Số lần đọc/download: 2994 / 57
Cập nhật: 2020-05-28 15:55:23 +0700
VII. Hẹn Về Phương Nam
Sawan là một trong nhiều bến tàu nhỏ bé, không có tầm quan trọng hàng hải ở phía nam Thái Lan. Lãnh thổ Thái Lan có thể được ví với bao tử của loài nhai lại, bên trên phình ra thành hai cái túi, một túi chĩa về phía Diến Điện, một túi giáp giới Lào-Miên. Còn bên dưới thóp lại, chạy dài như vệt chỉ suốt mấy trăm cây số giữa hai vịnh Xiêm La và vịnh Băng gan trước khi dính vào Mã Lai Á ở phía nam.
Từ thủ đô Vọng Các xuống phía nam toàn núi là núi, toàn rừng là rừng, và toàn biển là biển. Hai bên là biển, giữa thì núi và rừng. Trục lộ giao thông đường như không có, ngoại trừ đường xe lửa, hoặc đường biển, hoặc đường hàng không. Sawan tọa lạc bên bìa rừng, cách Surat Thani, là một hải cảng bậc trung khoảng 150 cây số về hướng bắc. Muốn từ thủ đô xuống Sawan, phải qua một số thị trấn như Rat Buri, Pran Buri, và mỏm đất Kra.
Si Thoeng giải thích về vị trí Sawan cho Văn Bình nghe trên một bản đồ Thái khá rộng. Nàng hơi nhăn mặt khi nghe Văn Bình nhắc đến bến tàu Sawan:
- Thú thật với anh, em đã nhiều lần đi về miền nam, nhưng ít khi ghé Sawan vì đó chỉ là một bến tàu không đáng kể, được dùng để vận chuyển quặng mỏ. Chắc anh cũng biết miền nam có nhiều mỏ kẽm. Một phần quan trọng của kỹ nghệ khai khoáng ở miền nam hiện nằm trong tay người Tàu. Mà người Tàu thì anh chẳng lạ gì. Họ không quan tâm đến chính trị. Hơn nữa, một số Hoa kiều lại nghiêng về ảnh hưởng Bắc kinh. Em đề nghị không nên đi Sawan thì hơn.
Văn Bình nhìn nàng, vẻ kinh ngạc:
- Tại sao?
Nàng gấp bản đồ, cất vào xắc da:
- Vì Sawan ở trong một vùng được coi là kém an ninh nhất ở Thái. Tàn quân du kích cộng sản Mã Lai bị đánh bật lên phía bắc đang lẩn quẩn trong núi. Mỗi khu mỏ kẽm lại là một giang sơn riêng. Nếu Dixon đi Sawan, hắn đã đề phòng chu đáo. Tìm hắn trong lúc này khác nào mò kim đáy biển. Anh không biết hắn ở đâu, song hắn lại có thể biết được đường đi nước bước của anh. Em sợ nhân viên của hắn sẽ phục sẵn dọc đường để ám hại anh.
Văn Bình lắc đầu:
- Vì công việc, anh không sợ chết. Anh phải lên đường ngay.
Si Thoeng thở dài:
- Anh không nói đi Sawan làm gì, nhưng em đoán biết là việc vô cùng quan trọng. Lộ trình qua đèo, xuyên núi rất nhiêu khê. Người Thái chính cống cũng có thể lạc đường, huống hồ là anh. Em khuyên anh không nên đi, song nếu anh cương quyết thì em phải nghe theo.
- Đại để anh muốn gặp Dixon càng sớm càng tốt. Hắn đã xuống du thuyền Bồng Lai xuôi về Sawan. Anh hy vọng đến nơi bằng đường bộ trước hắn vài ba giờ đồng hồ. Công tác của anh rất nguy hiểm, anh không thể cho em đi theo.
- Thì anh sẽ lạc đường! Một khi đã vào rừng thì hàng tuần chưa ra nổi. Em sẽ người hướng đạo đắc lực và trung thành của anh.
- Không. Anh chỉ đi một mình.
- Anh nên nghe em. Em van anh, có em một bên anh sẽ ít gặp khó khăn hơn. Một số bộ lạc thiểu số còn sống bán khai trong rừng rậm miền nam. Tình trạng ngôn ngữ bất đồng sẽ làm anh thiệt hại nặng nề. Vả lại...
- Cám ơn em. Trong vòng ba ngày nữa anh sẽ trở lại. Lần này anh sẽ lưu lại Vọng Các với em thật lâu.
- Đó là chuyện sau. Bây giờ nhắc đến chuyện về miền nam mà thôi. Em biết một lối tắt xuyên rừng. Đi với em, anh có nhiều hy vọng đến trước.
Văn Bình cười tủm tỉm:
- Anh có cảm tưởng em là võ sĩ Sơn đông quảng cáo thuốc dán gần khách sạn Rama.
Mặt Si Thoeng nghiêm lại:
- Em nói thật đấy. Đứng trước Thần Chết mà anh còn đùa được ư!
Văn Bình thẫn thờ rút thuốc Salem ra hút. Sau khi thở một hơi khói dày, chàng mới chậm rãi hỏi:
- Anh nhất định không cho em đi theo. Em còn định theo anh nữa không?
Nàng nhìn thẳng vào mắt chàng:
- Anh là ân nhân của em. Riêng điều này đã đủ cho em xả thân, phương chi anh lại là người yêu của em nữa. Dĩ nhiên anh sẽ trả lời rằng chúng ta là người khác chủng tộc, khác hoàn cảnh. Tình yêu của chúng ta chỉ có thể là tình yêu giang hồ, biết ngày nay, không biết ngày mai. Nhưng anh không yêu em, em vẫn cứ yêu anh. Anh đuổi em, em vẫn một mực theo anh vì thưa anh, em không thể dửng dưng trước những biến cố ghê gớm đang chờ anh dọc đường từ đây xuống Sawan.
Văn Bình nâng cằm nàng lên. Nàng hé môi, ngửa cổ đợi chàng hôn. Chàng ôm chặt nàng vào lòng. Tuy nhiên, trong khi nàng say sưa vì nụ hôn cháy bỏng, Văn Bình đã ấn đầu ngón tay vào mê huyệt gần đốt xương sống thứ tám của nàng.
Huyệt này, theo võ Trung Hoa, được gọi là tình miên huyệt. Bị điểm trúng huyệt, nạn nhân sẽ mê man, nửa mê nửa tỉnh, hoàn toàn tách khỏi ngoại cảnh, lâng lâng như kẻ được ân ái với thần Vệ nữ, còn lâng lâng hơn cả hít một gờram bạch phiến, thứ nguyên chất. Khoảng 700 năm trước tây lịch, thời gian mà võ thuật mới được khai sinh ở Nhật Bản, lúc đó có một phái võ Trung Hoa thế thiên hành đạo dọc rặng núi Côn lôn ở miền tây bắc nước Tàu. Gần chân núi trong tỉnh Thanh hải, có một cái hồ ngày nay là hồ Ô Lĩnh, một số võ sĩ nổi tiếng của môn phái này lập am cỏ bên bờ hồ đêm ngày luyện công, và phát minh ra một phép điểm huyệt kỳ lạ, mệnh danh là miên huyệt pháp. Miên huyệt pháp chỉ chú trọng đến những huyệt trên cơ thể con người làm tiêu tan đau đớn, và tạo ra cảm giác sung sướng xuất thần. Điểm vào huyệt thì người bị chặt tay chân cũng không biết đau. Tùy theo điểm huyệt nhẹ hay mạnh, nạn nhân sẽ hôn mê trong sung sướng hoặc sung sướng đến độ đứt mạch máu mà chết, hoặc tứ chi bất động biến thành tảng đá vô tri giác.
Những cuộc nội chiến dằng dai đẫm máu đã làm chi phái miên huyệt mất dần võ sư để rồi mấy thế kỷ sau Thiên Chúa giáng sinh thì miên huyệt pháp bị thất truyền. Không rõ lý do nào miên huyệt pháp lại được du nhập vào nước Nhật vào giữa thế kỷ thứ 17. Hồi ấy, một nhà sư Trung Hoa, pháp danh Cheng young Ping đến kinh đô Nhật thời đó gọi là E đô, chứ chưa gọi là Đông Kinh, tu trong chùa Kokushoji để truyền bá Hán tự và đạo Phật, đồng thời dạy võ thuật. Có lẽ tàn tích của chi pháp Ô Lĩnh đã qua Nhật cùng một lúc với các tu sĩ như Cheng young Ping. Tuy vậy, miên huyệt pháp chỉ được truyền dạy cho một số ít võ sư Nhật. Văn Bình được học là do tình cờ. Phần khác cũng bởi chàng có biệt khiếu về học võ, học đâu nhớ đấy, học một biết mười. Lệ thường, khóa sinh ở học hiệu Kodokan - thánh địa của nhu đạo Nhật Bản - phải mất hai, hoặc ba năm là ít mới đoạt được đai đen đệ nhất đẳng. Nếu không có tài võ thiên phú thì năm, bảy năm cũng vị tất tốt nghiệp. Vậy mà Văn Bình chỉ mất vỏn vẹn một năm.
Từ nhập môn đến đai đen đệ nhất gồm sáu bậc. Từ bậc 6 đến bậc 1: ba bậc đầu thì thắt đai trắng, còn ba bậc sau thì thắt đai nâu [1].
Từ đai đen cấp một trở đi -có tất cả 12 cấp trên nguyên tắc. Tổ sư nhu đạo là Jikoro Kano được truy thăng cấp 12, cấp cao nhất, sau ngày từ trần. Từ đai đen đệ nhất đến đai đen đệ lục thì thắt đai đen. Đệ thất thì thắt đai đen hoặc đỏ-trắng. Từ đệ bát lên đệ thập nhất thì thắt đai đỏ. Và đệ thập nhị đẳng thì dùng đai trắng, nghĩa là cùng màu với dây lưng nhập môn, duy khác là lớn gấp đôi.
Ban giảng huấn trường nhu đạo gồm toàn đai đỏ - trắng tỏ ra ngạc nhiên trước những tiến bộ khác thường của võ sinh Văn Bình. Từ đai đen đệ nhất lên đệ nhị, tối thiểu phải mất sáu tháng, và từ đệ nhị lên đệ tam, tối thiểu một năm. Song Văn Bình chỉ cần phân nửa thời gian bắt buộc để mang dây lưng đệ tam [2].
Nếu chàng có điều kiện lưu lại Nhật một thời gian nữa, chàng có thể thắt lưng đỏ - trắng. Công việc đòi hỏi chàng tiếp tục lên đường. Sau đó, chàng quay lại xứ Phù tang Tam đảo, và trong cuộc khảo thí chớp nhoáng đã được thăng đai đen đệ tứ đẳng.
Hồi học ở Kodokan, Văn Bình được một giáo sư để ý. Ông ta trạc 60, nhưng mọi người nói là tuổi thật trên 90. Nhờ tập luyện nhu đạo, và đạt tới trình độ thượng thừa ông đã trẻ đi 30 tuổi. Ông mang thắt lưng đệ thập đẳng, đai đỏ. Mỗi khi Văn Bình tập luyện, ông thường đến coi. Và nhiều lần ông chỉ đứng nhìn mà không nói. Không khen ngợi, cũng không chê bai. Thậm chí cũng không mỉm cười nữa.
Mãi sau Văn Bình mới hiểu. Thì ra ông già muốn thu nạp chàng làm môn đệ. Ông ta theo dõi như vậy trong gần một tháng. Một ngày kia, ông nói với Văn Bình:
- Ta nhận thấy cháu đánh atémi lợi hại hơn võ sĩ đệ tứ đẳng rất nhiều tuy cháu mới thăng đệ tam. Tuy nhiên, cháu chưa nắm vững được vị trí các huyệt. Hoặc chỉ mới học được một số huyệt thông thường. Sau khi quan sát cháu, ta nhận thấy cháu là võ sĩ có nhiều triển vọng vô địch nên quyết định truyền lại một vài phép mọn cho cháu.
Văn Bình theo ông già về ngoại ô thành phố Đông Kinh. Chàng lưu lại hai tuần lễ để học miên huyệt pháp. Kỹ thuật điểm huyệt độc nhất vô nhị này từ núi Côn lôn bên Trung Hoa được du nhập vào đất Phù tang, rồi được Nhật hóa, gần như biến thành một bộ môn của nhu đạo.
Từ nhiều năm nay, ít khi Văn Bình xử dụng miên huyệt pháp. Nhưng lần này ở Vọng Các... Ngón tay của Văn Bình vừa ấn xuống thì Si Thoeng mềm hẳn thân thể. Nàng nhẹ nhàng khuỵu xuống. Nhờ được ông già đệ thập đẳng nhu đạo chỉ bảo cặn kẽ, Văn Bình có thể tính trước được thời gian ngủ mê. Nàng sẽ ngủ thiếp đi 6 giờ đồng hồ, nghĩa là đến trưa nàng mới tỉnh dậy. Khi ấy Văn Bình đã đi xa. Nàng sẽ không mệt mỏi, đắng miệng, nhức đầu, hoa mặt, rã rời tứ chi như cảm giác sau khi tỉnh dậy của những nạn nhân bị đánh atémi. Vì đây là loại atémi gây ra khoái lạc. Nàng sẽ tỉnh lại trong sự phấn chấn. Nàng sẽ yêu đời như xưa.
Và nàng sẽ quên được chàng.
Văn Bình bế nàng đặt ngay ngắn lên giường, rủ mền đắp đến cổ. Trong giấc ngủ, nàng hơi hé miệng, dường nhưng mỉm cười, làm nũng đợi chàng hôn. Chàng hôn thoảng vào cặp môi khả ái, đoạn tắt đèn, khóa trái cửa, vứt chìa khóa qua cửa sổ vào phòng - căn phòng riêng của Si Thoeng trên đường Sathorn - rồi ra đường.
Lê Diệp chờ chàng trong xe díp. Đúng hơn đây là xe díp được chế tạo theo kiểu Amphicar, có thể chạy trên bộ và lội dưới nước. Thấy bạn, Lê Diệp giơ tay vẫy. Văn Bình trèo lên, ngồi cạnh Lê Diệp. Chiếc díp phóng nhanh về phía sông đào Klong Hualam Pong.
Lê Diệp nói:
- Ngay sau khi anh gọi điện thoại, tôi đã liên quan khẩn cấp với Sàigòn để xin chỉ thị. Ông Hoàng đáp là chúng ta không nên yêu cầu tình báo địa phương yểm trợ. Nghĩa là kế hoạch sắp sẵn từ trước vẫn được giữ lại, không thay đổi, mặc dầu Dixon đã đi Sawan.
Văn Bình hỏi:
- Ông Hoàng chấp thuận cho tôi đi Sawan không?
- Chấp thuận. Về câu hỏi liên quan đến cô gái mang tên Si Thoeng, ông Hoàng chưa tìm được chi tiết nào khả dĩ giúp anh, nên cho phép anh tùy nghi định đoạt.
- Còn về Akita?
- Gấp quá nên chưa thể trả lời. Tuy nhiên, ông Hoàng nói là nếu đúng như anh tiên đoán và linh tính thì sự việc sẽ xảy ra theo chiều hướng khác, và triển vọng thành công sẽ gia tăng.
- Tôi cũng nghĩ như vậy. Còn anh, anh cùng đi với tôi hay phải ở lại?
- Ở lại. Vì tôi phải làm gạch nối giữa anh và Sàigòn. Trong xe, tôi đã để sẵn điện đài cho anh. Khi cần, anh hãy liên lạc với tôi. Mặt khác, vì đường về miền nam gồm toàn rừng núi hiểm trở nên tôi đã xoay cho anh chiếc xe díp đặc biệt này của hãng Amphicar. Trên bộ, tốc độ của nó là 120 cây số, hoặc nhiều hơn nữa. Dưới nước, nó có thể chạy được 15 cây số-giờ [3].
- Xe “cầm nhầm”, phải không?
- Không. Chuyến này tôi cố làm ăn lương thiện. Để theo dõi tình hình kiều bào ở các tỉnh đông bắc bị cộng sản trà trộn, Sở đã mở một hãng chuyên chở ở đây. Đường bộ, đường thủy đủ cả. Tôi mò đến văn phòng lão giám đốc trình giấy tờ của ông Hoàng để mượn xe. Hắn dẫn tôi khắp nơi, giới thiệu đủ kiểu xe cho tôi lựa chọn. Thấy cái Amphicar này thích hợp với đường sá miền nam, nên tôi đòi lấy. Hắn tự tay coi lại máy móc, bơm mỡ và dầu nhớt.
- Anh đánh thức hắn giữa giấc ngủ?
- Dĩ nhiên. Hắn có tổ ấm ngay cạnh văn phòng. Hắn đang độc thân như anh vậy.
- Hừ, anh không độc thân sao?
- Nhưng lại khác anh. Tôi độc thân là độc thân, chứ không mỗi đêm mỗi ngủ với đàn bà lạ như anh. Lão Tổng giám đốc hãng chuyên chở đang tò tí te với cô thư ký thì tôi lò dò tới.
- Anh chuyên môn phá đám những giây phút mê ly của người khác. Cô thư ký đẹp không?
- Biết trước anh hỏi câu này, tôi đã quan sát thật tường tận. Nàng là người Thái song nước da không đến nỗi ngăm ngăm. Khó tính như anh cũng phải bằng lòng. Tuy nhiên, tôi có cảm tưởng là hắn ghen kinh khủng.
Chiếc Amphicar đã ra đến ngoại ô Vọng Các. Lê Diệp bớt ga xăng rồi lái vào lề:
- Hết giờ nói chuyện phiếm rồi. Tôi quay lại đây.
Văn Bình hỏi bạn:
- Anh về bằng gì?
Lê Diệp nhún vai:
- Trời gần sáng. Chỉ độ 30 phút nữa là xe cộ tấp nập. Vả lại, tôi cũng muốn bách bộ một lúc cho mát. Mấy hôm trước ở Sàigòn, tôi bị ông Hoàng quần suốt ngày đêm, có khi liền tù tì 24 trên 24. Thậm chí không có cả 15 phút để nhai miếng xăng uých nữa.
- Việc gì bận thế?
- Ôi dào, thôi thì đủ việc. Nguyên Hương bị cúm, nằm liệt giường, trăm công ngàn việc đều trút lên đầu tôi.
- Còn Triệu Dung?
- Ông ấy sang Đông Kinh nghỉ phép. Văn phòng vắng ngắt như chùa bà Đanh. Cô Quỳnh Loan thì phải huấn luyện cấp tốc cho một đám con gái mới đầu đơn gia nhập Sở.
- Ông cụ vẫn bình thường chứ?
- Vẫn. có lẽ còn khỏe hơn trước nữa kia.
- Này,...
Văn Bình gọi giật Lê Diệp. Chàng định hỏi bạn về sức khỏe Văn Hoàng, đứa con trai kháu khỉnh và nghịch ngợm của chàng với Quỳnh Loan, nữ quái đa tình của Sở Mật vụ. Song chàng lại lặng thinh. Dầu sao thì Văn Hoàng cũng đã ra đời, chàng đã có con, và có trách nhiệm đối với nó. Đành rằng nó được Sở nuôi nấng, nhưng còn có những nhu cầu mà đạo binh y sĩ và điều dưỡng lỗi lạc với Sở không thể cung cấp nổi: nhu cầu tinh thần, nhu cầu của tình phụ tử,... Đã lâu lắm Văn Bình chúi mũi vào công tác hiểm nghèo, hoặc hưởng thụ hoan lạc, nên không về thăm con. Đột nhiên, ruột gan chàng nóng như lửa đốt. Chàng muốn mọc cánh bay ngay về quê hương, bồng bé Văn Hoàng vào lòng. Lê Diệp đọc được ý nghĩ thầm kín và lắt léo của bạn. Chàng nói giọng chậm rãi:
- Anh muốn hỏi thăm tin tức của cháu nhỏ, phải không? Anh yên tâm, nó đã biết lựa đồ chơi. Nó đã đốt của ông Tổng giám đốc không biết bao nhiêu giấy bạc nữa.
- Chữ “đốt” của anh mang nghĩa đen hay nghĩa bóng?
- Cả hai.
- Nghĩa là nó khoái đốt giấy bạc làm đuốc như công tử Bạc liêu ngày nọ?
- Cũng gần như thế. Ông cụ xếp một hàng giấy bạc trước mặt nó. Nó nhìn 1 phút rồi chọn tờ 500. Mỗi khi ông cụ lại thăm, nó khóc ré lên, đòi bế. Được bế rồi, nó đòi quẹt lửa cho nó ngắm nghía, và đốt vài ba tờ bạc 500.
- Trời đất ơi!
- Nghĩa là là cháu Văn Hoàng cũng ngỗ nghịch không kém bố Văn Bình của nó. Ông Tổng giám đốc kể lại là hồi anh còn nhỏ xíu, anh bóp bẹp mỗi ngày hàng thúng cam quít khiến song thân anh muốn điên cái đầu. Thú thật tôi không ngờ anh lại thích bóp bẹp cam quít như ông Hoài văn hầu Trần quốc Toản xưa kia...
Văn Bình cười nụ:
- Ông Hoàng nhớ dai ghê! Phải, hồi còn bé, tôi chỉ khoái chơi cam thôi. Nhưng tôi không giống ông Trần quốc Toản vì khi bóp bẹp trái cam, ông ta còn thiếu niên. Vả lại, ông tức giận vì quốc sự nên có cử chỉ này. Còn tôi, vì bàn tay tôi ngứa ngáy suốt ngày, để yên một lát là không sao chịu được. Chung quy cũng do mẹ tôi có một vườn cam và quít ngọt kinh khủng. Cam thì Xã đoài, Bố hạ, thứ nào cũng trồng hơn 100 cây. Còn quít thì cũng đủ loại quít giấy, quít đào, hàng năm cứ đến mùa là ngày nào cũng hái vào năm, bảy thúng lớn.
Năm ấy tôi mới lên 2, hoặc lên 3 gì đó. Dường như tôi làm nũng nên mẹ tôi ấn cho tôi một rổ quít để tung chơi cho đỡ buồn. Không ngờ vớ được rổ quít tôi liền lấy từng trái, đặt lên đất và dẫm nát. Mẹ tôi vốn nuông con nên không nói gì cả. Vả lại, nói cũng vô ích vì tôi còn quá nhỏ. Mẹ tôi đem chuyện bàn với cha tôi, cha tôi cười và đáp hôm sau đừng đưa quít nữa, mà là đưa cam. Con nít lên hai tuổi mà dẫm bẹp được trái quít đã là một hiện tượng lạ lùng, và cha tôi nghĩ rằng tôi không thể nào tạo ra hiện tượng lạ lùng hơn nữa với trái cam lớn gấp đôi. Vậy anh biết tôi xử sự ra sao không
- Anh lại dẫm bẹp rổ cam!
- Đâu có dễ dàng như anh tưởng. Anh đừng quên tôi chỉ là đứa trẻ còn bú sữa, cất tiếng còn bập bẹ, tay chân bé tí còn yếu hơn xương gà, hai bàn tay vẫn chưa ôm được quả cam chứ nói là bóp bẹp nó nữa.
- Vậy anh làm cách nào?
- Cha tôi thâm trầm lắm. Ông dặn mẹ tôi đưa cam Xã đoài cho tôi chơi. Cam Xã đoài là cam chanh, ruột cứng, vỏ lại dày, không như cam Bố hạ, hoặc quít vỏ mỏng. Bản tâm của ông là ngăn ngừa tôi hư hỏng. Nhưng tôi nghĩ ra một cách: ngồi chận lên trên. Thoạt đầu trái cam hất tôi ngã, nhưng lâu dần nó bị đè bẹp. Ngày thứ nhất, tôi phá một trái. Ngày thứ hai, cũng vậy. Dần dà, tôi bóp bằng tay, mỗi lúc bóp một chút. Năm lên 3 tuổi, tôi đã khét tiếng trong vùng là tiểu vương bóp cam.
- Thảo nào! Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Hồi nhỏ, anh phá hết vườn cam của hai cụ thì giờ đây con anh lại đốt hết giấy bạc của anh. Tuy vậy, anh cũng nên hãnh diện đi: thằng Văn Hoàng không giống con nít cùng lứa, nó chỉ thích chơi võ khí. Ông Tổng giám đốc mua cho nó một nhà đồ chơi, toàn là súng lục, súng trường, dao, kiếm.
Lê Diệp co chân nhảy xuống vệ cỏ. Chàng sếu vườn muốn kết thúc câu chuyện tâm tình. Hơn ai hết, chàng đã biết Văn Bình là con người giàu tình cảm. Nhiều lần đa mang mỹ nhân, điệp viên Z.28 đã làm hỏng công việc khi đã tới đích. Lần này nhớ đến đứa con trai đầu lòng, có thể điệp viên Z.28 sẽ bị Dixon đánh bại dễ dàng.
Trong chớp mắt, chàng sếu vườn Lê Diệp đã khuất vào bóng tối lúc trời sắp rạng đông.
Văn Bình thở dài, tống hết ga xăng phóng về phía nam.
* * * * *
Từ Vọng Các đến Phet Buri, con đường dài trên dưới 100 cây số. Chiếc Amphicar phóng hết tốc lực mặc dầu đường trải đá có nhiều ổ gà. Loại xe này thường thích hợp với địa hình hiểm trở. Văn Bình vượt qua Phet Buri thì mặt trời đã đỏ rực ở phương đông. Qua Phet Buri, lộ tình bắt đầu khó khăn. Con đường về phía nam đang làm dở dang, nhiều đoạn còn gồ ghề, xiên xẹo. Văn Bình phải giảm tốc độ xuống 40 cây số 1 giờ.
Bên phải là rặng núi chạy dài, đỉnh cao ngất tưởng như thấu tới mây xanh. Hơn ai hết, Văn Bình đã biết bề cao của rặng trường sơn chỉ là loạn ảnh. Dưới ánh mặt trời buổi sáng ở xứ nóng, núi non thường có vẻ cao hơn, biển có vẻ rộng hơn. Bên trái chàng là biển. Văn Bình vốn thích lái xe dọc bờ biển. Cảnh trời nước bao la một bên xa lộ tạo ra cảm giác lâng lâng thoải mái nên các kỹ sư kiều lộ tây phương tìm mọi cách để xẻ đường song song với biển. Mỗi khi có dịp qua Âu Mỹ và có thời giờ rỗi rãi, chàng không quên thót lên xe -dĩ nhiên phải là xe đua ngốn đường trên 200 cây số giờ- phóng như bay trên xa lộ tráng nhựa bê tông dọc bờ biển để tận hưởng làn gió mằn mặn khỏe khoắn mùa hạ thì mát rợi, mùa đông thì ấm áp.
Ở trong nước, có lần chàng bốc đồng lên sân bay Tân sơn nhất, năn nỉ với mấy ông bạn trong không đoàn để xin một chỗ ngồi trên phi cơ ra miền Trung để được lái xe... nhìn biển. Phi cơ thương mãi thường có hành khách đầy đủ, và cất cánh theo giờ giấc nhất định nên Văn Bình chỉ có thể trèo lên phi cơ quân sự. Anh em thân ít khi bỏ rơi chàng mình trên sân bay. Vả lại, điệp viên Văn Bình là người nổi tiếng, ai cũng mong được hân hạnh quen chàng. Hơn nữa, chàng là đại tá hiện dịch. Trong quân đội, leo được lên đến cấp 3 bông mai bạc không phải là dễ. Người ta hỏi chàng đòi ra Trung cấp tốc để làm gì thì chàng giơ hai cánh tay lên trời:
- Để làm gì hả? Để chạy xe dọc bờ biển cho đỡ nhớ.
Ai cũng tưởng chàng nói đùa để giữ bí mật công tác. Bí mật là nhiệm vụ hàng đầu của nghề điệp báo. Bởi vậy, khi nghe chàng đáp, mọi người chỉ nhún vai, cười mỉm và không phê bình gì cả.
Cho đến một buổi tối trăng sáng đầy trời.
Đêm trăng rằm vẫn là đêm của tuổi trẻ yêu đương. Nằm khoèo ở Sàigòn buồn thối ruột, Văn Bình bèn thót lên chuyến phi cơ cất cánh sớm nhất để ra Đà nẵng. Đến nơi thì quá nửa đêm. Không có xe xì gà, chàng mượn tạm chiếc DS-21. Với loại xe chạy nhanh này, chàng tha hồ ngao du trên đường đèo Đà nẵng - Huế. Nhưng tới khi rồ máy xe, chàng mới nhớ ra là ban đêm đường đèo bị phong tỏa. Chàng xin rã bọt mép mà nhân viên hữu trách vẫn không chấp nhận. Sáng sớm hôm sau chàng mới được lên đường. Như kẻ đói cả tháng, chàng dừng xe ở đoạn đèo Hải vân cao nhất, hiểm trở nhất, ngồi trên mỏm đá thẫn thờ ngắm biển, quên cả giờ về. Tưởng chàng bị phục kích, nhân viên của Sở ở Đà nẵng tức tốc đi tìm, và bắt gặp chàng ngồi một mình giữa cảnh mênh mông trên trời dưới nước.
Sau chuyến ngắm biển kỳ dị ấy, Văn Bình bị mọi người cho là điên. Bạn bè nói là do hoạt động hiểm nghèo làm thần kinh chàng căng thẳng nên chàng sinh ra chứng bệnh dở hơi. Trên thế giới, trong cơ quan CIA của Hoa Kỳ, cũng như GRU của Nga sô, đã có hàng chục, hàng trăm nhân viên mắc bệnh dở hơi như Văn Bình. Theo một bản thống kê hữu quyền, tỉ lệ mắc bệnh dở hơi trong CIA lên tới 15 phần trăm. Bản thống kê này thuật lại tính bốc đồng của một số điệp viên hành động, đang đêm, hàn thử biểu để bên ngoài hạ xuống dưới không độ thì tung mền ngồi dậy, vớ xì líp ra hồ bơi, hoặc lái xe vào rừng chơi, hoặc ra ga xe hỏa, chờ một chuyến tàu không biết mấy giờ sẽ đến, và không biết đi đâu nữa. Lại có những người lúc trời nóng như thiêu như đốt thì hối hả lôi đồ len, đồ nỉ dày cộm ra trưng diện, hoặc đang ăn lại bỏ muỗng xuống bàn... để đi ngủ.
Bệnh dở hơi của Văn Bình được báo cáo lên ông Tổng giám đốc. Trước khi hồ sơ được trình xét, Văn Bình phải vào bệnh xá của Sở để khám bệnh. Cuộc chẩn bệnh này rất quan trọng, có thể định đoạt tương lai của chàng. Tùy theo kết luận của y sỉ đoàn, chàng sẽ được tiếp tục hoạt động hoặc bị đưa về văn phòng, về hưu non, hoặc ít nhất là ngồi chơi xơi nước cho đến khi mắt mờ, chân chậm. Sau hai tuần lễ khám nghiệm, Văn Bình được y sĩ đoàn coi là vô bệnh.
Nhưng ngày hôm ấy, chàng lại mắc bệnh dở hơi. Chàng gọi điện thoại cho nhà nhập cảng rượu mạnh danh tiếng nhất thủ đô, bảo mang lại ngay phòng của Mộng Kiều tất cả những két sâm banh Mum còn để trong kho. Công nhân của hãng nhập cảng hì hục chở nguyên một xe sâm banh đến và khuân lên lầu. Mộng Kiều tưởng chàng mua sâm banh để mở một cuộc tiếp tân nên không để ý. Nàng vào Chợ Lớn mua đồ nhậu cho Văn Bình, dặn chàng ở nhà đợi.
Khi nàng về thì hỡi ôi.
Hỡi ôi, hàng chục két sâm banh đắt tiền kinh khủng đã thi nhau đổ vào bồn tắm. Nàng về giữa lúc điệp viên Z.28 đang say sưa ngồi trên ghế mở nút chai sâm banh kêu “bụp” một tiếng êm tai rồi đổ hết vào bồn tắm. Hỏi ra thì mới biết chàng nhớ âm thanh nổ bụp, bụp khả ái của nút chai sâm banh mỗi khi khui rượu.
Chỉ vì mối tình tương tư lạ lùng ấy mà Văn Bình xài trong nửa giờ hết 200.000 đồng.
Ông Tổng giám đốc chỉ hơi nhăn mặt khi tờ báo cáo về bệnh dở hơi khui sâm banh mà không uống được đặt trên bàn giấy sáng hôm sau. Triệu Dung và Nguyên Hương đề nghị một cuộc khám bệnh lại, với lời trình như sau:
“Chúng tôi đồng ý rằng cho rằng điệp viên Z.28 đã mắc bệnh bấn loạn thần kinh, do hoạt động hiểm nghèo gây ra. Nếu để như vậy mà không tìm phương điều trị thích ứng thì y có thể thành điên nặng. Vì cảm tình cá nhân với y, và cũng vì y là điệp viên tài ba đã gánh vác nhiều công tác nguy hiểm, nặng nề nhất của Sở từ nhiều năm nay, đáng được thưởng công, chúng tôi trân trọng thỉnh cầu ông Tổng giám đốc cho khám bệnh lại với một thành phần y sĩ khác. Hiện có một đoàn y sĩ thần kinh của cơ quan không gian Hoa Kỳ NASA đang tổ chức khám bệnh tại căn cứ Clark, Phi Luật Tân. Vậy đề nghị đưa Văn Bình qua Clark”.
Ông Hoàng bút phê vào tờ báo cáo như sau:
“Theo tôi, chỉ khi nào đại tá Văn Bình mất chứng bệnh dở hơi này thì vấn đề khám bệnh, và chữa bệnh mới cần được đặt ra.
Bệnh dở hơi là do thần kinh hệ thiếu quân bình mà ra. Tôi nhận thấy Văn Bình chỉ dở hơi khi y được nghỉ phép, có quá nhiều thời giờ nhàn hạ, hoặc khi y phải đương đầu với một đối phương tầm thường về mưu lược, và về võ thuật, nhất là về võ thuật. Y dở hơi chẳng có gì đáng ngại. Y dở hơi vì chưa gặp được đối thủ cân xứng đó thôi. Y dở hơi vì tay chân ngứa ngáy, không được xông xáo đó thôi.
Phương pháp ngừa bệnh dở hơi, theo tôi, là tiếp tục cắt cử đại tá Văn Bình vào những công tác nguy hiểm.
Hồ sơ về bệnh dở hơi trên đây được xếp lại, kể từ ngày hôm nay. Tôi khẩn khoản yêu cầu văn phòng đừng nhắc lại nữa”.
Hồ sơ được xếp xó theo lệnh đặc biệt của ông Tổng giám đốc. Kể ra, ông Hoàng nói đúng. Ông quả có con mắt tinh đời, nhìn thấu ruột gan tri kỷ của Z.28. Chàng dở hơi vì không chịu nổi nếp sống bằng phẳng, rỗi rãi. Chàng bệnh dở hơi vì những kẻ mang danh là đại võ sĩ chỉ đấu với chàng được vài ba hiệp là bị đánh lăn chiêng.
Hôm nay, phóng chiếc Amphicar trên con đường ngoằn ngoèo sát bờ biển miền nam Thái Lan, Văn Bình sực nhớ bệnh dở hơi bất trị của mình, và phá lên cười. Đồng quê Thái Lan cũng không khác đồng quê Việt Nam là bao. Hai bên đường, Văn Bình cũng thấy ruộng lúa, thấy những con sông nông giang nhỏ xíu và hệ thống dẫn thủy nhập điền vào ruộng, giống như ở trung châu sông Cửu long hoặc ở trung châu sông Hồng. Nhà cửa cũng tồi tàn, xiêu vẹo, tường trát bùn, mái lợp rơm rạ. Nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ có một số nhà sàn, như ở thượng du nước nhà.
Chiếc Amphicar vượt qua những đống rạ lớn sừng sững giữa cánh đồng trống vừa gặt hái. Một cái xe bò ì ạch từ dưới ruộng trèo lên mặt lộ do con trâu sừng cong veo, da đen sạm kéo, mũi thở phì phì vì nhọc mệt. Nông gia ngồi trên xe bỏm bẻm nhai trầu.
Từ Phet Buri tới Surat Tham, đường dài gần 400 cây số. Đi từ Phet Buri đến Sawan chỉ có 200 đến 250 cây số là cùng. Tuy nhiên, 100 cây số trên con đường gập ghềnh, chỗ lên, chỗ xuống, chỗ có, chỗ không này bằng 1.000 cây số trên xa lộ tối tân mà chàng đã có dịp lái xe ở phía bắc Thái Lan. Vả lại, muốn đi thì phải có đường xá liên tục, chứ không thể là những lối mòn rời rạc, ngoắt ngoéo như lộ trình Sawan.
Mặt trời mỗi lúc một lên cao.
Bồ hôi chảy đầm đìa người Văn Bình. Khi ấy, chàng mới cảm thấy khờ khạo. Chiếc Amphicar tiêu thụ 100 cây số bao nhiêu lít xăng? Thùng xăng của nó còn bao nhiêu? Chàng quên hỏi Lê Diệp những điều tầm thường mà lại vô cùng quan trọng. Hết xăng, chàng chỉ còn nước ăn vạ dọc đường vì chàng không tin là có trạm xăng.
Chàng lẩm bầm:
- Giá mình cho nàng đi theo...
Nàng là Si Thoeng, cô gái Xiêm đa tình. Giờ này, chắc nàng còn đang thiêm thiếp giấc nồng tại Vọng Các dưới áp lực của đòn miên huyệt. Dầu sao nàng cũng là người Thái, nàng có thể hỏi thăm dọc đường. Nàng lại biết con đường xuyên rừng ngắn nhất tới Sawan. Vậy mà chàng lại bỏ rơi nàng. Tại sao? Chính chàng cũng không biết nữa. Việc chàng điểm huyệt cho nàng bất tỉnh đã diễn ra một cách tự nhiên, thần trí chàng không kịp suy nghĩ.
Khi nắng bắt đầu chiếu xiên vào trong xe, Văn Bình đến Pran Buri, một thị trấn nhỏ dọc bờ biển, cách Phet Buri gần 100 cây số. Nghĩa là chàng đã vượt được gần nửa đường. Chỉ còn 100, 150 cây số là tới đích. Song đó lại là đoạn đường khó đi nhất. Vì trên thực tế, hệ thống đường bộ chỉ đến Pran Buri là hết. Muốn đi sâu xuống cực nam, phải dùng xe hỏa. Nhưng xe hỏa ở đâu?
Từ Pran Buri trở đi, toàn là đồng cỏ pha sình. Cảnh vật chung quanh nhuộm màu tiêu điều, vắng lặng. Văn Bình gài số một cho chiếc Amphicar bò từ từ trên con đường nhỏ trơn trượt giữa hai cánh đồng sình lầy trải rộng đến tận chân trời xa tắp. Vừa lái xe, chàng vừa thầm khấn cho thùng xăng còn đủ. Và nhất là cho động cơ chiếc Amphicar không bị trục trặc. Cũng may không tai nạn đáng tiếc nào xảy ra. Hết cánh đồng sình lầy là rừng. Rừng già trùng trùng điệp điệp. Rừng già chắn ngang sừng sững như cấm loài người bén mảng tới gần chân núi Bilauk-taung chạy dọc bên phía tây từ bắc xuống nam.
Văn Bình reo lên một tiếng nhỏ.
Phía trước, chàng thấy ánh thép lấp lánh dưới nắng trưa nung đốt. Đó là đường xe hỏa. Cách bìa rừng một quãng ngắn, chàng đậu xe lại. Theo kinh nghiệm, đường xe hỏa thường chạy qua những vùng có dân cư. Chàng không hy vọng gặp làng mạc trù mật, nhưng ít ra cũng có thể gặp tiều phu vào rừng đốn củi. Chàng sẽ ăn một vài miếng cho khỏi xót bụng. Rồi sẽ tùy liệu đáp tàu xuống Sawan. Mong ước của Văn Bình đã thành sự thật. Chàng nghe tiếng lộp cộp mỗi lúc một rõ dần. Rồi một chiếc xe bò chở gỗ do ba con trâu to lớn kéo từ trong rừng ra. Trên xe có hai người đàn ông cởi trần, làn da ngăm ngăm, đầu quấn khăn rằn ri che nắng.
Vốn liếng Thái ngữ của chàng không đến nỗi nghèo nàn nên chàng bắt chuyện dễ dàng ngay khi xe bò đến gần chiếc Amphicar:
- Chào hai ông.
Vừa chào, chàng vừa quan sát tướng mạo hai người Thái. Chàng hơi ngại ngùng vì gương mặt họ không có vẻ lương thiện. Mắt họ đều xếch ngược, lưỡng quyền cao, lộ cục xương nhọn, yết hầu cũng nhô ra, miệng nhỏ mím chặt, ngón tay cong queo và sần sùi, vết thẹo đầy ngực và lưng, cánh tay đều xâm tràm gớm ghiếc. Tuy nhiên, chàng không để lộ sự lo lắng ra nét mặt. Có lẽ vì phong thổ, người Thái ở thôn dã thường có tướng mạo hung hăng, nhưng thật ra họ hiếu khách đáo để. Vả lại, dầu chàng ngại ngùng cũng đã muộn. Chàng đã chào họ. Trên con đường mòn vắng vẻ, ngoài chàng ra chỉ có họ.
Một lý do khác đã giúp chàng bình tĩnh như không có việc gì xảy ra: đó là sự tự tín. Nếu họ trở mặt, họ cũng không hy vọng triệt hạ được chàng. Hai người, chứ đến 20 người như họ chỉ là mồi ngon cho chàng ăn gỏi.
Người cất tiếng chào lại “không dám, chào ông” trạc 40, lớn hơn người ngồi bên ít nhất 10 tuổi. Hắn kéo dây thừng cho đàn trâu dừng lại, rồi hỏi:
- Ông muốn hỏi gì?
Văn Bình đáp:
- Tôi lái xe đi Sawan, đến đây thì hết đường, thành ra lạc vào rừng. Phiền hai ông chỉ đường cho tôi.
Gã trẻ cười hồn nhiên:
- Đi Sawan hả? Còn xa lắm. Vả lại, đi bằng xe hơi không được.
- Vậy đi bằng phương tiện gì?
- Bằng tàu hỏa, hoặc bằng ghe thuyền. Nếu ông muốn, chúng tôi sẽ giúp.
Văn Bình liếm mép. Gã tiều phu già nhìn thấy và hỏi:
- Ông khát nước không?
Chàng gật đầu.
Hai người tiều phu ngồi xích sang bên. Gã trẻ vẫy tay ra hiệu cho chàng lên:
- Nhà chúng tôi ở gần đây, đi hết quãng đường này, quẹo sang trái là đến. Xe hơi chỉ có thể đi lên miền bắc được thôi. Chờ thuyền lớn đi qua, tôi sẽ nhờ họ chở cả xe luôn thể.
Không đợi hắn mời lần thứ hai, Văn Bình trèo lên xe bò. Chiếc xe gỗ cũ kỹ, sọc sạch, lăn bánh lọc cọc trên đường mòn đất sét đỏ, bị nắng rút khô như đá. Gã tiều phu già mời chàng ăn trầu, chàng lắc đầu từ chối.
Hai bên đường mòn chật chội chỉ vừa xe bò đi lọt là những cây gỗ tếch thẳng tắp, thân tròn lẳn, một người lớn ôm mới xuể. Như gã tiều phu trẻ nói, xe chạy được hơn 100 thước thì đến đoạn đường rẽ. Khi xe bắt đầu rẽ, Văn Bình nhìn thấy một giãy nhà sàn khật khưỡng gần chân núi đá đen sì. Nơi đây, suốt ngày không có nắng vì sau lưng là núi, bên trên là bóng râm xum xuê của nhiều cây đa khổng lồ xòe rộng như viên đình tròn trịa của tòa nhà quốc hội Mỹ.
Gã tiều phu trẻ thét lớn cho đàn trâu đứng khựng lại. Hắn nhảy xuống trước, rồi ra dấu cho Văn Bình. Chàng lẳng lặng theo hắn lên nhà sàn, trong khi gã tiều phu già đánh xe vào hốc đá, tháo dây buộc cho trâu nghỉ.
Nhà sàn trống trơn, không có gì hết. Trừ ở góc một cái rương gỗ, cáu bồ hôi và mạng nhện ngang dọc. Những ô mạng nhện đen trắng nhằng nhịt khắp nơi chứng tỏ căn nhà không có người ở từ lâu. Văn Bình toan hỏi thì gã tiều phu già đã từ bên dưới khệnh khạng đi lên, tay cầm chai rượu. Hắn hỏi chàng:
- Ông dùng được rượu nếp không?
Ngoài huýt ky ra, Văn Bình không ưa rượu nào khác. Nhưng khi cần, chàng vẫn uống được mọi thứ. Riêng rượu nếp của dân Thượng có duyên thầm với chàng. Rượu nếp của người Thái miền nam đã nổi tiếng thơm ngon. Nhân tiện chàng cũng thưởng thức vài ba chén cho thần khẩu khỏi kêu ca. Chàng bèn gật đầu ưng thuận.
Gã trẻ lấy trong rương ra bộ đồ uống bằng gỗ tiện. Chắc là gỗ mít lâu năm, vách chén đã lên nước bóng nhẫy. Văn Bình bắt chước hai người tiều phu ngồi xếp bằng tròn trên sàn, tươi cười đỡ lấy chén rượu. Mùi thơm nếp cẩm bay ra ngạt mũi.
Từ đêm đến giờ chưa ghé thăm thần Lưu linh nên mùi rượu thơm quyến rũ này làm chàng rệu nước miếng. Gã tiều phu già gật gù:
- Ngon lắm, ông dùng thử sẽ biết. Nhưng say lắm đấy, ông không nên uống nhiều. Tôi dặn trẻ sửa soạn món nhậu. Bây giờ ta chỉ nhắm tạm một chén, đợi chúng nó nướng gà chín rồi nhắm một thể cho vui. Ông đừng ngại, ngày nào chúng tôi cũng uống rượu với gà nướng. Gạo nếp ở đây rất rẻ, gà cũng rẻ mạt. Dân tộc chúng tôi thích đãi khách. Nào mời ông...
Văn Bình đặt đầu lưỡi vào chén rượu. Chàng cảm thấy cay cay. Chàng liền ngửa cổ nốc cạn một hơi. Gã tiều phu già mở rộng mắt, kinh ngạc:
- Ái chà, ông đừng uống như vậy. Rượu này được ngâm rễ cây thuốc nên làm ruột gan cồn cào. Ông khoan uống, đợi gà nướng nhé! À, đã có gà rồi đấy. Nào, mời ông...
Gã trẻ đặt trước mặt Văn Bình con gà mỡ vàng rộm, vừa nướng chín, còn bốc khói nghi ngút. Ngoài thói xấu hoa nguyệt, điệp viên Z.28 còn có thói xấu ẩm thực. Giá được vò rượu thượng hạng và mâm đồ nhậu thịnh soạn thì bom khinh khí nổ trên đầu chàng cũng phớt tỉnh như không.
Theo tính thận trọng thông thường, Văn Bình phải đặt câu hỏi về truyền thống đãi khách quá nồng hậu của hai gã tiều phu mặt mày dữ tợn. Nhưng mùi rượu cẩm quá thơm tho, mùi gà nướng than quá ngon béo nên chàng quên bẵng nguyên tắc đề phòng sơ đẳng. Mà quên là phải vì con gà nướng của tiều phu miền nam xứ Thái thật ngon!
Văn Bình vốn thích món gà. Mỗi lần nhảy dù xuống Hòa Bình, hoặc thượng du Thanh hóa, chàng đều mầy mò kỳ được một con gà đặc biệt, nướng theo phương pháp đặc biệt của bộ lạc Mường. Mỗi lần ghé Hồng Kông hoặc Đài bắc, chàng đều thưởng thức món gà bọc bùn nướng than, tục gọi là “gà cái bang, gà hành khất” (beggar’s chicken). Không món gà nào trên thế giới mà Văn Bình không nếm qua. Kỳ khu như gà giò ở hải cảng Hăm bua, Đức quốc, được nuôi bằng chất bột riêng trộn sữa, và được mổ làm thịt khi mới lớn bằng chim bồ câu, chàng cũng tìm đến tận nơi để nhậu nhẹt. Gà ở Viễn đông thường được nấu với mộc nhĩ, miến, ớt xanh và một số gia vị quen thuộc khác. Nhưng ở xứ Tây Ban Nha, nổi tiếng hoàn vũ về những trận đấu bò rừng, gà lại được rán với củ nghệ. Gà trên đất Pháp từng làm khách nhậu quốc tế mê say, như gà trên bờ sông Loire, khi cắt tiết được hãm với dấm chua, và nấu với rượu vang đỏ. Gà trống ở miền trung bộ Pháp bỏ lò với hành, nấm, và rượu cỏ nhát. Gà nhồi thịt, nhét vào cái bong bóng heo ở miền nam Pháp.
Người Hung gia lợi cũng thích ăn gà, nhưng lại thích nấu gà với ớt, một loại ớt vừa ngọt vừa cay [4].
Dân Ý Đại Lợi lại khoái gà tẩm bột trứng đem chiên. Người Ba Lan cũng có món gà nhồi thịt, song cách nấu lại độc đáo: mổ gà, moi hết ruột xong phải ngâm gà trong thau nước lạnh hai giờ đồng hồ, rồi xát muối cả trong lẫn ngoài trước khi nhồi thịt, và đút lò. Gà ở Nga sô cũng nấu với củ nghệ, dưa leo, hoặc đem hầm với hành, cần, cà rốt, dưa leo, bí... món mà hồi sinh thời, nhà độc tài đỏ Sít ta lin mê nhất.
Lạ lùng hơn (và dĩ nhiên không kém phần khoái khẩu) là món gà trên các hòn đảo chơ vơ ở trung bộ Mỹ châu, như gà nấu nước dừa, củ nghệ, cà ri. Gà chiên Mễ Tây Cơ nhồi ruột bánh trộn sữa, bột cacao và nước trà tưới lên trên. Gà cà ri ở Ấn độ và Pa kít tăng cũng không làm Văn Bình chán ngấy mặc dầu được nấu lẫn lộn với gạo và nước dừa.
Món gà Nam Dương còn lạ lùng hơn nữa vì gia vị lại là quế, và sữa. Gia vị thông dụng ở Nam Phi cho món gà là mật ong, gà đút lò tẩm mật, hương hoa hồng và củ gừng không đến nỗi dở ẹc. Gà ở Phi châu da đen cũng khá hấp dẫn, như cho đậu phụng giã nhỏ tẩm vào gà, đem rán bơ, hoặc gà nấu với chuối. Đừng tưởng Úc châu ở gần Nam Băng Dương không biết nấu thịt gà. Văn Bình đã lầm như vậy một lần. Nhưng sau khi được nếm thử, chàng đã tỉnh ngộ. Gà Úc châu hầm chung với nước trà, hoặc gà giò ngâm cách đêm trong nước dứa ép và rượu vang trắng, đem rô ti vàng rộm rồi ăn với các khoanh dứa và chuối chín.
Văn Bình nghe nói đến gà nướng của người Thái sinh sống trong rừng. Tiếng đồn quả không ngoa vì con gà được đặt trên cái đĩa gỗ lớn được quay trên lửa than, không chỗ nào còn trắng lốm đốm hoặc đen sạm. Da gà màu vàng óng ánh, căng lên song nước ngọt của thịt vẫn không chảy ra các kẽ nứt. Gà này mà nhắm rượu thì tuyệt!
Văn Bình thoáng nghe ai nói nho nhỏ bên tai:
- Mời ông.
Gã tiều phu già vừa nói vừa nhìn Văn Bình bằng cặp mắt khó hiểu. Song Văn Bình đã bắt đầu hiểu. Những tiếng động thoang thoáng đã tan biến, chàng chẳng còn nghe gì được nữa. Chàng mở rộng cặp mắt thường ngày sáng quắc, ban đêm nhìn thấy cây kim nhỏ xíu rớt trên đất, nhưng nay hai mí mắt dính lại vào nhau, dường như bị dán chặt bằng keo nhựa. Chàng cảm thấy bàn chân bị tê. Rồi đầu gối, hai mông cũng bị tê.
Chàng thu sức lực vào cánh tay, sửa soạn vung đòn vào mặt gã tiều phu già đối diện. Song sức lực của chàng đã cuồn cuộn rút ra khỏi cơ thể như nước sông chảy ra biển. Cánh tay bách chiến bách thắng của điệp viên Z.28 trở thành khúc gỗ bất động. Tuy nhiên, chàng vẫn còn tỉnh. Trước khi ngất đi, chàng lại tỉnh táo hơn bao giờ hết. Tai chàng lại nghe thấy tiếng động. Mắt chàng lại nhìn thấy con gà vàng ngậy, và hai gã tiều phu Thái nhởn nhơ đứng chống nạnh. Tên già nói:
- Mê rồi. Mày sửa soạn xong chưa?
Tên trẻ đáp:
- Xong từ nãy. Nhưng coi chừng, hắn giả vờ thì khốn.
- Ha, ha... trước khi đem dùng, ông chủ đã sai pha thuốc mê này vào nước cho voi uống. Chú bạch tượng nặng cả ngàn cân thịt ở vườn bách thú chỉ uống một ngụm đã lăn kềnh ra, phải chích thuốc mới tỉnh. Phương chi tao lại ngâm với rượu. Hắn chưa mê, nhưng tứ chi đã bại liệt.
Rồi điểm ngón tay vào trán Văn Bình, gã tiều phu già dằn từng tiếng:
- Không chết đâu, chỉ nằm ngủ một vài ngày thôi. Lần sau, chớ tham ăn, nhất là ăn gà nướng nữa nhé!
Cả hai đều phá lên cười. Văn Bình từ từ ngã xuống.
Chàng nằm nghiêng, cánh tay trái trườn ra, nên gối đầu vào đồng hồ tay. Nếu chàng vẫn còn tỉnh như trước đó 1 phút, chàng đã thấy kim đồng hồ chỉ đúng 1 giờ.
1 giờ trưa.
* * * * *
Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, anh hùng thường lụy vì giai nhân. Hễ vướng vào đàn bà đẹp là tài ba cái thế cũng thất bại, nếu không mất mạng. Điệp viên Z.28 cũng không thoát khỏi định luật khắt khe ấy, nhưng không hiểu sao sau nhiều lần đối mặt với tử thần, nhiều lần bị u mê ám chướng vì đàn bà chàng vẫn còn sống.
Hôm nay, cũng vì đàn bà mà Văn Bình thoát chết.
Trong khi chàng rong ruổi về phía nam thì Si Thoeng tỉnh dậy trong căn gác cô đơn. Nhìn chung quanh, không thấy ai, nàng nhớ lại mọi việc vừa xảy ra. Nàng hốt hoảng khoác áo lạnh vào người, rồi mở cửa chạy nhanh xuống đường. Trời nắng ráo, đường về phía nam không bị lầy lội, nàng có hy vọng đuổi kịp chàng. Chiếc Mazda nhỏ xíu của nàng phóng khá nhanh, lại thích hợp với đường đất gập ghềnh và ngoằn ngoèo. Tốc độ tối đa của chiếc Mazda 800 là 115 cây số giờ. Muốn đạt tốc độ tối đa, đường xá phải tốt. Vậy mà nàng vẫn phóng xấp xỉ 120. Tốc độ 120 cây số trên đường đi Phet Buri và Pran Buri cũng như 200 cây số trên xa lộ xi măng. Đàn ông khỏe mạnh, trái tim cứng như thép, gân cốt cường tráng mà chỉ lái đến 150 cây số giờ là trống ngực đã đập loạn xạ như bụng đói chạy đua trên giốc Hy mã lạp sơn. Nhưng càng phóng nhanh, Si Thoeng lại càng sáng suốt. Lộ trình càng nguy hiểm, tay lái của nàng càng vững chắc.
Xế trưa, nàng tới cánh rừng gỗ tếch rộng mênh mông, nơi Văn Bình bị bắt. Cũng như Văn Bình, nàng lái xe vào con đường mòn duy nhất, bên đường rầy xe hỏa. Song nàng không ngần ngại như chàng vì đây không phải lần đầu nàng qua khu rừng gỗ tếch gần Pran Buri. Cảnh vật không hề đổi khác: vẫn con đường nhỏ bé, chật hẹp, chỉ vừa xoẳn cho xe cam nhông ì ạch chạy qua. Mặt đường kêu coong coong dưới bánh xe như thể đất sét được nung chín. Hai bên đường vẫn những cây gỗ tếch thẳng ro, thân vỏ xù xì, cành lá xanh um. Nàng giật mình khi thấy một chiếc xe hơi hình thù cổ quái đậu trên bìa đường, gần khúc rẽ.
Đó là chiếc Amphicar của Văn Bình.
Nàng đậu lại, để nguyên cho máy vẫn nổ, nhảy xuống. Chưa cần trèo lên xe Amphicar, nàng đã biết chủ nhân là Văn Bình nhờ một mùi thơm quen thuộc còn thoang thoảng trong không khí bất động của rừng gỗ tếch. Mùi thơm quen thuộc của thuốc lá Salem, thứ thuốc lá tri kỷ của điệp viên Z.28.
Nàng nhặt được nửa điếu Salem, đã tắt gần tàn gần bàn đạp ga xăng. Văn Bình thường có thói quen vứt tàn thuốc khắp nơi, cả những chỗ không nên vứt bừa bãi. Một trong những thói quen khác cần sửa chữa của chàng là hút được vài ba hơi rồi quăng luôn. Điếu Salem tắt ngúm từ lâu mà cô gái xứ Thái còn ngửi được mùi vị bạc hà kể cũng lạ. Dường như nàng ngửi được mùi thơm này không phải bằng mũi, mà bằng tiềm thức. Đúng ra, đó không hẳn là mùi thơm của thuốc lá Salem. Mà là một mùi bạc hà nhè nhẹ, quyện lẫn mùi mồ hôi, mùi tóc, mùi da thịt của người đàn ông đã lưu lại nhiều dấu vết sâu đậm trong tâm hồn và thể xác nàng.
Nàng nắm chặt mẩu thuốc lá trong lòng bàn tay, ruột gan chợt nóng như lửa đốt. Nàng biết chàng đã bị bắt. Ai bắt? Tại sao họ biết chàng lái xe về miền nam mà phục kích ở đây, ở đoạn đường độc đạo dễ sa bẫy nhất? Văn Bình bị bắt như thế nào? Chàng không phải là võ sĩ tầm thường để có thể giơ tay đầu hàng dễ dàng. Tất chàng đã chiến đấu kịch liệt. Nếu vậy tính mạng của chàng có thể đã bị đe dọa nghiêm trọng. Chàng còn sống hay chết?
Nàng đang suy nghĩ thì tiếng còi xe lửa rúc lên.
Nàng chợt nhớ đến “nhà ga” ở cuối đường mòn. Đoàn tàu xuống miền nam thường ghé lại khu rừng hẻo lánh này để lấy nước và củi. Trong khi thế giới tân tiến dùng đầu xe hỏa chạy điện, hoặc dầu cặn, hoặc than đá thì miền nam Thái Lan vẫn quyến luyến lò đốt củi trên tàu lửa. Hai năm trước, nàng đã lái xe que rừng gỗ tếch. Xe hơi bị lột “biên” phải nằm đường, nên nàng đi bộ đến nhà ga để về thị trấn gần nhất. Nàng còn nhớ rõ lều tranh lụp xụp, xiêu vẹo bên hồ nước bê tông kếch xù, và những đống củi được cắt, chẻ ngay ngắn, xếp thành hàng dài dọc theo con đường sắt bốc khói dưới ánh nắng nhiệt đới.
Đó là “nhà ga”.
Đúng hơn là trạm nghỉ của xe hỏa để lấy nước và củi đốt. Tiếng còi vừa hết. Quang cảnh rừng trưa âm u lại chìm vào im lặng. Tàu đã đậu lại và tắt máy.
Si Thoeng lái xe đến chỗ quẹo. Một bên là khu nhà sàn. Bên kia là con đường đến “nhà ga”. Cũng như phần lớn các quốc gia chậm tiến ở Đông nam Á, thiết lộ ở miền nam Thái Lan chỉ có những con tàu già cằn khú đế, có lẽ được ra lò từ đầu thế chiến thứ nhất. Đây là tàu hàng, không phải tàu chở khách, gồm gần 20 toa trước kia sơn màu xanh xám, nay đã tróc sơn để lộ mặt rỉ sét, cong queo, lồi lõm, bẩn thỉu. Toa nào cũng mở cửa thông thống, bên trong chất đầy đồ, nào thùng gỗ, thùng cạt tông, nào quang gánh, thậm chí có toa lộ thiên chở nghễu nghện một con thuyền nhỏ, mũi hếch lên theo kiểu thuyền rồng, kiểu thuyền truyền thống của xứ Thái.
Si Thoeng lái luồng chiếc Mazda vào giữa hai cây tếch, cách “nhà ga” độ 100 thước, rồi từ từ tiến tới. Từ lúc rời Vọng Các đến giờ, nàng chưa hề uống ly nước hoặc ăn miếng cơm nào. Tuy vậy, nàng vẫn không cảm thấy khát, thấy đói. Vì nàng còn bận nghĩ đến Văn Bình. Thấy chiếc Amphicar trống rỗng, nàng có linh tính là chàng gặp nạn, và chàng quanh quẩn đây đây. Dường như định mạng đã xui khiến cho nàng đến giải thoát cho chàng.
Tiếng máy tàu bắt đầu kêu xình xịch.
Rồi tiếng còi tàu xé toang bầu không khí nóng bỏng của buổi xế trưa dưới chân núi đá, cạnh rừng gỗ tếch. Xe hỏa sắp sửa chuyển bánh.
Chợt nàng nhìn thấy... Cái nàng nhìn thấy đã làm máu trong huyết quản sôi sục vì trời nắng, vì lo ngại của nàng đông đặc lại.
* * * * *
1 giờ trưa.
Văn Bình thở dốc ra rồi nằm lịm. Gã tiều phu già cúi xuống, lật mí mắt chàng ra, quan sát giây lâu rồi nói, giọng hân hoan:
- Hắn uống cả ly rượu, sớm ra đến trưa mai mới có hy vọng thức dậy. Chúng mình tha hồ rềnh rang.
Gã trẻ hỏi:
- Mình đi ngay chứ?
Gã già lườm nguýt:
- Hừ, máy điếc đặc rồi ư? Tàu đã ghé rồi. Trong vòng 15 phút nữa, nó chạy. Mày phải nhanh lên mới kịp.
Gã già sang nhà bên lấy về một cái bồ bằng tre đan, dài gần hai thước, cao nửa thước. Mở nắp ra, bên trong đã được lót rơm và cỏ khô. Văn Bình nằm bất động trên nền nhà. Gã tiều phu trẻ định bế chàng lên song phải nhăn mặt, bỏ xuống:
- Khiếp, thằng cha nặng kinh khủng!
Gã già xé miếng đùi gà béo ngậy, đưa lên miệng vừa nhai ngồm ngoàm vừa nói:
- Nào, mày khiêng chân, tao khiêng đầu.
Trong loáng mắt, Văn Bình đã được bỏ gọn vào trong bồ tre. Gã trẻ phủ cỏ khô đầy mặt chàng. Gã già vội nói:
- Khéo đấy, mày để chừa lỗ mũi cho hắn thở. Về đến Sawan mà hắn tắt thở thì mày rừ đòn.
- Người ta biết thì sao?
- Cả chuyến tàu này chỉ có chúng ta là hành khách. Vả lại, đứa nào mắc bệnh tò mò thì đã có xếp lo liệu. Mày đặt cái bồ lên vai ngay đi cho rồi, còn khệnh khạng gì nữa?
- Để đàn em nhá xong cái lườn gà nạc này đã.
- Thì mày bỏ luôn vào túi, dọc đường tha hồ mà gậm, đồng thời mang theo chai rượu nữa. Ấy, coi chừng, uống lầm chai rượu pha thuốc mê thì chết bỏ đời. Xong cả chưa?
- Xong rồi.
- Một... hai... ba..., nào khiêng lên vai.
Cái giỏ hình chữ nhật lắc lư trên vai hai người tiều phu giả hiệu. Xuống vườn, họ đặt vào xe bò. Bồ hôi nhễ nhại, gã trẻ rút mù soa ra lau trán. Hắn vừa lau được một phần bỗng trải rộng chiếc khăn tay màu hồng tươi trước mắt ngắm nghía. Gã già hỏi:
- Mù soa của hắn, phải không?
Gã trẻ cười ồ ồ:
- Phải. Hắn có cái khăn đa tình thật. Thơm mùi nước hoa đàn bà. Chả mấy khi được lau bồ hôi bằng mù soa tẩm nước hoa thượng hảo hạng, chắc đàn anh cũng đánh cho hai chữ đại xá.
- Đến chết mày cũng không chừa cái thói tham vặt ấy. Với tiền thưởng, mày mua cả ngàn cái mù soa như vậy cũng có.
- Ồ, đàn anh lầm to. Mù soa này bằng lụa tơ tầm, chứ không phải bằng ni lông. Lụa tầm được dệt bằng tay, mỗi cái ở Vọng Các hơn 100 bath, lại ướp nước hoa thơm phức. Đàn anh ngửi mà xem, đang mệt mỏi áp cái mù soa thơm vào mũi, đột nhiên khỏe dội lên, và tỉnh dậy như thuốc tiên.
- Tao ngửi rồi mà vẫn mệt ứ hơi.
- Thế hả? Ối chao ôi!
- Bị rắn cắn, hay chuột rút bắp chân?
- Không phải. Đàn anh ơi, nặng quá, cho em nghỉ khỏe một lát, xương vai sắp sửa gãy rồi.
- Cái khăn tay hồng được tẩm thuốc tiên kia mà.
- Đàn anh đừng cười em nữa. Gớm, em không ngờ hắn nặng đến thế! Tuần trước, em khiêng con cọp nặng hơn hai tạ mà cũng chưa mệt bở hơi tai bằng hôm nay. Đàn anh ơi!
- Gì nữa?
- Em có cảm giác hắn biến thành đá.
- Hừ, đừng nói bậy.
Thật ra, gã tiều phu trẻ không nói bậy. Xương quai xanh của hắn trễ xuống như muốn gãy. Chẳng phải vì hắn yếu đuối, mà chính vì khi mê man Văn Bình đã vận dụng Thần Ảo công để chống lại sức công phá của thuốc mê, nên xương thịt chàng đột nhiên rắn lại như kim khí. Hiện tượng này ít khi xảy ra trong võ thuật nên nhiều người không tin, và cho là hoang tưởng. Nhưng sự thật là như vậy. Sự thật là Văn Bình trở nên nặng hơn thường lệ mặc dầu thông thường chàng vẫn nặng trên 70 kilô. Người khiêng cảm thấy nặng vì chân khí trong cơ thể chàng được tập trung vào đan điền nhưng không được phát ra nên kéo cơ thể sát xuống mặt đất, như thể một vật bay trong không gian lơ lửng bị sức hút cực mạnh của quả địa cầu. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học võ thuật cố gắng giải thích hiện tượng biến nhẹ thành nặng song chưa ai đưa ra được lý luận nào thỏa đáng. Người ta chỉ có thể nhận định là hiện tượng thay đổi trọng lượng chỉ xảy ra đối với một số võ sĩ có tài nghệ thượng thừa.
Gã tiều phu trẻ đặt cái bồ xuống đất, rồi đứng xoạc chân, miệng thở hồng hộc. Hắn cầm cái mù soa hồng phe phẩy một lát trước khi lấy buộc vào đầu để che nắng.
Gã già thúc giục:
- Chịu khó một chút nữa, tàu sắp chạy rồi.
Gã trẻ thở phù phù:
- Đàn anh yên tâm. Em đã dặn thằng xếp ga. Hắn phải ra lệnh cho tài xế đợi mình.
- Tao cố yên tâm, mà vẫn sốt ruột. Nhanh lên mày, tao có linh tính là công việc bị trục trặc.
- Ồ, đàn anh cũng tin dị đoan nữa ư?
Hai người đã khiêng Văn Bình đến sát đường rầy. Gã tiều phu già hò lên một tiếng lấy trớn, rồi cả hai tung cái bồ bằng tre đan nặng chình chịch lên sàn toa tàu lộ thiên.
Khi ấy, Si Thoeng vừa từ con đường mòn tiến tới.
Và nàng nhìn thấy cái khăn tay màu hồng thắt tréo trên đầu gã tiều phu trẻ.
Nàng đứng lặng người, toàn thân lạnh ngắt như biến thành tảng băng. Cái mù soa hồng này không xa lạ với nàng. Nó là của nàng. Tự tay nàng thêu chữ đỏ ở góc. Nàng đích thân đến xưởng dệt đặt mua một mét vuông, mang về cắt ra làm khăn tay. Sự thật đã hiện ra rõ rệt trong trí phán đoán của nàng. Chiếc Amphicar nằm trơ trọi trên đường mòn, chìa khóa còn cắm ở công tắc, những mẩu thuốc lá Salem, chiếc khăn tay đầy kỷ niệm vắt vẻo ngang trán gã đàn ông ngăm ngăm, diện mạo không lương thiện, và cái bồ dài trông như áo quan bằng tre đan khá nặng, đều liên hệ với nhau. Nàng biết Văn Bình đã bị bắt, và chàng đang nằm trong bồ. Nhưng làm cách nào cứu được chàng?
Tàu hỏa đã từ từ chạy, âm thanh chuyển động một vùng. Si Thoeng nhanh chân nhảy lên một toa lộ thiên, chở đầy hộp cạt tông. Nàng ngồi sau đống hộp, quan sát đối phương ở toa sau một cách an toàn. Nàng thấy họ mà họ không thấy nàng.
Người đàn ông già dựa lưng vào cái bồ, ngất ngư hút thuốc lá, loại thuốc lá sâu kèn, quấn trong lá chuối non phơi khô, thông dụng ở miền quê Thái Lan. Còn tên tiều phu trẻ vẫn tiếp tục gặm xương gà, miệng nhồm nhoàm, chốc chốc lại chiêu ngụm rượu, và phê bình:
- Rượu ngon ghê!
Con tàu chồng chềnh như thuyền say sóng. Ly rượu vừa rót đổ luôn vào mũi, tên trẻ giãy đành đạch như đỉa phải vôi:
- Ôi chu cha!
Gã tiều phu gạt cái ly từ trên tay tên trẻ văng luôn xuống bờ đê đường sắt, giọng bực bội:
- Mày chỉ nghĩ đến nhậu nhẹt tối ngày.
Tên trẻ văng tục, rồi nói:
- Lần nào đàn anh cũng cấm em uống rượu. Công việc xong rồi, đàn anh còn bịt miệng em làm gì nữa, tội nghiệp.
Gã tiều phu già nghiêm giọng:
- Chưa xong đâu. Tao sợ có chuyện.
- Chuyện gì?
- Hồi nãy, lúc tàu chạy qua đường mòn, tao thấy một cái xe hơi. Mày hiểu không? Xe hơi đậu ở gần khúc quẹo. Tao sợ là đồng bọn của hắn đang đổ đi tìm.
- Ồ, nếu vậy mình phải gặp họ.
- Tao thoáng thấy một mụ đàn bà.
- Mụ đàn bà? Đàn anh thấy ở đâu?
- Ở nhà ga.
- Tại sao đàn anh không nói cho em biết?
- Thoạt tiên, tao tưởng là con nhân tình của thằng xếp ga. Mày đã nghe thằng xếp chơi bời một cây. Hắn có con mèo còn trẻ măng, và xinh như mộng. Nhưng tàu chạy được một lát, tao mới biết là lầm.
- Lầm?
- Vì mụ đàn bà này trẻ hơn. Mắt lại không đeo kiếng cận thị.
- Nghĩa là...
- Nghĩa là chúng mình phải tìm cho ra. Mụ đàn bà chắc đang ẩn núp trên tàu.
Cách đối phương một quãng, Si Thoeng không nghe được tiếng họ bàn bạc. Giá họ nói lớn hơn, âm thanh này cũng bị tiếng xình xịch inh tai nhức óc trùm lấy. Song nàng đã đoán biết được nội dung, bằng cách đọc trên môi và quan sát nét mặt nghiêm trọng của họ.
Tàu từ từ đậu lại.
Nàng nhìn ra hai bên đường. Chung quanh vẫn rừng là rừng. Phía sau rừng là núi. Khi tiếng ồn ào của xe hỏa vừa ngưng thì tiếng ồn của thú dữ, chim muông và cây lá lại nổi lên, vang dội trên núi đá.
Trời đã ngả chiều.
Gã tiều phu già nhảy xuống đất, rồi quay lại dặn vói tên trẻ đang ngồi xổm trên sàn toa tàu:
- Mày chờ một lát, nghe không? Tàu còn dừng lại đây non nửa giờ. Mở mắt ra cho rộng, kẻo hắn tung nắp ngồi dậy thì bỏ mạng.
Tên trẻ cười hô hố:
- Đàn anh cứ dọa em thôi. Hắn còn ngủ say. Gói thuốc giải mê em đang cất kỹ trong túi. Trừ phi hắn uống nửa gói thì mới hy vọng thức tỉnh. Nhưng em không cho hắn uống đâu. Đàn anh đừng lo.
Gã tiều phu già trề môi:
- Ừ, tao cũng rán tin mày lần nữa. Mày là thỏ đế, ai giơ nắm tay lên dọa là sợ muốn chết. Tao quả quyết là nếu ai dí súng vào ngực, dầu mày biết mười mươi là súng không có đạn, mày vẫn đầu hàng vô điều kiện như thường.
- Đàn anh đừng khinh em. Phen này em không đầu hàng nhục nhã nữa đâu.
Gã tiều phu già đi men theo đường rầy lên đầu tàu. Tài xế và nhân viên phòng máy đã xuống bờ đê uống nước ngọt với nhau. Viên xa trưởng mỉm cười chào gã tiều phu già, rồi hai người kéo nhau đi từng toa một khám xét.
Tất cả những việc xảy ra đều không lọt ra ngoài cặp mắt và vành tai của cô gái Thái. Nàng chờ cho gã tiều phu già đi khuất mới từ từ đứng lên. Nàng đi vòng ra phía sau. Tên trẻ đang ngồi quay lưng lại. Tuy đã tập luyện võ thuật, nàng vẫn run tay. Nàng run bần bật như người bị cảm hàn. Nàng đứng lại, thở hít không khí vào buồng phổi để lấy lại bình tĩnh, đoạn tiến lên một bước. Nàng rút súng ra, quát một tiếng nhỏ:
- Ngồi yên, không được kêu.
Gã tiều phu già nói đúng. Mới nghe tiếng quát phủ đầu, tên trẻ đã rụng rời tay chân. Miệng há ra định kêu nhưng lưỡi líu lại, chỉ lí nhí được tiếng “dạ” nhỏ bé và ngắn ngủn.
Si Thoeng hươi mũi súng về phía cái bồ:
- Mở nắp ra.
Bàn tay lóng cóng của gã tiều phu trẻ chạm phải mặt bồ một cách vụng về. Si Thoeng lại quát:
- Nhanh lên!
Nàng sợ gã tiều phu già quay lại thì hỏng chuyện. Ngoài ra trên chuyến tàu đang còn đồng lõa khác nữa. Dầu sao nàng cũng là phụ nữ chân yếu, tay mềm khó thể đương đầu với bọn đàn ông khỏe mạnh, giàu kinh nghiệm chiến trận. Vì vậy, nàng phải hành động gấp rút. Nàng bắt tên trẻ nằm xấp xuống sàn toa, rồi rút dao chặt đứt những sợi mây giàng quanh miệng bồ. Trong bồ toàn là cỏ khô và rơm. Chỉ chừa một khoảng nhỏ ở góc cho Văn Bình khỏi ngộp thở. Hơi thở của chàng vẫn điều hòa chứng tỏ chàng vẫn còn sống. Nàng đập bá súng lục vào vai tên trẻ:
- Đánh thức người nằm trong bồ dậy.
Tên trẻ run lẩy bẩy:
- Đánh thức không được, vì hắn bị phục thuốc mê.
Nàng giáng thêm phát nữa làm xương quai xanh của hắn kêu răng rắc như muốn gãy lìa:
- Vậy thuốc giải mê đâu, đưa đây.
Tên trẻ ngoan ngoãn cho tay vào túi áo. Tuy nhiên, hắn phải mất hơn 1 phút đồng hồ mới tìm thấy gói thuốc bột. Si Thoeng dốc gói thuốc bột màu nâu sẫm vào ly gỗ, hòa với rượu, ra lệnh cho tên trẻ đổ vào miệng Văn Bình. Trống ngực nàng đập thình thịch. Nàng lo ngại gã tiều phu già trở lại trước khi Văn Bình tỉnh giấc. Mối lo ngại của nàng đã thành sự thật. Tiếng nói bô bô của gã già vọng tới:
- Mày ơi, hắn trốn rồi, phải không?
Tên già nói đùa với bạn, và sau câu nói hắn phá lên cười hềnh hệch. Tên trẻ ngó Si Thoeng trân trân, không dám cất tiếng. Nhanh như cắt, nàng đập bá súng vào đỉnh đầu hắn. Hắn lạng người sang bên, cố tránh đòn song sự hoảng hốt đã làm gân cốt hắn cứng lại, và phản ứng tự vệ bị trì chậm, nên hắn lãnh bá súng vào sau ót. Như tượng gỗ vô tri giác bị xô ngã, hắn vập đầu vào cái thùng cạt tông kê bên. Nàng bồi thêm đòn thứ hai vào màng tang. Gã tiều phu trẻ thở hắt ra rồi nằm thẳng cẳng. Liền khi ấy, gã già kêu lớn ở sau lưng:
- Mày đâu rồi? Ai đứng đó?
Hắn vừa thấy Si Thoeng. Và nàng cũng vừa nhìn thấy hắn. Hai người chỉ cách nhau bằng tầm súng. Nàng có lợi thế là đã cầm sẵn súng trong tay. Dầu là chuyên gia rút súng, hắn vẫn không thể đối phó kịp thời. Hắn hét lên:
- Đứng yên.
Khi ấy, ngón tay nàng đã đặt lên cò. Đoàng một tiếng khô khan, viên đạn đầu chì vèo ra khỏi nòng. Nàng bắn không đến nỗi dở, nhưng chẳng hiểu sao phát thứ nhất này lại trật ra ngoài. Đó là điều bất hạnh vì hai gã đàn ông trước mặt đã phản công cùng một lúc. Tên tiều phu già chộp lấy khẩu súng trên tay nàng. Nàng ngã người, co chân đạp vào ngực đối phương. Hắn té lăn cù xuống đường rầy xe lửa, lông lốc như bao gạo. Hắn chỉ có mã võ sĩ nhưng khi lâm trận thì yếu như sên. Cú đá của Si Thoeng đã làm hắn lộn lạo ruột gan và nổ đom đóm mắt.
Tuy nhiên, Si Thoeng vẫn không nắm được phần thắng vì tên trưởng xa đã tỏ ra lợi hại hơn nhiều. Chờ cho tên tiều phu già thảm bại, hắn mới hươi quyền lao vào vòng chiến. Trong chớp mắt, khẩu súng đã bị đánh rơi vào gầm tàu hỏa. Nàng ôm một cái thùng gỗ vuông ném giữa mặt hắn. Hắn cười nhạt, gạt cái thùng bắn ra ngoài rồi nhảy lên toa, đối diện với nàng. Nàng vung bàn tay định đánh vào huyệt giữa hai lông mày, ngay trên sống mũi. Nàng đã học kỹ nhiều thế tấn công nguy hiểm, có thể giết chết đối phương trong khoảnh khắc. Nhưng nàng không thể biết rằng xa trưởng là cao thủ về quyền thuật. Đối với hắn, đòn điểm huyệt của nàng chỉ là trò đùa, trò gãi ngứa, không hơn không kém. Hắn tóm được cườm tay nàng, giật nhẹ một cái. Nàng mất thăng bằng, ngã nhào vào người hắn. Hắn chỉ cần hạ khuỷu tay bên trái xuống. Nếu trúng đòn, nàng sẽ bị trọng thương. Và chắc chắn nàng trúng đòn vì tên xa tưởng múa quyền nhanh nhẹn như con vượn truyền cây trên cành.
Nhưng may thay nàng có cứu tinh. Đó là Văn Bình.
Chàng đã tỉnh dậy sau khi uống thuốc giải mê. Chàng chỉ bàng hoàng một giây đồng hồ rồi ngồi lên, cỏ khô rơi tung tóe, những sợi dây trói chân chàng đua nhau đứt tung vì chàng vận nội công, bắp thịt nổi lên cuồn cuộn. Văn Bình bèn tung mình ra khỏi cái bồ tre, xỉa ngón tay vào hông tên xa trưởng. Ngón tay chàng cứng và nhọn như dùi thép làm đối phương đau nhói. Hắn kêu “hự” một tiếng rồi té nhào vào đống hộp cạt tông. Văn Bình lôi hắn dậy, điểm vào mặt hắn và nói:
- Chịu thua chưa?
Hắn nhìn chàng bằng cặp mắt căm hờn, nhưng rót cuộc đành gật đầu. Chàng bèn ra lệnh:
- Bây giờ, anh cho tàu chạy. Chạy luôn một mạch đến Sawan, không được dừng lại dọc đường.
Hắn há miệng phản đối:
- Tàu này đi Sawan sao được?
Văn Bình giơ tay định tặng hắn một đòn atémi, nhưng Si Thoeng đã can thiệp kịp thời bằng cách án ngữ giữa hai người, và líu la líu lô nói một tràng dài tiếng Thái với tên xa tưởng. Nàng nói nhanh nên chàng chỉ hiểu lõm bõm. Rồi Si Thoeng quay về phía Văn Bình, giải thích:
- Hắn nói thật đấy, anh đừng đánh hắn tội nghiệp. Tàu này không chạy thẳng đến Sawan. Nhưng anh yên tâm, em sẽ đưa anh đến tận Sawan.
Nàng lại liến thoắng một hồi với tên xa tưởng. Hắn đứng thẳng người, gật đầu lia lịa tỏ dấu đồng ý. Tuân lệnh nàng, hắn kéo hai tên tiều phu đang nằm mọp trên đất ra một bãi cao, dùng dây ni lông trói gô lại. Tên trẻ rên rỉ luôn miệng song nằm im thin thít, còn tên già thì vùng vẫy khi bị trói. Hắn rít lớn, giọng chua như dấm thanh:
- Hừ, mày là đồ phản bội!
Tên xa trưởng thở dài:
- Mày tha lỗi cho tao. Dầu sao tao cũng chỉ là thằng làm công, người ta thuê tiền thì làm. Tao làm không nên, tất không dám lãnh tiền. Nếu biết khó khăn thế này, tao đã từ chối. Như mày biết, tao chẳng dại gì mang lụy vào thân. Xương thịt tao bị đau rừ, hắn giỏi võ ghê gớm, vậy mà mày nói hắn là đồ bỏ.
Rồi lẩm bẩm:
- Đồ bỏ! Hừm, đồ bỏ!
Si Thoeng cười nói với Văn Bình:
- Bây giờ anh là chủ tàu. Mời anh ra lệnh cho tàu chạy.
Nàng nhìn chàng bằng cặp mắt long lanh. Chàng cảm thấy hối hận tràn trề. Nếu nàng không đến kịp, giờ này chàng còn nằm bất động trong bồ cỏ.
Và chàng sẽ chết. Chết sầu, chết thảm ở nơi đất khách quê người.
Tên trưởng xa ngoan ngoãn dẫn Văn Bình tới đầu máy, giới thiệu với tài xế, rồi lên toa kế bên. Toa tàu trống rỗng, hắn ngồi bó gối trong góc, hút thuốc lá một mình trong khi động cơ nổ xình xịch, bánh xe chuyển động rầm rầm. Văn Bình hỏi Si Thoeng:
- Chừng nào mình đến nơi?
- Trước khi trời tối.
- Bọn họ là thuộc viên của Dixon, phải không?
- Em không biết.
- Hỏi gã xa tưởng xem
- Theo em, không nên hỏi làm gì, vô ích. Bọn họ chỉ là côn đồ chuyên nghề đâm thuê chém mướn. Dixon chỉ sai họ mai phục ở bìa rừng để bắt anh, và họ cũng chỉ biết có thế. Điều làm em băn khoăn là tại sao Dixon lại biết anh đi Sawan. Và là đi Sawan bằng đường bộ.
Văn Bình bâng khuâng nhìn qua cửa toa xuống khu rừng rậm rạp bên đường:
- Hừ, anh sẽ đích thân hỏi Dixon.
Tên xa trưởng gục đầu vào đầu gối, ngủ gà ngủ gât. Dọc đường, hắn lắc lư theo con tàu, song không hề ngẩng mặt lên, cũng như không hề thốt nửa lời. Có lẽ trong đời hắn đã quen với cảnh thế cờ lật ngược nên chấp nhận sự thất bại một cách thản nhiên, còn thản nhiên hơn cả cuộc tranh tài thể thao nữa.
Trời nhá nhem thì tàu đậu lại.
Như có chuông điện tử reo vang trong óc, tên xa trưởng mở choàng mắt dậy, ấn cái mũ cát kết xuống đầu, rồi đứng dậy:
- Đến nơi rồi. Ông đã xuống chưa?
Văn Bình đưa mặt nhìn Si Thoeng. Nàng vỗ vai tên xa trưởng, giọng ôn tồn:
- Tôi biết người ta thuê tiền anh. Nhưng thôi, chuyện đã qua, không nên nhắc nữa. Tôi chỉ yêu cầu anh một điều, đó là sau khi chúng tôi xuống tàu thì anh phải lộn về ngay.
Tên xa trưởng trố mắt:
- Khổ quá, tôi còn phải chở hàng.
Si Thoeng nghiêm giọng:
- Nếu vậy bắt buộc tôi phải xử tệ với anh. Nhẹ thì trói anh lại, còn nặng thì đánh anh trận rồi ném anh xuống vực. Nghe nói quãng này có nhiều vực sâu, rớt xuống là mất mạng. Vậy anh còn muốn chở hàng về nữa thôi?
Tên xa trưởng thở dài:
- Thì thôi.
Si Thoeng dặn thêm:
- Thế nào chúng tôi cũng còn gặp anh lại. Có thể đêm nay, hoặc ngày mai, hoặc trong tương lai. Trong trường hợp anh trái lời tôi dặn thì đừng trách. Chúng tôi rất hiền hậu song cũng rất tàn ác. Anh đã nghe nói hình phạt mà dân bộ lạc dọc biên giới Thái - Mã Lai dành cho bọn người tiền hậu bất nhất chưa?
- Chưa.
- Vậy anh cần biết. Kẻ nào không giữ lời hứa thường bị moi gan, móc mắt. Gan thì cho chim kền kền ăn, còn mắt thì vứt xuống sông cho cá rỉa, đời đời con cháu sẽ trở nên ngu độn, hèn hạ.
Trước khi bước xuống, Văn Bình không quên bấm nhẹ vào cánh tay tên xếp ga. Chàng đã cẩn thận bấm nhẹ, và bấm vào bắp thịt có ít đường dây thần kinh nhất mà nạn nhân cũng đau buốt đến óc. Hắn kêu ai ái:
- Tôi biết rồi. Tôi biết rồi. Xin ông buông tha tôi ra. Tôi xin tuân theo lời ông.
Nơi xe hỏa đậu lại là một bãi đất rộng ở trên cao. Bên phải là núi, rặng núi sừng sững, án ngữ dọc biên giới phía tây của Thái Lan. Còn bên trái là rừng. Phía sau rừng là biển. Văn Bình phải vượt qua rừng mới đến được Sawan trên bờ biển.
Si Thoeng men theo con đường mòn ngoằn ngoèo khuất sau những bụi cây rậm rạp. Chẳng bao lâu đoàn tàu dài đen sì đã bị màn cây dày đặc che lấp.
Văn Bình hỏi Si Thoeng:
- Chừng nào mình đến nơi?
Nàng nhoẻn miệng cười:
- Từ nãy đến giờ anh đã hỏi như vậy ba lần rồi. Bề sâu của khu rừng chỉ độ vài ba chục cây số, nhưng hẳn anh đã biết là trong rừng thì một cây số nhiều khi trở thành chục cây số, tùy theo quen hay không quen đường. Anh nóng lòng đến Sawan để gặp họ, phải không?
Vô tình Văn Bình gật đầu. Mắt nàng bỗng đỏ hoe:
- Em biết mà... Nhưng thôi, em đã hứa giúp thì xin giúp đến cùng.
Ngẫm nghĩ một giây, nàng tiếp:
- Vả lại, anh là ân nhân của em, em có bổn phận phải đền đáp.
Văn Bình điếng người. Chàng quên bẵng Si Thoeng là đàn bà. Đàn bà từ cổ chí kim, từ đông sang tây đều mắc chứng bệnh bất diệt: ghen. Đàn bà đa tình thường ghen hơn đàn bà khô khan. Đàn bà đẹp đa tình lại còn ghen gấp bội.
Chết rồi. Chàng đinh ninh Si Thoeng nhắc đến Dixon chứ không ngờ chữ “họ” mà nàng dùng chỉ để ám chỉ những người đàn bà đẹp liên quan đến chuyến công tác của chàng trên đất Thái, đất Thái lạ lùng với loại mèo xinh xắn tục gọi là mèo Xiêm, với loại cọp dữ kinh khủng, thường được nhắc nhở là cọp Thái:
Mèo Xiêm cọp Thái.
Chàng đang lúng túng chưa tìm ra lối thoát thì nàng đã nói tiếp, nước mắt chảy quanh:
- Chẳng qua số em không may. Em không có diễm phúc được sống vui vầy với anh, dầu chỉ là vài ba đêm.
Chàng vội bịt miệng nàng:
- Khổ quá, anh nghĩ khác chứ không như em tưởng đâu.
Nàng không nói gì nữa. Mắt nàng cũng trở nên khô ráo, khuôn mặt nàng đanh lại. Có lẽ nàng nhớ lại hoàn cảnh khác thường của hai người. Nàng là cô gái Thái chết chồng và tái giá, không còn là bông hoa đầy xuân sắc nữa. Và chàng là khách du trọn đời bồng bềnh không được phép dừng chân vĩnh viễn trên bến yêu đương.
Hoàng hôn đã trùm kín khu rừng. Bóng đen từ trên không gian bao la tỏa xuống và từ dưới lòng đất âm u đùn lên. Tiếng ve sầu trỗi lên, đều đều, buồn bã, tưởng như không bao giờ dứt. Đặc điểm của miền rừng núi Đông nam Á là tiếng ve sầu. Tuy nhiên, chưa nơi nào mà ve sầu lại kêu dai dẳng và rầu rĩ bằng trên vương quốc Thái Lan, nhất là ở miền rừng núi nam bộ, gần bờ biển nước xoáy. Văn Bình có cảm giác như trước mặt, sau lưng, hai bên tả hữu, trên đầu dưới chân, ở đâu cũng có tiếng ve sầu. Những con ve sầu than van bằng giọng ra rả khiến những kẻ xa nhà buồn thối ruột.
Đột nhiên tiếng ve sầu ngừng bặt.
Ngừng bặt như thể khu rừng có ma. Ngừng bặt như thể vừa dứt một bản nhạc, nhạc trưởng sửa soạn cho tấu bản khác. Khoảng ngưng ngắn ngủi này đè nặng xuống những đỉnh cây cao vút, làm chim chóc đang hót và vượn khỉ đang kêu chít chít trong đám lá xào xạc, xum xuê phải nín thở.
Si Thoeng vẫn lùi lũi dẫn đường.
Tuy trời tối, nàng vẫn bước nhanh nhẹn không hề vấp ngã. Phần vì nàng thuộc đường, nhưng phần khác cũng nhờ đom đóm lập lòe. Hàng ngàn, hàng vạn con đom đóm không biết từ đâu bay tới, đậu rải rác hai bên đường mòn, trên lùm bụi, dưới túp cỏ, tạo ra những luồng sáng lân tinh nhảy múa.
Sau gần hai giờ đồng hồ đi bộ, hai người bắt đầu trèo dốc. Thoạt đầu là dốc bằng đất sét, rồi đến sườn núi đá. Nàng bảo Văn Bình:
- Anh ráng đi một quãng nữa. Sắp đến rồi.
Chàng suýt bật cười. Si Thoeng coi chàng như gã thư sinh, quanh năm ru rú trong văn phòng đầy hồ sơ, chưa hề làm quen với cuộc sống lộ thiên. Trên thực tế, chàng có thể leo trèo cả tháng trường mà không mệt. Rừng núi là một phần tâm huyết của chàng. Chàng lớn lên trong rừng núi, bầu bạn với rừng núi. Rừng núi đối với chàng không phải là vũ trụ xa lạ mà là tri kỷ. Nàng lại hỏi:
- Anh đã đói chưa
Dĩ nhiên là Văn Bình đã đói meo. Không những đói, chàng còn khát nữa. Chàng bèn nhún vai:
- Thú thật với em là anh cảm thấy đói bụng từ trưa. Nhưng trong rừng rậm thì tìm đâu ra thức ăn?
Nàng cười:
- Anh thử ngửi xem.
Một mùi thơm lạ lùng tràn ngập mũi chàng. Cách đó 1 phút, chàng không ngửi thấy gì vì đứng ngược chiều gió. Từ lâu, mùi thơm này đã làm chàng say mê. Chàng nhớ nó không kém gì nhớ rượu huýt ky hoặc thuốc lá Salem nữa. Đó là mùi sầu riêng, trái cây đặc biệt của Nam Việt. Tuy sinh trưởng ở miền Bắc, Văn Bình lại thích trái sầu riêng của miền Nam, còn thích hơn cả đồng bào miền Nam chính cống. Đối với chàng, sầu riêng không những chỉ là một thứ trái cây ngon miệng, gồm đủ vị ngon ngọt, chua, bùi, béo, thơm, mặn, mà còn là biểu tượng của sự toàn mỹ của tạo hóa. Trên thế gian, ít có màu vàng của vỏ sầu riêng vừa chín, màu vàng của múi bên trong lại còn quyến rũ hơn nữa, nó láng bóng và căng phồng như cơ thể cô gái đôi mươi.
Cuộc đời con người ra sao thì trái sầu riêng như thế. Nó gồm một vỏ dày cộm, gai nhọn, chắc, đâm tua tủa, ai đụng vào là đứt tay chảy máu. Bổ nó ra thì thấy múi to, mòng mọng. Song múi không thơm dịu dàng, thơm hấp dẫn như chuối cau, hoặc mọi thứ trái cây khác. Những ai mới ngửi mùi sầu riêng lần đầu sẽ phải bịt mũi vì nó khăm khẳm, nó làm mọi người nhức đầu buồn nôn. Rất nhiều người sợ trái sầu riêng, hễ thấy nó là lảng đi nơi khác, chứ đừng nói là ăn nữa. Nhưng hễ đã chịu bỏ từng múi sầu riêng vào miệng, hễ đã thưởng thức hương vị lạ lùng của nó thì từ đó ai cũng chịu là ngon tuyệt, bất hủ, say mê. Cuộc đời thường chứa đầy khó khăn, buồn chán là vì con người không chịu khám phá thêm nữa. Cũng như trái sầu riêng, người ta không mạo hiểm bổ ra mà ăn nếu chỉ ngửi thấy mùi “hôi thối”.
Ăn sầu riêng là một nghệ thật độc đáo, và trịnh trọng. Nghệ thật này không quá mộc mạc như bóc vỏ chuối, gọt trái thơm, bổ trái lê, rồi đưa vào miệng nhai nhồm nhoàm.
Người ta phải khoan thai bỏ từng múi trên lưỡi, rồi ngậm miệng lại.
Ngậm miệng chứ không nhai.
Ngậm miệng cho nước miếng từ từ trào ra, thấm dần vào múi sầu riêng, làm cho múi tan dần, tan dần. Ăn sầu riêng bằng cách ném vào giữa hàm răng, nhá vội vàng, rồi nuốt ừng ực chẳng khác gì trong đêm hợp cẩn với người vợ trẻ mong manh như tơ sương mà trời mới tối, cửa mới đóng, khách khứa còn trò truyện như bắp rang ở phòng ngoài, trong này chú rể đã vội hùng hục nài hoa, ép liễu. Ăn trái sầu riêng phải chầm chậm, và ung dung như các cụ ngày xưa uống rượu với đồ nhắm dưới trăng. Ăn trái sầu riêng phải từ tốn, và dè dặt như thái độ của người chồng khôn ngoan trong đêm động phòng hoa chúc, tiến từng bước một vào động hoa đào. Không hối hả. Cũng không vùi dập.
Trái sầu riêng không những có nhiều mùi vị mà còn có nhiều màu sắc nữa. Trái của nó là sự hỗn hợp của các màu xanh lục, nhưng lại óng ánh như giát bạc, còn mặt dưới lại là màu nâu ngả màu đỏ hung. Văn Bình đã thưởng thức trái sầu riêng của nhiều quốc gia ở Đông nam Á, và nhận thấy sầu riêng Thái Lan ngon nhất. Mỗi mùa sầu riêng khi được diễm phúc nghỉ xả hơi ở nước nhà, chàng đều không quên đáp máy bay, lái xe hơi, hoặc đi ghe xuồng, xe ngựa đến tận vườn ở bên giòng sông Cửu long để nếm những trái sầu riêng thơm bùi như người nếm rượu vang ở Pháp. Kể ra, sầu riêng Việt đã được liệt vào hàng thơm ngon, nhưng nói chung còn thua sầu riêng của miền rừng rậm Cao miên, và dĩ nhiên là chưa phải đối thủ của sầu riêng nam bộ xứ Thái. Sầu riêng Việt dường như lớn hơn, song mã ngoài không được cân đối. Thái là xứ có những nóc chùa hình tròn nên vóc dáng sầu riêng cũng tròn đều. Sầu riêng Việt cũng đủ các vị bùi, béo quen thuộc nhưng múi không được se bằng sầu riêng Thái, nếu ướt thì ướt quá, mà khô thì khô quá, chứ không vừa khô vừa ướt, ngoài thì mịn phẳng, không bẩn tay, ăn vào thì mọng nước. Không hiểu sao, mỗi khi đặt múi sầu riêng Thái vào lưỡi, Văn Bình lại liên tưởng đến cô gái tròn đều, da thịt bên ngoài có vẻ khô khan, nhưng sinh lực ái ân lại rồi rào, cuồn cuộn như giòng Cửu long, chảy qua rừng núi cả ngàn cây số mà không hề mệt mỏi.
Chàng liên tưởng đến đàn bà có lẽ cũng vì cây sầu riêng phát xuất từ những huyền thoại mỹ nhân. Tục truyền cây sầu riêng ra đời từ trước Phật lịch, từ ngày xửa ngày xưa, từ ngày văn minh Mã Lai còn thịnh hành ở vùng biển Nam hải, và Ấn độ dương, và một phần lớn Đông nam Á còn là biển khơi, hoặc những hòn đảo rải rác gần đường xích đạo. Thuở ấy, con người đã biết dệt vải may quần áo, trai gái đã biết yêu nhau, xã hội đã biết tôn ti trật tự, trên có tiểu vương, dưới có thần dân, trăm họ sinh sống trong cảnh trên thuận dưới hòa (chứ không cãi nhau, đánh nhau chí chóe như trong thế kỷ 20 đau khổ này), tình yêu lan tràn khắp chốn. Vị tiểu vương cai trị một vùng đất rộng lớn, và phì nhiêu gần vịnh Xiêm La bấy giờ có một hoàng nam mặt mũi cực kỳ khôi ngô, tuấn tú, tên là A Lư.
Vua cha đã trọng tuổi mà chỉ có một con trai độc nhất nên ngài rất chú trọng đến việc lựa chọn bạn trăm năm cho con để nối dõi ngai vàng. Phần vì muốn chiếm hưởng một giang sơn bát ngát và giàu mạnh, phần khác vì hoàng tử rất đẹp trai, lại rất tài giỏi nên giai nhân tứ xứ đều đua nhau làm quen và quyến rũ hoàng tử với hy vọng được nâng khăn sửa túi, được làm hoàng hậu sau này. Chàng định kết hôn với công chúa một vương quốc kế cận, vì nàng đẹp như Hằng Nga giáng thế, tính tình lại dịu hiền, nàng lại là con gái duy nhất. Cuộc gá nghĩa trăm năm này sẽ mở rộng gấp đôi vùng đất của hoàng tử. Hôn lễ trọng thể được dự định cử hành vào mùa thu, vào tháng trăng tròn nhất trong năm. Nhưng vào giờ chót, hoàng tử bỗng thay đổi ý kiến.
Hoàng tử đẹp trai A Lư thay đổi ý kiến hôn nhân sau một cuộc săn thú trong rừng cấm ngoài kinh đô. A Lư là nhà thiện xạ hữu danh nên vua cha dành sẵn một cánh rừng riêng gần hoàng cung cho chàng săn bắn. Quân lính chỉ canh gác bên ngoài, hoàng tử và cận vệ cưỡi ngựa vào trong rừng, và nghỉ chân trong một ngôi nhà thủy tọa xây cất trên bờ suối. Đêm ấy, trời đầy trăng sáng. A Lư trằn trọc mãi không ngủ được, bèn trở dậy dạo chơi bên bờ suối. Chợt nghe tiếng sột soạt, A Lư rón rén bước tới.
Và thấy một cô gái đang mặc xiêm y.
Nàng vừa tắm xong, ánh trăng lóng lánh trên da thịt trắng nõn nà. Nàng xây lại nên hoàng tử chỉ thấy một mảng lưng. Tuy nhiên, căn cứ vào dáng điệu uyển chuyển của nàng, hoàng tử đoán nàng là người cô gái tuyệt đẹp. Hoàng tử vấp rễ cây suýt ngã, gây ra tiếng động nên cô gái ngoảnh mặt lại. Thấy người đàn ông nhìn trộm là hoàng tử, nàng rú lên sợ hãi, và bưng lấy mặt. Hoàng tử lại gần, giọng an ủi:
- Ta đây mà. Ta là hoàng tử A Lư. Nàng là ai? Nàng đừng sợ, ta không hại nàng đâu.
Cô gái buông bàn tay che mặt ra, và hoàng tử A Lư nhận ra nàng là U Sa, nô tỳ chuyên dọn chuồng ngựa. Mỗi lần gây can qua với lân quốc, vua cha thường bắt đàn bà con gái quốc gia chiến bại về làm nô tỳ. Đàn bà đẹp thì xung vào làm thê thiếp trong nội cung hoặc cho quan quân. Đàn bà kém nhan sắc thì làm tôi tớ.
U Sa được cử trông nom chuồng ngựa vì nàng giỏi nghề nuôi ngựa, lại siêng năng. Tuy nhiên, nàng về làm nô tỳ đã lâu mà không được ai để ý vì nàng quá xấu. Mặt nàng luôn luôn bám đầy đất bẩn, hơi thở nàng lại hôi hám lạ lùng, ở xa hàng chục bước cũng ngửi thấy, và hễ đã ngửi thấy là ai cũng lộn mửa. Hoàng tử A Lư rất mê ngựa nên U Sa được tháp tùng trong mọi chuyến săn. Ngựa do U Sa nuôi bao giờ cũng khỏe mạnh, chạy lại nhanh. Riêng con bạch mã được hoàng tử cưỡi, tịch thu được trong một cuộc tấn công vương quốc kế cận, lại chạy nhanh như gió. Vì U Sa quá xấu xí nên các quan cấm nàng lại gần hoàng tử. Nhưng khốn nỗi con tuấn mã không chịu cho ai chăm sóc ăn uống, tắm rửa ngoài U Sa ra. Nếu không có U Sa thì nó nhất định bỏ ăn, bỏ uống. Rốt cuộc, hoàng tử đi đâu, U Sa cũng được đi theo.
U Sa phục xuống đất, van lạy:
- Trăm ngàn lậy hoàng tử. Thiếp không dè hoàng tử lại ra suối chơi ban đêm. Tội thiếp thật đánh chết.
Hoàng tử mỉm cười:
- Lỗi tại ta, chứ đâu phải lỗi tại nàng. Vì nàng ra suối tắm trước, ta ra sau. Ta lại phạm tội núp sau bụi cây nhìn trộm nàng tắm. Này, ta hỏi thật, nàng đừng dối ta nhé!
- Thiếp đâu dám hỗn xược như vậy. Xin hoàng tử cứ hỏi.
- Tại sao nàng giấu ta?
- Tâu hoàng tử, tiện thiếp dám giấu gì đâu.
- Có. Thoáng trông lưng nàng, ta biết nàng có làn da trắng đẹp như tuyết. Vậy mà tay chân nàng, mặt nàng lại đen đủi, gớm ghiếc. Nghĩa là phần da để lộ ra ngoài thì nàng lấy thuốc bôi đen. Ta thấy nàng lưng ong, ngực nở, eo nhỏ xíu, cổ cao tròn, nàng phải là mỹ nhân, chứ không phải nô tỳ giữ ngựa xấu xí và bẩn thỉu. Ta nói đúng hay sai?
- Hoàng tử nói đúng.
- Vì nguyên nhân nào nàng lại hóa trang cho xấu xí như vậy?
U Sa thở dài, ngồi yên bên bờ suối. Ánh trăng chiếu lung linh trên bờ vai tròn trịa và trắng nõn của nàng. Nàng chưa kịp cài áo nên bờ vai hiện ra lồ lộ, tương phản với làn da đen sì và mặt sần sùi, trông phát lộn mửa. Sự thật đã quá rõ ràng, nàng không thể nào nói dối được nữa. Hoàng tử ngồi xuống cạnh nàng, giọng vỗ về:
- Ta biết nàng có một tâm sự u uẩn nên phải hủy hoại tuổi xuân. Nàng hãy nói ta nghe, để xem ta có giúp được nàng chăng.
U Sa lại thở dài:
- Thú thật với hoàng tử, tiện thiếp là cô gái của vua Bồ Đan. Vua cha của hoàng tử đem quân làm cỏ quê hương thiếp cách đây năm năm. Thiếp chỉ còn cha, vì mẹ mất từ ngày thiếp còn ẵm ngửa. Cha thiếp bị thiệt mạng, và thiếp bị bắt đưa về quý quốc làm nô tỳ. Sợ chữ trinh bị hoen ố, thiếp bèn bôi mặt cho đen, và làm kẻ chăn ngựa. May thay không ai để ý đến tiện thiếp. Đêm nay, trời nóng nực, thiếp lén ra suối tắm rửa thì bị hoàng tử bắt gặp. Tiện thiếp đã kể hết sự thật. Nước của thiếp và nước của hoàng tử thù nhau không đội trời chung. Kinh thành nước Bồ Đan đã bị san thành bình địa. Hàng vạn con dân bị thám sát. Vua cha của hoàng tử lại ra nghiêm lệnh hễ gặp bất cứ phụ nữ của nước Bồ Đan là đem ra pháp trường xử trảm. Tiện thiếp cũng chẳng thiết sống nữa, hoàng tử hãy kêu cấm vệ đến bắt thiếp đem chém.
Hoàng tử A Lư cầm bàn tay công chúa U Sa, giọng cảm động cực độ:
- Ta không tán thành việc cha ta mang quân sang đánh nước bồ đan. Ta vốn ghét việc chém giết, phương chi nàng lại là trang quốc sắc thiên hương. Nàng U Sa ơi, không hiểu sao đêm nay, ngồi bên nàng, ta lại cảm thấy cõi lòng xao xuyến, dường như ta với nàng quen nhau từ kiếp trước rồi chăng?
Hoàng tử A Lư kéo U Sa lại gần mình. U Sa gỡ tay ra, cúi đầu lạy hoàng tử, rồi nói:
- Thiếp đã hiểu lòng hoàng tử. Thiếp là con gái đồng trinh, từ nhỏ đến lớn chưa hề biết đàn ông. Thiếp nguyền hiến thân cho người thiếp kính yêu. Thiếp đã thầm yêu trộm nhớ hoàng tử từ ngày thiếp chăn ngựa trong hoàng cung. Đêm nay, thiếp xin dâng trọn vẹn cho hoàng tử. Phiền chàng đợi em một lát.
U Sa nhảy xuống suối.
Khi bước lên, nàng đã hoàn toàn đổi khác. Mặt nàng trắng phau phau, mày ngài, mắt phượng, miệng chúm chím hình trái tim, hàm răng đều đặn. Trần truồng, U Sa đứng dưới trăng cho hoàng tử chiêm ngưỡng những đường cong căng phồng nhựa sống trên thân mình. A Lư đã gặp nhiều mỹ nhân, song U Sa là mỹ nhân bậc nhất. Hoàng tử A Lư dìu nàng bên tảng đá lớn, bằng phẳng để ân ái. Nhan sắc của nàng, vẻ dịu dàng của nàng đã đủ mê hoặc hoàng tử A Lư, huống hồ nàng còn một mãnh lực bí mật khác nữa: mãnh lực ân ái dai dẳng, triền miên. Lần đầu tiên, A Lư gặp kẻ ý hiệp tâm đầu về ân ái. Đêm càng về khuya, nàng càng khỏe, đến khi hoàng tử mệt nhoài, thở hổn hển thì nàng lại khỏe dội ra, tưởng như được uống thang thuốc đại bổ. Hoàng tử yêu cầu nàng giải thích thì nàng đáp:
- Mẹ em là người Nêpan, ở triền núi Hy mã Lạp sơn, nên có sức khỏe phi thường. Sức khỏe này được truyền lại cho em. Hồi nhỏ, em sống trên núi, từ sáng đến tối chỉ chạy nhảy, leo trèo nên đôi chân có ống xương và đường gân cứng như thép, em khỏe hơn chàng là chuyện tất nhiên.
Quá nửa đêm, hoàng tử ngủ thiếp trên cánh tay người đẹp, bên giòng suối chảy rì rầm dưới ánh trăng rằm lênh láng. Hơi lạnh rừng rậm gần sáng làm hoàng tử tỉnh dậy. Nhìn quanh thì không thấyU Sa đâu nữa. Chỉ có một bức thư ngắn để trên phiến đá. Bức thư như sau:
“Năm năm trước, em đã thề độc trước thi thể của cha em là sẽ sang tận hoàng cung nước chàng, giết vua cha của chàng để báo thù. Năm năm nay, em kiên nhẫn chờ đợi. Em mài sẵn con dao thật bén, và cất trong người. Cơ hội tốt đẹp này đã đến với em. Em giả vờ ra suối tắm để quyến rũ chàng, trao thân cho chàng, rồi lựa dịp hạ sát chàng. Nhưng chàng ơi, em giả vờ không được. Em đã thật sự ăn nằm với chàng. Em đã quên tất cả khi ôm ấp chàng. Em không thể nào giết người đàn ông em yêu. Vì vậy, em phải chết. Em chết thì mới giải được lời thề với cha em ngày nọ.
A Lư chàng ơi, lưỡi dao mà em định đâm chàng, em sẽ đâm vào tim em. Chàng hãy đích thân chôn cất em, đừng cho ai biết. Em tin cậy ở chàng.
Dưới suối vàng, em sẽ phù hộ cho chàng.
Công chúa U Sa.
Bạn lòng muôn đời của hoàng tử A Lư”.
U Sa nằm ngửa, lưỡi dao cắm sâu vào tim, cách nơi A Lư ngủ thiếp một quãng ngắn. Nàng đã chết cứng không biết từ bao giờ. Hoàng tử A Lư vật mình than khóc, đến sáng mới đào hố chôn nàng như lời nàng trăn trối. Trở về cung, A Lư quyết định từ hôn với công chúa nước bạn mặc dầu vua cha và triều đình ép buộc, phản đối kịch liệt. Không những thế, A Lư còn bỏ cung vàng, điện ngọc, một mình một ngựa vào rừng, đến bên suối cũ lập am để tu niệm. Con tuấn mã nhớ nữ chủ U Sa bỏ ăn, bỏ ngủ một thời gian rồi chết. Trên huyệt U Sa sau này mọc một thứ cây lạ. Cây này đâm bông kết trái, trái nó đầy gai nhọn bên ngoài, bổ ra có múi vàng béo ngậy, ngửi thì hôi thối nhưng ăn thì ngon. Thật là ngon.
Đời sau gọi là sầu riêng.
Trái sầu riêng cũng giống U Sa. Vỏ ngoài hôi hám, song bên trong là tiên nữ.
Huyền thoại sầu riêng này đã được Si Thoeng kể cho Văn Bình nghe. Tình cờ, câu chuyện cũ lại sống dậy trong trí óc chàng. Trước mặt chàng là một khu rừng toàn sầu riêng, cây nào cũng cao to, cành lá rườm rà. Nghe Si Thoeng hỏi, Văn Bình hít hà:
- Ô, sầu riêng! Chúng mình ở lại ăn nhé!
Nàng gật đầu.
Trăng đã lên ở chân trời, chiếu sáng khu rừng sầu riêng. Si Thoeng hái sầu riêng, đặt trên một phiến đá lớn. Đột nhiên, Văn Bình cảm thấy nao nao. Ngày xưa, hoàng tử A Lư cũng tình tự với cô gái giữ ngựa U Sa của nước Bồ Đan trên phiến đá gần bờ suối. Dường như đọc được tư tưởng của chàng, vẻ mặt nàng đang tươi vui bỗng sa sầm. Nàng chỉ tay về hướng đông:
- Đi hết ngọn đồi này là Sawan.
Nàng nói đúng. Nửa giờ sau, hơi thở còn thơm lừng mùi sầu riêng. Văn Bình trèo lên đỉnh nhìn xuống. Bên kia là biển. Tuy ban đêm và đứng xa, Văn Bình vẫn nhìn thấy một con tàu buông neo gần bờ.
Đó là du thuyền Bồng Lai.
Con tàu đã chở chàng và Rôsita lênh đênh từ Phi Luật Tân qua Nam Dương, Mã Lai đến vịnh Xiêm La, ngược giòng sông Chao Phya lên xứ Thái huyền bí.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Sáu bậc này, theo thứ tự thì từ thấp đến cao, nghĩa là từ bậc 6 lên đến bậc một (tiếng nhật gọi “bậc” là “kyu”), là rokkyu, gokyu, shikyu, jonkyu, sankyu, nikyu. Tại Âu châu, thể thức thắt lưng được thay đổi như sau: trắng, vàng, cam, lục, xanh, và nâu, cũng tính từ cấp 6 lên cấp 1.
[2] Từ đệ tam lên đệ tứ đẳng, thời gian tối thiểu là một năm. Đệ tứ lên đệ ngũ: hai năm. Đệ ngũ lên đệ lục: năm năm. Nghĩa là tối thiểu phải mất 12 năm tập luyện ráo riết mới lên được đệ lục đẳng (đó là chưa nói đến điều kiện phải là võ sĩ tuyệt luân, đánh đâu thắng đấy, nếu không thời gian 12 năm sẽ vọt lên... 33 năm). Số võ sĩ đệ thập đẳng rất ít, độ vài ba vị còn sống trong số gần nửa triệu đai đen ở Nhật.
[3] Xe Amphicar do công ty Deutsche Wagon und Mas-Chinen GmbH, Bá Linh chế tạo. Kiểu 770 gắn động cơ 1.147 phân khối, ra đời năm 1961. Các sở giáp điệp mua về chế biến lại để dùng vào những công tác trèo đèo, xuyên rừng, lội suối, thay thế cho phi cơ trực thăng.
[4] Ớt Hung Gia Lợi được gọi là paprika, gồm bảy loại khác nhau. Ớt Hung Gia Lợi có chất đường nên người ta không bao giờ bỏ nó trong mỡ nóng, vì đường sẽ lên mùi khét.