Để leo dốc cao, cần chầm chậm trước tiên.

Shakespeare

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Buusan Nguyen
Upload bìa: Buusan Nguyen
Số chương: 37 - chưa đầy đủ
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2994 / 57
Cập nhật: 2020-05-28 15:55:23 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
VI. Trước Giờ Hừng Sáng
I Trước giờ hừng sáng
Ca nô lướt nhanh trên làn nước mượt như nhung.
Si Thoeng ngồi bên, chốc chốc lại nhìn Văn Bình bằng cặp mắt âu yếm. Mọi việc đã xảy ra đúng với dự tính. Văn Bình đang lái ca nô chở bữa ăn điểm tâm của khách sạn Rama đến du thuyền Bồng Lai buông neo trên sông Chao Phya ở phía nam ngoại ô thành phố Vọng Các.
Hồi khuya, chàng tìm ra phương pháp hữu hiệu giữ cho người đẹp khỏi ríu mắt. Kể ra, chẳng riêng gì Văn Bình, bất cứ đàn ông nào trên thế gian này, hễ ở một mình với giống cái trong phòng kín đều áp dụng phương pháp cổ điển có từ đời ông Adam và bà Eva ấy. Nhưng Văn Bình - nhờ tài ba thiên phú, và nhờ kinh nghiệm thu thập được sau nhiều năm hồ hải - đã biến phương pháp cổ điển mà ai cũng biết này thành một bộ môn khoa học siêu đẳng. Bốn năm trước, Si Thoeng đã gặp chàng nên có dịp thí nghiệm. Càng già càng dẻo, càng dai, Văn Bình của bốn năm trước đã tạo kỷ lục, Văn Bình ngày nay lại phá kỷ lục cũ. Giá nàng uống cả ống thuốc ngủ cực mạnh, giấc ngủ cũng bị đẩy lui. Huống hồ nàng lại thích thức trắng đêm.
Trời mưa lâm râm lúc 3 giờ sáng. Trước khi chịu bật đèn, Si Thoeng hôn tới tấp lên mặt chàng như sợ ánh sáng làm chàng tan biến vào đêm tối. Nàng khoác tay chàng xuống đường. Hai người chui vào chiếc Mazda 800 nhỏ xíu đậu bên vỉa hè. Nàng bảo chàng lái về lữ quán Rama. Đến nơi, nàng vào một mình, còn chàng ngồi lại trong xe, giết thời giờ bằng gói thuốc lá Salem mới bóc. Hơn nửa giờ sau, chiếc xe bít bùng giao thực phẩm của khách sạn chạy tới, và đậu một bên. Trên xe, ngoài Si Thoeng ra còn tài xế, một người Thái trung niên đeo kiếng trắng, nét mặt hiền lành và lầm lì. Hắn chỉ lí nhí hai tiếng “chào ông” khi Si Thoeng giới thiệu. Hắn là nhân viên thân tín của nàng.
Hai người trèo lên phía sau xe, ngồi giữa đống hộp cạt tông đựng thức ăn nguội. Tài xế lái về phía nam. Đến nơi buộc ca nô, hắn lễ mễ bưng đồ đoàn xuống. Dọc đường hắn không nói nửa lời. Si Thoeng bảo chàng:
- Anh yên tâm. Hắn là người quen cũ của chồng em. Bản tính ít nói, và không quan tâm đến công việc của thiên hạ. Chính em đưa hắn vào làm trong khách sạn. Hắn đã giúp em trả thù nhiều lần, song lần nào cũng thất bại.
Ca nô lướt nhanh trên làn nước mượt như nhung.
Văn Bình vừa qua một ngôi chùa, mái tròn nhọn hoắt. Hồi tối, có một khóa lễ lớn ngoài sân chùa, nhìn xuống sông. Giờ đây, thiện nam tín nữ đã về nhà ngủ, ngôi chùa chìm trong ánh sáng đèn hương lập lòe, song Văn Bình lại có cảm tưởng là đám đông đang dập dìu trước mắt. Trên bờ sông, dưới ngọn gió hoàng hôn mát rợi, chỉ thấy người là người cười vui, trò chuyện như bắp rang. Dưới sông những con thuyền tí hon bằng tre dán giấy mã, thắp nến rực rỡ đang quay cuồng, múa nhảy như đom đóm khổng lồ. Tiếng tụng kinh, tiếng chuông mõ, tiếng nhạc bát âm xen lẫn nhau từ máy khuếch âm phát ra, xé toang bầu không khí, thổi ào xuống sông như làm cho nước sôi lên.
Cách đây không lâu, ngược giòng Chao Phya một buổi tối, Văn Bình đã dừng lại trước chùa. Chàng cùng đi với một cô thư ký khả ái của Tòa đại sứ. Nàng dẫn chàng vào đám đông xô bồ, ầm ỹ, chen vai thích cánh với những người bán hàng rong, rao ơi ới, nào kem cây, nước ngọt, nào trầu cau, thuốc lá, nào thịt gà nướng, phá lấu và thịt bò viên,... Ở góc chùa, lũ trẻ con bâu quanh một đôi trai gái phục sức kỳ dị, gã đàn ông châm lửa vào đuốc cháy đỏ ối, đưa cho ả con gái thọc vào miệng nuốt ừng ực. Bó lửa tắt ngúm, công chúng khen ngợi hò reo như vỡ chợ. Ngay bên là một kẻ lên đồng, ngoáy đầu ngoáy mông lia lịa. Xế cổng chùa hai thiếu niên đứng hầu một thiếu phụ lớn tuổi hoa chân, múa tay đâm những cây kim bạc dài lê thê qua lưỡi, qua má và qua mi mắt. Tuy làm việc đã lâu trong sứ quán, cô thư ký Việt vẫn chưa quen với đời sống địa phương. Nên nàng đã run lẩy bẩy khi thấy mụ đàn bà xiên lềnh, gương mặt phớt tỉnh, hầu như thách thức. Cái lềnh nhọn hoắt từ má phải xuyên qua má trái, nàng rú lên một tiếng ngắn. Và đeo cứng lấy Văn Bình. Đúng là trời cho vì hôm ấy chàng không đòi hỏi (chàng vốn có thói quen không làm phiền các sứ quán Việt Nam ở hải ngoại) mà được thưởng công. Và là thưởng công quá hậu hĩ. Nàng ôm chàng, và không phản đối khi chàng kéo mặt nàng lên hôn say đắm và kéo dài. Đêm nay, ngồi trong cabin đò máy rẽ sóng băng băng, Văn Bình nhận thấy Si Thoeng có cái miệng giống hệt cô thư ký ngoan ngoãn năm xưa của tòa đại sứ. Khác với tiêu chuẩn thông thường, miệng nàng lại to. Phép tướng đông phương cho rằng “đàn ông rộng miệng thì sang, đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà”. Theo quan niệm thẩm mỹ đông phương, đàn bà miệng rộng không thể là đàn bà đẹp. Song Si Thoeng lại đẹp, tuy miệng nàng khá rộng. Vì nàng rộng miệng nên khi nàng nói, nhất là khi nàng cười, hàm răng mới có dịp phô bày với đàn ông, một hàm răng đều đặn, trắng ngà, bóng láng. Cũng do miệng rộng nên môi nàng phải dày hơn mức bình thường. Các y sĩ tâm lý học ngày nay đều nhìn nhận là đàn bà môi dày có khả năng thèm muốn tình dục, hưởng thụ và ân ái mạnh mẽ gấp nhiều lần đàn bà môi mỏng. Tương truyền rằng những giai nhân nổi tiếng trong lịch sử tình ái Trung quốc cổ xưa đều miệng rộng, môi dày như nàng Văn Khương, nàng Hạ Cơ đời nhà Tề.
Văn Bình liếc nhìn Si Thoeng.
Miệng rộng và môi dày quyến rũ thật! Cõi lòng rào rạt, Văn Bình muốn ngừng thuyền máy, tắt đèn cabin lần nữa. Si Thoeng cũng ngước nhìn trả. Nàng mặc áo pull bằng len mỏng, hở nách, chật hơn một số nên bộ ngực căng ra được phô diễn một cách ấm ức. Thấy chàng cứ nhìn mình chằm chằm, nàng đập bàn tay vào mông chàng, kèm theo giọng cười ròn rã:
- Anh nhìn gì thế?
Văn Bình tống thêm ga xăng:
- Nhìn em vì em đẹp quá!
Nàng hừ một tiếng rồi lắc đầu:
- Anh nên để dành lời khen này cho Akita đi.
- Akita?
- Thôi anh, anh đừng giả vờ nữa. Akita là nhân tình của tỉ phú Dixon. Đến khi gặp nàng, anh sẽ quên hết. Nhiệm vụ quan trọng của anh cũng quên, huống hồ là mụ đàn bà nạ giòng như em.
- Thái độ của em thật kỳ cục. Em đã báo thù được cho chồng, cho con lẽ ra em phải vui vẻ, không dè em lại còn buồn rầu hơn trước.
- Anh ơi, kỳ cục là bản tính của nữ giới. Ngày nào hết kỳ cục, đàn bà sẽ biến thành đàn ông. Anh là đàn ông nên không thể hiểu được tâm trạng đàn bà.
- Thì đàn bà cũng là con người do tạo hóa sinh ra với xương thịt và khối óc khác nào đàn ông?
- Nhưng lòng đàn bà lại sâu không đáy, anh ạ. Trước khi giết Sroek, em chỉ cầu mong phục hận. Em đinh ninh cái chết của hắn sẽ làm em vô cùng sung sướng. Em đã sắp sẵn chương trình du ngoạn với anh tới bờ biển phía nam. Nhưng giờ đây, em mới biết là lầm. Giá đêm nay em đừng hẹn với Sroek, mà em cũng đừng giết hắn...
- Tại sao hả em?
- Vì từ nay, em sẽ mất anh. Giúp em báo thù xong, anh sẽ đi nơi khác. Anh sẽ gặp Akita, gặp những người đàn bà khác đẹp hơn em, quyến rũ hơn em. Rồi anh sẽ bỏ em...
- Em buồn cười ghê. Chúng mình cũng chưa từng hứa hẹn với nhau gì cả. Hơn ai hết, em đã biết sau khi hoàn thành nhiệm vụ, anh phải trở về Sàigòn.
- Vâng, em nhớ ra rồi. Anh đừng nhắc lại nữa, đau lòng em lắm.
Văn Bình nín thinh. Cặp mắt bâng khuâng nhìn khoảng không đen tối trước ánh đèn pha sáng rực ở mũi ca nô.
Du thuyền Bồng Lai đã hiện ra sừng sững trước mặt. Si Thoeng ra hiệu cho Văn Bình chạy chậm lại, và lái qua bên hông trái du thuyền. Tỉ phú Dixon là người biết xài tiền đúng chỗ, đúng như Si Thoeng nói. Du thuyền Bồng Lai quả không thẹn với danh hiệu Bồng Lai. Thân tàu sơn trắng, tương phản một cách khả ái với mặt nước đen ngòm. Boong tàu không thắp đèn sáng. Văn Bình chỉ thấy một dây đèn treo từ mũi xuống đuôi tàu, lủng lẳng hàng trăm bóng đèn ngũ sắc nhỏ xíu, cốt để trang điểm cho dung mạo của du thuyền hơn là để xua đuổi màn đêm. Văn Bình mừng thầm vì nếu đèn thắp sáng, chàng sẽ khó thể lẻn lên boong.
Ca nô cặp sát vào cầu thang bóng loáng. Gã tài xế lên trước, bưng các hộp cạt tông đựng thức ăn. Hắn còn phải lên xuống nhiều chuyến như vậy nữa. Ngồi trong cabin, Văn Bình nghe rõ tiếng chào hỏi giữa Si Thoeng và thủy thủ đoàn. Đèn trong ca nô cũng đã tắt, chàng có thể thản nhiên ra ngoài, không sợ bị nhân viên du thuyền nhìn thấy. Vả lại, chàng nhìn đảo một vòng: boong tàu vắng ngắt, giờ này mọi người còn ngủ. 3 giờ sáng mà. Chỉ có dăm ba người thức.
Chàng mặc bộ y phục không thấm nước vào mình, vuôn vai cho dãn gân cốt rồi từ từ bỏ chân xuống sông. Chàng vốn ưa tắm đêm, hồi nhỏ chàng thường nhảy ùm xuống sông ở gần nhà để hụp lặn. Chàng bơi giỏi như rái cá. Nhờ quen bơi đêm, chàng không cảm thấy lạnh, dầu là hơi lạnh mùa đông, đầy mưa phùn và gió bấc miền bắc. Vậy mà đêm nay chàng lại cảm thấy lành lạnh. Lành lạnh tuy Vọng Các đang ở mùa nóng. Giả sử trời lạnh như tháng chạp ở Bắc Việt, chàng vẫn khỏe ru vì cái áo ni lông đặc biệt của thợ lặn đã ngăn chặn thời tiết bên ngoài. Chàng rùng mình một cái nhẹ trước khi chìm sâu xuống nước. Có lẽ chàng lạnh vì nhớ đến Rôsita. Giờ này có lẽ nàng đang bó gối trong một gian phòng nhỏ của du thuyền. Chàng hy vọng nàng bị giam trên tàu du thuyền. Trong chớp mắt, chàng đã ngoi đầu lên, bám lấy sườn tàu. Chàng trèo lên boong dễ dàng vì chung quanh không có người gác. Vọng gác ở mũi tàu cũng không có ai. Chàng nhảy qua lan can, nhoài người trên nền boong, quan sát tứ phía. Nếu bị đối phương khám phá ra trong lúc này thì hỏng bét. Bên tay phải, Si Thoeng đang tiếp tục trò chuyện vui như tết với bọn thủy thủ. Văn Bình nghe cách xưng hô của nàng, đoán biết là trong số có viên thuyền trưởng.
Si Thoeng nói trong tiếng cười:
- Cà phê nóng hổi, và thơm ngon lắm. Các ông cứ uống đi. Tôi đích thân chọn cà phê thượng hạng đem rang và pha cho các ông uống đó.
Nhiều tràng cười khoan khoái đáp lại, rồi có tiếng nói:
- Ha, ha. Cà phê đặc biệt, uống vào đỏ da thắm thịt, cụ già hóa thành con trai. Uống mau lên kẻo hết, anh em ơi!
Văn Bình núp trong bóng tối vì dãy đèn ngũ sắc chỉ chiếu sáng mạn tàu bên kia. Vả lại, loại đèn trang trí này cũng chẳng chiếu sáng được bao nhiêu, nhất là boong tàu lại rộng thênh thang, bầu trời gần rạng đông màu vẫn đen kịt như phết bằng mực tàu.
Chàng đã nghiên cứu họa đồ của du thuyền nên bước nhanh xuống khoang dưới, không cần suy nghĩ. Phòng máy ở phía trước, tiếp theo là phòng chứa nhiên liệu và nước ngọt, còn phòng ăn và phòng ngủ của thủy thủ đoàn ở đuôi tàu. Khúc giữa là kho chứa hàng nếu quả thật du thuyền Bồng Lai chở lén võ khí nguyên tử cỡ nhỏ. Đúng như chàng tiên liệu, hành lang tầng dưới không có ai. Có lẽ đám người uống cà phê trên boong là những thủy thủ duy nhất còn thức. Toàn thể đều đã ngủ say sau cuộc dạ vũ. Đôi giày đế cờ rếp của Văn Bình trượt nhẹ trên sàn tàu láng bóng tưởng như có thể soi gương được. Chàng rón bước êm ru, người đứng gần cũng không nghe được tiếng động. Đến một cánh cửa sắt lớn, chàng dừng lại. Trên đầu chàng, leo lét một ngọn đèn nhỏ. Trong nháy mắt, chàng đã mở được cửa, và lẻn vào trong.
Phòng kho tối om.
Theo thói quen, ngay sau khi bước vào, chàng đóng cửa và ngồi thụp xuống, vận nhỡn tuyến quan sát tứ phía. Cặp mắt bắt đầu quen với bóng tối của chàng nhận ra nhiều dãy thùng cạc tông xếp chồng lên nhau thành hàng ngay ngắn. Nghe ngóng một chút, biết chắc là trong phòng kho chỉ có một mình chàng, Văn Bình bèn rút đèn bấm giắt ở túi áo trên lia xuống đất thành hình cánh cung. Dưới tia sáng xanh, chàng nhẩm đọc những giòng chữ Anh văn ghi trên mặt cạc tông. Đống hộp cạt tông này chứa toàn thực phẩm. Sợ nhãn bên ngoài có tính cách giả dối, chàng bưng một hộp xuống, mở nắp, chiếu đèn bấm lục soát. Đây là hộp nước ngọt.
Chàng mở thùng khác. Cũng là thùng đồ ăn.
Chàng đi vòng khắp nhà kho, lần lượt mở nhiều hộp cạt tông. Song chàng không tìm thấy hộp nào đựng dụng cụ điện tử. Võ khí nguyên tử được tháo rời có thể đựng gọn trong hộp nhỏ. Tuy nhiên, căn cứ vào sức nặng của mấy chục hộp nâng trên tay, chàng kết luận là phòng kho chỉ chứa thực phẩm.
Vậy Dixon cất giấu võ khí nguyên tử ở đâu?
Hỏa tiễn nguyên tử không phải là cái máy chữ hoặc máy may, muốn vứt ở đâu cũng được. Nếu có, hắn bắt buộc phải cất giấu trong phòng kho khóa chặt ngày đêm sau cửa thép không thấm nước này. Văn Bình tần ngần 1 phút trước khi bước ra. Bên ngoài vẫn vắng tanh.
Chàng đóng cửa lại cẩn thận, rồi men theo hành lang về phía cuối tàu. Đến phòng ngủ chung của thủy thủ, thấy cửa mở hé, chàng bèn đứng lại, nép vào vách sắt, nghe ngóng. Sau vách, mọi vật đều im lặng. Chàng đánh bạo thò đầu qua khe cửa.
Và chàng giật mình đánh thót.
Trong nhà ngủ không có ai hết.
Chàng thừ người nhìn những cút sét còn ngay ngắn, chứng tỏ đêm nay không có người nằm. Chàng mở cửa tủ đựng mền mùng và quần áo: bên trong hoàn toàn trống rỗng. Như vậy nghĩa là thủy thủ đã rời khỏi du thuyền Bồng Lai. Tuy nhiên, họ rời khỏi du thuyền Bồng Lai để đi đâu? Chàng có cảm tưởng bị chơi một vố đau điếng. Trong khi chàng còn rềnh rang trên tàu Bồng Lai, Dixon đang ung dung bốc rỡ võ khí nguyên tử rồi cũng nên.
Hoảng hồn, chàng trèo vội lên boong. Dãy đèn ngũ sắc vẫn hấp háy như người ngái ngủ. Chàng tuột theo sườn tàu xuống nước, ngụp sâu xuống rồi trồi lên, bám lấy thành ca nô. Si Thoeng đang ngồi đợi chàng sau vô lăng. Ca nô rú máy nhè nhẹ rồi rẽ nước trở về trung tâm thành phố. Xa xa, phương trời phía đông bắt đầu lóe sáng.
Si Thoeng dựa vào vai Văn Bình:
- Công việc của anh xong chưa?
Chàng lơ đãng nhìn mặt nước đen ngòm:
- Chưa.
- Bây giờ anh về khách sạn nhé?
- Ừ.
Chiếc xe hơi bít bùng chở hàng vẫn đậu nguyên ở chỗ cũ. Tài xế mở đề ma rơ không nói nửa lời. Về đến gần đường Silom, Văn Bình mới hỏi Si Thoeng:
- Anh vào bằng cửa trước tiện không?
Nàng khoát tay:
- Chẳng sao cả. Anh là khách trọ kia mà. Du khách ghé thăm Vọng Các thường đi chơi đến gần sáng mới về phòng. Vả lại, giờ này dưới nhà chỉ có một người gác cửa. Em là phụ tá quản lý, anh đi với em không ai dám nghi ngờ đâu.
Tài xế bỗng mở miệng:
- Theo tôi thì không nên vào bằng cửa trước.
Si Thoeng có vẻ bất bình:
- Tại sao?
Tài xế chậm rãi đáp:
- Vì bọn vệ sĩ của ông Dixon đứng đầy nhà dưới suốt ngày đêm. Chẳng qua họ sợ bà Akita bị bắt cóc đòi chuộc tiền. Tôi tin là họ đang chờ ông trong khách sạn.
Si Thoeng trố mắt nhìn gã tài xế thân thuộc:
- Ai nói mà bác biết?
Tài xế sửa lại gọng kiếng trắng trễ xuống mũi:
- Hồi nãy tôi bắt gặp hai tên thủy thủ trò chuyện với nhau. Một tên phàn nàn là buồn ngủ ríu cả mắt mà thuyền trưởng vẫn bắt thức, thì tên kia đáp là thà buồn ngủ ở trên tàu còn hơn đi. Tên thứ nhất hỏi “Đi đâu”, tên thứ hai bèn cười rộ và nói “Hừ, óc máy đặc sệt như đất sét, ông chủ mới dặn mà mày đã quên, đi về phía nam vịnh Xiêm La, chứ còn đi đâu nữa, hả thằng nhãi ranh”.
Gã tài xế bớt dần ga xăng. Văn Bình hỏi hắn:
- Ông vừa nói bọn họ đợi tôi trong khách sạn. Tuy vậy, ông lại nhắc đến chuyện khác.
Gã tài xế “à” một tiếng như để xin lỗi, rồi nói một hơi:
- Phải, phải. Tôi vốn có tính râu ông nọ cắm cằm bà kia như vậy đó. Một thằng nhiếc mắng bạn là nhãi ranh, thằng kia liền phản đối “đúng, tao là nhãi ranh mà ông chủ ra lệnh cho tao ở trên tàu để đề phòng hắn tới”. Hắn văng tục rồi nói tiếp “nếu không có nhãi ranh như tao thì bọn mày sẽ bị hắn ăn gỏi”. Tên nọ cười khà khà “trừ khi hắn là ba đầu sáu tay mới lọt được vào du thuyền, mày hiểu chưa? Ông chủ sợ hắn bén mảng đến khách sạn nên cho bọn vệ sĩ cừ khôi túc trực đêm nay ở đó”. Câu chuyện giữa hai tên thủy thủ bị ngưng vì thuyền trưởng đi tới. Vả lại, cũng đã đến giờ ra về.
Si Thoeng đập vai gã tài xế:
- Cám ơn bác nhé!
Gã tài xế cho cần số vào tử điểm, thắng xe lại nhìn quanh quất một hồi, rồi nói với Văn Bình:
- Tôi là bạn thâm niên của gia đình bà Si Thoeng. Ông cần gì, tôi xin giúp. Vào địa vị ông, tôi sẽ không quay lại lữ quán Rama nữa. Nhưng nếu ông có công việc hệ trọng phải quay lại để hoạt động thì đó là quyền ở ông, tôi không dám lạm bàn. Tuy nhiên, một lần nữa, tôi xin đề nghị ông nên đi vào bằng cửa hông.
Văn Bình tỏ dấu ngạc nhiên:
- Hai bên đều là tường thì làm gì có cửa hông?
Tài xế đáp:
- Cạnh lữ quán Rama có một văn phòng công ty xuất nhập cảng. Nhân viên chỉ làm việc ban ngày, từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Sau giờ này, trụ sở được khóa bên ngoài và bên trong không có người gác. Ông nên đi xuyên qua văn phòng, trèo lên lầu rồi nhảy sang cầu thang trôn ốc cấp cứu của khách sạn. Năm ngoái, một ông khách mang nhân tình đến ở chung phòng bị bà vợ cả rình bắt được, song thừa phát lại khệnh khạng chưa lên phòng kịp để làm biên bản thì cô gái cắm sừng đã nhanh chân thót vào cầu thang bê tông trôn ốc, vọt sang sân thượng văn phòng xuất nhập cảng, và biến mất.
Văn Bình mở cửa xe. Si Thoeng nắm tay chàng:
- Anh đi tìm Dixon, phải không?
Chàng gật đầu. Nàng nói tiếp:
- Dixon rất giỏi võ, anh nên coi chừng. Bên người hắn lúc nào cũng có vệ sĩ. Tuy nhiên, em không sợ anh thua Dixon. Mà chỉ sợ anh thua người yêu của hắn thôi.
- Akita giỏi võ hơn Dixon sao?
- Hừ, anh lại giả bộ ngu si rồi. Cô nhân tình của Dixon không biết miếng võ nào, song lại đủ tài đánh ngã anh.
Văn Bình tát nhẹ vào má nàng:
- Thắng anh khó lắm, em ơi!
Chàng nhảy nhẹ xuống nệm cỏ. Tài xế lái xe ra giữa đường. Văn Bình theo đúng lời dặn của gã tài xế, đến một hàng hiên lớn thì dừng lại. Giờ này chàng không lo ngại mấy vì địch khó thể bám phía sau. Trên đại lộ vắng tanh, chỉ có một mình Văn Bình. Văn phòng xuất nhập cảng là một tòa nhà thấp, xây tường kín mít vì gắn máy điều hòa khí hậu, ra vào bằng một cửa kiếng duy nhất. Chàng bấm đèn pin, quan sát ổ khóa. Chàng mỉm cười đắc ý vì ổ khóa này không thuộc loại khóa đặc biệt. Chỉ 1 phút đồng hồ sau, chàng đã mở được cửa, lẻn vào trong văn phòng. Một mùi thơm hăng hắc xông vào mũi chàng. Khứu giác của chàng rất nhạy cảm nên chàng biết đó là mùi thuốc tô móng tay. Nghĩa là hãng xuất nhập cảng có nữ thư ký, và là nữ thư ký khá đẹp, chuyên làm đỏm trong giờ làm việc. Bất giác chàng nhớ đến Nguyên Hương. Giờ này chắc nàng ngủ dậy. Trong thời gian gần đây, công việc quá bề bộn nên nàng phải ngủ đêm luôn tại văn phòng. Lệ thường, nàng ngồi trước máy chữ điện tử IBM đến nửa đêm, và chỉ chợp mắt 3, 4 tiếng đồng hồ. Trời chưa hừng sáng thì nàng đã phải trở lại bàn giấy vì ông Tổng giám đốc ngủ sau nàng và tỉnh dậy trước nàng. Ban chuyên môn của Sở đã chế tạo riêng cho nàng một cái giường sắt, đúng kích thước chiều dài của nàng. Giường được gắn giấu trong tủ đựng hồ sơ, bấm nút điện ở bàn thì cánh cửa tủ dạt sang bên, cái giường từ từ nằm ngả xuống. Trên giường có tiện nghi đầy đủ, nào nệm hơi, mền hơi, tất cả đều bằng ni lông dày màu xanh mát mắt, và được thổi phồng bằng hơi tự động. Loại giường nệm này được chế tạo theo công thức mới [1], hiện được ưa chuộng ở tây phương.
Cái giường bơm hơi của Nguyên Hương còn tiến xa hơn các dụng cụ ni lông tây phương một bực. Đó là nó có thể ấm lạnh theo mùa, và theo ý thích. Trời nóng, chỉ bấm cái nút nhỏ là hơi lạnh tỏa ra. Nằm trên giường có cảm giác như được quạt mát. Còn trời lạnh thì giường nệm sẽ biến thành máy sưởi êm ấm.
Một trong những việc đầu tiên của Nguyên Hương khi trở dậy buổi sáng là mang bộ đồ nghề trang điểm ra. Bắt đầu là gọt rũa, tô móng tay. Nàng sửa soạn sắc đẹp một cách trịnh trọng, không khác nhà tu hành ngồi đọc kinh trước bàn thờ. Mỗi khi đến thăm nàng buổi sáng, chàng đều ngửi thấy mùi sơn móng tay hăng hắc. Trong lúc đói bụng, mùi thơm khó chịu này có thể làm chàng lợm giọng. Song chàng không dám phàn nàn với Nguyên Hương vì nàng sẽ dẩu mỏ mà nói:
- Phải, em biết mà. Mùi sơn móng tay của em làm anh buồn mửa, mặc dù là thứ thuốc tốt nhất, em đặt mua bên Mỹ. Mùi sơn móng tay của người khác thơm tho lắm, phải không anh?
Giá chàng nín lặng không đáp, nàng sẽ tấn công tiếp:
- Phải, em biết mà. Bất cứ cái gì của em cũng làm anh buồn mửa. Cả mối tình của em cũng làm anh buồn mửa.
Hôm nay, Văn Bình mửa thật sự. Bây giờ chàng mới nghiệm thấy các nhà triết học đã nói đúng về đàn bà muôn thuở. Có lẽ giới sản xuất sơn móng tay quốc tế đã cố tình pha mùi thơm lợm giọng để cảnh cáo đàn ông, để bảo cho bọn đực rựa biết rằng sắc đẹp là... thế đấy: thơm vẫn thơm, nhưng có thể làm nôn ọe. Ấy là chưa kể đến một số công dụng khác của móng tay giai nhân, chẳng hạn cấu xé đàn ông,...
Văn Bình xô cửa hành lang.
Mùi sơn móng tay không còn nữa nhưng chàng lại ngửi một mùi khác. Mùi cà phê pha buổi sáng. Chàng không ưa điểm tâm bằng cà phê, song chàng vẫn khoái ngồi một mình trước cái phin lọc cà phê đặt trên ly thủy tinh trắng trong, bâng khuâng ngắm những giọt nước màu nâu sẫm từ từ thánh thót rơi xuống kêu lanh tanh, trong khi hương thơm cà phê rang vừa chín tỏa rộng khắp phòng, quyện vào không khí nhẹ nhõm rạng đông, thâm nhập lục phủ ngũ tạng. Ngửi mùi cà phê, Văn Bình biết là nhà bếp của khách sạn Rama ở sát vách. Văn phòng xuất nhập cảng có một cái sân nhỏ ở cuối hành lang. Chàng rún mình bám lấy máng xối trèo lên mái nhà dễ dàng.
Ngay cạnh mái nhà là một cánh cửa sắt xếp. Văn Bình dùng sợi thép cứng nhỏ để mở khóa. Cũng may cầu thang cấp cứu chỉ dành riêng cho công nhân mỗi khi bắt điện hoặc sửa chữa ban ngày nên không có đèn sáng. Ánh sáng nê ông từ bên dưới chiếu hắt lên.
Văn Bình đang ở lầu nhất. Tầng trên được dành riêng cho gia đình tỉ phú Dixon. Theo lời Si Thoeng thuật lại thì Dixon mắc một chứng bệnh kỳ lạ: bệnh ở sát mặt đất. Mỗi khi lưu lại khách sạn, hắn đều thuê phòng ở lầu nhất hoặc lầu nhì, chứ không bao giờ ở lầu ba. Dixon và bọn vệ sĩ không dùng thang máy nên cầu thang xi măng được chặn lại. Một vệ sĩ ngồi chềnh ềnh dưới nhà, cấm người lạ đặt chân lên. Một tên khác ngồi gác ở lầu nhì.
Văn Bình trèo cầu thang xi-măng lên lầu nhì. Chàng bước rón rén, cốt không cho tên gác nghe thấy. Tên gác trạc 25 tuổi, dường như là người Tàu, vai dầy, ngực nở, mặt bị thịt. May thay hắn đang quay lưng về phía Văn Bình. Mùi thơm tỏa ngát. Văn Bình suýt buột miệng. Vì hắn cũng hút thuốc lá Salem thơm mùi bạc hà như chàng. Tuy không nói ra, chàng vẫn có thiện cảm giang hồ đối với những đệ tử của khói bạc hà. Vạn bất đắc dĩ chàng mới ra tay quật ngã đối phương đang rít hơi thuốc Salem khoái khẩu. “Trời đánh còn tránh bữa ăn”, Văn Bình coi việc hút thuốc - nhất là hút thuốc Salem - cũng trịnh trọng như ăn. Bản chất chàng lại cao thượng, không bao giờ đánh sau lưng nên chàng đành đứng lại. Chàng chỉ tấn công nếu tên gác ngoảnh mặt về phía chàng... Cái tác phong cao thượng ấy thường bị ông Tổng giám đốc lôi ra làm đề tài kiểm thảo. Là điệp viên già dặn trong nghề, Văn Bình đã hiểu sự tai hại nhiều khi không thể tha thứ được của thái độ “quân tử tàu”. Vậy mà lần nào cũng vậy, chàng vẫn quân tử tàu với địch.
Trong cuộc đời hành động, chàng đã hút chết cả chục lần vì đa mang truyền thống quân tử tàu. Tuy nhiên, lần hút chết đáng nhớ nhất lại làm chàng hãnh diện nhất. Vì lần ấy, chàng đã chiếm được trái tim người đẹp. Nàng là Mộng Kiều, một trong những người bạn lòng gần gũi chàng nhất. Sau chuyến gặp gỡ ấy, nàng quyết dâng hiến trọn đời tâm hồn và thể xác cho điệp viên hào hoa Z.28 mặc dầu nàng biết chàng không thể lấy nàng làm vợ hoặc ít ra sống chung với nàng với tư cách vợ chồng không hôn thú.
Hồi ấy, Mộng Kiều là đóa hoa dạ lạc thơm nhất của Cảng thơm. Tuy danh tiếng vang dậy như cồn, đóa hoa xuân sắc vẫn chưa có chủ. Ong bướm dập dìu quanh năm suốt tháng nhưng nàng không để ý vì lòng nàng còn hằn sâu vết thương gia đình tan nát. Cha nàng chết sớm vì kinh doanh lỗ lã. Mẹ nàng bỏ con gái đi lấy chồng khác vì ngày xưa bà là ca kỹ. Lớn lên, Mộng Kiều cũng sống nghề ca kỹ, nhưng quyết không noi gương xấu của mẹ. Nàng quyết đóng chặt cửa lòng, quyết chẳng yêu ai, và nếu yêu ai thì quyết chung thủy. Vì vậy Mộng Kiều vẫn phòng không lẻ bóng khi gặp Văn Bình trên tình đảo Hồng Kông. Chàng lọt vào mắt xanh của người đẹp ngay đêm hạnh ngộ đầu tiên.
Nhưng điều này làm nhiều người bất bình. Họ bất bình rất chính đáng vì có những vương tôn công tử tung ra hàng ngàn, hàng vạn đôla để mua chuộc cảm tình của nàng sau nhiều tháng mà nàng vẫn dửng dưng trong khi một kẻ cha căng chú kiết từ phương xa tới lại hớt tay trên chỉ sau một đêm ngắn ngủi tại vũ trường. Bọn thất tình bèn thuê võ sĩ triệt hạ Văn Bình. Đấu võ để giành người đẹp vốn là chuyện cơm bữa đối với Văn Bình nên chàng không e ngại. Vũ trường sửa soạn đóng cửa, chàng đón nàng ra về thì biến cố xảy ra. Biến cố này xảy ra một cách êm lặng nhưng chứa đầy chết chóc. Một gã mặc dạ phục màu trắng, thắt nơ đen sang trọng đợi chàng ngay trước cửa với bức thư khổ lớn, đánh máy trên giấy trắng tinh. Nội dung như sau:
“Tiên sinh nhã giám,
Chúng tôi xin biếu tiên sinh một cái vé phi cơ để rời Hồng Kông ngày mai. Tiên sinh chỉ có thể lưu lại nếu đêm nay hạ được đại diện của chúng tôi trên võ đài.
Mộng Kiều sẽ là trọng tài quyết định. Tiên sinh hỏi nàng và sẽ biết chúng tôi là những người tôn trọng lời cam kết”.
Bức thư không có chữ ký. Chàng đưa cho nàng đọc, và nàng tái mặt. Giọng nàng đượm vẻ van lơn:
- Thôi, anh nên rời Hồng Kông đi.
Văn Bình mỉm cười, xé lá thư ra làm tám mảnh, ném xuống đất. Mộng Kiều run lẩy bẩy:
- Đừng anh, anh không chống lại được đâu. Họ vừa thuê được một nhóm Sơn Đông mãi võ mạnh lắm.
- Họ là ai?
- Anh không quen họ đâu. Họ là những tay ăn chơi giàu bạc triệu ở đây. Ai cũng biết tiếng và khiếp vía. Ai đụng đến họ cũng bị điêu đứng.
- Họ mê em?
- Vâng, làm nghề ca kỹ như em thì được đàn ông mê là việc rất thường.
- Nhưng ít khi anh thấy một ca kỹ được các nhà tỉ phú mê như điếu đổ mà lại từ chối.
- Em không giống các ca kỹ khác.
- Anh cũng vậy, anh cũng không giống bọn đàn ông nhát như thỏ đế khác.
- Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh đấu với một võ sĩ trong bọn Sơn đông cũng vị tất thắng nổi, huống hồ cả bọn! Thôi, anh đi đi. Nếu trời còn cho em sống sót, thế nào em cũng tìm gặp lại anh.
- Anh hỏi em câu này nhé: tại sao họ có quyền thế lớn lao như vậy mà em không sợ?
- Em là đứa con gái không khi nào biết sợ.
- Thì anh là thằng con trai cũng không khi nào biết sợ.
Mộng Kiều thở dài không nói thêm nữa. Gã mặc dạ phục trắng cúi đầu, giọng cung kính:
- Kính mời tiên sinh lên xe.
Văn Bình khoan thai trèn lên xe Rolls Royce rộng thênh thang. Không khí được điều hòa mát rợi. Tài xế đội cát kết trắng, vận đồng phục trắng. Dọc đường, Mộng Kiều ngồi im, mắt bâng khuâng nhìn vào khoảng không. Khi đến nơi, nàng dúi vào tay chàng khẩu súng lục nhỏ, kèm theo lời dặn thân thương:
- Anh yêu, giữ kỹ cái này đi.
Văn Bình thản nhiên bỏ khẩu súng vào túi. Bọn tình địch gồm ba đại thương gia người tàu. Họ tiếp chàng theo luật giang hồ nghĩa là vô cùng lễ độ, mặc dầu lát nữa họ sẽ giết chàng. Họ cử một võ sĩ Sơn đông ra đấu với chàng song chàng lắc đầu từ chối, đòi được đấu với cả nhóm mãi võ. Họ phá lên cười, cho chàng là người điên. Chàng trả lời bằng cách tóm lấy đầu tên võ sĩ đầu tiên đứng gần chàng nhất, và ném vào tường. Cả bọn ùa vào tấn công chàng. Chàng không cho tên nào đánh chàng được một cái. Hễ bén mảng đến tầm tay chàng là bị ngọn thần cước của chàng đá ngã chổng kềnh. Chàng chỉ xử dụng một chân, còn hai tay thì chắp sau lưng, nhàn nhã như đùa bỡn với con nít. Tuy vậy, chỉ trong loáng mắt cả bọn Sơn đông mãi võ vai u thịt bắp từng được coi là vô địch đã bị Văn Bình quất sụm, bò lê bò càng trên nền nhà.
Sau khi cả bọn Sơn Đông bị đại bại, Văn Bình khoác tay Mộng Kiều trở ra ngoài.
Và chàng suýt mất mạng.
Số là một tên vệ sĩ giả vờ quay lưng để rút súng, Văn Bình có thể dùng khẩu súng của Mộng Kiều cất trong túi, song lại đối phó bằng tay. Vì chàng không muốn bị người đẹp chê cười. Đúng ra với tay không, chàng vẫn có thể đoạt súng của địch. Nhưng vì tự ái hão, chàng lại chờ địch nhắm bắn mới phản ứng. Văn Bình phản ứng chậm hơn dự tính một phần trăm tích tắc đồng hồ. Viên đạn vèo qua màng tang làm xạt một mảng tóc. Địch chưa kịp bắn phát thứ hai thì chàng đã phi thân lên không trung, đá văng khẩu súng và khi gần rớt xuống đất lại nhảy lên lần nữa, dùng gót chân hạ đo ván tên võ sĩ cầm đầu đang hầm hè đứng dậy.
Cuộc biểu diễn võ nghệ tuyệt luân của điệp viên Z.28 đã làm ba đại thương gia tàu bàng hoàng. Họ xếp hàng chữ nhất trước mặt chàng, và vái dài chịu thua. Và chàng đoạt được Mộng Kiều.
Chàng về Sàigòn một mình. Một thời gian sau, nàng bỏ Hồng Kông về Sàigòn lập nghiệp. Mỗi khi về Sàigòn, chàng thường đến ở với nàng.
Hôm nay trên lầu nhì của lữ quán Rama, Văn Bình cũng rụt rè khi thấy tên gác quay lưng lại. Nhờ tập luyện Thần Ảo công, chàng đặt chân lên bậc thang xi măng không gây ra tiếng động, dầu là tiếng động rất nhỏ. Tên gác vẫn say sưa với điếu Salem mới hút một phần ba. Đột nhiên hắn ném điếu thuốc xuống sàn gác, miệng càu nhàu. Và hắn nhìn thấy Văn Bình. Dường như hắn được lệnh chờ chàng, và tấn công không cần báo trước nên vừa thấy chàng, hắn liền rút phăng khẩu súng trái khế đeo ở thắt lưng ra bắn. Phát súng nổ bộp một tiếng như tiếng giày da dẫm lên trái cây phơi khô. Một luồng khói xanh tỏa ra. May thay, Văn Bình ngã người vào tường nên luồng khói không trúng mặt. Chàng hoảng hồn vì biết nó là đạn thuốc mê.
Có lẽ đó là đạn BZ [2].
Chàng vội phi thân vượt qua năm bậc thang cuối cùng còn lại. Chân chưa chạm đất, chàng lại vọt lên để tránh viên đạn thứ hai. Tên gác luống cuống lùi lại một bộ, sửa soạn bắn tiếp. Nhưng hắn chưa phải là xạ thủ nhiều kinh nghiệm trận mạc cũng như kỹ thuật tác xạ nên đã biến thành cái mikioara cho Văn Bình tập đá. Chàng phóng ngọn cước chân trái, tên gác lãnh đòn vào giữa ngực, lộn ngược vào lan can cầu thang. Chàng lôi hắn dậy, kéo sềnh sệch vào gian phòng đối diện cửa mở hé.
Ngay khi ấy một tên gác thứ hai lớn như con bò mộng từ trong phòng chạy vụt ra. Trên tay hắn cũng lăm lăm khẩu súng BZ nòng dài ngoằng, đầu gắn ống hãm thanh do Tiệp khắc chế tạo, một trong các ống hãm thanh tối tân nhất thế giới. Song Văn Bình đã buông tên gác thứ nhất, hoành tay gạt khẩu súng đang chĩa vào người chàng. Chàng đoạt khí giới một cách dễ dàng. Khẩu súng bị đổi chủ trong nháy mắt. Chàng phản công nhanh đến nỗi đối phương không kịp lảy cò bắn viên đạn phủ đầu nữa. Tuy nhiên, Văn Bình phải mất hai phút đồng hồ mới triệt hạ được hắn, vì nếu kém về tác xạ, hắn lại giỏi về quyền thật. Hai phút đồng hồ khi ấy đối với Văn Bình dài dằng dặc như thể hai giờ đồng hồ. Chàng phải thanh toán thật mau vì sợ Dixon còn nhiều tên gác khác, sẵn sàng can thiệp. Văn Bình vận dụng các thế võ hiểm độc nhất để quật hắn ngã. Hắn xòe tay đánh atémi với hy vọng hạ chàng. Chắc hắn là thuộc viên cừ khôi của Dixon, có nhiệm vụ ở hậu tập khi tên gác ở trên cầu thang bị thất trận mới ra mặt.
Nhưng Dixon đã tính sai bản lãnh của điệp viên Z.28. Chàng đã đánh ngã các võ sư lợi hại nhất của Smerch, Quốc tế Tình báo Sở, không lẽ lép vế trước bọn thuộc viên vô danh tiểu tốt của gã trùm buôn súng lậu. Một cú đá sấm sét quật tên gác nằm sóng soài trên đất. Khối thịt nặng trên một tạ của hắn kêu ình một tiếng lớn, làm vỡ một mảng gạch men và đẩy toang cửa phòng đối diện. Con heo sung sức bị thọc huyết cũng không kêu lớn như hắn với hàng loạt tiếng “trời đất ơi, cha mẹ ơi” liên tiếp. Văn Bình tiến lên, dẫm chân vào mặt hắn. Hắn câm miệng, nằm thẳng đơ, tay và chân duỗi ra thành hình chữ thập.
Văn Bình nhận thấy mình quá tàn nhẫn. Tuy nhiên, sự day dứt chỉ thoảng qua trong lòng chàng. Trong hoàn cảnh nguy biến, chàng không có quyền đối xử bằng tình nhân đạo như khi biểu diễn võ thuật trong xa lông.
Phòng của Dixon và Akita gồm bốn phòng nhỏ ăn thông với nhau. Ra vào chỉ có một cửa duy nhất. Người lạ bén mảng tới sẽ như cá vào trong rọ. Tuy là tay tỉ phú, Dixon lại trang hoàng một cách giản dị, đồ gỗ toàn bằng gỗ song uốn theo kiểu Phi Luật Tân, đệm và ghế đều một màu xám nhũn nhặn. Trong phòng khách không có đồ đạc đáng giá, ngoại trừ bức tranh treo trên tường quét vôi trắng toát. Nhìn qua, Văn Bình giật mình. Vì đó là bức “đầu thiếu nữ” vẽ cái đầu của một thiếu nữ đeo bông tai ngọc trai (được mệnh danh là La Joconde Bắc Âu) của danh họa Hòa Lan Johannes Vermeer (1632 - 1675). Tính theo thời giá, bức tranh này phải tới một triệu rưỡi đô-la Mỹ.
Văn Bình đi khắp bốn căn phòng. Chàng ra ngoài hành lang, lục lọi các phòng khác. Tất cả đều vắng lặng. Dixon và Akita đã biến mất như làn khói. Họ đi đâu? Văn Bình phải tìm ra giải đáp. Nội một việc bức họa “đầu thiếu nữ” được để lại đủ chứng tỏ Dixon có quá nhiều tiền, nhiều đến nỗi một, hai triệu đô-la chỉ là vô nghĩa. Thoạt đầu, Văn Bình nảy ra ý định kê ghế, trèo lên gỡ bức họa. Chàng vốn ghét ăn trộm, nhưng Sở đang thiếu tiền, bức tranh này có thể mang về một món tiền lớn, ông Hoàng tha hồ xử dụng cho mục đích chung. Nhưng sau 1 phút suy nghĩ, chàng nhún vai bước vào buồng tắm.
Một vật quen thuộc đập vào mắt chàng. Chàng khựng người 1 phút.
Vật này là một cái hộp nhỏ cạt tông màu trắng hung, in chữ Merinax màu xanh bên ngoài. Người ít ngủ, tim đập mạnh, thường cảm xúc vô cớ hay dùng Merinax vì nó tác dụng an thần. Trong những năm gần đây, tiến bộ cơ khí vượt bực đã làm thần kinh nhân loại luôn luôn căng thẳng. Số đàn ông và đàn bà, nhất là đàn bà tìm sự phẳng lặng tâm hồn trong thuốc an thần mỗi ngày một đông. Hàng năm, Âu Mỹ tiêu thụ đến chục tấn thuốc an thần. Vì vậy, hộp thuốc an thần do hãng dược phẩm Labaz của Pháp bào chế được đặt trong tủ thuốc buồng tắm của nhà tỉ phú Dixon không phải là chuyện đáng kinh ngạc. Giới tỉ phú vốn là giới dùng nhiều thuốc an thần hơn cất cứ giới nào khác.
Tuy vậy, Văn Bình lại kinh ngạc.
Vì hộp thuốc Merinax tầm thường này có nhiều mối liên hệ tình cảm sâu xa với chàng. Cách đây không lâu, chàng đã thấy nó tại Đài Loan. Tâm trí bần thần, chàng lẩm bẩm:
- Hay là...
Chàng không kịp nói dứt câu thì im bặt. Vì có tiếng động nhẹ ở cửa buồng tắm. Linh tính nghề nghiệp báo hiệu nguy hiểm ghê gớm đã tới. Chàng không quay lại - vì biết quay lại sẽ làm mất của chàng vài giây đồng hồ quý báu - mà lại nhoài người sang bên trái. Chàng đụng vào cửa kính buồng tắm kêu rầm một tiếng. Nhưng chàng vẫn nghe được tiếng “phựt” sau lưng. Viên đạn nhắm vào người chàng là một hòn bi nhỏ xíu, nhỏ bằng một phần tư hòn bi thủy tinh nhiều màu mà trẻ con thường chơi. Nó được sơn màu trắng, và được chế tạo bằng một loại thép riêng. Nó khác bi của trẻ con ở chỗ nó có cái đuôi xòe ra bốn cánh giống như đuôi hỏa tiễn, còn đầu nó thì thun lại, biến hòn bi thành chiếc tên bé tí hình bầu dục.
Nghe âm thanh và sức xuyên phá của hòn bi thép vào tường, Văn Bình biết nó là một thứ đạn mới do Đông Đức chế tạo. Trước đây, phản gián Smerch sô viết đã chế tạo đạn bi cho nhân viên chìm xử dụng để ám sát đối phương, song đạn bi này chưa được hoàn toàn chính xác. Bắn trong vòng 2, 3 thước, nó dễ trúng mục đích. Nhưng bắn xa hơn, đạn thường lạc khỏi mục tiêu. Mặt khác, nó lại xuyên phá rất yếu. Tình báo Đông Đức gắn thêm vào đuôi hòn bi bốn cánh hỏa tiễn khiến tầm bắn được nới xa hơn, sức xuyên phá lại mạnh hơn. Tuy nhỏ xíu, nó có thể giết chết con voi khổng lồ bằng một phát vào tim hoặc vào óc.
Khẩu súng bắn đạn bi lại rất giản dị. Gồm nhiều bộ phận tháo rời dễ dàng. Điệp viên muốn giấu súng ở đâu cũng được. Thường thường nó được giấu trong ống tẩu. Trông ống tẩu ngất ngưởng trên miệng, ai cũng đinh ninh là tẩu Dunhill, loại tốt nhất thế giới, vì điệp viên có thể nhồi thuốc vào nồi píp, châm lửa và thở khói đàng hoàng. Nhưng khi động dụng, điệp viên chỉ cần tháo ống tẩu ra làm ba khúc, vặn vít lại với nhau là biến thành khẩu súng. Bỏ viên đạn bi vào miệng súng, bấm nút là viên đạn bi bắn vọt ra, bách phát bách trúng. Khi bắn ra, nó gây ra tiếng “phựt” khô khan, như mũi tên được bắn đi bằng ná.
Bắn đạn bi sau lưng, không thông báo trước cũng như không xuất đầu lộ diện, rõ ràng là đối phương chỉ nghĩ đến triệt hạ chàng, triệt hạ bằng mọi phương pháp. May thay, chàng đã tránh né được viên đạn thứ nhất. Địch phải bỏ hòn bi thứ hai vào nòng mới bắn tiếp được. Nên tích tắc đồng hồ trọng đại ấy đã được chàng khai thác triệt để. Chàng đâm nhào ra phía ngưỡng cửa.
Kẻ cầm súng lục bắn đạn bi là một thanh niên trạc 30, râu quai nón xồm xoàm, da ngăm ngăm, có lẽ người Thái. Bị phản công thần tốc và đột ngột, hắn lãnh đủ cú húc vào ngực. Cái đầu cứng như bê tông cốt sắt của điệp viên Z.28 húc hắn ngã lộn vào khung cửa buống tắm trước khi nhào xuống. Văn Bình lôi hắn dậy. Hắn toan vung quyền đánh trả thì chàng đã dùng ngón tay trỏ điểm vào huyệt tê gần nách. Cánh tay hắn đang cử động nhanh nhẹn bỗng thành nặng chình chịch như đeo tạ trăm cân. Hắn thở dài, ngã phịch xuống, đầu cụng vào khung cửa kêu cốp.
Văn Bình điểm vào huyệt đỉnh đầu đối phương. Hắn kêu đau oai oái:
- Đau quá, đau quá, trời ơi!
Chàng cười nhạt, hỏi:
- Muốn hết đau không?
Hắn rên rỉ:
- Muốn. Thưa ông, tôi chỉ là tay sai.
- Ông chủ của mày đi đâu?
- Ông chủ nào?
- Dixon. Hừ, mày định kéo dài thời giờ để đồng bọn đến cứu, phải không?
- Tôi đâu dám. Thưa ông, để tôi nói. Ông chủ đã xuống tàu cách đây hai giờ, dặn chúng tôi ở lại đợi ông.
- Biết rồi. Dixon xuống tàu đi đâu?
- Sawan.
- Sawan là ở đâu?
- Là ở...
Nói được nửa chừng, hắn bỗng ngậm miệng. Dường như hắn định cung khai thành thật để đổi lấy mạng sống nhưng một mãnh lực vô hình song ghê gớm đã hiện ra, chặn họng hắn lại. Dixon không có mặt trong khách sạn mà vẫn như lẩn quẩn quanh đây.
Văn Bình thúc giục:
- Còn rềnh rang gì nữa, Sawan là ở đâu?
Vừa nói, chàng vừa chĩa ngón tay, từ từ dí vào chỗ trũng ở bả vai đối phương. Chàng tưởng hắn phải nói, nói để khỏi bị điểm huyệt. Từng bị điểm huyệt và từng quan sát phản ứng của người điểm huyệt, Văn Bình đã biết rằng điểm huyệt là một trong những môn tra tấn tinh vi và đắc lực nhất. Công an Gestapo của Đức quốc xã đã phát minh một số kỹ thuật tra tấn tàn bạo trong thế chiến thứ hai, nhắc lại ai ai cũng rùng mình rợn tóc gáy. Nhưng so với kỹ thuật của KGB sô viết thì mới là một vực, một trời. Mật vụ sô viết đã biến tra tấn thành một bộ môn khoa học, có phòng thí nghiệm tối tân, có trường sở huấn luyện và cấp bằng tốt nghiệp từ sơ đẳng đến cao đẳng. Tuy nhiên, khoa học tra tấn của mật vụ sô viết còn thua phép tra tấn bằng điểm huyệt. Những kẻ lì lợm nhất cũng trở thành ngoan ngoãn nhất dưới công dụng của atémi đánh vào huyệt đau.
Tên râu quai nón há hốc miệng khi thấy ngón tay vuông vức của Văn Bình chạm nhẹ vào xương đòn gánh. Sự sợ hãi ghê gớm đọc rõ trên mặt hắn. Nhưng hắn chỉ mở mắt nhìn chàng một cách khổ sở rồi nhắm lại. Chàng nhắc lại câu hỏi, kèm theo lời hăm dọa:
- Mày không nói, bắt buộc tao phải tiếp tục điểm huyệt... Đừng trách tao tàn nhẫn, nghe chưa?
Chàng ấn ngón tay xuống da thịt. Trong thâm tâm, chàng không muốn hạ độc thủ. Bị điểm vào huyệt vai, nạn nhân sẽ khó tránh khỏi tê bại. Sau này được bình phục, nạn nhân sẽ mắc chứng nhức đầu và phong thấp kinh niên. Ban đêm đầu nhức như búa bổ. Mỗi khi trở trời thì tay chân rời rã như bị đánh dập nát.
Chàng chỉ điểm huyệt giả vờ để gây áp lực của đối phương. Nhưng tên râu quai nón đã đánh ván bài thục mạng. Thừa cơ chàng nhân nhượng, hắn vùng dậy, 10 ngón tay đâm tua tủa vào giữa mặt chàng. Thế võ này rất tầm thường, quyền Việt, quyền Tàu, quyền Nhật đều có. Võ sinh nào cũng biết, nhưng nó rất lợi hại. Biết cách đánh, nó có thể gây trọng thương hoặc làm táng mạng dễ dàng. Têm râu quai nón đã tốn nhiều công phu tập luyện, song võ thuật của hắn chỉ là con số dê rô đối với điệp viên Z.28. Chàng lách sang bên, hươi tay chặn đòn. Hắn chạm vào người chàng, ngã vập về phía sau. Hắn lồm cồm bò dậy, cung quyền đánh tưới. Miễn cưỡng, Văn Bình phải kết thúc cuộc đấu bằng một đòn hiểm vào bụng. Nạn nhân khuỵu xuống, song trước khi chịu nằm mọp trên đất, còn tìm cách bám lấy Văn Bình. Chàng đá mũi giày vào đùi hắn, giọng vỗ về:
- Sawan là đâu? Mày nói đi, tao sẽ gọi điện thoại cho nhân viên quản lý khiêng mày xuống, rịt thuốc.
Tên râu quai nón quay mặt vào thường. Văn Bình dỗ dành lần nữa:
- Hay mày cần tiền? Bao nhiêu cũng có, nói đi.
Hắn nhổ bẹt bãi nước bọt rồi đáp:
- Vô ích, đừng thuyết giảng như ông thày tu nữa. Thằng này không nghe đâu. Muốn giết thì giết.
Văn Bình cúi xuống:
- Đành vậy, tôi ráng cứu anh mà không chịu đáp ứng. Tôi cho anh 1 phút nữa để cân nhắc hơn thiệt.
Têm râu quai nón nín lặng, vẻ mặt bình thản, đường như bắt đầu suy nghĩ. Rồi hắn mở mắt ra, giọng ngọt ngào:
- Anh giữ lời hứa nhé!
Văn Bình mỉm cười:
- Có thế chứ! Tôi không phải hạng người nói trước quên sau đâu. Chắc ông chủ anh đã cho anh biết tôi là đại tá Văn Bình.
- Biết. Tôi bằng lòng nói với điều kiện...
Hắn ngưng nói lần nữa, lưỡi lè ra liếm mép, có lẽ khát nước và mệt mỏi.
Văn Bình nhìn quanh phòng:
- Để tôi lấy nước cho anh uống.
Chàng mở tủ lạnh lấy hộp nước ngọt Seven Up, khui ra, mang lại, rồi cúi xuống nâng đầu cho tên râu quai nón uống. Hắn ghé môi vào hộp nước ngọt bốc hơi lạnh, mắt nhìn Văn Bình tỏ dấu cám ơn. Văn Bình không thể ngờ được cái nhìn thân thiết ấy chỉ là cái nhìn của đao phủ thủ, trước phút hành quyết ước định xem nên chém mã tấu vào nơi nào trên cổ để đầu tử tội rơi ra tức khắc. Và nếu chàng không phải là võ sĩ thượng thặng, thu thập nhiều kinh nghiệm quốc tế thì đã bị giết chết tươi.
Bị giết chết bằng lưỡi dao nhọn giấu trong tay áo.
Loại ám khí này đã được phát minh từ lâu, từ thời thượng cổ bên Trung Hoa. Giới võ lâm giấu dao nhọn ở cánh tay, giả vờ bỏ chạy rồi quay lại vẫy tay áo rộng, tung dao hạ thủ đối phương. Tuy nhiên, phải chờ đến đại chiến thứ hai làng điệp báo tây phương mới biết xử dụng. Một số điệp viên Đức quốc xã cũng như đồng minh giấu súng trong tay áo vét tông. Khi động dụng chỉ cần bóp chặt bàn tay là khẩu súng tuột xuống, sẵn sàng để nhả đạn, thường là đạn ghém hoặc đạn thuốc độc.
Lưỡi dao nhọn nằm trong tay áo tên mang râu quai nón cuộc loại phi đao, nghĩa là chỉ gồm một hoặc hai lưỡi dao nhỏ xíu, mũi nhọn như mũi dùi, cắt khía trái khế như lưỡi lê, được chế tạo bằng thép đặc biệt, có thể đâm xuyên cánh cửa gỗ lim dầy như qua bơ: cách xa 5 thước có thể xuyên thủng 20 phân gỗ cứng. Lừa Văn Bình ghé mặt lại gần, tên râu quai nón vung bàn tay phải cho lưỡi dao phóng ra.
Nếu là người khác thì chắc chắn Văn Bình đã lãnh đủ mũi dao tử thương vào cuống họng. Vì theo sự đo lường của các nhà khoa học, con người bình thường phản ứng trước nguy hiểm trong vòng 80 phần trăm giây đồng hồ. Số thời gian này không đủ để né tránh mũi dao được phóng đi bằng động cơ giấu trong tay áo. Đối với võ sĩ dày công tập luyện, số thời gian 80 phần trăm giây đồng hồ được rút xuống còn phân nửa, nghĩa là là bốn mươi phần trăm giây đồng hồ. Tuy vậy, cũng vẫn né tránh không kịp. Vì lưỡi dao được bắn bằng lò so lại nhanh hơn. Văn Bình thuộc vào đẳng cấp võ sĩ đặc biệt, thần kinh hệ hòa hợp vẹn toàn với thớ thịt, đường gân như máy điện tử nên thời gian phản ứng tuột xuống mức kỷ lục 20 phần trăm giây đồng hồ. Muốn đạt được kỷ lục này, việc tập luyện kiên nhẫn cũng chưa đủ. Cần phải am tường tinh hoa của các môn quyền thần tốc trên thế giới nữa.
Trong nhiều năm luân lạc, Văn Bình đã học được mọi thứ quyền pháp. Ngoài những quyền được biết tiếng như quyền Tàu, quyền Anh, quyền savate của Pháp, quyền sambo của Nga La Tư, chàng còn học quyền Ba Tây [3], quyền quần đảo Canaries [4], và quyền Ái Nhĩ Lan [5] nữa. Riêng về quyền thuật Á Đông, chàng đã đi sâu vào mọi trường phái, nhất là ở Trung Quốc và Nhật Bản. Nước Nhật có nhiều môn quyền khác nhau, cả đến người Nhật cũng chưa biết hết, chứ chưa nói học hết. Văn Bình lại đã nghiên cứu gần 20 môn võ của xứ Phù Tang Tam Đảo [6]. Và đặc biệt là môn võ tai-sabaki, tức là môn né đòn của nhu đạo. Kỹ thật né đòn của chàng đã lên tới trình độ cao siêu nhờ chàng phối hợp tai-sabaki với Ninjutsu và Thần Ảo công [7].
Vì vậy, lưỡi dao vừa ra khỏi cánh tay áo tên mang râu quai nón thì Văn Bình đã nghiêng mặt sang bên phải để tránh. Và chàng không thể tiếp tục nhân nhượng với đối phương thêm nữa. Bàn tay phải của chàng giáng xuống như cái búa chẻ củi. Nạn nhân hự một tiếng rồi tắt thở.
Văn Bình ra trước gương buồng tắm, rửa mặt, rửa tay sạch sẽ, chải lại mớ tóc rối bù, rồi khoan thai mở cửa ra hành lang. Vừa đi, chàng vừa lẩm bẩm:
- Sawan! Sawan!
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Hiện nay kỹ nghệ chế tạo đồ bằng lát tích bơm hơi, như bàn ghế, giường, và cả nhà nữa, được phát triển ở Âu châu. Riêng ở Pháp có nhóm Quentin, AJS, ETAI (trong số có cả kỹ sư Việt Nam). Một cái ghế phô tơi chỉ độ 180 quan Pháp. Khi dùng thì thổi cho phồng, không dùng thì tháo đầu van cho hơi ra. Hoa Kỳ, Nhật, Anh và Ý cũng thịnh hành đồ bơm hơi. Khi nào thì thời trang này được du nhập vào Việt Nam đây? (NTT)..
[2] Muốn hiểu tác dụng của súng và đạn BZ bắn thuốc mê, xin đọc Z.28 Hồn ma Diến Điện đã xuất bản.
[3] Quyền Ba Tây hay capoeira.
[4] Quyền quần đảo Canaries là Las Luchas canarias.
[5] Quyền Ái Nhĩ Lan là Glima.
[6] Các môn võ của xứ Nhật cổ xưa được gọi chung là bu-jitsu hoặc bushi-awaza (quyền thật). Có chừng 20 môn phái, như jiu-jitsu, ken-jitsu, iai-jitsu, djite, bo-jitsu, torinawa, tachi-oyogi, tanto-jitsu, shuri-ken-jitsu, tessen-jitsu, kyu-jitsu, joba-jitsu, nin-jitsu, karaté, aiki-jitsu, jo-jitsu, tambo-jitsu...
Đánh cận chiến thì có jiu-jitsu, karaté, aiki-jitsu, yawara...
Đánh dao thì có tanto-jitsu, phóng dao: shuri-ken-jitsu, đánh thương: djita, yari... đánh kiếm: ken-jitsu...
[7] Theo Kyuzo Mifune, danh sư nhu đạo hiện hữu của Nhật thì kỹ thuật Tai-sabaki là giai đoạn nhập môn nhu đạo và cũng là giao đoạn hoàn thiện võ thuật để biến võ sĩ nhu đạo thành vô địch.
Z.28 Tử Chiến Ngoài Khơi Z.28 Tử Chiến Ngoài Khơi - Người Thứ Tám Z.28 Tử Chiến Ngoài Khơi