Số lần đọc/download: 2994 / 57
Cập nhật: 2020-05-28 15:55:23 +0700
Chương 14: Đoạn Kết - Z. 28, S.O.S.
T
rước khi lên đường, Valếp kiểm điểm lại hành trang lần cuối. Thật ra, hành trang chẳng có gì, vẻn vẹn cái cặp bằng da cá sấu xách ở tay.
Tuy nhiên, Valếp vẫn sợ bỏ sót đồ đạc quan trọng lại. Năm phút trước, hắn đã đập vỡ cái điện đài bí mật ra làm nhiều mảnh, và ném vào thùng rác ngất nghểu ở đầu đường. Phá hủy điện đài, phương tiện hữu hiệu dùng để liên lạc với tổng hành doanh tình báo Nam Tư ở Viễn Đông, Valếp cảm thấy tiếc nuối và bần thần như vừa mất người bạn thiết. Nội đêm nay, hắn hoàn tất công tác tại Mani, và chuyến máy bay thứ nhất trong ngày sẽ đưa hắn sang Tân Gia Ba, nơi đó hắn xuống tàu buôn Nam Tư của công ty hàng hải Yugoslav Line để trở về Đông Âu.
Phòng hắn ở trên lầu 5 một buyn-đinh thươnng mãi dọc đại lộ Escolta, mạch máu của thủ đô Phi Luật Tân. Đối với xóm giềng, hắn chỉ là nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp, có biệt tài về tĩnh vật, vắng nhà hàng tuần có khi hàng tháng, lang thang với cái máy Leica, để ghi сảnh vật hữu tình của quần đảo Phi vào phim nhựa.
Valếp mỉm cười khoái trá. Qua cửa sổ, hắn nhận ra trời mưa. Mưa to càng dễ việc cho hắn. Từ lâu, hắn đã khinh thường phản gián Phi, vì hắn dúng tay vào nhiều vụ tày trời mà họ không biết. Đại tá Abel của RU Xô Viết cũng cải trang làm thợ ảnh như hắn, và trong nhiều năm liên tiếp nghênh ngang hoạt dộng trước mũi nhân viên phản gián Mỹ, đến khi bị nội phản mới sa lưới. (1)
Còn hắn, hắn tự hào khôn ngoan hơn Abel nhiều, tuy hắn cũng là đại tá như Abel. Hắn khôn ngoan ở chỗ dùng người rất thận trọng, và khi cần tàn nhẫn hắn có thể giết người không gớm tay.
Đồ đạc trong phòng, Valếp vẫn để nguyên. Tiền điện, nước đến cuối tháng mới trả, mà hôm nay còn giữa tháng, như vậy hắn rời Mani được hai tuần người ta mớỉ biết. Những người trong buyn-đinh đã quen với nếp sống kín dáo, luôn luôn vắng nhà của Valếp nên sẽ không ngờ vực khi thấy tiệm ảnh của hắn đóng cửa im ỉm một thời gian dài. Valếp chỉ phá hủy hoặc mang theo những vật dính dấp đến hoạt động do thám. Quyển mật mã được hắn tháo rời ra, đốt từng tờ ra than rồi vứt tro vào cầu tiêu, giật nước mất tích.
Hắn không còn ai ở lại, trừ Li Huê. Mặt Valếp choắt bằng hai ngón tay tréo, da đen sạm, răng vẩu ám khói thuốc lá vàng ệch, thân hình lêu nghêu như cây phướn đám tang, song đối với đàn bà, nhất là đàn bà bẩy nổi ba chìm, hắn lại có đôi chút duyên thầm.
Li Huê đã nằm trong tay trăm ngàn người đàn ông, song vẫn thích tìm tời Valếp. Có lẽ vì hắn ăn nói ngọt ngào. Nhưng cũng có lẽ hắn tiêu tiền không đếm. Li Huê và hắn là cặp bài trùng được tình báo Nam Tư trọng vọng. Theo chỉ thị, nàng phải rời Mani cùng một lúc với Valếp.
Valếp đút chìa khóa vào ổ. Khóa xong, hắn thản nhiên bước ra thang máy. Xuống tầng dưới hắn vỗ vai người gác một cách thân mật. Thấy máy ảnh lủng lẳng trên vai hắn, người gác hỏi:
- Ông đi chụp tối mà không mang đèn à?
Valếp tái mặt. Hắn không ngờ người gác đã tình cờ khám phá ra một sự hớ hênh quan trọng. Máy ảnh của hắn đựng bên trong một dụng cụ truyền thanh điện tử tí hon, kèm theo một võ khí giết người cực mạnh.
Hắn cười nhạt:
- Loại máy này không cần đèn.
Hắn chạy rảo dưới mưa để tới xe hơi. Chiếc Opel màu xanh khả ái, hắn chỉ đi lần cuối rồi bỏ lại.
Động cơ nổ ròn, Valếp lái ra bờ biển. Mưa to đến nỗi hai quạt nước của xe hơi chạy hết tốc lực vẫn không lau sạch mặt kính. Thỉnh thoảng, hắn phải giảm ga xăng, đi sát vào vỉa hè, vì kính xe bị nước phủ đầy, mắt hắn không trông thấy đường.
Valếp lẩm bẩm:
- Tội nghiệp, mưa thế này thì Li Huê ướt hết.
Đang ngồi tán gẫu với bạn trong tiệm nhảy chưa có khách, Li Huê đón Valếp bằng thái độ sửng sốt, khi hắn sồng sộc bước vào, trên vai lấm tấm giọt mưa. Ít khi hắn đến khiêu vũ trường gặp nàng. Hai người gặp nhau luôn, tuy nhiên theo một cuốn lịch được trù liệu từ trước, và tại những địa điểm xa thành phố đông đúc.
Đột nhiên tới, hẳn Valếp có việc rất cần. Li Huê chụp cái áo tơi mưa, vắt trên ghế, tất tưởi ra ngoài với Valếp. Hắn nói nhanh với nàng:
- Em về sửa soạn ngay đi. Sáng mai, chúng mình lên máy bay sớm.
- Phải đi rồi à? Hoài của. Em cứ đinh ninh còn lâu mới xong việc.
- Sắp xong rồi. Anh đã mua vé và làm thông hành đầy đủ. Chúng mình qua Tân Gia Ba trước.
- Em được phép mang hành lý không?
- Được, nhưng đừng mang nhiều, sợ cồng kềnh. Đây này, em cầm lấy cái cặp da, đựng nhiều tài liệu quan hệ. Đúng 5 giờ sáng, anh sẽ có mặt tại nhà em, và chúng mình cùng ra phi trường.
Quá 5 giờ, anh không đến, có nghĩa là anh lâm nạn. Trong trường hợp này, em phải rời Mani liền. Sáng mai có hai chnyến bay, chuyến đi Tân Gia Ba cất cánh hồi 5g35p, và chuyến đi Hồng Kông 6g25p. Nếu không có anh, em hãy đáp chuyến đi Hồng Kông. Nhớ chưa? Anh đã mua sẵn vé Hồng Kông cho em rồi.
- Ít khi em thấy anh tư lự thế. Liệu công việc nguy hiểm lắm không?
- Cũng khá nguy hiểm. Anh đang lo ngại đây. Nếu thành, đó là thắng lợi lớn nhất cua ta trong thời hậu chiến về hoạt động tình báo. Nhưng anh tin là thành.
- Em cũng tin vậy. Lâu nay, em chưa thấy anh thất bại lần nào.
- Biết thế, nhưng tính trước bao giờ cũng hơn. Vạn nhất anh thất bại, em hãy đi Hồng Kông, trao cặp tài liệu này cho người đại diện của ta ở đó. Thôi, xong rồi, em về đi.
- Anh không đưa em về Kê Xon được sao?
Nhìn đồng hồ, Valếp lắc đầu:
- E không kịp. Em chịu khó về bằng tắc xi vậy.
Li Huê chìa má cho Valếp hôn. Valếp bước vội lại xe hơi. Trời vẫn mưa không ngớt hột. Sấm chớp rền vang, lập lòe trên thành phố. Cửa xe quên lên kính, mưa hắt vào, tấm đệm ướt sũng. Valếp không thèm để ý, lẳng lặng rồ máy, phóng vào đêm tối.
Một lát sau, hắn dừng xe ở một góc đường tối om, gần bến 14. Trước khi tắt máy, hắn nháy đèn ba lần.
Cuối đường, ánh đèn bấm lóe lên ba cái. Đó là ám hiệu. Valếp lao vào đêm mưa. Điếu thuốc mới châm bị tắt ngúm, mùi khét của thuốc lá sũng nước thấm vào cuống họng hắn.
Một người Phi nhỏ thó và xấu xí đang thu hình trong áo tơi mưa đen sì, khẩu tiểu liên kẹp trong nách.
Valếp ngồi thụp xuống cạnh hắn. Trước mặt hai người là một đống thùng gỗ cao lêu nghêu. Qua kẽ hở, Valếp quan sát được toàn bến 14.
Tứ phía vắng tanh. Ánh đèn của hải cảng không đủ sức xuyên thủng màn mưa dày đặc để chiếu lên mặt nước đen ngòm, và cái bến xi-măng ngập đầy rác bẩn.
Valếp hỏi gã thuộc viên:
- Từ nãy đến giờ, mày thấy ai chưa?
- Thưa chưa.
- Lạ nhỉ? Chắc bọn chúng tới chậm. Mày ráng đợi lát nữa xem sao.
Bỗng gã người Phi nắm lấy vạt áo ướt nhèm của Valếp. Hắn đặt vào mắt Valếp cái ống nhòm hồng ngoại tuyến mà hắn vừa dùng để quan sát mặt biển.
Valếp suýt reo lên một tiếng. Đặt viễn kính xuống, hắn ra lệnh:
- Lau nòng súng kỹ càng chưa?
- Thưa rồi. Tuân lệnh ông, tôi đã lắp phễu hãm thanh. Phễu này kiểu mới, bắn cả xác giơ đạn mà không phát ra tiếng động lớn.
- Tốt lắm. Bây giờ, anh đi theo tôi.
Valấp rút súng lăm lăm cầm tay. Súng сủа hắn dài ngoằng vì ở đầu được gắn một bộ phận ngăn tiếng nổ bằng cao su ép. Qua tiếng mưa rào rào, Valếp nhận ra tếng người thì thầm dưới bến. Họ nói với nhau bằng tiếng Anh lơ lớ. Valếp không đoán ra được mấy người. Hắn bắt đầu thấp thỏm vì nếu đối phương gồm ba, bốn người, hoàn cảnh sẽ bất lợi cho hắn.
May thay, chỉ có hai người. Cả hai đều to lớn, và mặc đồ đen tuyền. Một người cất tiếng:
- Gần đến giờ chưa anh?
Ngươi kia đáp:
- Kể ra, thì còn 5 phút. Nhưng nếu trong 5 phút họ chưa tới, ta phải đợi thêm 10 phút nữa.
Valếp ra hiệu cho gã thuộc viên. Khẩu tiểu liên kêu lên mấy tiếng bụp bụp nho nhỏ. Tiếng kêu bị chìm trong mưa, khiến ai ở gần lắm mới nghe rõ. Hai cây thịt nặng nề đổ xuống.
Valếp chạy lại. Hắn đã tính toán chu đáo: tên thứ nhất bị bắn chết tức khắc, còn tên thứ nhì lãnh một viên đạn vào bả vai. Valếp cần hắn sống thêm mấy phút để tra khảo một vài điều cần thiết.
Nhanh như cắt, Valếp kéo tên còn sống vào sau đống thùng không. Gã người Phi huýt lên một tiếng còi. Nhiều bóng đen khác hiện ra, vây quanh Valếp. Đánh ván bài cuối cùng ở Mani, Valếp đã huy động toàn lực và dàn ra trên bến 14.
5 phút nặng nề trôi qua.
Một chiếc cam-nhông từ phía nam thành phố chạy tới ngang bến 14, đậu lại.
Valếp lẩm bẩm một mình, một cách khoái trá:
- Phen này, bọn mày sẽ biết tay tao.
.................................................................................
.................................................................................
Văn Bình cố gắng ngồi dậy. Nhưng một sức nặng vô hình ấn chàng xuống ghế. Tuy thần kinh hệ còn minh mẫn, thân thể chàng dường như bại hẳn. Chàng vẫn nghe rõ cuộc đấu khẩu giữa Luz và Urê, và kỳ lạ thay, mắt chàng đang mù tịt bỗng sáng hẳn ra, và chàng được chứng kiến một cảnh mà suốt đời có lẽ chàng không quên.
Bây giờ, chàng mới biết tên độc dược mà Urê trộn vào rượu. Các nhà bác học gọi tắt là Т.А.Р. Người uống T.A.P. sẽ trở ra sợ sệt, hèn nhát, bất lực trước mọi việc. Thoạt đầu tứ chi bải hoải, kbhng tuân lệnh thần kinh, rồi toàn thân mềm ra như bún, biến thành cái máy, sai gì làm nấy, không biết phản kháng nữa.
T.A.P là độc dược mới được phát minh, và được các cơ quan tình báào cộng sản dùng làm thuốc tẩy não. Vì vậy, nhiều điệp viên trong thế giới tự do đã được tập quen với T.A.P. Văn Bình cũng trải qua một thời kỳ tập quen với T.A.P., cho nên chàng vẫn sáng suốt mặc dầu bị tê liệt. Tùy theo số lượng độc dược, chàng có thể phục hồi trong chốc lát hoặc sau vài tuần lễ.
Luz ngó Văn Bình bằng cặp mắt não nuột. Cái nhìn của nàng làm chàng say sưa bằng trăm cái hôn môi. Urê nói, giọng riễu cợt:
- Bà đừng sợ, người yêu xinh trai của bà không sao đâu. Hiện thời, thuốc đã ngấm, hắn không cử động được nữa, tuy nhiên hắn vẫn nghe giọng nói thánh thót của bà, nhìn được cái mặt diễm lệ của bà. Sở dĩ tôi phải bỏ thuốc tê cho hắn, vì hắn rất giỏi võ. Thuốc này dùng nhiều có hại đến sức khỏe nên tôi chỉ pha rất ít, đủ làm hắn hiền lành đi trong vòng nửa giờ mà thôi. Như vậy, tôi đã tử tế lắm rồi.
- Trước kia, tôi tưởng có thể hy sinh đời tôi để yêu ông, nhưng đến nay tôi thấy là không thể được. Ông là người tôi ghê tởm và phỉ nhổ nhất trên đời.
- Cám ơn bà. Thật ra, đã 10 năm chung chăn xẻ gối với tôi, bà chưa hề yêu tôi. Trong nhửng phút yêu đương, tôi hiến trọn cho bà thì bà đối xử một cách lạnh lùng. Bà chưa bỏ tôi vì bà chưa tìm ra ý trung nhân. Phải không thưa bà?
- Ông nói đúng, 10 năm qua, tôi chưa hề rung động vì ông, chứ đừng nói là thành thật yêu ông nữa. Ông và tôi chỉ là hai người xa lạ, hoàn toàn xa lạ, tuy đêm nào tôi cũng phải ôm ấp ông. Suốt đời, tôi không thể quên được thời thơ ấu ở Minda¬nao. Thưa ông, ông đã làm tôi đau khổ, làm gia đình tôi đau khổ.
- Bà lầm rồi. Nhờ tôi can thiệp, cha bà thoát khỏi tội chết Cha bà sống bằng nghề buôn lậu ở vùng biển Ilô-llô, bà còn nhớ không? Buôn lậu thuốc phiện, buôn lậu súng đạn, cái nghề ấy không lấy gì làm đẹp. Hơn nữa, cha bà lại thích giết người. Người ta tìm cách bắt cha bà, nhưng chưa có bằng cớ. Một đêm kia, trên bãi biển, chia phần không đều, cha bà đã bắn chết người chủ thuyền. Tội sát nhân, luật pháp Phi Luật Tân thường xử trí rất nghiêm khắc. Nhẹ thì khổ sai chung thân, nặng thìi tử hình. Hồi ấy, tôi làm ty trưởng công an ở Ilô-Ilô. Vì bà, tôi đã đổ vấy cho người khác. Một mạng người oan uổng, trời ơi, ngày nay tôi сòn hối hận. Tôi cứu сhа bà để mua chuộc bà, để làm món quà đính hôn với bà.
- Tôi không quên sính lễ bằng máu của ông. Nhưng thưa ông, tôi không tin ông là người biết hối hận.
- Hừ, bà chưa hiểu được lòng tôi.
- Ông chưa hiểu được lòng tôi, đúng hơn. Vì cha tôi lỡ tay giết người, chứ không cố sát. Vả lại, cha tôi ở vào trường hợp tự vệ chính đáng.
- Bà nói không ai tin. Vì kẻ buôn lậu không được quyền viện cớ tự vệ chính đáng để giết người.
- Buôn lậu, buôn lậu, ông khinh bọn buôn lậu đến thế kia ư?
- Dĩ nhiên. Họ là những kẻ đứng ngoài lề pháp luật, sẵn sàng dúng tay vào mọi tội ác và âm mưu bẩn thỉu.
- Và kẻ đứng ngoài lề pháp luật đáng khinh ấy là ông. Là ông, ông đừng chối cãi nữa. Vì ông điều khiển tổ chức buôn lậu ở quần đảo Ilô-Ilô. Cha tôi đang làm ăn lương thiện bị ông lôi kéo vào tội lỗi. Cha tôi giết người vì ông. Ông phải gỡ tội cho cha tôi vì sợ liên lụy. Tôi khinh ông, song cha tôi trối trăng lại, khẩn cầu tôi làm vợ ông để ông khỏi báo thù. 10 năm nay, ông kiếm tiền như nước, nhưng ông đừng cho là vinh dự. Giàu có như ông làm gì, một khi tài sản của ông được mua bằng sự phản bội.
Urê cười ngặt nghẽo:
- Hay, hay quá, đã lâu tôi mới được nghe thầy cả giảng đạo lý! Nhưng này Luz, coi chừng đấy. Bà đừng can thiệp vào việc riêng của tôi. Dầu sao tôi cũng còn yêu bà, tôi sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm cố ỷ của bà. Tuy nhiên, sức chịu đựng của tôi chỉ có hạn: nếu bà còn cản đường nữa, miễn cưỡng tôi phải xử tệ.
Luz ngẩng đầu, giọng thách thức:
- Ông dọa giết cả tôi nữa ư?
Vừa nói, nàng vừa xấn lại, quật cái ví da vào mặt Urê. Bị đánh bất thần, Urê đỡ không kịp, một giòng máu ri rỉ trên má. Song hắn vẫn mỉm cười. Thái độ nhởn nhơ của hắn làm Luz nộ khí xung thiên. Nâng ôm chầm lấy hắn, ngón tay tua tủa chọc vào mắt. Tuy nàng giỏi nhu đạo, song tỉ thí với Urê chỉ là trứng chọi đá. Urê đưa tay lên gạt, nàng ngã vật xuống nền nhà.
Văn Bình nhìn oàng, ứa nước mắt. Đối diện chàng, Rôsita cũng ngồi yên. Kể về quyền biến và võ thuật, tuy liễu yêu đào tơ, nàng cũng là địch thủ đáng gờm. Nếu nàng hợp lực với Luz, ít ra Urê cũng thất điên bát đảo.
Văn Bình đã hiểu lý do nàng ngồi yên như phỗng đá. Cặp mắt nàng không còn vẻ tinh anh thường ngày, mà biến thành lừ đừ, chậm chạp, chứng tỏ nàng bị chích ma túy. Urê đã thi hành một kế hoạch vô cùng thâm độc và tàn nhẫn: hắn cho Văn Bình gặp hai thiếu phụ nặng lòng vì chàng, gặp mà chẳng làm gì được.
Luz vịn thành ghế đứng lên một cách nhọc mệt. Cái hắt tay phũ phàng của Urê làm thân thể nàng đau rần. Mắt đục ngầu, nàng thò tay vào ví. Khẩu súng của nàng là kỳ công của nghệ thuật kim hoàn, với cái báng dát vàng diệp, chạm trổ tuyệt mỹ, cái nòng ngắn mạ kền sáng loáng.
Urê cười oang oang:
- Em định làm gì với cái đồ chơi trẻ con ấy?
Luz nghiến răng bóp cò. Ngọn cước của Urê đã kịp thời phóng ra, đá văng khẩu súng tí hon vào góc. Urê quay lại, ra lệnh cho Santô:
- Áp giải họ ra xe.
Santô lôi Văn Bình và Rôsita dậy. Văn Bình bước đi, dáng điệu nặng nề. Urê lượm súng, bỏ vào túi rồi nói:
- Luz, anh yêu cầu em lần cuối cùng. Em phải nghe lời anh. Nếu không, anh đành phải bó tay, dầu anh rất yêu em. Anh chưa phải là cán bộ điều khiển, trên anh còn người khác nữa. Em làm thế nào đối với anh, anh cũng ráng chịu, song người ta không khoan hồng như anh đâu. Luz, anh khẩn khoản cùng em. Em muốn gì, anh cũng chiều chuộng, miễn là...
Luz bóp bàn tay bị Urê đá trúng. Sau cơn giận ghê gớm, nàng trở lại vẻ bình tĩnh thưởng nhật, thái độ bình tĩnh gần như đầu hàng. Song đó chỉ là bề ngoài: trong lòng nàng, một ý nghĩ táo bạo vừa chớp nở. Nàng muốn vồ lấy mặt Urê cào xé cho nát ra. Nhưng nàng lại cảm thấy vô ích. Đối với Urê, tim nàng đã lạnh. Mối tình của nàng đã hướng vào chàng thanh niên khả ái và dũng cảm đang bị Santô điệu ra xe, sửa soạn mang xuống tàu ngầm.
Sáng mai, chàng sẽ rời Mani đến một nơi xa xăm đầy chết chóc. Nàng sẽ phải sống xa chàng mãi mãi. Cho tới ngày thở hơi cuối cùng nàng phải ở lại đất Phi với Urê, với người chồng nàng không yêu và chẳng bao giờ yêu.
Nàng khấn thầm trong lòng:
- Kính lạy Đức Mẹ-hằng-cứu-giúp! Xin Mẹ ban cho con đủ sáng suốt và nghị lực để giải thoát cho chàng.
.................................................................................
.................................................................................
Dưới cơn mưa lớn, đoàn xe hơi sơn đen lùi lũi rời doanh trại Mớt-phi (2)
Trên con đường lầy lội từ thị trấn Kê-Xon về Mani, chốc chốc Lê Diệp lại coi đồng hồ. Chàng nóng ruột lạ thường. Chưa bao giờ chàng nóng ruột như đêm nay. Trong đời gián điệp, không phải lần đầu chàng xông pha vào đêm tối để cứu bạn, nhưng lần này, chàng cảm thấy khác hẳn. Sa vào tay R U. và bị phăng ra tung tích, Văn Bình khó thoát chết. Lê Diệp phải chạy đua với kim đồng hồ để gỡ Văn Bình ra khỏi móng vuốt của tử thần.
Tuân theo chỉ thị của ông Hoàng. Lê Diệp đã thi hành kế hoạch cấp cứu Mábuhat sau khi Văn Bình biệt tích. Chàng liên lạc cấp tốc với sở Phản gián Phi và doanh trại Mớt-phi của quân lực Phi. Doanh trại này ở Kê-Xon, cách trung tâm Mani 10 cây số. Trong một cuộc họp chớp nhoáng tại Mới-phi, mọi phương tiện sẵn có đã được huy động để bủa vây chiếc tiềm thủy đĩnh bí mật của địch.
Khi Lê Diệp rời trại Mớt-phi, một phi đoàn trực thăng từ trường bay quân sự bay về vịnh Mani. Loại trực thăng Sikorsky HSS-I này được trang bị dụng cụ tân tiến để khám phá tàu ngầm, như máy sonar. Những phi cơ nhẹ của hải quân, loại Grumman S2F, cũng bay lướt trên mặt biển, gắn máy radar cực mạnh, đuôi được gắn một bộ phận điện tử gọi là Mad, mà công dụng là truy thám tàu ngầm. Đó là chưa kể loại phi cơ Lockheed P2V-7 Neptune, đối thủ đáng sợ nhất của tiềm thủy đĩnh bí mật (3).
Màng lưới được bủa ra từ từ và kín đáo. Vô tuyến điện được tắt hết, sợ tàu địch ngờ vực. Đúng giờ đã định, một lực lượng đặc biệt được nổi lên ngoài khơi, chặn đường về của tàu ngầm. Theo dự tính của nhà đương cuộc, tàu ngầm địch sẽ bị thộp cổ dầu nó được ngụy trang để tránh sự tầm nã kiến hiệu của máy asdic (4), vì hải quân Phi đã có máy G, được coi là chính xác nhất thế giới (5).
Được các nhân vật cao cấp của Phản gián Phi trình bày về cách thức phòng giữ bờ biển, chống lại tàu ngầm, Lê Diệp bớt lo lắng, nhưng mỗi khi nhớ lại lời căn dặn của ông Hoàng, chàng lại mong mọc cánh để bay đến bến 14.
Gió lốc tạt mạnh vào cửa xe. Xe hơi cửa chàng là chiếc Chevrolet kiểu mới 8 máy, ngốn đường trên trăm cây số một giờ. Tài xế chăm chú nhìn quãng đường phía trước, lờ mờ dưới hai vệt pha trắng xóa.
Ngồi ở băng sau là hai sĩ quan Phản gián mặc thường phục. Tiếng gió bên ngoài át cả cuộc nói chuyện nhát gừng.
Mưa bắt đầu nhẹ hột thì gió lại thổi nhiều. Đại tá Ecuđô của sở Phản gián - một thanh niên trên bốn mươi, gương mặt rắn rỏi và điềm đạm - thở dài nói với Lê Diệp:
- Không khéo bão mất. Nếu bão, vị tất tàu ngầm dám nổi lên, và chúng ta tìm ra họ không phải dễ.
Lẻ Diệp chưa kịp đáp thì sét nổ vang. Bầu trời như bị chẻ làm hai mảnh. Xe hơi đã ra tới bờ biển.
Trời tạnh hẳn, nhưng nền mây vẫn đen kịt. Những tia nước dưới biển bị gió thổi tốc lên bờ, sắc nhọn như muôn ngàn mũi kim đâm vào da thịt. Chàng mở cửa xe chưa kịp đóng lại thì một cơn gió dữ dội đập vào đánh sầm. Tứ bề, sóng réo ì ầm. Chàng có cảm tưởng là mặt biển đang sùng sục sôi lên.
Đại tá Ecuđô nói:
- Tôi vừa nhận được báo cáo của đoàn tuần tiễu. Chưa có kết quả nào hết. Lẽ ra vào giờ này, tàu ngầm địch đã nhô lên rồi.
Lê Diệp hỏi:
- Đồng hồ của đại tá mấy giờ?
- 3 giờ, 13 phút.
- Theo mệt điện, tàu ngầm sẽ nổi lên đúng 3 giờ đêm, cho một toán vào bờ, rồi lặn xuống. Tuy nhiên, giờ nổi lên có thể được hoãn lại 30 phút.
Đại tá Ecuđô thừ người suy nghĩ. Bỗng Lê Diệp hỏi:
- Ta đã bố trí cẩn mật ở bến 14 chưa?
- Rồi. Vào giờ này, một cam nhông chở đầy nhân viên Phản gián đã vây kín bến 14. Họ được lệnh chận bắt mọi người, kể cả những người có giấy tờ hợp lệ lảng vảng trong khu vực.
Lê Diệp bâng khuâng nhìn ra khơi tối đen. Nếu Văn Bình không dại gái, Urê đã nằm yên trong khám, chỉ cần một giang hạm chở đầy thuốc nổ cũng đủ đánh đắm chiếc tiềm thủy đĩnh của R.U. Sự sa cơ của Văn Bình đã đảo lộn mọi kế hoạch được chuẩn bị chu đáo từ trước.
Một ý nghĩ xẹt sáng trong óc. Lê Diộp nói với đại tá Phản gián Ecuđô:
- Tôi muốn tới bến 14.
Ecuđô lắc đầu:
- Ta đã có đủ người ở đó rồi.
Lê Diệp cũng lắc đầu:
- Tôi lo lắm. Sợ công việc không xong thôi.
Chàng vừa nhớ đến Valếp. Tuy Valếp là tử thù của bọn Huk, thái độ báo thù triệt để của hắn sẽ ngăn cản chàng tiến tới mục đích.
Một lằn chớp lóe vội trên nền trời đen kịt như mực tàu. Ecuđo nói với Lê Diệp:
- Chúng mình xuống ca nô để ra khơi cho kịp.
Rồi Ecuđô ra lệnh cho tài xế:
- Rẻ sang bên trái.
Tài xế chưa kịp sang số thì một tiếng đoàng chát chúa nổi lên. Tiếp theo tiếng tacata của tiểu liên. Lê Diệp dậm chân, than thở:
- Hỏng rồi, hỏng hết rồi. Quay lại bến 14.
.................................................................................
.................................................................................
Valếp lăn những thùng dẫu nhởt lại, xếp thành hàng dài làm chướng ngại vật. Sau thùng, nhiều bóng đen lố nhố. Phía trước cam nhông vừa đậu lại.
Valếp nói nho nhỏ:
- Chờ chúng đi qua hãy nổ súng. Cẩn thận, tụi mày phải bắn cho trúng. Và thât em.
4 người đàn ông cao lớn, mặc áo tơi mưa, tay thọc túi quần, phì phèo xì gà bước qua. Valếp khoát tay ra hiệu. Các khẩu súng lục khạc đạn cùng một lượt. Những tiếng bụp bụp khô khan nổi lên. 4 bóng đen ngã gục xuống. Núp sau dãy thùng, Valếp nhoẻn nụ cười đắc thắng.
Tứ phía vẫn im lặng. Sóng biển vỗ rào rào. Valếp khom lưng tiến lại nơi xác chết nằm sóng soài. Hắn lật một người lên quan sát. Bỗng hắn cau mặt, rủa:
- Cóc khô. Bọn mình nguy rồi. Không phải tụi Huk.
Một thuộc viên chạy đến sau lưng Valếp, hớt hơ hớt hải:
- Thưa đồng chí...
Valếp quắc mắt:
- Còn thưa gửi gì nữa, chết cả nút đến nơi rồi. Mình vừa giết lầm nhân viên cảnh sát. Nguy to, cảnh sát Mani đã biết.
- Thưa, bây giờ làm cách nào?
Valếp thừ người nhìn những con tàu bỏ neo lầm lì ngoài xa, ánh đèn lung lay trước gió. Hắn nói, giọng hơi run:
- Phải rút lui ngay mới kịp. Mày tập hợp anh em lại, xuống ca nôổ chạy ra khơi, kẻo...
Valếp ngừng bặt. Hắn vừa nghe tiếng chân người. Rồi tiếng quát xé màn đêm tịch mịch:
- Ai đó, đứng lại?
Tiếng súng nổ rền, đoàng, đoàng, tacata, tacata... Valếp vò đầu, bứt tai:
- Cảnh sát đến rồi. Chạy xuống ca-nô mau lên.
Tiếng súng vẫn nổ vang. Bọn thuộc viên của Valếp ngã lăn như sung rụng. Không chần chờ, Valếp nhặt một khẩu tiểu liên, phóng như bay về phía bãi biển.
Một quân xa tắt đèn đang quay đầu về bến 14. Valếp đưa súng lên. Phát đạn đầu tiên của hắn bắn chết tài xế. Trên xe, có tiếng súng bắn trả xối xả. Nền đất ướt sũng nước mưa làm Valếp trượt chân suýt ngã. Hắn chồm dậy, định băng qua đống thùng gỗ để vào dãy nhà kho thì một tràng đạn tiểu liên chặn lại. Hốt hoảng, Valếp cuộn tròn người, lăn ra xa. Tia lửa da cam lóe sáng một vùng.
Tacata, tacata... Giữa đám đông võ trang súng máy, bắn rền như pháo nổ ngày hội, Valếp chỉ có một mình. Bọn nhân viên đã bỏ chạy tứ tán, hoặc gục ngã hàng loạt. Mặc dầu nhiều phen vào sinh ra tử, Valếp vẫn mất tinh thần. Hắn biết cuộc đời dọc ngang của hắn đã tận.
Tacata... Đạn tiểu liên lại bắn đón đầu... Bốn phía đã bị vây kín bằng bức tưởng lửa kinh khủng. Một bóng người cao lêu nghêu từ trên xe nhảy xuống, bò nấp sau đống thùng gỗ cất tiếng gọi:
- Valếp, hàng đi.
Tiếng súng câm bặt. Quang cảnh trở lại yên lặng.
- Valếp, hàng đi.
Không, người như Valếp không thể đầu hàng. Hắn phải chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
- Valếp, tôi cho anh một phút để suy nghĩ. Anh và chúng tôi đều chung mục đích: triệt hạ Urê. Yêu cầu anh hợp tác với chúng tôi. Nếu không...
Valếp đáp lại bằng một loạt đạn chát chúa. Tiếng nói lúc nãy lại tiếp:
- Chúng tôi cho anh một phút. Anh đừng kháng cự lại vô ích. Nhân viên của anh đã chết sạch rồi. Chỉ còn lại mình anh. Băng đạn của anh cũng gần hết. Anh đầu hàng là hơn.
Valếp hỏi:
- Anh là ai?
- Tôi nói tên, anh cũng không biết ai đâu. Một phút sắp qua rồi...
Im lặng. Im lặng đầy chết chóc. Người núp sau đống thùng gỗ là Lê Diệp. Chàng cố gắng thuyết phục Valếp vì dầu sao hắn đã nắm được nhiều chi tiết bí mật. Cuộc chạm sủng trên bến 14 đã vô tình làm hỏng kế hoạch của chàng. Nghe súng nổ, biết bị lộ, Urê sẽ không ra đón tàu ngầm nữa. Cùng với Urê là Văn Bình và Rôsita. Mạng sống Văn Bình đang bị đe dọa nặng nề... Hợp tác với Valếp, Lê Diệp có hy vọng lật ngược thế cờ.
- Thế nào, Valếp, anh bằng lòng chưa?
- Tôi chỉ bằng lòng nếu anh cam kết trả tự do cho tôi.
- Đồng ý. Bây giờ anh ném súng xuống.
Khẩu tiểu liên rơi xuống đất, reo lên một tiếg khô khan. Lê Diệp lại ra lệnh:
- Anh đứng dậy, tiến lại đây.
Hình dấng cao vút của Valếp in rõ trong bóng tối mờ mờ. Cử chỉ chậm chạp, hắn bước lại đống thùng gỗ. Lê Diệp nhô lên.
Suýt nữa, Lê Diệp mất mạng. Một lưỡi dao sáng loáng vọt ra khỏi tay Valếp. Soẹt một tiếng nhẹ, mũi dao xén rách cổ áo của Lê Diệp. Nếu chàng né không nhanh, cuống bọng đã bị đâm thủng. Bất đắc dĩ, chàng phải phản công bằng cách đánh vào mặt Valếp. Hắn nghiêng người tránh, lưỡi dao hoành lên, phóng ra nhát thứ hai.
Lê Diệp nhẹ nhàng bắt lấy, bẻ cụp cườm tay hắn lại. Tuy võ giỏi, hắn đã bị Lê Diệp đánh bại dễ dàng. Hắn không ngờ được đối thủ là một tay quyền thuật phi thường, chuyên về đánh dao và sát lá cà.
Bản tâm Lê Diệp là quật ngã Valếp, chứ không đánh chết. Nên Valếp chỉ loạng choạng rồi đứng thẳng lại. Đột nhiên, hắn luồn tay vào thắt lưng, rồi đâm bổ vào người Lê Diệp.
Lê Diệp vút sang bên như gió, tay quạt vào lưng hắn. Mất trớn, lại bị đẩy mạnh, Valếp ngã chúi vào đống thùng. Một tiếng ầm kinh thiên động địa nổi lên. Lê Diệp đã quăng mình xuống đất. Valếp đã tháo gu-pi lựu đạn, định tự tử và hạ sát luôn đối phươnag. Không ngờ Lê Diệp đã biết.
Thân thể nát ngướu, Valếp nằm chết trên nền gạch bẩn thỉu và ướt át. Lê Diệp thở dài nhè nhẹ. Gió khơi vẫn thổi vù vù.
Đại tá Ecuđô chống nạnh nhìn ra khơi, giọng lo lắng: ,
- Nguy quá, tiềm thủy đĩnh vẫn chưa nổi lên.
Lê Diệp hỏi:
- Anh được tin về Urê chưa?
- Chưa.
- Tôi chắc hắn trốn rồi. Có thể cuộc hẹn với tàu ngầm được hoãn đến mai. Hoặc một ngày không nhất định. Dầu sao chúng ta đã bị lộ. Hạm trưởng R.U. không dại gì cho tàu ngầm vào bờ khi được biết là chúng ta bủa vây chặt chẽ. Khổ quá, tôi đã dặn họ không được bắn, mà họ cứ bắn.
Chợt nhớ ra, Lé Diệp hỏi:
- Đại tá đã biết nhân viên nào bắn chưa?
Ecuđô giật mình, à một tiếng. Như tuân theo một mệnh lệnh thần bí, Ecuđô ba chân, bốn cẳng chạy lại xe hơi. Lê Diệp thót vội lên. Chàng thét tài xế:
- Mau lên.
.................................................................................
.................................................................................
Mỉm nụ cười bí mật, Urê mở cửa sổ nhìn xuống biển. Mặt biển tối om. Hắn đeo kính hồng ngoại tuyến vào mắt, rồi chăm chú quan sát bến 14.
Đoàng, đoàng. Tacata... tacata...
Urê mỉm cười lần nữa, đóng cửa sổ lại. Ánh điện xanh mát chiếu xuống căn phòng gắn máy lạnh, trang trí đắt tiền. Văn Bình đang nằm dài trên đi-văng, mắt nhắm nghiền. Rôsita, nữ điều dưỡng kiều diễm của bệnh viện Trung ương, nhân viên sở Tình báo Phi, ngồi thu hình trong ghế bành, tròng mắt lờ đờ, dáng điệu mỏi mệt. Chất ma túy đã làm nàng ngơ ngẩn và yếu đuối.
Urê châm xì gà hút. Từ tối đến giờ, hắn mới được hít hơi khói thơm tho đầy quyến rũ của xì gà Alhambra. Hắn thản nhiên nhìn Luz đang dựa tay vào tủ buýp-phê, bên chai Vat 69. Luz nhún vai rót một ly rượu đầy, rồi uống một hơi. Lệ thường, nàng là con sâu rượu huýt-ky. Nàng uống bao nhiêu rượu cũng không say. Nhiều đêm, nhảy múa suốt sáng, nàng vẫn khỏe khoắn. Rạng đông, nàng về phòng, lại uống thêm rượu mạnh. Tuy vậy, miệng nàng không hề đắng, trí óc nàng tĩnh như sáo sậu.
Nhưng đêm nay, mới uống ly rượu thứ nhất nàng đã thấy say. Mặt nàng tái dần, càng tái càng đẹp, đẹp một cách sỗ sàng và kiêu hãnh.
Santô đùa với con dao nhọn ở cuối phòng, dáng điệu bình thản như người vô công, rỗi nghề. Hết nhìn Santô, Luz quay sang Urê. Nàng có cảm tưởng chồng nàng là gã đàn ông xa lạ. Đột nhiên, tay nàng run lên. Nàng gạt ly rượu xuống đất. Cái ly pha lê vỡ nát, huýt-ky bắn tung tóe. Rồi nàng ngồi phịch xuống, ôm mặt khóc nức nở.
Urê lại gần, giọng ôn tồn:
- Em mệt ư?
Nàng ngẩng đầu, cử chỉ thách thức:
- Tôi ghét ông, thù ông lắm rồi, ông đừng an ủi tôi nữa. Tấn trò giữa ông và tôi đến đây là hết.
Urê lại mỉm cười:
- Thật ra, tôi không muốn em buồn, song nhiệm vụ bắt buộc. Nhiệm vụ không cho phép tôi buông tha Văn Bình. Vả lại, đặt vào địa vị đàn ông bị tình phụ, em mới hiểu được lòng tôi. Lát nữa, hắn đi rồi, tôi cần nói chuvện với em dứt khoát. Tôi tin em còn đôi chút cảm tình với tôi, do thời gian chung sống với nhau mà ra. Vì dầu sau, em đã ăn nằm với tôi từ thời con gái. Thời gian trôi qua rất nhanh, em ạ. Em sẽ quên hắn, cũng như hắn sẽ quên em.
Luz xô cái ghế ngã lỏng chỏng:
- Tôi cấm ông không được mó vào người tôi. Ông đừng buộc tôi phải làm dữ.
- Thì em đã làm dữ rồi. Em đã rút súng, bắn tôi để giải thoát cho tình nhân. Luz, em đã lầm, lầm một cách tai hại. Nếu không còn tình yêu với em, tôi đã tặng cô một viên đạn. Nghĩ lại cho chín chắn, em Luz. Kế hoạch của tôi sắp thành công vẻ vang, tôi sắp trở thành nhân vật Huk số một. Tôi sắp điều khiển phong trào Huk trên toàn Phi Luật Tân, oai hùng như ông vua. Luz sắp thành bà hoàng... Mai kia, tôi sẽ chiếm trọn quần đảo Phi Luật Tân. Luz ơi, bắt đầu từ ngày mai, tiếng nói của tôi sẽ làm nước Phi Luật Tân run sợ... Luz biết nguyên nhân chưa?
Luz tái mặt nhìn chồng. Urê gạt tàn xì gà, giọng đều đều:
- Đó là kết qủa của ba năm trời nghiên cứu và bố trí. Tiềm thủy đĩnh R.U. sắp chở vào bờ một số bom nguyên tử bỏ túi. Đoàn chuyên viên R.U. có nhiệm vụ gài bom này dọc bờ biển, đặc biệt là tại các thị trấn lớn. Ngòi bom được rút sẵn, chỉ bấm nút vô tuyến điện là nổ tung. Em thấy chưa? Gài bom xong, tôi chỉ cần gọi điện thoại cho phủ Tổng thống, và ra điều kiện. Bắt buộc họ phải nghe tôi, bắt đầu là việc phóng thích các nhân viên ủy ban trung ương Huk hiện bị giam giữ.
- Chính phủ và Quốc hội sẽ không bao giờ nghe lời ông đâu.
- Ồ, em đừng ngại. Nếu họ không nghe lời, tôi có cách thuyết phục họ ngay. Tôi sẽ cho nổ một trái bom ở vùng rừng núi, hẹn ngày, hẹn giờ và hẹn chỗ trước, Họ không có phương pháp nào khám phá ra, trong khi đó tôi nằm nhà, với bản đồ trước mặt và máy vô tuyến đặc biệt, tha hồ reo rắc thần chết. Trước kia, Nhật Bản cũng không chịu đầu hàng. Hai quả bom nguyên tử thả xuống Trường Kỳ và Quang Đảo đã bắt họ thay đổi ý kiến. Trái bom nguyên tử bỏ túi đầu tiên của tôi sẽ làm họ xét lại lập trường.
- Họ đã bắt được Cáclốt. Nghĩa là họ đã khám phá ra kế hoạch của ông. Dĩ nhiên, họ phải tìm cách đối phó.
Urê nhún vai, ra vẻ khinh bỉ:
- Em biết một mà chưa biết hai. Trung ương phái Cáclốt qua đây để thí nghiệm phương pháp giao liên bằng thôi miên học. Phương pháp này rất cần thiết trong tưorng lai, khi đối phương tóm được chìa khóa mật mã và phá được luồng sóng vô tuyến điện. Để tôi giải thích cho em rõ: hiện nay, ta vẫn liên lạc với Trung ương bằng vô tuyến điện, và đối phương đều nghe được mọi bức điện ta chuyển đi, nếu họ nắm được chìa khóa mật mã và hiểu được nội dung thì ta nguy. Trên thực tế, đối phương hiện có máy điện tử tối tân để khám phá ra chìa khóa mật mã.
Ngoài ra, đối phương đang nghiên cứu phương pháp phá luồng sóng vô tuyến. Chẳng hạn, ta đánh điện về Trung ương, luồng điện của ta bị tan vào không gian, khiến Trung ương không nhận được.
Cáclốt được Trung ương dùng để thí nghiệm một phương pháp giao liên mới, tuyệt đối an toàn. Chỉ có thế thôi. Cáclốt bị bắt, Trung ương bèn quay lại phương pháp liên lạc vô tuyến điện thường lệ.
Luz cười nhạt:
- Kiêu căng thường dẫn đến thất bại. Bị thất bại nhiều lần trong đời, tưởng ông biết điều hơn, ngờ đâu ông vẫn tự túc, tự mãn một cách lố lăng như ngày хưа. Urê ơi, ông quên rằng sở Phản gián Phi Luật Tân đã nắm được chìa khóa mật mã R.U.
- Hừ, chỉ nắm được một phần thôi.
- Nghĩa là họ đã đọc được nội dung các bức điện giữa Trung ương và ông.
Urê cười vang:
- Cám ơn em. Tôi phàn nàn em mới biết một, chưa biết hai là thế. Sở Phản gián Phi đọc được mật mã của tôi, song ngược lại, tôi đã đọc được tư tưởng của họ. Họ nghĩ gì, tôi cũng biết. Họ làm gì, tôi cũng biết. Hiện thời, họ đang bủa vây bến 14. Họ đinh ninh tôi mang người tới bến để đợi tiềm thủy đĩnh. Họ tưởng tôi dại dột cho đầu vào thòng lọng. Thật ra, họ mới là người dại dột. Họ bị tôi lừa mà không biết.
Luz nhìn chồng, vẻ mặt sửng sốt:
- Ông đã lừa họ?
Urê gật đầu:
- Vâng, tôi đã lừa họ. Em có nghe tiếng tiểu liên bắn dưới bến 14 không? Đó là nhân viên của tôi bắn báo hiệu: hai phát lẻ, tiếp theo một tràng. Nhân viên của tôi đã trà trộn vào sở Phản gián Phi. Ha, ha, họ tha hồ bao vây bến 14...
- Ông là quỷ sa tăng.
- Còn danh từ nào nặng hơn nữa, xin bà tặng tôi một thể. Dầu là quỷ sa tăng, tôi vẫn chung thủy với bà. Tôi không ngoại tình với người khác. Còn bà... Trên giấy tờ, bà là vợ tôi, nhưng trên thực tế, bà ngủ với đàn ông khác. Bà là con điếm.
- Tôi cấm ông dùng lời lẻ thô lổ.
- Ha, ha, tình nhân của bà còn ngủ say, không nghe được đâu.
Luz ngồi im, mặt tái nhợt, bàn tay run run. Nàng đang tức giận đến cực độ. Santô cất dao vào túi, cười mỉm một mình. Urê nhìn đồng hồ, đoạn nói:
- Đến giờ rồi, chúng mình lên đường thì vừa. Bà Luz, xin bà xuống trước với Santô. Tôi sẽ cho khiêng Văn Bình và Rôsita ra xe sau. Yêu cầu bà tôn trọng kỷ luật. Nếu không, Santô sẽ phải xử tệ với bà.
Gió biển thổi vù vù. Luz quay lại Urê:
- Ông mang họ đi đâu?
Urê đáp:
- Tagaytay.
Luz rùng mình. Tagaytav là bãi biển cách thủ đô Mani mấy chục cây số. Trong khi lực lượng Phản gían Phi được huy động rầm rộ để bủa vây bến 14 thì tiềm thủy đĩnh R U. điềm nhiên ghé vào Tagaytay. Văn Bình sẽ bị đưa về Nga Xô. Nàng sẽ mất chàng mãi mãi.
Chiếc xe Hoa Kỳ dài ngoằng phóng ra khỏi biệt thự, máy êm như ru. Santô huýt sáo miệng một bài ca cao bồi tây Mỹ. Urê lặng lẽ hút xì-ga. Con đường nhựa thẳng tắp mở rộng trước mặt.
Gió biển thổi vù vù.
.................................................................................
.................................................................................
Theo lệnh đại tá Ecuđô, nhân viên Phản gián mặc thường phục được tập hợp đông đủ trong văn phòng bến 14. Ecuđô hỏi viên trung úy:
- Ai ra lệnh bắn?
Viên trúng úy đứng nghiêm:
- Thưa đại tá, trước giờ khởi hành, tôi đã dặn dò kỹ càng là không ai được nã đạn trước. Nhưng...
Ecuđô cướp lời:
- Nhân viên nào đã trái lệnh?
- Thưa, thượng sĩ Mita.
Mita là một thanh niên gày gò, tóc rối bù, để râu quai nón dữ tợn. Dáng điệu thản nhiên, hắn tiến đến trước mặt Ecuđô. Lê Diệp quay lại viên trung úy:
- Chúng tôi cần nói chuyện với Mita một lát. Phiền trung úy cho nhân viên ra ngoài, tiếp tục canh phòng bến 14 như cũ.
Cửa phòng đóng lại. Đại tá Ecuđô nhìn Lê Diệp, thầm hỏi ý kiến. Lê Diệp nhìn thẳng vào mắt thượng sĩ Mita.
- Tại sao anh bắn trước?
Mita ung dung đáp:
- Thưa, tôi không bao giờ dám trái lệnh. Chẳng may súng cướp cò, đạn vọt ra ngoài. Vì trung úy dặn chúng tôi nạp đạn sẳn.
Lê Diệp cười nhạt:
- Anh biết hậu quả vụ này ra sao không?
- Thưa, tôi không biết. Tuy nhiên, địch đã bị giết hết trên bến 14 rồi. Nếu tôi có lỗi, tôi xin thành thật...
Lê Diệp đập tay xuống bàn:
- Đừng dài dòng vô ích. Urê trả anh bao nhiêu tiền?
Mặt thượng sĩ bỗng tái xanh như tàu lá. Lê Diệp rút lưỡi dao sắc như nước, ướm vào cổ Mita, giọng chát chúa:
- Tôi chưa giết anh đâu, vì giết anh là giải thoát cho anh. Trước khi bắt anh chết, tôi còn hành hạ anh đủ đường. Lưỡi dao này sắc hơn dao cạo, tôi chỉ xoẹt nhẹ là anh mất tai, mất mũi.
- Ông không có quyền tra tấn tôi. Dầu sao, Phi Luật Tân cũng là một nước dân chủ, có pháp luật, có tòa án, hiến pháp tôn trọng quyền tự do của công dân. Nếu tôi phạm lỗi, ông phải mang tôi ra tòa. Tòa nào cũng được, kể cả tòa quân sự...
Lê Diệp bỉu môi:
- Pháp luật chỉ được áp dụng cho những công dân không ăn tiền của Urê, không làm tay sai cho gián điệp Huk. Pháp luật càng không được áp dụng cho nhân viên phản gián một mặt, hai lòng.
Thượng sĩ Mita quay lại phía Ecuđô, giọng cầu khẩn:
- Thưa đại tá, tôi đã làm tròn bổn phận. Chẳng qua, một giây đồng hồ lỗi lầm mà ra. Tôi xin phép đại tá được liên lạc với luật sư.
Lê Diệp phớt lưỡi dao qua hàm râu quai nón của Mita, những sợi râu cứng đua nhau rơi lả tả:
- Muốn ra tòa án, muốn tìm luật sư, anh hãy đợi kiếp sau. Kiếp này, anh sẽ làm ma không đầu. Xẻo tai, xẻo mũi, móc mắt anh xong, tội sẽ cắt đầu, qưang xác anh xuống biển.
.................................................................................
(Thiếu trang)
.....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................
Santô loay hoay tìm bật lửa hút thuốc, Urê gạt phắt:
- Trời tối không nên hút thuốc, người ta trông thấy.
Santô đáp:
- Nếu vậy, người ta đã trông thấy đèn pha bật tắt rồi.
- Mày ngu như bò. Xe hơi quay lưng ra biển. Ngoài khơi nhìn vào họ thấy sao được.
- Thưa, sao ông biết họ đang ở ngoài khơi?
- Mày đừng hỏi lẩn thẩn nữa.
Phía trái lóe lên một tia đèn bấm màu đỏ. Urê rút súng, tì lên cửa xe.
Ba phút trôi qua, một bóng người tiến lại. Cách xe ba thước, bóng đen cất tiếng:
- H. Ai đấy.
Urê đáp:
- K.
Bóng đen tiến gần thêm nữa. Urê mở cửa bước xuống. Luz véo mạnh vào mông Văn Bình. Không thấy chàng phản ứng, nàng thở dài thườn thượt. Urê quay lại:
- Bà thở dài nhiều quá.
Bóng đen chiếu tia đèn đỏ vào trong xe rồi nói:
- Xong rồi.
Urê hỏi:
- Bây giờ đi đâu?
Bóng đen đáp:
- Mời ông vào căn nhà gỗ số 8 nhìn ra biển. Tôi vừa nhận được tin xong. Ca-nô sắp ghé bờ rồi.
Santô ghé vai, đỡ Văn Bình lên vai. Bóng đen khiêng Rôsita. Urê lầm lì theo sau, tay vẫn lăm lăm súng lục.
Đối với Văn Bình, Tagaytay không phai là nơi xa lạ. Hơn một lần, chàng đã lên đây nghỉ mát. Dọc bờ biển có hàng chục ngôi nhà gỗ bên trong kê giường nệm hẳn hòi, được dùng làm nơi hẹn hò trai gái. Nhiều phái đoàn ngoại quốc tới Phi thăm viếng thường được mời đến Tagaytay, nhảy suốt đêm trong câu lạc bộ rồi từng người một, sánh vai những kiều nữ có thân hình núi lửa, vào nhà gỗ đóng cửa lại.
Mọi người dừng lại. Urê ra lệnh:
- Santô, anh đưa Rôsita và Luz sang căn bên. Tôi ở lại đây một mình với thằng Văn Bình.
Văn Bình được ném lên giường. Một ngọn đèn đêm màu xanh được bật lên. Urê hỏi người liên lạc:
- Tàu nổi lên chưa?
- Thưa, cách đây một giờ. Hiện nằm yên dưới biển.
- Đội phòng vệ duyên hải có qua đây không?
- Thưa không. Công cuộc phòng vệ ở Tagaytay do tôi phụ trách. Bộ chỉ huy vừa gọi điện thoại cho tôi hỏi tình hình. Tôi đáp là tình hình rất yên tĩnh. Họ đang bao vây ở Mani, không léo hánh đến đây đâu, ông đừng ngại. Bây giờ, tôi ra chờ ngoài bãi. Khi xuồng cập bến, tôi sẽ tin cho ông biết.
Urê đóng chặt cửa, rút xì già ra hút. Nhìn Văn Bình nằm quay mặt vào vách, hắn nhoẻn miệng cười khoái trá. Hắn không thể ngờ được Văn Bình đã tỉnh lại hoàn toàn.
Văn Bình thở từ từ cho không khí tràn đầy buồng phổi. Trước giờ hành động, chàng muốn cơ thể được sảng khoái.
Bỗng Urê khựng người. Hắn vừa nhìn thấy trong tấm gương nhỏ treo ở đầu giường. Tấm gương phản chiếu đôi mắt lim dim của Văn Bình, Nhanh như cắt, Urê đứng dậy, khẩu súng bay ra khỏi túi, chuẩn bị nhả đạn.
.................................................................................
.................................................................................
Trong khi ấy, thảm kịch xảy ra trong căn nhà gỗ kế cận. Santô ra lẹnh cho Luz ngồi xuống ghế. Rôsita vẫn nằm thiêm thiếp. Biết cơ hội thoát thân đã tới, Luz bèn vắt chân, để lộ cặp đùi đều dặn, trắng trẻo, mắt ngó Santô không chớp.
Hắn nuốt nước bọt ừng ực, giả vờ rút thuốc ra hút. Luz gọi nho nhỏ:
- Santô.
Hắn thở hồng hộc như người vừa chạy đua 100 thước ngoài vận động trường thế vậ:n:
- Gì thế?
- Anh lại đây tôi bảo.
- Thôi, bà tha cho tôi. Urê ghen lắm.
Luz cười:
- Urê già rồi, già lắm rồi. Sau vụ này, tôi sẽ bỏ đi.
- Bà đi đâu?
- Đi đâu cũng được, miễn hồ xa được Urê.
- Thà chết, Urê không chịu để mất bà.
- Thà chết, tôi không thể ở lại với hắn.
- Bà nói khẽ chứ, ông ấy nghe được thì khốn.
- Santô, anh không giúp tôi được ư?
- Tôi không dám.
- Tôi đã đọc thấy sự ưng thuận trong mắt anh. Santô, anh hãy giúp tôi, tôi sẽ đền công xứng đáng cho anh.
Mặt Santô đỏ như uống rượu. Hắn lảo đảo dựa vào thành giường, miệng lẩm bẩm:
- Bà... im đi... tôi không dám.
Nàng tiến lại gần Santô. Miệng nàng phà hơi vào mặt hắn. Như ngây, như dại, hắn hỏi nàng:
- Bà muốn tôi làm gì?
- Lấy thuốc giải mê cho cô Rôsita uống.
- Thuốc ấy, ông Urê giữ trong túi.
- Vậy, anh giúp tôi hạ sát Urê.
- Trời ơi! Tôi không dám làm phản, vả lại, Urê rất giỏi võ, chỉ nâng cánh tay lên là tôi mất mạng. Tôi sẵn sàng hy sinh vì bà, nhưng không thể hy sinh đến mức độ ấy. Bà hiểu cho... Bà vừa nói những lời bậy bạ, ông Urê nghe được thì cả bà và tôi đều nguy đến tính mạng.
Luz đặt bàn tay trắng nõn lên vai Santô. Nàng thấy mắt hắn lờ đờ như người hít bạch phiến. Thời cơ thuận tiện đã tới, nàng không thể trì hoãn thêm nữa. Khẩu súng nạp đạn sẵn của Santô tòng teng ở thắt lưng. Nàng xoay mình nhè nhẹ, khẩu súng rơi vào tay nàng.
Santô thét lớn:
- Bà làm gì thế?
Nàng điềm tĩnh bóp cò. Viên đạn bay vèo vào ngực Santô. Hắn rú lên như con heo bị thọc tiết rồi ngã quỵ xuống. Nàng nhắm mặt hắn, bắn thêm phát nữa.
Tiếng súng chát chúa làm Rôsita bàng hoàng tỉnh dậy. Song nàng chỉ nhìn bằng mắt thất thần. Luz giật tóc mai, gọi:
- Rôsita, chị Rôsita.
Rôsita ú ớ, rồi nhắm nghiền mắt. Luz thở dài não nuột. Nàng không còn cách nào hơn ngoài cách gặp Urê để lấy gói thuốc giải mê. Nàng xô cửa bước ra ngoài. Sóng vỗ rì rầm. Gió khuya tạt qua rặng phi lao kêu vu vu. Khung cảnh bãi biển Tagaytay thật thần tiên. Trong quá khứ, nhiều đêm nàng lái xe lên Tagaytay, cởi bộ quần áо, vẫy vùng trong làn nước mát rợi. Tắm xong, nàng chạy lên bờ, ánh trăng bàng bạc nô đùa trên thân thể hỏa diệm sơn của nàng. ,
Có lần nàng nằm dài trên cát với một người đàn ông khôi ngô, lịch sự và khỏe mạnh. Người ấy đã làm nàng quên được Urê trong phút chốc. Song nàng không yêu. Nàng chỉ cần được ôm ấp để khỏi lạnh lẽo. Người đàn ông khác chủng tộc đang bị giam trong căn nhà gỗ đìu hiu còn khôi ngô, lịch sự và khỏe mạnh gấp chục lần.
Gần chàng, nàng cảm thấy cuộc đời đầy hương và mộng. Nàng phải cứu chàng...
Nàng bước chầm chậm vì gót giầy bị lún xuống cát. Gió biển thổi tóc nàng lòa sòa. Ngoài khơi vẫn đen kịt. Xa xa leo lét ánh đèn của câu lạc bộ.
Đến căn nhà của Urê, nàng dừng lại. Trù trừ một giây, nàng đập mạnh vào cửa gỗ.
Sắp sửa nhả đạn, Urê thét to:
- Ai đó?
Nàng đáp lớn, giọng sợ hãi:
- Em đây.
Bên trong, Văn Bình vẫn nằm quay vào tường, xương sống lạnh ngắt như toàn thân bị dầm trong thùng nước đá. Chàng biết là Urê đã khám phá kế hoạch giả mê của chàng. Song chàng không dám phản công vì nghe Urê đứng dậy.
Urê càu nhàu mở chốt cửa. Nhanh như chớp, Luz bóp cò. Nhưng Urê lại nhanh hơn, không hổ danh đệ nhất xạ thủ của đảng Huk. Viên đạn của Luz vút qua màng tang Urê. Tuy nhiên, khẩu súng trên tay nàng bị văng xuống đất vì hòn chì bá phát bá trúng của Urê đã trúng cườm tay của nàng.
Vừa khi ấy, Văn Bình vùng dậy.
Urê chĩa súng vào người chàng. Chàng phóng ngọn cược kinh hồn vào người đối phương. Urê hạ tay trái xuống, Văn Bình có cảm giác như chân chàng bị gãy lỉàm đôi.
Thường lệ, chàng đã phóng chân lên đối phương không tài nào đỡ nổi. Ngọn cước của chàng là kết tinh của nhu đạo, quyền Thiếu lâm, môn võ savate của Pháp và Nam Mỹ. Sau nhiều năm khổ công tập luyện, chân chàng có thể cứng như thép nguội, nhưng cũng có thể mềm như bún khi cần thiết. Không hiểu sao chàng lại bị Urê hạ một cách dễ như trở bàn tay.
Văn Bình vùng lên, định phóng luôn hai chân trong thế đá bí truyền cực kỳ nguy hiểm. Nhưng mắt chàng hoa lên, tứ chi chàng đột nhiên rời rã, gân cốt và thớ thịt không tuân theo mệnh lệnh của thần kinh hệ nữa.
Chàng loạng choạng ngồi bệt xuống giường. Urê phá lên cười khanh khách:
- Hừ, ông bạn không làm gì được đâu. Còn lâu mới giã thuốc.
Rồi hắn quay lại Luz đang rên rỉ:
- Không hề gì. Viên đạn đã xuyên qua thịt ra ngoài. Nếu tôi bắn trệch một li, bà sẽ gãy xương. Nếu tôi độc địa, tôi đã bắn vào mặt bà. Song thật tâm, tôi không muốn bà chết. Vì thưa bà, dầu sao tôi vẫn còn yêu bà, yêu bà tuy biết trước bà phản bội.
Luz quắc mắt:
- Giết ttôi đi, còn chở gì nữa?
Urê vẫn cười, cái cười kiêu hãnh và khinh miệt:
- Bà đừng sợ. Tôi không nhỏ nhen như thiên bạ đâu. Dầu sao Urê cũng là nhân viên Нuk trung ương, một tay giang hồ khét tiếng ở châu Á. Tôi sẵn sàng bỏ quên cái chết của Santô. Lẽ ra theo nội quy của tổ chức, tôi phải phanh thây bà ra để trả thù.
Luz nhìn hắn trong sự kinh ngạc dị thường:
- Tại sao ông biết tôi giết Santô?
Urê nhún vai cất súng vào túi:
- Vì, thưa bà, hắn là Santô, tôi là Urê, và bà là Luz, mỗi người có cá tính riêng. Làm nghề thủ lãnh tình báo phải biết đoán trước sự việc xảy ra. Bà yêu Văn Bình, bà phải tìm cách cứu hắn. Tôi đã tạo hoàn cảnh cho bà mà không biết. Tạo hoàn cảnh bằng cách cho bà đi với Santô. Thật ra, tôi hy vọng bà không dùng mỹ nhân kế với Santô. Nghĩa là tôi hy vọng bà còn yêu tôi, dầu là yêu trong thương hại và sợ sệt. Song bà đã giết hắn. Bà làm tôi buồn lắm. Sau bao năm dọc ngang, tôi chưa bao giờ buồn bằng đêm nay...
Dầu sao, tôi cũng cảm ơn bà. Nếu bà không ra tay, tôi cũng phải hạ sát Santô để bảo vệ bí mật tuyệt đối.
- Ông là quỷ sa tăng.
- Bà đã mắng tôi là quỷ sa tăng một lần rồi. Thật ra tôi còn dữ hơn quỷ sa tăng nhiều. Tội nghiệp cho bà, nếu người yêu của bả không bị thuốc mê làm rời rã chân tay, hắn đã có thể ra tay nghĩa hiệp để cứu bà. Bây giờ, hắn chỉ là cái xác không hồn. Giết con ruồi cũng không nổi huống hồ đánh ngã một võ sĩ cừ khôi như tôi. Thưa bà, sống với tôi đã lâu, chắc bà đã rõ nếu Văn Bình có đủ sức mạnh và trí tuệ cũng vị tất khuất phục được tôi, phương chi đang bị hóa chất hành bạ... Bây giờ mời bà bình tĩnh ngồi xuống ghế, tàu ngầm sắp nổi lên rồi, tôi sẽ mời bà lên đường. Nếu bà biết điều, chúng ta sẽ chắp nối lại với nhau. Nhược bằng bà khăng khăng làm điều trái, miễn cưỡng tôi sẽ biếu bà cho bọn cá ăn tiệc.
Luz không đáp, bâng khuâng nhìn Văn Bình. Chàng ngồi thừ, mặt tái nhợt. Thuốc mê làm mạch máu chàng đập chậm lại, công phu luyện tập tan ra thành khói.
Urê lặng lẽ châm xì-gà. Mùi Ha van thơm ngát tỏa đầy gian phòng.
Ngoài khơi, sóng vẫn vỗ rì rầm. Tiếng gió vi vu qua rặng phi lao cao ngất.
Chợt có tiếng gõ cửa. Người liên lạc hồi nãy tiến vào. Urê ngoắt tay ra lệnh. Hai người đàn ông mặc đồ đen хốс Văn Bình lên, khiêng ra bãi biển.
Urê cầm tay Luz:
- Mời bà theo tôi.
Nàng xô hắn ra:
- Tay tôi bị đạn.
Urê cười hềnh hệch:
- Ồ, tôi quên chưa băng lại cho bà. Tôi xin biếu bà cái mù soa này. Kỷ niệm những ngày chúng ta nghỉ mát tại Baghiô.
Baghiô! Danh từ này vừa đánh thức trong lòng nàng một kỷ niệm chua chát. Không phải kỷ niệm sống chung với người chồng mà nàng không yêu. Mà đó là kỷ niệm đằm thắm với Văn Bình.
Trời sáng mờ mờ. Dưới ánh trăng xuông, mặt sóng như được dát bạc nhấp nhô.
Một cái xuồng cao su lớn đã nằm trên bãi cát rộng mênh mông. Urê ra lệnh:
- Đã mang người đàn bà kia xuống chưa?
Người liên lạc đáp:
- Rồi.
Urê quay lại:
- À, còn Santô nữa. Hắn chết rồi. Các anh liệu chôn cất cho tử tế, rồi lau sạch vết máu trong nhà. Nào chúng ta lên xuồng.
Chiếc xuồng tròng trành trên mặt biển nửa tối, nửa sáng. Văn Bình vẫn thiêm thiếp. Ánh trăng nhợt nhạt chiếu vào khuôn mặt đẹp tuyệt vời của Rôsita.
Urê hỏi người liên lạc:
- Còn xa không?
Người liên lạc đáp: -
- Thưa, trong 5 phút sẽ tới.
Urê vứt điếu xì gà cháy dở xuống biển. Cặp mắt bâng kbuâng, hắn hết nhìn Văn Bình đến Luz. Mặc dầu nàng chưa hề yêu hắn, hắn vẫn yêu nàng, và đã quen với thói quen ngoại tình của nàng. Từ bao năm nay, hắn chưa hề ghen, vì nàng chỉ yên bừa bãi, với nhu cầu thỏa mãn chốc lát, song lần này...
Lần này, nàng yêu thật sự. Nàng đã cả gan yêu kẻ thù của hắn. Trong bóng tối mờ mờ, hắn gặp luồng mắt ráo hoảnh của nàng. Nàng ngồi yên nghe tiếng chèo rẽ nước, lòng buồn rười rượi. Nàng biết giờ cuối cùng của đời nàng sắp tới. Hy vọng cứu Văn Bình không còn nữa. Và nàng cũng không tin Urê sẽ tha thứ cho nàng.
Người liên lạc dán tai vào một dụng cụ nhỏ bằng gói thuốc lá. Bỗng hắn cất tiếng:
- Đến rồi.
Xuồng ngừng lại, xoay tròn trên mặt biển lặng sóng. Đột ngột như trong truyện mа quỷ, một vật đen ngòm từ từ nhô lên, nước chảy ào ào.
Tiềm thủy đĩnh R.U.
Nhanh như cắt, cửa trên boong mở ra. Hai phút sau, Văn Bình được khiêng xuống. Con tàu từ từ chìm xuống.
Thế là hết.
Trên thế gian, không còn phép mầu nào cứu sống Văn Bình được nữa, ngoại trừ...
.................................................................................
.................................................................................
Trong ca bin chỉ huy của giang hạm. Lê Diệp thừ người suy nghĩ. Đội phòng vệ vừa chuyển tới một báo cáo khẩn cấp: tàu ngầm địch đã bị phát hiện.
Đại tá Ecuđô thét vào máy vi âm:
- Liệu bắl kịp được không?
Trong máy vẳng ra tiếng tra lời:
- Thưa, ta đang đuổi theo. Nhưng...
- Nhưng sao?
- Đã bắt đầu đến hải phận quốc tế.
Ecuđô ra hiệu cho Lê Diệp:
- Lạ nhỉ. Tòu ngầm của địch chỉ vào đến pải phận Mani rồi quay đầu trở ra khơi. Hay là...
Lê Diệp cắt ngang:
- Họ có thể chở Văn Bình đi rồi không?
Ecuđô lắc đầu:
- Tôi không tin. Dọc bờ biển, hải quân Phi canh phòng rất cẩn mật. Riêng đêm nay, hải phận Mani được canh phòng cẩn mật ngoài sức tưởng tượng. Tôi vừa hỏi các trạm gác xong. Trạm nào cũng báo cáo là không gặp gì lạ. Theo tôi, có lẽ thấy động tiềm thủy đĩnh R U. không ghé đất liền nữa. Họ ra hải phận quốc tế một thời gian, đến khi yên ổn lại quay vào.
Lê Diệp lắc đầu:
- Họ không bao giờ làm như vậy. Trên nguyên tắc nghề nghiệp, nếu thất bại, họ phải bãi bỏ kế hoạch. Tôi nghi bên trong còn có những điểm ta chưa biết.
Đại tá Ecuđô thở phào khỏi thuốc thơm vào mặt Lê Diệp. Không khí trong phòng chỉ huy trở nên nghiêm trọng lạ thường. Bỗng Lê Diệp nói:
- Phiền đại tá ra lệnh cho tàu của ta chặn tiềm thủy đĩnh của họ lại rồi lên khám.
- Không được. Việc này sẽ gây ra hậu quả vô cùng tai hại. Từ xưa đến nay, không ai dám khám tàu bè ngoại quốc trên hải phận quốc tế, trừ phi trong thời chiến. Ngay cả trong thời chiến cũng rất phiền phức, có thể gặp nhiều khó khăn ngoại giao. Huống hồ Phi Luật Tân là nước dân chủ, tuyệt đối tôn trọng các cam kết quốc tế.
- Đại tá tin nhân viên dưới quyền không?
Ecuđô giật mình:
- Sao không tin? Không tin thì làm việc sao được?
- Vậy còn trường hợp thượng sĩ Mita?
Ecuđô lặng thỉnb. Lát sau mới đáp:
- Thú thật với anh, tôi không ngờ Mita là nhân viên của địch. Song Mita là trường hợp đặc biệt
- Giả sử ngoài Mita rа, địch còn tay sai khác nữa trong đội phòng vệ duyên hải?
- Điều này tôi không biết. Tuy nhiên, tôi có thể bảo đảm với anh là nhân viên tin cậy của sở Phản gián đều có mặt tại các trạm tuần phòng. Họ vừa báo cáo với tôi xong.
Lê Diệp cười chua chát:
- Sở dĩ chính phủ anh mời chúng tôi sang đây, chẳng phải vì các anh không có nguời giỏi. Mà chính vì trong sở Điệp báo, đặc biệt là ngành phản gián đã có tay sai của địch trà trộn. Tôi sợ rằng...
Lê Diệp lại yên lặng. Một giọt bồ hôi lăn trên trán đại tá Ecuđô. Lê Diệp đã nói đúng. Nếu đêm nay, một trong các nhân viên chỉ huy phòng vệ thông lưng với địch thì nguy. Nhân viên này nhắm mắt cho tiềm thủy đĩnh của địch ghé bờ, mang Văn Bình đi, rồi báo cáo là khu vực hoàn toàn an ninh.
Nói xong, Lê Diệp se sẽ thở dài. Chàng không thể nào làm được, sự việc bắt đầu sáng tỏ như ban ngày. Nếu chàng không áp dụng một kế hoạch liều lĩnh, Văn Bình bạn thân nhất của chàng phải chết, chết một cách thảm thương.
Ecuđô lại hỏi:
- Bây giờ anh tính sao?
Lê Diệp đáp, giọng mơ màng:
- Tôi muốn để anh định liệu.
- Không, người được quyền định liệu là anh. Theo sự vụ lệnh, tôi được đặt dưới sự chỉ huy của anh, tôi có bổn phận phải tuân theo chỉ thị của anh.
- Đặt vào địa vị tôi, anh sẽ làm gì?
- Tôi sẽ đuổi theo tàu địch. Nếu họ chạy thẳng thì thôi, nhược bằng quay vào hải phận Phi lần nữa... Giang hạm của ta đang tiến ra khơi, anh muốn đi thẳng hay trở vào tùy ý.
- Trong số nhân viên chỉ huy cuộc canh phòng anh tin ai nhất?
- Như tôi đã nói, họ đều là cộng sự viên trung thành và có khả năng. Tôi không hề ngờ vực họ. Kẻ nào nghi họ là điên.
- Theo anh, người nào trung thành nhất?
- Đại úy Lim, phụ trách khu vực Tagaytay.
Gió bắt đầu đổi chiều. Lê Diệp mở cửa lên boong. Mảnh trăng mỏng lét vừa khuất sau đám mây đen kịt. Mặt boong đen kịt. Đại tá Ecuđô chìa thuốc lá mời chàng. Tuy ghét thuốc lá, chàng vẫn cầm lấy. Ecuđô xây lưng về phía chàng, lơ đãng nhìn ra khơi.
Trong đêm tối, mắt Lê Diệp sáng quắc như có ánh điện. Đột nhiên, chàng vung bàn tay, đánh mạnh vào gáy đại tá Ecuđô. Nạn nhân ngã xuống, kêu lên một tiếng nhẹ. Lê Diệp cúi xuống bồi phát atémi thứ hai vào đỉnh đầu Ecuđô. Dầu khỏe như bò mộng thì hai cú atémi kinh khủng của Lê Diệp cũng làm bất tỉnh, ít nhất một giờ đồng hồ. Lê Diệp chỉ cần một giờ đồng hồ để thi hành kế hoạch, táo bạo cứu thoát Văn Bình và Rôsita.
Hai phút san, chiếc giang hạm gắn động cơ cực mạnh rẽ sóng phăng phăng tiến về Tagaytay. Theo lời yêu cầu của Lê Diệp, lực lượng phòng vệ duyên hải bắt đầu bủa vây khu vưc Tagaytay.
Cuộc chạy đua với thời khắc bắt đầu.
.................................................................................
.................................................................................
Con tàu từ từ lặn xuống...
Văn Bình được đưa xuống một ca-bin riêng. Chàng vẫn nằm thiêm thiếp, mặt quay vào tường. Tuy nhiên, một con mắt của chàng vừa mở hé. Suốt thời gian từ trên boong xuống tiềm thủy đĩnh, con mắt mở hé này đã giúp chàng quan sát được tường tận.
Thật ra, chàng không mất hết sức lực như Urê lầm tưởng. Chàng phải vùng dậy phản công vì Urê đã biết chàng tỉnh lại. Đành rằng dư vị thuốc mê còn đọng trong huyết quản, chàng chưa khỏe lại hoàn toàn, nhưng ít ra chàng còn đủ nhanh nhẹn và sáng suốt để chuyển bại thành thắng. Chàng cần kéo dài cuộc đóng trò với Urê xem kết cuộc đến đâu.
Lúc xuống tàu ngầm, Văn Bình hơi thất vọng.
Đó không phải là loại tàu tối tân được chế tạo trong những năm gần đây của Nga Xô mà là tàu Đức từ trận Thế chiến thứ hai, được tu bổ và đổi mời. Có lẽ trung ương R.U. Xô Viết sợ bại lộ, gây phiền phức ngoại giao nên dùng một tiềm thủy đĩnh cũ của Đức để xâm nhập hải phận Mani.
Văn Bình đã quen với loại tiềm thủy đĩnh Vile, loại trung bình của hải quân Quốc xã. Nhắm mắt lại, chàng cũng có thể hình dung ra họa đồ: ở đầu là bốn ống phóng ngư lôi. Kế cận là nơi thủy thủ ngủ. Rồi đến phòng dành cho hoa tiêu trưởng và nhân viên phụ trách cơ khí. Bên trái là nơi đặt máy quạt, và bên phải là cầu tiêu. Tiếp đến phòng sĩ quan hàng hải và sĩ quan kỹ sư.
Phòng của tư lệnh tàu ngầm được che kín bằng tấm vải dày trong góc. Trước mặt y là máy vô tuyến, các máy móc cho tàu lặn xuống, điện thoại... Sát phòng tư lệnh là phòng chỉ huy trung ương. Tất cả máy móc quan trọng đều được tập trung trong phòng đầu não này. Từ phòng chỉ huy, người ta trèo lên boong. Khi lâm sự, phòng chỉ huy biến thành pháo đài, cắt đứt với phía sau và phía trước của tiềm thủy đĩnh bằng những vách thép dầy, đỏ chịu đựng áp lực của nước ở bề sâu 100 thước.
Sau đến phòng hạ sĩ quan gồm 8 cút-sét. Sau đến phòng máy dầu cặn, máy chạy điện, phòng ngư lôi. Thủy thủ từ phía sau tới đều phải qua phòng hạ sĩ quan.
Văn Bình hé mắt nhìn lần nữa. Không thể lầm được, chàng đang ở trong phòng hạ sĩ quan. Trong phòng chỉ có Rôsita và Luz. Luz dựa lưng vào vách tầu, vẻ mặt buồn bã. Rôsita nằm bên chàng, hơi thở thơm tho của nàng phà vào gáy chàng nhột nhạt.
Đột nhiên, chàng nghe tiếng động.
Luz đứng dậy, kéo tấm màn dầy, nhìn ra ngoài. Một tiếng Nga cộc lốc nổi lên:
- Đi vào.
Luz thở dài ngồi xuống như cũ. Văn Bình biết là ngoài cửa có người gác. Và trong khi chàng ở đây, thủy thủ ở đuôi tàu không được phép đi qua. Trong hoàn cảnh này, chàng có hy vọng đạt được mục đích đã vạch.
Hơi thở của Rôsita tiếp tục phà mạnh vào da thịt chàng. Rồi, đột nhiên - như trong cơn mơ thần tiên — Rôsita hích cùi tay vào lưng chàng. Chàng giật mình, nửa ngạc nhiên, nửa sung sướng.
Thật không ngờ...
Chàng không ngờ Rôsita cũng giả vờ ngủ thiếp như chàng. Nhanh như cắt chàng nhỏm dậy. Nhìn thấy, Luz há hốc miệng, suýt kêu lên. Văn Bình đưa ngón tay lên môi, ra hiệu cho nàng im. Trong khi ấy, Rôsita cũng nhẹ nhàng ngồi lên. Nàng nhìn chàng và Luz, miệng cười một cách tươi tắn.
Văn Bình đẩy riềm cửa sang bên. Chàng không cần giữ kẽ nữa. Đứng sau riềm là một thủy thủ đeo súng, dáng dấp to lớn. Hắn mở miệng định quát thì Văn Bình đã giáng vào cuống họng hắn một phát atémi thần sầu quỷ khốc.
Hắn ngã xuống, Rôsita lôi xác hắn sềnh sệch vào trong ca-bin. Vội vã Văn Bình cởi quần áo ra. Chàng quên rằng trước mặt chàng có hai người đàn bà. Và là hai người đàn bà tuyệt đẹp. Chàng không cảm thấy ngượng, và họ cũng không có thời giờ đỏ mặt nữa. Vả lại, họ không lạ gì chàng, chàng cũng không lạ gì họ.
Hiểu ý, Rôsita và Luz cởi sắc phục của tên gác bất hạnh ra. Trong chớp mắt, Văn Bình biến thành một trung úy người Nga. Khác một điều là mũi chàng không được cao và tròng mắt không được xanh biếc.
Phần đầu của kế hoạch đã xong. Chàng chỉ cần hạ được Urê là chiếm phần thắng. Tuy nhiên, hạ được hắn không phải dễ, trừ phi hắn bị tấn công bất thần trở tay không kịp.
Một cánh cửa xịch mở. Urê hiện ra.
.................................................................................
.................................................................................
5 phút trước, không khí trong phòng chỉ huy khẩn trương đến cực độ.
Con tàu lặn xuống một quãng rồi ngoi lên lại. Cách mặt nước 20 thước, viên tư lệnh ngồi xuống ghế da, đặt chân lên hai bàn đạp dưới tiềm vọng kính. Bàn đạp này giúp viên tư lệnh lái vọng kính sang phải và trái. Bàn tay phải chạm vào cái gương riẻng, có thể nhìn lên trời hoặc xuống mặt nước. Ngoài ra còn một bộ phận đặc biệt làm hình ảnh to thêm từ một phần rưỡi đến 6 lần và ngăn cản ánh mặt trời ban ngày làm chòi mắt.
Sĩ quan tư lệnh là một người Nga đứng tuổi, mái tóc bạc phơ, nét mặt điềm đạm. Tiềm vọng kính quét chân trời một vòng: không thấy gì. Hắn thở phào ra, khoan khoái.
Đứng bên, Urê hỏi:
- Có gì khả nghi không?
Viên tư lệnh lắc đầu:
- Không.
- Vậy tôi yêu cầu thực hiện phần nhì của kế hoạch.
Viên tư lệnh nhăn mặt:
- Không được đâu. Tôi vừa nhận được điện của tàu ngầm ngoài khơi. Địch không bị lừa. Nếu tôi không lầm, lực lượng của địch đang quay vào bờ biển. Nếu ta nổi lên, chở các dụng cụ vào bờ, sợ địch khám phá ra.
- Như thế phải làm cách nào bây giờ?
- Theo tôi nên lặn ra khơi, chờ một vài ngày. Hoặc vĩ thẳng Hải Phòng.
- Nhân viên của tôi đang chờ sẵn ở địa điểm định trước. Vả lại, mục đích chính của chuyến đi nầy là chở dụng cụ tối quan trọng vào bờ. Nếu không thì tôi có mặt trên tàu này vô ích.
- Về phần tôi, tôi có bổn phận bảo vệ con tàu và thủy thủ của tôi. Đành rằng chúng tôi dùng toàn đồ của Đức, nếu bị bắt, địch không tài nào phăng ra... song tôi không muốn hy sinh một cách vô ích. Lát nữa, nếu tình hình hoàn toàn ổn định, tôi sẽ trở lại vụ ghé bờ biển.
Urê thở dài. Đột nhiên, một sĩ quan tùy viên hớt hải tiễn đến trình viên tư lệnh một mảnh giấy vàng. Đọc xong, viên tư lệnh toát bồ hôi. Bức điện được đánh bằng chữ thường rõ ràng như 2 với 2 là 4:
“Phản gián Phi Luật Tân gửi tiềm thủy đĩnh R.u. ở bờ biển Tagaytay.
Chúng tôi đã biết rõ vị trí của tàu. Với phương tiện kỹ thuật tân tiến mà chúng tôi hiện có, tàu ngầm của các ông không thể nào trốn được ra hải phận quốc tế.
Chúng tôi ra lệnh cho các ông nổi lên. Trong vòng 10 phút nữa, nếu các ông không trả lời, chúng tôi sẽ áp dụng biện pháp mạnh.”
Viên tư lệnh ngồi thừ trên ghế, toàn thân bàng hoàng như vừa bị đánh vào thái dương. Tay run run, hắn xoay tiềm vọng kính lên lần nữa. Mặt biển rực sáng như ban ngày. Hắn chỉ thấy toàn ánh sáng. Hãi quân Phi đã nghênh tiếp sẵn sàng.
Sau nhiều năm lênh đênh trên biển cả, hắn chưa bao giờ biết sợ. Lần này, hắn sợ. Đúng như bức tối hậu thư đã nói, con tàu Đức cũ kỹ của hắn không tài nào trốn khỏi màng lưới ngư lôi, bom đạn và thuốc nổ của hải quân Phi được trang bị dụng cụ truy tầm tân tiến và võ khí chống tiềm thủy đĩnh ghê gớm.
Song bản năng của viên tư lệnh lão luyện bắt hắn buông ra khẩu lệnh:
- Lặn xuống 100 thước.
Động cơr điện chạy rì rầim. Urê hỏi, giọng nho nhỏ:
- Liệu thoát được không?
Viên tư lệnh không đáp, lặng lẽ nhìn vào đống máy móc trước mặt. Urê hỏi lại, viên tư lệnh ngẩng đầu lên:
- Tôi sẽ cố gắng. Song tôi không tin. Trong Thế chiến thưa hai, hải quân chỉ có thể khám phá ra tàu ngầm khi tàu nổi lên. Hiện nay, đã có nhiều dụng cụ điện tử tối tân tìm ra tàu đang lặn dưới biển. Tuy tôi cho tàu chìm sâu xuống nước, họ cũng nhìn thấy. Trừ phi lặn sâu thêm nữa, nhưng theo chỗ tôi biết, vỏ tàu này chỉ xuống đến 180 hoặc 200 thước là nhiều. Và chúng ta chưa có thời giờ lặn sâu xuống mực ấy. Vì lẽ tàu mới ra khỏi bờ, đáy bể còn nông lắm.
Urê thở dài:
- Nếu còn 50 phần trăm hy vọng, tôi đề nghị tiếp tục lẩn trốn. Ngược lại...
Viên chỉ huy cắt ngang:
- Tôi nói rõ để ông định liệu Theo chỉ thị, tôi chỉ được phép ghé bờ chở ông lên và rỡ hàng xuống trong điều kiện hoàn toàn an ninh. Và chỉ thị cũng nhấn mạnh rằng khu vực này hoàn toàn an ninh. Chỉ thị không dặn tôi phải phá hủy tầu.
- Ông định đầu hàng ư?
- Tôi không nói hẳn như vậy. Hiện tôi đang tìm cách phóng hết tốc độ ra hải phận quốc tế. Ra đến ngoài ấy, hải quân Phi không làm gì được ta. Nhưng từ đây đến hải phận quốc tế, cũng còn nhiều đường...
Bặm môi nghĩ ngợi, Urê nói:
- Ông đừng lo. Tôi đã có cách. Ông cứ tiếp tục cho lặn xuống. Tôi sẽ dùng những người lúc nãy làm con tin. Lẽ ra, tôi không được quyền cho ông biết danh tính của họ. Song đã đến nước này, thiết tưởng không cần bảo vệ tuyệt đối bí mật nữa. Trong 3 người cùng đi với tôi xuống tàu, có 2 người là nhân viên Phản gián của địch. Người đàn ông là cán bộ chỉ huy cao cấp, mạng sống của hắn còn đáng giá hơn con tàu này và thủy thủ nữa.
Nói xong, Urê hấp tấp mở cửa bước ra ngoài. Thủy thủ đã luồn bao dạ vào giày để khỏi gây tiếng động. Tàu lặn sâu xuống biển, dưỡng khí phải tiết kiệm nên thủy thủ nào không làm việc phải nằm dài trên sàn để buồng phổi thở thật ít. Trong óc Urê, một kế hoạch khôn ngoan vừa thành hình: hắn sẽ dùng Văn Bình và Rôsita làm con tin cho tiềm thủy đĩnh thoát ra hải phận quốc tế.
Gần đến phòng sĩ quan, nơi Văn Bình bị giam giữ, Urê bất giác đứng khựng lại. Hắn không nhìn thấy nhân viên cầm súng đứng gác như thường lệ. Linh tính của sự nguy hiểm như hồi chuông báo động leng keng trong trí. Hắn luồn tay vào túi áo rút súng.
Núp sau tấm màn dày, Văn Bình bắn trước. Chàng đinh ninh giết được Urê dễ dàng. Song chàng không thể ngờ rằng đạn bị hóc. Nghe cách một tiếng, chàng vội vàng nằm nhoài xuống tàu, tránh phát súng bá phát bá trúng của kẻ thù.
Nét mặt lạnh như tảng băng, Urê nhả đạn. Văn Bình không còn cách nào phản công, đành thản nhiên chờ chết. Bỗng một tiếng kêu thất thanh:
- Tránh mau, Urê!
Đó là tiếng kêu bằng thổ âm tagalog của Luz. Đang núp trong góc, nàng nhô đầu ra, dùng tiếng kêu tuyệtl vọng của mình để cứu Văn Bình. Nàng đoán không sai: nghe tiếng kêu khác thường, Urê hơi run tay, viên đạn trệch ra ngoài, thiếu một phân thì trúng màng tang Văn Bình.
Như người điên, Luz nhẩy xổ vào người Urê.
Hắn khoa tay gạt nàng ra, song nàng bám chặt lấy. Hắn nghiến răng quật xuống một phát atémi ghê gớm. Nàng rú lên một tiếng đau dớn. Khối thịt của nàng - khối thịt độc nhất vô nhị từng làm hàng ngàn đàn ông say me - ngã vập vào bức tường thép kiên cố.
Không lỡ dịp, Văn Bình phi thân lại sát Urê. Hắn chưa kịp lảy cò thì Rôsita đã sấn tới, đánh vào cườm tay cầm súng. Nàng chưa phải là đối thủ đồng cân, đồng lạng nên ngón đòn nguy hiểm của nàng chỉ làm hắn đau tay, chứ không tuột súng. Hắn vung tay phản công song Rôsita nhanh mắt tránh khỏi.
Khi ấy Văn Bình đã quấn lấy Urê. Tài nghệ của Văn Bình nổi bật nhất những lúc sát lá cà. Trong đời điệp báo, ít khi chàng thua địch thủ trừ khi gặp phải võ sĩ thượng thặng về nhu quyền, nắm tay nhẹ nhàng đủ giết con voi, hoặc võ sĩ karatê tuyệt đĩnh có thể đấm méo tường sắt.
Văn Bình tung hai phát atémi ra cùng một lúc. Urê nhảy tréo sang bên, một chân co lên, bàn tay nắm một nửa để gần hông, trong thế bái tổ độc đáo của võ karatê, mệnh danh là tsuru ashi-dachi. Lối thủ thế này trông bay bướm và yếu đuối song rất nguy hiểm.
Văn Bình đối phó lại bằng thế neko ashi đachi, ngón chân kiễng lên, đầu gối hơi trùng xuống, bàn tay xòe ra thật đẹp. Urê kêu lên:
- À. mày biết đánh karatê?
Văn Bình cười nhạt:
- Thường thôi. Đủ sức đánh tan xương một võ sĩ đai đen.
Urê chuyển thế, quạt tới tấp những miếng đòn trời giáng vào người Văn Bình. Nếu chạm người khác, thân thể đã nát bấy, song Văn Bình tránh né, đỡ gạt một cách nhẹ nhàng và bay bướm. Những độc thủ karatê của Urê đều bị Văn Bình chế ngự, tuy nhiên, chàng vẫn chưa thể quật ngược lại đối phương.
Căn phòng quá chật hẹp, tứ phía đầy máy móc, sàn tiềm thủy đĩnh lại nghiêng nghiêng, không thuân lợi cho cuộc đấu quyền. Văn Bình lại phải đánh ngã Urê trong thời gian kỷ lục, nếu không một nhân viên của địch từ phòng chỉ huy tới sẽ làm hỏng kế hoạch của chàng.
Nghĩ vậy, chàng bèn đổi thế, dùng toàn những miếng kỳ dị, pha trộn quyền Thiếu lâm lẫn võ sambô Xô Viết. Bàn tay chàng xòe ra rồi chụm lại, quạt vào mặt Urê. Hắn nghiêng đầu tránh khỏi, nhưng ngón tay trái của chàng đã chạm vào thái dương. Cái tát sambô Xô Viết đã nổi tiếng trong trận Đại chiến thứ hai, giết chết hàng trăm binh sĩ Đức Quốc Xã tại Âu châu. Văn Bình vừa giỏi Sam bô, vừa biết kết hợp cái tát độc đáo của võ thuật Nga với phép tấn công tinh vi của biệt kích Mỹ. Nên vừa trúng đòn đầu tiên, Urê đã loạng choạng.
Văn Bình bước lên một bộ, hai bàn chân cùng phóng ra một lúc. Hai ngọn cước phi thường cách nhau không đầy một phần trăm tích tắc đồng hồ. Bị đá vào hông, Urê rú lên một tiếng đau đớn.
Văn Bình chém atémi liên tiếp vào bả vai đối phương. Lần này, tiếng rú của hắn trở nên thảm thiết như con heo bị thọc huyết. Nhanh như cắt, chàng nắm lấy tay áo hắn, giật lại, đồng thời phóng ra miếng atémiỉ kết thúc như điện xẹt.
Urê ngã nhào xuống đất và nằm lịm.
Văn Bình khoát tay ra hiệu cho Luz và Rôsita:
- Mau lên.
Cánh cửa thép lên phòng chỉ huy vụt mở. Một người Nga lực lưỡng tiến vào.
Rôsita đã xỉa năm ngón tay nhọn hoắt vào mặt hắn. Máu chảy đầm đìa, hắn đưa tay lên ôm mặt. Văn Bình quạt thêm một trái thôi sơn kinh hồn nữa.
Con đường phía trước đã dọn hết chướng ngại vật. Giờ đây chỉ còn nhân viên của địch trong phòng chỉ huy nữa. Nếu chế ngự được họ, Văn Bình có thể làm chủ tàu ngầm, bắt ngoi lên và chạy vào bờ biển Tagaytay.
Phòng chỉ huy ngập trong làn ánh sáng đỏ mờ mờ. Viên tư lệnh tàu ngầm đang ngồi yên như pho tượng trên cái ghế da màu đen. Các sĩ quan thuộc cấp bận thường phục chúi mũi trên máy tính điện tử và máy móc.
Văn Bình hươri mũi súng, giọng bình thản:
- Tất cả giơ tay lên.
Luz cũng thét lên bằng tiếng Nga:
- Toàn thể hãy ngồi im. Ai cử động sẽ bị bắn nát óc.
Viên tư lệnh từ từ đứng dậy. Văn Bình ra lệnh:
- Yêu cầu sĩ quan tư lệnh quay lại.
Mọi nhân viên trong phòng chỉ huy nhìn Văn Bình bằng con mắt nửa sửng sốt, nửa kinh hoàng. Họ không ngờ lại bị tấn công đột ngột và lạ lùng trong con tàu đi ngầm dưới biển, giữa lúc bên trên lực lượng hải quân Phi vây kín, chỉ còn đợi lệnh bấm nút là tiềm thủy đĩnh R U. tan vụn như cám.
Văn Bình tiến đến trước mắt viên sĩ quan tư lệnh:
- Đồng chí của ông đã bị tôi giết rồi, giờ đây ông phải tuân theo mệnh lệnh của tôi. Yêu cầu ông ra lệnh cho thủy thủ tiếp tục công việc, và cho tàu nổi lên lập tức. Xin báo ông biết tôi là cựu sĩ quan tiềm thủy đĩnh, tôi sẽ bắn ngay tại chỗ người nào có hành động ngược lại.
Viẻn tư lệnh nhún vai:
- Nghe ông, chúng tôi cũng chết, mà không nghe cũng chết. Hải quân Phi vừa điện cho tôi, hẹn trong 10 phút phải nổi lên, nếu không sẽ tấn công toàn diện. 5 phút đã qua rồi. Chỉĩ còn 5 phút nữa. Ông là sĩ quan phản gián Phi, còn tôi là sĩ quan R.U. Đối với người như ông và tôi, cái chết là chuyện thường. Cho nên, tôi quyết định chọn cái chết. Trừ phi...
Văn Bình nói:
- Lấy danh dự một quân nhân ở cấp đại tá, tôi trân trọng cam kết trả tự do cho ông và toàn thể thủy thủ. Tiềm thủy đĩnh sẽ được tự do ra khơi sau khi chúng tôi lấy hết khí giới, đặc biệt là một số khí giới nguyên tử do R.U. chở đến đây, với ý định giấu trong bờ biển.
Viên tư lệnh trợn tròn mắt:
- Trời ơi!
Văn Bình cười nhạt:
- Chúng tôi đã biết hết, ông đừng chối quanh vô ích. Những trái bom nhỏ ông chở trên tàu sẽ được cho nổ bằng vô tuyến điên khi cần tới. Nếu ông liều chết, một vụ nổ ghê gớm sẽ xảу ra, tầm hậu quả trên thế giới sẽ rất lớn lao và nước ông, nhất là tổ chức R.U. mà ông là nhân viên sẽ bị Liên hiệp quốc và công luận năm Châu kết án nặng nề. Theo tôi, lối thoát êm thấm nhất cho ông là đầu hàng. Tôi sẽ bảo đảm là báo chí Phi sẽ không biết gì hết. Nội đêm nay, hoặc chậm lắm là sáng mai, ông sẽ được ra khơi. Hoặc nếu ông sợ bị thượng cấp trừng phạt thì tôi sẵn sàng mời ông ở lại, hưởng quyền tá túc chính trị.
Viên tư lệnh cau mày nghĩ ngợi. Không khí trong ca bin chỉ huy đượm mùi dầu ma dút, mùi ẩm mốc trở nên khó thở lạ thường. Một phút sau, viên tư lệnh thở dài:
- Vâng, tôi xin nghe lời ông.
Rồi dõng dạc ra lệnh:
- Cho tàu nổi lên lập tức.
Con tàu đen sì từ từ trồi lên mặt biển sáng rực ánh sáng đèn pha. Trên không, một đoàn trực thăng đang lượn vòng tròn. Chiếc giang hạm cực mạnh của Lê Diệp chực sẵn, Lê Diệp thừ người trên boong, trong óc còn rõ lời dặn của ông Hoàng, tổng giám đốc Mật vụ:
- Văn Bình tài giỏi thật, nhưng dễ lụy vì đàn bà. Tôi hoàn toàn tin cậy ở anh để thực hiện kế hoạch tiếp cứu Mabuhay.
Lê Diệp không thể ngờ rằng lần này cũng như nhiều lần trước, đàn bà đã mang lại sự sống cho Văn Bình. Lần đầu tiên, ông Hoàng tính sai nước cờ. Vào phút chót, đàn bà đã giúp Văn Bình chuyển bại thành thắng.
Tiềm thủy đĩnh đã lên đến mặt nước. Viên tư lệnh gửi điện cho hải quân Phi với hai chữ ngắn ngủi “tuân lệnh”. Phúc điện của hải quân cũng gồm một giòng ngắn ngủi “yêu cầu đưa những người bị bắt lên boong”.
Văn Bình mỉm сười, ra lệnh cho sĩ quan truyền tin:
- Phiền ông đánh cho tôi bức điện nà: Z.28 thành thật cám ơn quí bạn. Tiềm thủy đĩnh hiện được dặt dưới quyền chỉ huy của Z 28. Theo luật hàng hải quốc tế, và nhất là để tăng cường giao hảo giữa hai nước Phi-Việt, trân trọng hải quân Phi nhường quyền sử dụng hoàn toàn cho Z.28.
Bức điện lạ lùng được chuyển tận tay Lê Diệp. Đang buồn bã, chàng bỗng phá lên cười. Trong khi ấy, Văn Bình đã trèo lên boong. Gió biển mát lộng quạt vào mặt chàng. Dưới ánh đèn sáng quắc, chàng thấy rõ nụ сười tươi như hoa nở của Rôsita. Viên tư lệnh R.U. lầm lì đứng bên chàng.
Sực nhớ ra, Văn Bình gọi:
Luz?
Không nghe tiếng trả lời. Tiếng gió, tiếng sóng và tiếng động cơ cực mạnh che lấp tiếng gọi thất thanh của chàng. Vả lại, dầu trời im sóng lặng, chàng cũng không bao giờ gọi được Luz nữa.
Đang đi với Rôsita nàng đứng khựng lại, rồi khuỵu xuống. Hốt hoảng, Văn Bình đỡ nàng lên. Nàng ngước mắt - cặp mắt đen láy - nhìn chàng, mỉm cười nhè nhẹ:
- Chào anh, em đi đây.
Văn Bình gào lớn:
- Tại sao em làm thế?
Nàng cười lần cuối với chàng:
- Em làm xong bổn phận rồi. Bổn phận cứu Rôsita để tròn lời cam kết. Tuy yêu anh tha thiết, em vẫn còn trách nhiệm làm vợ. Thân phụ em trối trăng lại là trọn đời em phải ở với Urê. Vì em mà Urê chết. Em không thể sống với lương tâm cắn rứt. Dầu muốn hay không, em là nhân viên điệp báo R.U. Vĩnh biệt anh... Em uống xi-a-nuya, trừ phi Thượng đế mới cứu em nổi. Em sinh trưởng ở vùng biển, quanh năm bơi lội dưới nước. Chết đi, em chỉ cầu xin anh quấn em vào áo anh và ném xuống biển... Môi em lạnh rồi, hôn anh...
Văn Bình tê tái giờ lâu bên thi thể còn thơm mùi da thịt của người đàn bà kỳ lạ. Từ giang hạm vọng lại tiếng kêu của Lê Diệp:
- Văn Bình?
Văn Bình đứng dậy, một giọt lệ lăn trên gò má. Lần đầu từ nhiều năm nay, chàng khóc. Một toán người từ giang hạm túa xuống tiềm thủy đĩnh, Lê Diệp đi đầu. Lê Diệp ôm chầm lấy Văn Bình. Một sĩ quan Phi cũng ôm chầm lấy Rôsita.
Văn Bình cảm thấy lạnh lẽo và cô đơn hơn bao giờ hết. Chàng bảo bạn:
- Tôi đã hứa với tư lệnh tàu ngầm rồi. Lấy xong vũ khí nguyên tử trong tàu, ta pbải trả tự do cho họ.
Lê Diệp đáp:
- Anh yên tâm. Tỏi được toàn quyền hành động.
Người sĩ quan Phi vừa hôn Rôsita quay sang nói với Văn Bình:
- Mời ông qua soái hạm. Đô đốc tư lệnh đang chờ. Hải quân Pni thành thật ngợi khen tài ba và lòng dũng cảm của ông.
Không đáp, Văn Bình bước lại chỗ Luz nằm. Nàng đã chết hẳn. Như người mất hồn, chàng ôm thi thể nàng lên vai, lặng lẽ tiến về mũi tàu. Lê Diệp hỏi với:
- Đi đâu vậy, Văn Bình?
Ùm một tiếng, Văn Bình đã nhảy xuống biển. Lê Diệp níu lại không kịp. Biết tính kỳ lạ của bạn, Lê Diệp không nhảy xuống theo, Văn Bình vẫn có những phút bốс đồng khó hiểu vì đàn bà.
Trong khi ấy, phòng chỉ huy của soái hạm sáng trưng như ban ngày. Đô đốc tư lệnh đang ngồi hút xì-gà, tấm huy chương cao nhất của hải quân để trong hộp nhung, chờ gắn vào ngực đại tá Tống Văn Bình.
Nhưng Văn Bình đã biến mất dưới mặt nước đen ngòm. Đứng trên boong tiềm thủy đĩnh, Lê Diệp thở dài:
- Tội nghiệp.
NGƯỜI THỨ TÁM
(1) Đại tá RU Xô Viết Rudolf Abel giả làm nhiếp ảnh viên ở Nữu Ước để điều khiển tổ chức gián điệp của Nga Xô trên đất Mỹ. Abel hoạt động gần 10 năm mới bị bắt. Sở dĩ Abel sa lưới, vì phụ tá của y, trung tá Xô Viết Hayhanen bị triệu hồi về Nga Xô vì phạm lỗi, đã xin tá túc tại sứ qúan Mỹ tại Ba Lê và phanh phui nội vụ.
(2) Camp Murphy, tổng hành doanh quân lực Phi Luật Tân, sát thủ đô Mani.
(3) Ngoài trực thăng Sikorsky HSS-I, máy bay Grumman S2F về P2V-7 Neptune, Đệ thất hạm đội Mỹ tuần tiểu ngày đêm ngoài khơi biển Trung Hoa và Thái Bình Dương còn có nhiêu loại phi cơ chống tàu ngầm khắc nhau như Goodyear 2 PG.2, ZS2G-I, A5J Vigilante, Skyhawk, Martin Р5М-2, Marlin, vân vân...
(4) Asdic là máy dò tiềm thủy đĩnh. Danh từ chuyên môn là máy kiểm-ba. Máy này phát ra một âm ba, âm ba đụng vỏ tàu bằng kim khí bèn dội lại. Hồi Đại chiến Thứ hai, Đức Quốc Xã sơn tàu bằng chất oppanol, hút hết âm ba nên máy asdic trở thành vô hiệu. Từ 6 nằm nay, máy asdic gần như là lỗi thời.
(5) Tức là máy détecteur G. Máy này dựa vào trọng lực (pesanteur) của trái đất để dò tàu ngầm. Gần đây nhóm điệp viên Xô Viết do thiếu tá Hồng quân Lonsdale (tức Conon Molody), đánh cắp bí mật về máy détecteur G thí nghiệm ở Anh quốc, chuyển về Nga Xô cho RU. Cho đến nay, các chuyên gia về tiềm thủy đĩnh chưa có cách nào chống lại con mắt vô hình của détecteur G.