáo. Tiện thể nói thêm, ông ta đi vào lịch sử đấu tranh của chính quyền với giới trí thức, khi chuẩn bị cho Rudenko thư gửi BCHTƯ, rằng Borix Paxternak xử sự hèn nhát tại những cuộc hỏi cung. Sự cau có của Preobrajenxky là đối lập kinh khủng với phong cách của Andreev. Andreev trẻ hơn, luôn luôn ăn mặc cẩn thận, hài hước và thường cho phép có những câu đùa nhân đưa ra các cáo buộc đối với tôi. Ông ta ghi biên bản, không xuyên tạc các lời đáp của tôi, và tôi cảm thấy rằng ông ta bắt đầu có cảm tình với tôi sau khi làm rõ là tôi không liên đới đến vụ sát hại Mikhoels, cũng như đến những thử nghiệm trên những người bị tuyên án tử hình do cán bộ phòng thí nghiệm chất độc tiến hành. Bản chất vụ án của tôi đã rõ, theo lời Andreev, nhưng tôi vẫn không thể thoát thời hạn tù giam dài, lưu ý đến thái độ của ban lãnh đạo cao nhất đối với những người đã làm việc với Beria. Ông ta dự đoán người ta sẽ cho tôi 15 năm.
Trong khi đó Preobrajenxky chuẩn bị những biên bản ngụy tạo các cuộc hỏi cung, nhưng tôi từ chối ký chúng và gạch bỏ tất cả những lời buộc tội giả dối mà ông buộc cho tôi. Sau đó Preobrajenxky định tống tiền tôi, tuyên bố rằng sẽ thêm một buộc tội mới - giả vờ điên, tôi đáp lại một cách bình tĩnh:
- Hẳn ông cũng phải vô hiệu hoá hai kết luận của uỷ ban y tế khẳng định rằng tôi nằm trong tình trạng trầm uất và hoàn toàn không phù hợp để hỏi cung.
Về phần mình, tôi buộc tội Tsaregradxky và Rudenko là họ đánh gục tôi khi làm tôi không được ngủ suốt hơn ba tháng, và nhốt tôi vào xà lim không cửa sổ, dẫn đến trạng thái mà không thể thoát ra nổi sau sự chạy chữa lâu dài. Preobrajenxky suốt thời gian chỉ muốn lấy được lời thú nhận từ tôi, nhưng tôi không khuất phục. Cuối cùng ông ta tuyên bố: “Việc điều tra vụ án của anh đã kết thúc”. Và đó là lần đầu - cũng là lần duy nhất! - người ta đưa cho tôi cả bốn tập hồ sơ về vụ án của tôi. Kết luận buộc tội chiếm hai trang. Đọc nó, tôi tin chắc rằng Andreev đã giữ lời của mình - do thiếu các chứng cứ buộc tôi tội tham gia âm mưu của Beria có ý đồ cướp chính quyền, đã bị huỷ. Các buộc tội tôi làm đổ vỡ chiến dịch chống Tito cũng bị bỏ. Trong hồ sơ của tôi cũng không còn những kế hoạch huyễn hoặc về sự chạy trốn của Beria sang phương Tây. Không còn nhắc tới Mairanovxky là họ hàng của tôi. Thế nhưng bản cáo trạng vẫn coi tôi là kẻ ác độc thâm căn cố đế, từ năm 1938 đã câu kết với những kẻ thù của nhân dân và luôn chống đảng và chính phủ. Để chứng minh, người ta dùng những lời khai chống các cán bộ tình báo đầu chiến tranh được tha khỏi nhà tù theo yêu cầu của tôi, và các liên hệ của tôi với “kẻ thù của nhân dân” - Spigelglaz, Xerebrianxky, Maly và những người khác, dù tất cả họ, ngoài Xerebrianxky, đến thời gian ấy đã được minh oan sau khi chết. Từ quan điểm luật pháp những buộc tội này đã mất đi hiệu lực pháp lý, nhưng tình huống này chẳng làm ai xúc động.
Những lời buộc tội ban đầu được nêu ra chỉ còn lại ba:
Thứ nhất - cấu kết ngầm với Beria để ký kết hiệp ước hoà bình tay đôi với nước Đức Hitler năm 1941 và lật đổ chính phủ Xô viết;
Thứ hai - là người của Beria và chỉ huy Nhóm đặc biệt được thành lập trước chiến tranh, tôi thực hiện những vụ sát hại bí mật những người chống lại Beria nhờ chất độc, ngụy tạo cái chết của họ như những trường hợp rủi ro;
Thứ ba - từ 1942 đến 1946 tôi giám sát công việc của “Phòng thí nghiệm - X” - những xà lim đặc biệt, nơi thử chất độc lên những tù phạm bị kết án tử hình.
Trong cáo trạng không nêu một trường hợp làm chết người cụ thể nào. Thế nhưng nhắc đến phó của tôi Eitingon, bị bắt năm 1951, được Beria tha “một cách sai lầm và phạm pháp sau cái chết của Stalin vào tháng 3-1953 và lại bị xét xử theo đúng những tội danh ấy - phản bội Tổ quốc - vào năm 1957.”
Kết luận buộc tội kết thúc bằng đề nghị Tòa án quân sự nghe vụ án của tôi theo chế độ kín không có sự tham gia của công tố và luật sư.
Tôi nhớ lại vợ tôi đã nói trong một buổi gặp tại Chữ thập về Raikhman và nhắc rằng thực tiễn những toà án kín thiếu sự tham gia của luật sư được đưa ra sau vụ sát hại Kirov, đã bị luật pháp cấm năm 1956. Raikhman tránh thoát được việc xử bí mật và vì thế được ân xá. Trước tôi có một nhiệm vụ không đơn giản: làm sao nói với Preobrajenxky rằng tôi đã biết luật pháp cấm xem xét vụ án thiếu luật sư? Tôi đã nằm trong tình trạng tâm thần cơ mà. Lúc ấy tôi viết thư yêu cầu Preobrajenxky hỏi vì sao đưa ra đề nghị nghe vụ án không có luật sư. Ông ta đáp rằng trong kết luận buộc tội không có sự cần thiết đi sâu vào những chi tiết vụn vặt như vậy, và tuyên bố với tôi với chữ ký về sự từ chối cấp luật sư. Tôi đòi Bộ luật tố tụng hình sự để có thể thực hiện quyền hiến pháp có bào chữa, nhưng yêu cầu này cũng bị Preobrajenxky ký từ chối. Đối với tôi điều vi phạm pháp luật có ý thức này rất quan trọng được ghi nhận bằng văn bản.
Sau đó tôi đề nghị phó phụ trách nhà tù, thuộc cấp cũ của tôi trong những năm chiến tranh, xin được cấp bộ luật tố tụng hình sự. Giám ngục thông báo rằng yêu cầu của tôi bị từ chối, nhưng phó phụ trách nhà tù sẵn sàng tiếp tôi và nghe những than phiền của tôi liên quan đến các điều kiện giam giữ trong tù. Khi tôi được dẫn đến văn phòng của ông mà tất nhiên bị nghe trộm, chúng tôi không để lộ là đã biết nhau. Ông khẳng định rằng sự khiếu nại của tôi bị gạt bỏ, nhưng nói rằng tôi có thể làm quen với chỉ dẫn về điều kiện giam giữ người bị điều tra trong tù trước khi viết bản khiếu nại chính thức. Trên bàn bên cạnh với chỉ dẫn có phụ lục trong đó có chính điều tôi đang quan tâm - Sắc lệnh của Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô ngày 30-4-1956 về huỷ bỏ chế độ đặc biệt việc xem xét toà án của các vụ về sự phản bội quốc gia thiếu sự tham gia của bên bào chữa.
Tuyên bố chính thức của tôi về việc có luật sư bị coi thường hẳn là theo lệnh “từ trên”, tức từ chính Khrusev, kẻ đến lúc ấy đã đứng đầu cả đảng lẫn chính phủ. Tôi quyết định chờ một ít thời gian và lặp lại đòi hỏi của tôi về người bào chữa ngay vào lúc tiến hành xử án.
Buổi gặp cuối với điều tra viên kết thúc với tôi là bước ngoặt bất ngờ. Preobrajenxky bỗng đòi tôi viết về sự tham gia của Molotov trong sự thăm dò của Xtamenov. Điều này làm tôi băn khoăn tợn, và tôi hiểu rằng chắc giờ đây Molotov không còn được ưu ái. Tôi không biết gì về “nhóm chống đảng” bị tách khỏi lãnh đạo vào năm 1957, trong nhóm có Molotov, Malenkov và Kaganovich. Thư của tôi rõ ràng gây ấn tượng với Preobrajenxky, đặc biệt thông tin Molotov thu xếp cho vợ Xtamenov vào làm việc tại Viện sinh học Viện hàn lâm khoa học Liên Xô chỗ viện sĩ Bakh. Tôi cũng nhớ lại rằng với Molotov được hỏi về những quà tặng mà Xtamenov sẽ trao ở quê nhà cho gia đình nhà vua. Phản ứng của điều tra viên củng cố hi vọng của tôi, rằng bất chấp một phiên toà kín, người ta vẫn sẽ để tôi sống làm nhân chứng chống lại Molotov.
33 - đó là số tuyên bố của tôi gửi Khrusev, Rudenko, thư ký Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao, Xerov, người đã trở thành chủ tịch KGB, và những nhân vật khác với đòi hỏi kiếm cho tôi luật sư và phản kháng đối với những ngụy tạo thô bạo chứa trong các cáo trạng đưa ra với tôi. Tôi không nhận được một lời đáp nào.
Thông thường, khi sự điều tra ở cấp độ cao nhất về những vụ đặc biệt quan trọng đã kết thúc, vụ án được chuyển ngay sang Toà án tối cao. Trong vòng một tuần hay nhiều nhất là một tháng, tôi phải nhận được giấy báo về thời gian sẽ tiến hành xử án. Nhưng đã qua ba tháng - vẫn không một lời nào. Chỉ vào đầu tháng 9-1958 người ta mới thông tin chính thức với tôi rằng vụ án của tôi sẽ được toà án quân sự xem xét ngày 12-9 không có sự tham gia của công tố và bào chữa. Tôi bị chuyển vào nhà tù nội Lubianka, còn sau đó sang Lefortovo. Sau nhiều năm tôi biết được rằng thiếu tướng Borixoglebxky, chủ tịch Tòa án quân sự, ba lần chuyển vụ án của tôi sang viện công tố để tiến hành điều tra bổ sung. Và ba lần vụ án bị trả lại.
Giờ đây tôi có cảm giác rằng số phận của tôi đã bị phán quyết trước, nhưng không ai muốn nhận về mình trách nhiệm về sự vi phạm pháp luật vào giai đoạn những lời hứa được truyền đi rộng rãi, tiếp đến ngay sau cái chết của Stalin và những chỉ trích bởi Khrusev về các tội ác của ông tại đại hội đảng lần thứ XX. Muộn hơn tôi được rõ rằng các thư của tôi gửi Xerov và Khrusev trong đó tôi viện đến những lần gặp gỡ của chúng tôi ở Kremli và đến sự hợp tác tác chiến trong và sau chiến tranh, đã gây nên phản ứng. Cấp dưới cũ của tôi đại tá Alexakhin lập tức được cử đến viện công tố để rút đi tất cả các tài liệu tác chiến từ hồ sơ của tôi liên quan đến sự tham gia của Khrusev vào những chiến dịch bí mật chống phái dân tộc chủ nghĩa Ucraina. Viện công tố cam đoan với ông ta rằng trong số bốn tập hồ sơ không có tập nào nêu tên Khrusev.
Đại tá Alexakhin là sĩ quan tình báo có kinh nghiệm và khi người ta cho xem bản cáo trạng, ông nói thẳng với công tố viên quân sự rằng, những lời buộc tội không cụ thể và bị ngụy tạo. Các sĩ quan cấp thấp - điều tra viên đồng ý với ông, nhưng nói rằng mệnh lệnh không được bàn, mà phải thi hành - chúng đến từ phía trên.
Alexakhin lấy ở viện công tố ba phong bì dán kín với những tài liệu chưa được xem lấy ra từ két sắt công vụ của tôi khi lục soát năm 1953. Ông trao các phong bì cho ban thư ký của Xerov và không bao giờ trông thấy chúng nữa
Tôi không nhớ hết toàn bộ những gì có trong két của tôi, nhưng chắc chắn có những ghi chép về sự đồng ý của lãnh đạo tối cao thời đó - Stalin, Molotov, Malenkov, Khrusev và Bulganin - cho việc thủ tiêu các nhân vật bất lợi đối với chính phủ và, ngoài ra, ghi chép hồ sơ điệp viên tình báo chúng ta về sự thâm nhập qua các nhóm Do Thái vào chính phủ và trong số các bác học nghiên cứu về năng lượng nguyên tử.
Muộn hơn khi Alexakhin với hai cựu binh tình báo chạy vạy về việc xem xét lại vụ án của tôi, ông đã viện ra chuyện này. Người ta khuyên họ im lặng và không bôi nhọ đảng thêm nữa khi lôi ra ánh sáng những vụ việc không đẹp đẽ đến thế.
Tôi bị chở đến toà nhà Toà án tối cao trên phố Vorovxcaia trên xe tù. Trên người tôi không có xiềng xích, và lính áp giải KGB kèm tôi được lệnh ngồi đợi tại phòng đón khách của phó chủ tịch toà án quân sự, ngoài phạm vi gian phòng xét án. Họ không được phép vào, bất chấp thủ tục chung. Tôi mặc đồ dân sự. Căn phòng mà tôi vào, trông không giống gian xử án. Đó là một văn phòng bài trí đẹp với bàn viết trong góc và một cái bàn dài dành cho các cuộc họp mà ngồi ở đầu là thiếu tướng Koxtromin, tự giới thiệu là phó chủ tịch toà án quân sự. Những quan toà khác là đại tá tư pháp Romanov và phó thuỷ sư đô đốc Ximonov. Trong phòng còn hai thư ký - một người là thiếu tá Afanaxiev muộn hơn là thư ký trong phiên toà Penkovxky.
Koxtromin khai mạc cuộc họp, sau khi nêu họ tên các quan tòa và hỏi tôi có phản đối và yêu cầu gì liên quan đến thành phần quan toà hay không. Tôi đáp không, nhưng tôi phản kháng liên quan đến chính phiên toà kín và sự vi phạm thô bạo quyền hiến pháp của tôi được có bào chữa. Tôi nói luật pháp cấm xử án kín thiếu sự tham gia của luật sư, theo bộ luật hình sự nó chỉ giành cho kẻ bị tội cao nhất - tử hình, mà do bệnh nặng tôi trải qua, tôi không thể tự bào chữa tại phiên toà xử án.
Koxtromin chết đứng. Các quan toà lo lắng nhìn chủ tịch, thuỷ sư đô đốc có vẻ bất an nhất. Koxtromin tuyên bố rằng toà nghỉ để hội ý, và bối rối nhận xét rằng tôi không có quyền gì tranh cãi hình thức tố tụng. Lập tức ông ta bảo thư ký dẫn tôi ra phòng tiếp khách.
Toà hội ý khoảng một giờ, trong lúc ấy bất ngờ tôi trông thấy những người cần phải phát biểu chống lại tôi với tư cách nhân chứng. Xuất hiện đầu tiên trong phòng tiếp khách là viện sĩ Muromtsev phụ trách phòng thí nghiệm vi trùng trước kia của NKVD-MGB nơi người ta thử các vũ khí vi trùng lên người bị khép án tử hình cho đến tận năm 1950. Tôi biết ông chỉ sơ qua và chưa bao giờ làm việc cùng ông nếu không tính việc đã gửi cho ông các tài liệu tình báo nhận được từ Israel về những nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực vũ khí vi trùng. Nhân chứng khác là Mairanovxky: nhợt nhạt và lo sợ, ông xuất hiện trong phòng có áp giải.
Trông thấy tôi Mairanovxky bật khóc. Ông rõ ràng không ngờ gặp tôi ở phòng tiếp khách, không áp giải, ngồi trong ghế bành, mặc trang phục sang và đeo cà vạt. Thư ký vội ra lệnh áp giải đưa Mairanovxky ra và chạy đi báo cáo với Koxtromin. Ông ta quay lại nhanh và đưa tôi vào phòng án. Koxtromin tuyên bố yêu cầu của tôi bị chính chủ tịch Toà án tối cao Liên Xô gạt bỏ. Nếu tôi ngoan cố không trả lời các câu hỏi của quan toà, toà sẽ tiếp tục không cần bị cáo và sẽ kết án vắng mặt. Ông ta hỏi tôi có thú tội không, tôi đã kiên quyết gạt bỏ mọi lời cáo buộc. Sau đó ông ta tuyên bố rằng hai nhân chứng, cựu cán bộ cơ quan an ninh Galiguzov và Pudin, không thể có mặt tại toà vì lý do sức khỏe. Hai nhân chứng khác, viện sĩ Muromtsev và Mairanxky bị kết án đang ngồi ở phòng bên và sẵn sàng đưa ra những lời khai làm chứng.
Tiếp theo Koxtromin tuyên bố: các lời khai của Beria không thuyết phục được tòa, rằng anh không phải là người tin cậy của y, mà chỉ thi hành mệnh lệnh do y truyền đạt thay mặt chính phủ. Thêm nữa, ông ta nói, toà cho rằng Beria che giấu sự kiện phản bội tổ quốc, và những lời khai có trong hồ sơ điều tra của anh, không có ý nghĩa đối với toà. Tôi kiên quyết phủ nhận rằng tôi đã có ý đồ vượt mặt chính phủ để thiết lập tiếp xúc riêng, bởi không những Molotov biết về các tiếp xúc này mà còn cho phép, và việc thăm dò trong mục đích tình báo được phép của chính phủ không thể coi là sự phản bội tổ quốc. Hơn nữa, ngày 5-8-1953 chính đồng chí Khrusev cam đoan vói tôi rằng không tìm thấy trong các hành động của tôi sự vi phạm pháp luật nào hay lỗi lầm trong vụ Xtamenov.
Trắng bệch mặt, chủ tịch cấm tôi nhắc đến tên Khrusev. Các thư ký ngừng ghi biên bản. Tôi nóng mặt, và không kìm được đã hét lên:
- Các ông xử một người bị OUN phát xít tuyên án tử hình, một người liều mạng vì nhân dân Xô viết! Các ông xử tôi cũng y như những kẻ tiền nhiệm các ông đã đưa ra xử bắn những người anh hùng của ngành tình báo Xô viết.
Tôi bắt đầu liệt kê họ tên bạn bè và đồng nghiệp tôi đã hy sinh - Artuzov, Spigelglaz, Maly, Xerebrianxky, Xoxnovxky, Gorajanin và những người khác. Koxtromin bị choáng; phó thuỷ sư đô đốc Ximonov ngồi trắng bệch như vôi.
Sau khoảng ngừng ngắn Koxtromin trấn tĩnh lại và nói:
- Không ai kết án tử hình trước cho anh. Chúng tôi muốn lập lại sự thật.
Sau đó người ta gọi Muromtsev vào và đọc lời khai của ông 5 năm về trước. Thật ngạc nhiên và không thỏa mãn đối với tòa, Muromtsev nói rằng không thể khẳng định những lời khai trước đây của ông. Theo ông, ông không nhớ sự kiện nào có dính líu của tôi với công việc ở phòng thí nghiệm nghiên cứu vi trùng bí mật.
Sau đó Mairanovxky được gọi vào. Ông khai rằng đã tư vấn cho tôi trong bốn trường hợp. Được phép toà, tôi hỏi ông có trực thuộc tôi trong công tác hay không, bốn trường hợp được nhắc tới là thử nghiệm lên con người hay chiến dịch chiến đấu và cuối cùng, ông nhận lệnh sử dụng chất độc từ ai? Tôi ngạc nhiên thấy thuỷ sư đô đốc ủng hộ tôi. Và toàn bộ dàn cảnh được nghĩ rất tốt bị rã nát. Mairanovxky khai là chưa bao giờ trực thuộc tôi trong công việc, và bắt đầu khóc. Qua nước mắt ông thừa nhận các thử nghiệm trong thực tế là những chiến dịch chiến đấu, còn Molotov và Khrusev ra mệnh lệnh tiêu diệt mọi người. Ông kể đã gặp Molotov tại Ủy ban thông tấn như thế nào, rồi kể về lần gặp Khrusev trong toa tàu hỏa ở Kiev. Lập tức Koxtromin cắt ngang ông, nói toà thế là đã hiểu những lời khai của ông rồi. Sau đó ông ta ấn chuông và lính áp giải xuất hiện đưa Mairanovxky đi. Sau vụ này tôi không gặp ông ba năm - cho đến ngày chúng tôi gặp nhau lúc đi dạo ở sân trong của nhà tù Vladimir.
Các quan toà rõ ràng là bối rối. Họ nhận được sự khẳng định cái gọi là hành động khủng bố chính là chiến dịch chiến đấu được tiến hành chống những kẻ thù độc ác nhất của chính quyền Xô viết theo lệnh trực tiếp của chính phủ, chứ không phải sáng kiến của tôi. Tôi cũng chỉ ra rằng, tôi không phải là nhân vật có chức vụ cao nhất khi thực hiện các chiến dịch này bởi trong trường hợp nào cũng có đại diện đặc biệt của chính phủ - thứ trưởng thứ nhất Bộ An ninh Liên Xô Ogolsov và bộ trưởng bộ An ninh Ucraina Xavtsenko, còn các cơ quan an ninh địa phương trực tiếp tuân thủ theo tôi. Tôi đề nghị cho gọi họ với tư cách nhân chứng và đòi trả lời tôi, tại sao họ không chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo các vụ này.
Tôi cũng viện ra rằng, chính theo quyết định của chính phủ tháng 7-1946 đã xác lập chế độ đặc biệt thủ tiêu những kẻ thù nguy hiểm nhất của nhà nước cả bên trong lẫn bên ngoài nước theo tuyến các cơ quan an ninh và cục tình báo bộ Tổng tham mưu Hồng quân.
Tôi cảm thấy rõ các quan toà còn chưa sẵn sàng thừa nhận hiện thực, rằng tất cả những vụ thủ tiêu được phép của những nhà lãnh đạo đứng cao hơn Beria một bậc, còn ông không liên quan gì đến những gì được kể trên toà.
Koxtromin nhanh chóng tổng kết phiên toà. Theo lời ông ta, tôi bị xử không phải vì những chiến dịch chống lại kẻ thù của chính quyền Xô viết. Toà cho rằng tôi lãnh đạo những chiến dịch bí mật khác nhằm chống lại kẻ thù của Beria. Tôi lập tức đề nghị đưa ra dù chỉ là một sự kiện cụ thể hành động khủng bố có tôi tham gia chống chính phủ hay kẻ thù của Beria. Koxtromin bác lại một cách gay gắt: vụ án Beria đã khép lại, và xác định chính xác hành động loại này được tiến hành nhiều lần, bởi tôi làm việc dưới sự chỉ huy của ông, nên cũng có tội. Thế nhưng đến giờ tòa chưa có đủ chứng cứ tương ứng. Với những lời đó ông ta tuyên bố kết thúc nghe hồ sơ vụ án, sau khi cho tôi nói lời cuối cùng.
Tôi ngắn gọn tuyên bố về sự vô tội của mình và về sự thanh trừ tôi diễn ra có lợi cho bọn phát xít Ucraina, các cơ quan đặc biệt đế quốc và bọn trốtkít ở nước ngoài. Cuối cùng tôi đòi thực hiện quyền luật pháp của tôi là đọc biên bản phiên toà, cho vào đó những nhận xét của tôi.
Tôi bị từ chối.
Koxtromin tuyên bố giải lao. Tôi được dẫn ra phòng tiếp tân nơi người ta mời trà và bánh kẹp thịt. Thuỷ sư đô đốc lại gần tôi, bắt tay và nói là tôi đã trụ vững như một người đàn ông cần làm. Ông trấn an: mọi sự sẽ tốt. Sau một ít thời gian toà lại tiếp tục. Koxtromin đọc tuyên án, nhắc lại từng lời buộc tội, nhưng có bổ sung: “Toà không cho là hợp lý ứng dụng hình phạt cao nhất đối với tôi - tử hình và tuyên án của dựa trên các tài liệu có trong hồ sơ nhưng không được xem xét tại phiên xử án”. Tôi bị kết án 15 năm tù giam. Tuyên án là cuối cùng và không được kháng cáo. Đã là chớm thu năm 1958. Từ khi bị bắt năm 1953 tôi đã ở trong tù 5 năm.
Tôi kiệt sức. Tôi không thể thoát khỏi trạng thái sốc, cảm thấy sắp ngất đi và đành ngồi xuống. Nhanh chóng tôi đã ở nhà tù nội Lubianka. Đầu tôi đau kinh khủng đến nỗi giám ngục phải cho tôi thuốc giảm đau. Tôi còn chưa hồi tỉnh khi bất ngờ bị điệu đến văn phòng của Xerov - lãnh địa cũ của Beria. Nhìn tôi một cách u ám Xerov đề nghị ngồi xuống.
- Anh hãy nghe chăm chú đây, - ông ta bắt đầu. - Anh còn nhiều thì giờ suy nghĩ kỹ tình trạng của mình. Anh sẽ được đưa đến nhà tù Vladimir. Nếu ở đấy anh nhớ lại về những hành động mờ ám hay mệnh lệnh tội phạm nào đó của Molotov và Malenkov, liên quan với vụ này hay vụ khác bên trong hoặc bên ngoài nước, hãy thông báo với tôi, nhưng đừng nhắc đến Nikita Xergeevich (Khrusev). Và nếu, - ông ta kết thúc, - anh hãy nhớ điều tôi, anh sẽ sống và chúng tôi sẽ ân xá cho anh.
Bất kể đầu đau, tôi thể hiện sự đồng ý. Tôi không bao giờ gặp lại ông ta nữa.
Special Tasks Special Tasks - Pavel Xudoplatov Special Tasks