Sự khác biệt giữa người thành công và những người khác không nằm ở chỗ thiếu sức mạnh, thiếu kiến thức, mà là ở chỗ thiếu ý chí.

Vince Lambardi

 
 
 
 
 
Tác giả: Inamori Kazuo
Biên tập: ngô thành luân
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1114 / 18
Cập nhật: 2016-06-02 02:56:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
Ước mơ của bạn nhất định thành hiện thực
Inamori Kazuo
Chia sẻ ebook: http://downloadsach.com/
Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi
Mục lục
Inamori Kazuo với “ƯỚC MƠ CỦA BẠN NHẤT ĐỊNH SẼ THÀNH HIỆN THỰC”.
LỜI NÓI ĐẦU
VỀ TÁC GIẢ
INAMORI KAZUO
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
CHƯƠNG MỘT
THỜI NIÊN THIẾU ĐA CẢM
BỊ LAO
NGƯỜI THẦY TẬN TÌNH
NHỮNG TRẬN KHÔNG KÍCH DỮ DỘI
VẬT LỘN ĐỂ MƯU SINH
HỌC TIẾP HAY ĐI BÁN HÀNG?
ÔN THI VẤT VẢ
THI TRƯỢT ĐẠI HỌC QUỐC GIA, ĐẬU ĐẠI HỌC TỈNH
Ý VỊ CỦA TÔ MỲ HAI VẮT
YAKUZA – PHẢI CHĂNG CŨNG LÀ MỘT CÁCH SỐNG?
CUỘC ĐỜI KHÔNG PHẢI TOÀN ĐIỀU XẤU
CHƯƠNG HAI
ƯỚC MƠ SẼ THÀNH HIỆN THỰC
LÀM VIỆC TẠI CÔNG TY THUA LỖ
CHỈ CÒN LẠI MỘT MÌNH
CÔNG TY ĐIỆN TỬ MATSUSHITA ĐỂ MẮT TỚI TÔI
QUYẾT GIỮ ĐÚNG HẠN GIAO HÀNG
QUYẾT KHÔNG CHỊU THUA KÉM NGƯỜI
ĐẤU TRANH VỚI TƯ TƯỞNG BẤT AN
THÍCH THÚ VỚI CÔNG VIỆC LUÔN SUY NGHĨ SÁNG TẠO
NIỀM VUI HỒN NHIÊN LÀ LIỀU THUỐC BỔ TRONG CUỘC ĐỜI
THÍCH NƠI LÀM VIỆC
SỐNG HẾT MÌNH MỖI NGÀY.
CHƯƠNG BA
KHÔNG QUÊN TRI ÂN NHỮNG TẤM LÒNG VÀNG
CÂU CHUYỆN THÀNH LẬP CÔNG TY KYOCERA
QUA LÒ LUYỆN IBM ĐỂ TRỞ THÀNH CÔNG TY HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI
ĐÃ CẦU TRỜI PHÙ HỘ CHƯA?
KHIÊU CHIẾN VỚI TẬP ĐOÀN KHỔNG LỒ NTT
MOBILPHONE THƯƠNG HIỆU “AU”
CỎ DẠI CŨNG CÓ ĐỨC HIẾU SINH
HỌC CÁI GÌ Ở TRƯỜNG?
TẠI SAO LẠI MẮNG HỌC TRÒ?
TÁC PHẨM TRONG DỊP NGHỈ HÈ.
COI TRỌNG TÍNH SÁNG TẠO
KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI NHẬT
HÃY SUY NGHĨ VỀ MỤC ĐÍCH CUỘC SỐNG
CÓ DÁM HỌC LẠI HAY KHÔNG?
LÚA NGẮN NGÀY VÀ LÚA DÀI NGÀY
HÃY Ý THỨC VỀ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC
KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ ĐẤT NƯỚC ĐIÊU TÀN
MONG MUỐN TRỞ THÀNH NGƯỜI CÓ ÍCH
CHƯƠNG NĂM
KHÔNG NẢN LÒNG TRƯỚC VẬN ĐEN
MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC ĐỜI – TÂM HỒN CAO THƯỢNG
GIAN NAN RÈN LUYỆN MỚI THÀNH NHÂN
CHẤP NHẬN ĐỐI ĐẦU VỚI THỬ THÁCH
GƯƠNG TÔI LUYỆN TRONG THỬ THÁCH
TÌM CHO MÌNH LẼ SỐNG
ĐÁP SỐ CUỘC ĐỜI
LUÔN SUY NGHĨ LẠC QUAN
LỜI DẠY CỦA VỊ SƯ GIÀ
CON ĐƯỜNG ĐẮC ĐẠO
LỜI PHẬT DẠY
o BA TÍNH XẤU TRONG CON NGƯỜI.
o LÀM NGƯỜI
CHƯƠNG SÁU
NUÔI DƯỠNG TÂM HỒN
TẬP TRUNG SUỐT 90 PHÚT
CÓ DŨNG KHÍ CHÍNH TRỰC
CÁI TÂM QUYẾT ĐỊNH GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
DẤN THÂN ĐỂ THÀNH NGƯỜI
NGƯỜI GIỎI BỎ ĐI NGƯỜI CHẬM Ở LẠI
ĐẶC TÍNH KHIẾN NGƯỜI BÌNH THƯỜNG TRỞ THÀNH PHI THƯỜNG
CÓ CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC SỰ KHIỂN TRÁCH KHÔNG?
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC QUAN TÂM ĐẾN NGUỜI KHÁC.
NGƯỜI CÕI ĐỊA NGỤC NGƯỜI CÕI CỰC LẠC
SUY NGHĨ NHẤT ĐỊNH THÀNH HIỆN THỰC
THIỆN TÂM VÀ Ý CHÍ CỦA VŨ TRỤ
MỤC ĐÍCH CUỘC ĐỜI LÀ DƯỠNG TÂM
PHÁT HUY THIỆN TÂM - BẢN CHẤT CON NGƯỜI
MONG SAO NHẬT BẢN LÀ SOHOUKA TRÊN THẾ GIỚI
LỜI BẠT
Inamori Kazuo với “ƯỚC MƠ CỦA BẠN NHẤT ĐỊNH SẼ THÀNH HIỆN
THỰC”.
Về tác giả
Inamori Kazuo sinh năm 1932 tại Kagoshima, Nhật Bản, một trong những doanh nhân nổi
tiếng nhất của Nhật Bản hiện đại, người được xem l{ “Honda” sống của Nhật với cuộc đời là
câu chuyện về sự nỗ lực vượt qua số phận và các hoạt động xã hội có ảnh hưởng lớn đến
cộng đồng.
Sự nghiệp v{ tư tưởng của ông được đ|nh gi| cao không chỉ tại Nhật mà cả bình diện quốc
tế. Trong cuốn Tư duy lại tương lai, John Kotter đ~ nói về ông như sau: “Kazuo Inamori…l{
một (trong những) nh{ l~nh đạo tài ba. Trong khi thế giới còn đang bị các nhà quản trị
thống trị thì họ đ~ biết l~nh đạo. Họ thách thức hiện trạng… biết phát triển một viễn cảnh
đầy ý nghĩa cho đời sống kinh tế và biết vạch ra chiến lược để đạt nó. Họ là những nhà giáo
dục. Họ biết cách dẫn dắt mọi người trong và ngoài tổ chức cùng hiểu v{ tin tưởng vào viễn
cảnh tương lai. Họ còn biết tạo điều kiện… cho mọi người tiến lên, hăng h|i tạo dựng và
thực hiện cảnh đó.
Rèn tâm, luyện tài & kiên trì = thành công
Bằng cuộc đời thật của chính mình, Inamori muốn chia sẻ nhân sinh quan và những kinh
nghiệm sống, những phương thức để th{nh công để mỗi người có thể đ|nh thức tiềm năng
vô hạn của mình. Inamori đ~ chia sẻ với bạn đọc những niềm tin cháy bỏng tự đấy lòng
mình về con đường của th{nh công đó l{ rèn t}m, luyện tài và kiên trì ước mơ của cuộc đời
mình. Cuộc đời con người dù vượt qua bao thăng trầm, nhưng không chỉ toàn vận đen, luôn
luôn có sự xen kẽ điều tốt và cái xấu, nhưng dù gặp bất cứ cảnh ngộ n{o cũng đừng nản chí.
Những nỗ lực trong khó khăn gian khổ của bạn sau này sẽ đơm hoa kết trái. Những nỗ lực
đó sẽ làm cho cuộc sống của bạn ngập tràn hạnh phúc. Và nhất là chúng sẽ nâng cao phẩm
chất con người trong bản thân bạn.
Không chỉ vậy, chính c|i tĩnh t}m tìm ra lẽ sống cho mình và sự kiên trì dấn thân, kể cả
trong những điều kiện khắc nghiệt gần như tuyệt vọng, khi m{ “người giỏi bỏ đi, người kém
còn lại” đ~ giúp Inamori hiểu hơn cuộc sống, hiểu hơn chính mình, tự rèn luyện năng lực và
ý chí liên tục hoàn thiện c| nh}n, nhưng cũng thông cảm đến thương yêu v{ kính phục
những người kh|c mình. Đó phải chăng l{ c|i gốc để đạt đến tầm nhận thức tự cảm nhận sự
cân bằng và hạnh phúc.
Phương trình Inamori:
ĐÁP SỐ CUỘC ĐỜI = NĂNG LỰC x LÒNG NHIỆT TÌNH x CÁCH TƯ DUY!
Xuyên qua cuộc đời mình, Inamori đ~ tự thuật l{ thi trượt cấp II, thi v{o đại học quốc gia
cũng trượt, khi đi l{m lại không được vào công ty tốt vậy mà cả nước Nhật biết ông vẫn
không chỉ th{nh công, gi{u có m{ còn l{ người được ngưỡng mộ, kính trọng về nhân cách
của mình. Ông đ~ lý giải điều n{y qua phương trình nêu trên, không phải để thần thánh hoá
thành công của mình m{ l{ để mọi người bình thường có thể tự tin hơn để rèn luyện và
thành công trong cuộc sống.
Vậy còn đối với trí thông minh thì sao nhỉ? Vì đa số mọi người lại tin rằng chỉ có người
thông minh mới thành công trong cuộc sống.
Nếu thế thì sự thành công có thể đến từ đ}u? Chính lòng nhiệt tình! Bởi đó l{ ý chỉ của bản
thân, mỗi người tự quyết định được. Bằng điều đó Inamori giải thích con đường của người
bình thường có thể làm cho cuộc sống của mình tốt đẹp hơn.
Ngo{i ra điều nữa cũng rất quan trọng đó l{ c|ch tư duy, luôn suy nghĩ lạc quan. Điều quan
trọng nhất l{ l{m sao để liên tục suy nghĩ lạc quan trong suốt cuộc đời.
Thay lời kết, xin mượn lời GS.TS giáo dục học Kanda Yoshinobu nói về cuốn s|ch: đ}y là
cuốn sách nói về lẽ sống của con người mà tác già của nó đ~ viết bằng cả tấm lòng… T|c giả
mong muốn lớp trẻ, nhất là những người đang lưỡng lự, ph}n v}n trước ngưỡng cửa cuộc
đời sẽ đọc cuốn sách này. Cuốn s|ch đề cập việc con người có khả năng ph|t triển tuyệt vời
nếu có ước mơ, ho{i b~o v{ nỗ lực để thực hiện những gì mình ấp ủ”.
Xem Inamori, hiểu được sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản là do kết quả tích hợp từ những
co người bình thường v{ có ý chí, ước mơ, d|m dấn thân và kiên trì thực hiện ước mơ.
Không chỉ dừng lại việc cải thiện đ|p số cuộc đời và những điều hay cho mỗi cá nhân chúng
ta, đ~ đến lúc đặt câu hỏi: „tại sao không, Việt Nam ta sẽ có những “Inamori Việt Nam”?
Ước mơ của bạn nhất định thành hiện thực, sách tự thuật của Inamori một doanh nhân
Nhật Bản, do Phạm Hữu Lợi dịch, NXB Trẻ, ph|t h{nh th|ng 2 năm 2006, gi| bìa 24.000VND
.
LÝ TRƯỜNG CHIẾN
LỜI NÓI ĐẦU
Các bạn đang cầm trên tay cuốn sách của Kazuo Inamori, một trong những doanh nhân nổi
tiếng nhất của nước Nhật hiện đại. Người Nhật gọi ông l{ “ Honda sống”, một cái tên vừa nói
lên t{i năng kinh doanh vừa là sự tôn vinh những đóng góp to lớn của ông cho kinh tế Nhật
Bản sau Thế chiến Thứ hai. Tập đo{n Kyocera do ông s|ng lập và phát triển chính là hiện
thân của sự thần kỳ kinh tế Nhật Bản. Từ một công ty nhỏ vốn liếng ít ỏi thành lập v{o năm
1959, Kyocera Corporation ngày nay xếp thứ 254 trong số 500 công ty lớn nhất thế giới, và
l{ công ty h{ng đầu trong lĩnh vực gốm công nghệ cao.
Cuộc đời của Inamori là câu chuyện về nỗ lực vượt qua số phận để vươn lên. Xuất thân từ
tầng lớp thường dân, chỉ tốt nghiệp đại học hàng tỉnh, nhưng Inamori lại có óc sáng tạo, tinh
thần d|m nghĩ d|m l{m v{ một nghị lực sắt đ| giúp ông vượt qua mọi nghịch cảnh. Nhưng
s}u xa hơn, th{nh công của Inamori bắt nguồn từ triết lý m{ ng{y nay được gọi là triết lý
của Kyocera. Nó dựa trên tư tưởng “l{m việc thiện”, nói rộng ra là làm những gì mang lại
hạnh phúc cho con người, cho xã hội và cho nhân loại nói chung. Cũng như Andrew
Carnegie, Inamori cho rằng “nếu may mắn có được t{i năng (l~nh đạo), bạn nên dành nó
cho thế giới, cho nhân loại, cho xã hội, chứ đừng bao giờ chỉ dành cho bản th}n mình”.
Sự nghiệp v{ tư tưởng của Kazuo Inamori được đ|nh gi| rất cao không chỉ ở Nhật Bản mà
cả trên bình diện quốc tế. Năm 1991, ông được mời tham gia Uỷ ban xúc tiến cải cách Chính
quyền, một cơ quan tư vấn cấp cao cho chính phủ Nhật, là chủ tịch tiểu ban “Nhật Bản và
Thế giới”. Với vai trò này, ông góp phần quan trọng hình th{nh nên “Những nguyên tắc về
Chính s|ch Đối ngoại của Nhật Bản”, thể hiện những quan niệm về vai trò và hình ảnh của
to{n nước Nhật trong thế giới toàn cầu ở thiên niên kỷ thứ ba. Còn c|c nh{ tương lai học uy
tín trên thế giới đ|nh gi| rất cao triết lý của Kyocera, coi đó như một hình mẫu của công ty
ở thế kỷ 21. Th|ng 10 năm 2002, tổ chức Case tại Hoa kỳ mời ông diễn thuyết về đề t{i “Đạo
đức v{ L~nh đạo trong Viễn cảnh Toàn cầu” cho c|c chủ tịch công ty và hiệu trưởng các
trường đại học Mỹ. Bài diễn thuyết n{y sau đó được biên soạn thành một cuốn sách thuộc
diện bestseller ở Mỹ, đó l{ cuốn “ A Passion for Success” (tạm dịch là Khát vọng Thành
công) mà Nhà xuất bản Trẻ hy vọng sẽ giới thiệu với bạn đọc trong thời gian tới.
VỀ TÁC GIẢ
INAMORI KAZUO
Sinh năm 1932 tại thành phố Kagoshima.
Năm 1955, tốt nghiệp Khoa Công nghiệp đại học Kagoshima.
Năm 1959, lập công ty Kyoto Ceramics, tiền thân của Tập đo{n Kyocera hiện nay. Ông trải
qua các chức vụ Gi|m đốc công ty, Chủ tịch tập đo{n v{ từ năm 1997 giữ chức Chủ tịch danh
dự Tập đo{n Kyocera.
Năm 1984, trước làn sóng tự do hoá thị trường viễn thông, ông lập ra công ty điện thoại
DDI, gi| cước điện thoại đường dài ở Nhật Bản rẻ hẳn đi. Sau đó, ông lập t|m công ty điện
thoại di động và hình thành mạng lưới điện thoại di động trên khắp đất nước Nhật với
thương hiệu au.
Năm 2000, ông lập ra Tập đo{n viễn thông KDDI trên cơ sở hợp nhất DDI với KDD và IDO,
đồng thời giữ chức Chủ tịch danh dự.
CÁC HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
Năm 1984, ông trích 2 tỷ yên (khoảng 200 triệu USD ) từ tài sản riêng, lập Quỹ Inamori và
Giải thưởng Quốc tế Kyoto. Giải thưởng Quốc tế Kyoto được đ|nh gi| không thua kém Giải
thưởng Nobel, h{ng năm được trao cho các nhà khoa học và hoạt động văn ho| nghệ thuật
xuất sắc trên thế giới trên ba lĩnh vực: Kỹ thuật; Khoa học cơ bản v{ Tư tưởng Nghệ thuật.
Trị giá giải thưởng gồm khoản tiền mặt 50 triệu yên và một Huy chương v{ng gắn hồng
ngọc và ngọc bích.
Năm 1989, lập trường tư thục Seiwa để đ{o tạo các nhà quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Giữ chức hiệu trưởng. Trường chính ở Kyoto. Ngoài 55 phân hiệu trên khắp Nhật Bản, còn
năm ph}n hiệu ở Mỹ, Brazil, Nga, Trung Quốc v{ Đ{i Loan. Học viên của trường l{ gi|m đốc
của các công ty vừa và nhỏ. Tổng số học viên của to{n trường: 3.150 người (số liệu tháng 2-2004).
CÁC CHỨC VỤ
* Hiện nay là Chủ tịch danh dự Hiệp hội Công nghiệp v{ Thương mại Kyoto.
* Hội viên Hải ngoại đặc biệt Viện hàn lâm Khoa học Vương quốc Thụy Điển.
* Hội viên Hải ngoại Viện hàn lâm Công nghiệp Hoa kỳ.
* Tổng thư ký Hiệp hội Carnegie Washington.
CÁC TÁC PHẨM ĐÃ VIẾT
o Nước Nhật mới: Phương ph|p kinh doanh mới (1994)
o Tinh thần của chủ nghĩa tư bản (1995)
o PASSIONS – Con đường dẫn đến thành công (1996)
o Kính thiên ái nhân (1997)
o Hướng tới xã hội ước mơ (1998)
o Cuộc đời và kinh doanh (1998)
o Thực học: Kinh doanh – Tài chính ( 1998 )
o Triết lý Inamori (2001)
o Tư chất người l~nh đạo (2002)
o Đức v{ Chính nghĩa (2002)
o Cách sống của tôi (2004)
o Phương ph|p kinh doanh đạt lợi nhuận cao (2004)
o Nâng cao nhân cách. Phát triển kinh doanh (2004)
LỜI MỞ ĐẦU
Có một điều tôi muốn tâm sự với các bạn trẻ.
Đó l{ tương lai của bạn tuỳ thuộc vào hoài bão và nỗ lực của chính bạn.
Càng những lúc băn khoăn, trăn trở về lẽ sống, về cách sống, càng những lúc gặp nghịch
cảnh thì bạn càng phải dồn sức, nỗ lực vào công việc bạn đang thực hiện. Chính điều đó sẽ
mở ra đường đi cho mình.
Tôi sinh ở Kagoshima, trên đảo Kyushu. Năm 23 tuổi, sau khi tốt nghiệp trường đại học
Kagoshima, tôi rời quê lên thành phố Kyoto đi l{m. Năm 27 tuổi, cùng với bảy người đồng
chí hướng, tôi thành lập công ty Kyoto Ceramics - tiền thân của tập đo{n Kyocera ng{y nay.
Tập đo{n Kyocera l{ một tập đo{n kinh tế lớn, tổng số nhân viên lên tới 50 ng{n người,
trong đó 14 ng{n người làm việc ở Nhật Bản.
Nhưng, để có được như ng{y hôm nay, tôi đ~ phải trải qua biết bao thất bại và nản chí.
Thất bại đầu đời của tôi là việc thi trượt trung học cơ sở. Năm sau, thi lại cũng rớt. Tôi phải
học ở trường dự bị. Đến khi thi đại học, tôi trượt Đại học quốc gia Osaka và phải thi vào
trường đại học hàng tỉnh. Ra trường, tôi cũng trượt trong cuộc thi tuyển nhân viên của các
công ty. Vất vả m~i, được gi|o sư hướng dẫn giới thiệu, tôi mới xin được vào làm việc ở một
công ty đang thua lỗ, chỉ chờ phá sản.
Hơn nữa, tôi còn mắc bệnh lao trong thời gian chuẩn bị thi lại vào trung học. Tôi sống trong
tâm trạng thấp thỏm lo }u vì hai người chú và một người cô, em ruột của bố tôi, đ~ chết vì
bệnh lao, cho nên có lẽ tôi cũng chịu chung số phận.
Sau này, tôi quan tâm sâu sắc và tìm hiểu kỹ lưỡng về “c|i t}m” của con người, cũng bởi vì
ngay từ nhỏ tôi đ~ ý thức về sự mong manh của kiếp người.
Có thể nói, cuộc sống thời trẻ của tôi là chuỗi những thất bại và chán nản.
May thay, sau mỗi lần tôi vấp ng~ thì “thần hộ mệnh” lại hiện lên, n}ng đỡ tôi. Nhờ thế mà
tôi mới có thể tiếp tục nỗ lực, con người tôi không bị méo mó, lệch lạc.
Tôi có duyên gặp được những người mà tôi luôn coi họ là thần hộ mệnh. Những người có
tấm lòng cảm thông với tôi đến mức có thể sánh với tình cha con ruột thịt.
Đó l{ người thầy dạy tiểu học, người đ~ nộp đơn thi chuyển cấp hộ tôi v{ còn đưa tôi đến
tận phòng thi vì thấy tôi bệnh tật, ốm yếu. Đó l{ người thầy dạy cấp ba, người đ~ có công
thuyết phục cha mẹ tôi, lúc ấy chỉ mong con cái thôi học đi l{m, v{ nhờ thế mà tôi thực hiện
giấc mơ đại học. Đó l{ một nhân viên của một công ty ở Kyoto, người đ~ đem căn nh{ đang
trú ngụ thế chấp ng}n h{ng để vay tiền thành lập công ty cho tôi tiếp tục công việc nghiên
cứu. Và nhờ thế mà cả thế giới biết tới và ứng dụng kỹ thuật do tôi phát minh. Ở từng giai
đoạn của đời tôi, tôi luôn được }n nghĩa của biết bao người, mà suốt đời tôi cũng không thể
đền đ|p được. Chỉ cần thiếu bất cứ người nào trong số họ thì có lẽ sẽ không có tập đo{n
Kyocera cũng như tập đo{n KDDI như ng{y nay.
Có thể nói tôi được như ng{y nay l{ nhờ những tấm lòng tận tụy đó. Để đ|p lại những tấm
thịnh tình ấy, tôi đ~ nỗ lực xây dựng công ty lớn mạnh, nỗ lực quên mình cống hiến cho con
người, cống hiến cho xã hội.
Tôi luôn tâm niệm rằng dù bản th}n hơi thiếu năng lực nhưng bù lại, nếu có nhiệt huyết và
ý chí thì nhất định không thể thua kém người khác. Tuy vậy, đối với tôi, có một thứ còn
quan trọng hơn. Đó l{ “c|i t}m”, l{ “tấm lòng”. Ước mơ nhất định trở thành hiện thực nếu ta
có tư duy đúng đắn của một con người có nhân cách và biết nỗ lực hết mình cho một mục
đích rõ rệt. Nói c|ch kh|c, tôi được như ng{y nay cũng bởi vì tôi nghĩ như vậy v{ l{m đúng
như vậy. Cuộc đời tôi đúng như những gì m{ tôi đ~ vẽ lên trong tâm cảm.
Cuốn sách này tôi viết trong dòng hồi tưởng về một thời tuổi trẻ băn khoăn, trăn trở, là
những suy nghĩ của tôi về cuộc đời.
Và tôi muốn được tâm sự cùng các bạn.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
Cuộc đời sẽ như những gì bạn ấp ủ trong lòng
NGHĨ ĐIỀU THIỆN
Trong đời người, không có gì quan trọng hơn c}u hỏi: “Ta ấp ủ điều gì trong lòng?” Cuộc đời
của một người được quyết định bởi những suy nghĩ, ước mơ, hy vọng, lý tưởng, hoặc quan
niệm, tư tưởng m{ người đó theo đuổi.
Một người Trung Quốc là Viên Liễu Ph{m có để lại cho đời một cuốn sách tựa đề là Âm chất
lục. Điểm cốt yếu được nêu trong cuốn sách này là người ta ai cũng có một số phận. Nhưng
số phận vẫn có thể thay đổi được tuỳ theo suy nghĩ v{ tư tưởng của bản th}n người đó.
Cuốn s|ch ra đời dưới thời nh{ Minh, c|ch đ}y hơn 400 năm – tương ứng với thời Tể tướng
Toyotomi Hideyoshi (1) cai trị Nhật Bản.
1.: Toyotomi Hideyoshi (1536 – 1598) l{ người đ~ dựng nên một chính quyền thống nhất
trên toàn cõi Nhật Bản năm từ 1590. Sau khi nắm quyền binh ông tự xưng l{ Kampaku đại
kh|i như tể tướng.
Tôi xin kể qua một chút về nội dung của cuốn sách.
Hồi nhỏ, Viên Liễu Phàm có tên là Học Hải. Một hôm, có ông l~o đầu tóc đến tìm nhà Học
Hải. Ông l~o nói: “Ta vốn l{ người nước Nam, rất tinh thông Dịch lý. Hôm nay ta tìm tới đ}y
để thực hiện một Thiên mệnh trời trao. Đó l{ truyền lại tinh yếu của “Dịch” cho một cậu bé
tên là Học Hải sống ở xứ n{y.”
Ở Trung Quốc, “Dịch” l{ một môn học từ rất xa xưa, có thể dùng để đo|n trước số phận con
người.
Ông lão ở nhà Học Hải. Cha Học Hải mất sớm. Gia đình chỉ có hai mẹ con tần tảo kiếm sống.
Ông lão gọi hai mẹ con Học Hải đến ngồi trước mặt và nói về tương lai của cậu bé.
“B{ muốn con bà sau này trở thành thầy thuốc phải không?”.
“V}ng. Cụ nói chẳng sai, tôi muốn cho cháu nối nghiệp nhà làm thầy thuốc. Ông nội nó là
lương y, cha nó trước khi mất cũng l{ thầy lang đấy ạ. Vì thế tôi mong cho nó sau n{y cũng
trở thành thầy lang như ông cha…”.
“Không. Thằng bé này không trở thành thầy thuốc như b{ mong mỏi đ}u. Nó sẽ theo nghiệp
khoa cử, sẽ vượt qua tất cả các ký thi và trở thành một vị quan lớn được người đời trọng
vọng.”
Khoa cử là một cách thức để tuyển quan lại ở Trung Hoa ng{y xưa. Khoa cử gồm nhiều vòng
thi như thi hương, thi hội, thi đình… Sau mỗi vòng, thí sinh lại tiếp tục trải qua một cuộc sát
hạch kh|c cao hơn v{ khó hơn.
Ông lão nói tiếp: “Thằng bé này sẽ thi hương v{o lúc chừng này tuổi. Nó sẽ đỗ kỳ thi hương
trong số h{ng trăm ng{n cống sinh khác. Nó sẽ dự tiếp kỳ thi hội vào lúc chừng này tuổi và
cũng sẽ đỗ. Sau đó ít năm, nó đi thi đình, nhưng lần n{y thì trượt. Song chỉ năm sau nó sẽ thi
lại và sẽ đỗ. Đến cuối đời, nó sẽ trở thành một vị quan nhất phẩm trong triều. Và ngoài ra,
nó sẽ được bổ làm tri phủ khi còn rất trẻ.”
Ngừng một lát, ông lão nói tiếp: “Thằng bé này sẽ thành gia thất, nhưng đường con cái thì
không được may mắn lắm. V{ điều cuối cùng, nó sẽ thọ 53 tuổi. Số mệnh của nó là thế đấy.”
Cậu thiếu niên ngồi lắng nghe, trong lòng thầm nghĩ: “C|i ông l~o n{y nói ra to{n những
điều huyễn hoặc.”
Nhưng về sau, cuộc đời Học Hải diễn ra quả đúng như những gì ông l~o đ~ nói. Từ việc vượt
qua h{ng trăm ng{n thí sinh thi đỗ trong các kỳ thi, cho tới việc trở thành quan nhất phẩm
trong triều, kể cả chuyện được bổ làm quan phủ từ khi còn rất trẻ, tất cả điều đúng như lời
ông lão.
Ngay sau khi nhận chức quan phủ, Học Hải tới viếng ngôi chùa trong vùng. Trong chùa có
một nh{ sư nổi tiếng, pháp danh là Vân Cốc thiền sư. Đ~ từ lâu, Học Hải muốn được yết kiến
vị thiền sư n{y. Thiền sư cũng nghe tiếng tăm của vị quan trẻ tuổi, nên ra tận cổng đón
rước. Sau khi vào chùa, thiền sư mời Học Hải toạ thiền. Rồi cả hai cùng ngồi thiền. Thiền sư
rất đỗi khâm phục tư thế tọa thiền của Học Hải. Vì Học Hải tọa thiền thật đĩnh đạc, khoan
thai và không mảy may phân tâm. Thiền sư cất tiếng ngợi khen: “Ng{i còn trẻ m{ đ~ có thể
tọa thiền đĩnh đạc như thế, hẳn đ~ tu luyện từ lâu rồi. Xin mạn phép hỏi ngài tu ở chùa nào
vậy?” Học Hải đ|p: “Bạch thiền sư, tôi chưa từng tu ở đ}u cả. Nhưng thiền sư đ~ có lời khen
thì tôi cũng xin được kể câu chuyện xảy ra từ thời niên thiếu, khi được ông l~o đo|n vận
hạn của mình. Và giãi bày nỗi lòng: “Bạch thiền sư, sự thực mọi việc đều xảy ra đúng như lời
ông lão: tôi làm quan từ khi còn trẻ; thành gia thất rồi nhưng m~i vẫn chưa có mụn con nào;
và lời đo|n còn nói rằng tới năm 53 tuổi tôi sẽ chết, số mệnh Trời đ~ định sẵn vậy rồi, nên
tôi cứ thế mà sống, trong lòng chẳng còn chút mảy may ham muốn trở nên thế này hay thế
kia. Cũng vì vậy mà tôi không một chút phân tâm mỗi khi tọa thiền”.
Nghe xong lời bộc bạch của Học Hải, sắc mặt hiền từ của vị thiền sư bỗng đanh lại. Và rồi
thiền sư nổi trận lôi đình mắng Học Hải: “Ta cứ ngỡ ngươi l{ một người trẻ tuổi thông tuệ,
một hiền nh}n đ~ chứng ngộ. Ho| ra ngươi cũng chỉ là hạng tầm thường ngu dốt m{ thôi.”
Rồi thiền sư dịu giọng nói tiếp: “Thật ra, ông l~o nói đúng. Mỗi người đều có số phận trời
định. Nhưng chẳng có ai cam chịu số phận như thế đ}u. Vẫn có c}u đức năng thắng số. Nếu
luôn nghĩ điều thiện, nếu luôn làm việc thiện thì cuộc đời sẽ tốt đẹp. Nếu chỉ nghĩ điều ác và
l{m điều ác thì cuộc đời rồi sẽ chẳng ra gì. Luật nhân quả đó có ở muôn vật. Biết luật nhân
quả thì con người sẽ thay đổi được số phận.”
Phải l{ người thông minh thì Học Hải mới được bổ làm quan khi tuổi đời còn rất trẻ. Nhưng
không chỉ vậy, Học Hải còn l{ người biết lắng nghe ý kiến người khác.
Học Hải cảm kích ghi nhận lời dạy của vị thiền sư, đứng dậy lễ tạ và rời khỏi chùa. Về đến
nhà, Học Hải đem to{n bộ câu chuyện xảy ra trong chùa kể lại cho vợ nghe.
“Hôm nay ta tới thăm chùa. Sau khi yết kiến thiền sư thì được dạy bảo như thế… như thế…
Kể từ hôm nay, ta sẽ chỉ nghĩ điều thiện và sẽ chỉ làm việc thiện.”
Người vợ vui vẻ đ|p: “nếu ch{ng đ~ suy nghĩ như vậy thì thiếp cũng sẽ theo chàng. Vợ
chồng ta sẽ cố gắng chỉ nghĩ v{ l{m điều thiện, kể từ những việc nhỏ nhặt nhất trở đi.”
Đến đoạn này thì cuốn Âm chất lục kể sang chuyện kh|c, không ăn nhập gì với phần đầu. Đó
l{ đoạn Học Hải đổi tên thành Liễu Phàm và ghi lại những lời tâm sự với con trai mình.
“N{y con trai của cha. Cuộc đời cha có nhiều điều kỳ lạ như cha đ~ kể cho con nghe. Kể từ
khi cha tới chùa, được thiền sư tiếp đón v{ chỉ dạy cho luật nhân quả, cha và mẹ con luôn tự
nhủ lòng lúc n{o cũng phải nghĩ điều thiện, phải làm việc thiện. Nhờ thế mà những điều ông
l~o đ~ đo|n khi cha còn nhỏ, n{o l{ “sẽ không có con” thì nay cha đ~ có con, n{o l{ “thọ 53
tuổi” thì nay cha đ~ ngo{i 70 tuổi rồi mà vẫn sống khỏe mạnh.”
Cuốn Âm chất lục là một cuốn sách tôi rất thích đọc v{ thường hay giới thiệu cho mọi người
cùng đọc. Tôi cũng nghĩ rằng: Con người có số mệnh. Thế nhưng số mệnh không phải là thứ
không thể thay đổi được. Như c}u chuyện đ~ chỉ ra: Nếu ta nghĩ điều thiện, nếu ta làm việc
thiện thì ta sẽ có thể thay đổi được số mệnh và biến cuộc đời ta thành một thứ còn quý giá
hơn cả sự sống nữa.
Những lúc như thế, quan trọng nhất là ta phải luôn hiểu rằng: “Tất cả mọi việc xảy ra trong
cuộc đời, khi hạnh phúc, lúc bất hạnh…ều là những thử th|ch”. Thử thách nếu là vận may, là
phúc lộc thì cứ tự nhiên mà tiếp nhận, và hãy cảm tạ, chớ có tự m~n, đừng đ|nh mất lòng
kiêm cung mà cứ tiếp tục cố gắng. Ngược lại, nếu thử thách chẳng may lại là hoạn nạn thì
cũng đừng có kêu than, oán hận, mà phải nỗ lực vượt lên hoàn cảnh v{ hướng về phía trước.
Trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận, lúc nghịch, lòng ta vẫn phải luôn nghĩ tới điều thiện, vẫn
phải luôn nỗ lực làm viện thiện. Đó l{ những gì quan trọng nhất trong cuộc đời.
CHƯƠNG MỘT
Khả năng vô hạn trong đời người
“Cuộc đời con người không bao giờ chỉ toàn vận đen. Cuộc đời con người là quá trình xen kẽ
giữa cái tốt và cái xấu. Vì thế, các bạn - những người đang g|nh v|c x~ hội trên vai – dù gặp
bất cứ cảnh ngộ n{o cũng đừng nản chí, Những nỗ lực trong khó khăn gian khổ của bạn sau
này nhất định sẽ đơm hoa, kết quả. Những nỗ lực đó sẽ làm cho cuộc sống của bạn ngập
tràn hạnh phúc.Và nhất là chúng sẽ nâng cao phẩm chất con người trong bản thân bạn.”
- INAMORI KAZUO-Công ty Kyocera và KDDI
Sau khi tốt nghiệp đại học Kagoshima, tôi vào làm việc cho một công ty chuyên sản xuất
gốm sứ c|ch điện cao áp ở Kyoto. Năm 27 tuổi, tôi ra thành lập một công ty riêng, đặt tên là
Kyocera. Công ty Kyocera của tôi được lập ra thực sự là dựa vào kỹ thuật gốm sứ công nghệ
cao.
Ngày nay, các loại sản phẩm điện tử như computer, tivi, video đều sử dụng những loại linh
kiện do Kyocera sản xuất. Ngoài ra, nhờ ứng dụng kỹ thuật gốm sứ công nghệ cao, công ty
còn chế tạo ra các sản phẩm hoàn chỉnh như đ| quý emerald (một dạng đ| t|i kết tủa),
xương nh}n tạo, pin mặt trời, điện thoại di động, máy in, máy ảnh kỹ thuật số...
Sau khi công ty Kyocera đ~ đi v{o hoạt động ổn định, tôi lại lập thêm công ty viễn thông DDI
(hiện nay là KDDI). Thời đó, trên thị trường Nhật Bản chỉ có một công ty viễn thông độc
quyền khổng lồ: Công ty điện thoại điện tín Nhật Bản (NTT). Cũng vì vậy mà tiền cước điện
thoại điện tín kh| đắt so với hiện nay. Trong bụng tôi chỉ muốn làm sao giảm được gi| cước
xuống chút nào hay chút ấy. Vì thế, v{o năm 1984, khi l{n sóng “tự do hóa thị trường thông
tin” ập tới, tôi liền chấp nhận thách thức trong lĩnh vực này, bằng cách lập ra một công ty
viễn thông mới lấy tên là Dainidenden.
NTT lúc đó, với mạng lưới thông tin trải rộng khắp lãnh thổ Nhật Bản và các hợp đồng cung
cấp thiết bị viễn thông, có thế lực và ảnh hưởng rất lớn trên phạm vi toàn quốc.
Mặc dù đang trong thời buổi “tự do hóa thị trường”, nhưng việc lập ra một công ty viễn
thông mới đối đầu với công ty NTT khổng lồ là một việc làm hết sức mạo hiểm. Nhưng nếu
công ty viễn thông mới đứng vững được trước NTT thì cũng có nghĩa l{ sẽ có sự cạnh tranh
lành mạnh trên thị trường viễn thông, v{ như thế sẽ dẫn tới việc gi| cước điện thoại cơ bản
trên thị trường Nhật Bản giảm xuống.
Tôi lập ra công ty Dainidenden với một tâm trạng sự thực l{ “người mở đường”. Tiếp đến,
tôi len ch}n v{o lĩnh vực điện thoại di động. Công ty điện thoại di động của tôi hiện nay
được mọi người Nhật Bản biết tới với thương hiệu au. Dainidenden liên doanh với công ty
thông tin di động IOD của h~ng Toyota v{ công ty điện thoại quốc tế KDD v{ đổi tên thành
KDDI.
Như trong lời mở đầu của cuốn s|ch n{y đ~ kể, tính tới thời điểm năm 2004, tổng số cán bộ
công nhân viên của tập đo{n Kyocera (kể cả trong và ngoài Nhật Bản) đ~ vượt quá 50 ngàn
người. Doanh số của tập đo{n trong một năm (từ tháng 3-2003 đến tháng 3-2004) là 1.140
tỷ yên. Còn doanh số của tập đo{n KDDI l{ 2.850 tỷ yên. Nếu tính gộp doanh số của cả hai
tập đo{n thì con số xấp xỉ 4.000 tỷ yên. Các sản phẩm và dịch vụ do hai tập đo{n Kyocera v{
KDDI cung cấp có mặt trên mọi lĩnh vực đời sống và kinh tế, giúp ích cho sự phát triển
chung của cả xã hội. Tiền đóng thuế của chúng tôi góp phần nâng cao phúc lợi công cộng.
Có thể nói cả hai tập đo{n Kyocera và KDDI do tôi lập ra giờ đ}y đ~ trở thành hai tập đo{n
kinh tế khổng lồ. Nhưng c|c bạn hãy cùng tôi nhớ lại lúc mới ra đời: chúng chẳng là cái gì cả.
Tôi bắt đầu sự nghiệp từ con số không. Nhưng tôi luôn tin tưởng rằng những nỗ lực của
mình chắc chắn sẽ có ng{y đơm hoa kết quả. Niềm tin đó động viên tôi trong những lúc bất
an, những lúc gặp khó khăn, v{ nó c{ng thúc giục tôi phải nỗ lực không ngừng. Nhưng nếu
không có những người xung quanh giúp sức thì cũng không thể có được Tập đo{n Kyocera
và KDDI như ng{y hôm nay.
THỜI NIÊN THIẾU ĐA CẢM
Khả năng của con người trong suốt cuộc đời là vô hạn.
Mong sao các bạn trẻ sẽ nhận ra điều đó qua cuộc đời của tôi.
Tôi sinh ng{y 21 th|ng 1 năm 1932, tại quận Yakushi, thành phố Kagoshima(1). Nhưng
trong sổ hộ khẩu ghi ngày sinh của tôi là ngày 30 tháng 1. Sở dĩ như vậy là vì cha mẹ tôi phải
lo chạy bữa ăn qu| bận bịu nên không thể ra ủy ban phường đăng ký khai sinh cho đúng
ng{y được. Nhà tôi có bảy anh chị em. Tôi là con trai thứ trong gia đình.
1. Thành phố Kagoshima là thủ phủ tỉnh Kagoshima, ở phía nam Nhật Bản, thuộc đảo
Kyushu.
Quận Yakushi nằm cạnh sông Kotsuki – dòng sông này chảy ngay dưới ch}n tường thành
Shiroyama ở trung tâm thành phố Kagoshima. Gia đình tôi l{m nghề thủ công. Cha tôi lúc
đầu làm thợ cho một xưởng in. Sau được ông chủ xưởng nhượng lại cho một c|i m|y in cũ,
cha tôi mới ra làm riêng và lập xưởng ở cách nhà máy không xa. Tôi sinh ra chính trong cái
xưởng in đó.
Tiếng máy in quen thuộc từ tuổi thơ ấu, giờ đ}y vẫn như còn văng vẳng bên tai tôi.
Cha tôi làm việc rất cần mẫn. Không quản sáng sớm đêm khuya, bao giờ ông cũng giao h{ng
đúng hẹn. Kh|ch h{ng tin tưởng nên công việc mỗi ngày một nhiều. Thế nhưng, trong một
lần máy bay Mỹ oanh kích, xưởng in của cha tôi bị trúng bom. Gia đình tôi thế là trắng tay.
Cha tôi l{ người cẩn thận, suy tính thận trọng, ông không chịu nghe theo lời cầu khẩn của
mẹ tôi đi mua m|y mở lại xưởng in. Vấn đề là ở chỗ để mua máy thì phải vay nợ khá nhiều.
Với một người thận trọng hết mức như cha tôi thì dù mẹ tôi có van n{i ông cũng không
“gật”. Tôi cũng thế. Tôi ghét nợ nần. Trong châm ngôn kinh doanh của công ty tôi có câu:
“Giữ chữ tín. Không vay nợ.” Có lẽ tôi giống cha tôi ở điểm này.
C|c b{ h{ng xóm thường đến xưởng nhà tôi làm giúp. Nhiều khi công việc làm tới tận khuya
cũng chưa xong. Những ng{y đó, cả nhà tôi cùng với những người l{m đều quây quần bên
m}m cơm tối. Mẹ tôi là một người phụ nữ không chỉ giỏi nội trợ, mà cả việc phân công, sắp
đặt việc làm cho mọi người v{ cũng lo đ}u v{o đấy. Mẹ tôi luôn vui vẻ và không bao giờ tỏ
ra yếu đuối trước nghịch cảnh. Tính c|ch yêu đời và lạc quan của tôi có lẽ do được thừa
hưởng “gien” của bà. Mẹ tôi cũng có nhược điểm, đó l{ b{ rất hiếu thắng, chẳng chịu thua
kém người khác. Có lần tôi cãi nhau với lũ bạn ở ngo{i đường, bị thua chạy về nhà. Mẹ tôi
liền cầm cái chổi đuổi tôi ra khỏi nhà, bà không muốn thấy con mình lại chịu thua bạn kém
bè.
Các ông chồng ở tỉnh Kagoshima vốn nổi tiếng gia trưởng, thường hay kẻ cả lên mặt dạy dỗ
vợ con. Nhưng thực ra ở trong gia đình thì kh|c hẳn. Đa số các bà vợ mới là bà chủ thực sự
trong nhà, dù khi ra ngoài họ vẫn giữ ra vẻ khúm núm nghe chồng một phép trước mặt
người lạ. Mẹ tôi cũng l{ một người phụ nữ như vậy.
Tuổi thơ của tôi có rất nhiều kỷ niệm thú vị. Tôi nhớ nhất là cái thú trèo cây hái trái mận
biwa (1). Các bạn trẻ ngày nay hầu như chẳng ai phải tự hái lấy tr|i biwa để ăn nữa. Còn
ng{y trước, trẻ con nh{ quê không đứa nào lại không biết trèo cây hái biwa. Thi thoảng có
bữa nghỉ việc, cả nh{ tôi kéo nhau ra đảo Sakurajima để hái biwa. Thời đó, những vườn
biwa rộng bạt ngàn còn phủ kín ch}n núi Sakurajima. Lũ trẻ chúng tôi chạy {o v{o vườn,
đứa n{o đứa nấy trèo tót lên c}y, h|i biwa ăn cho no căng bụng rồi mới nhét đầy balô đem
về làm quà.
1. Biwa là một loại quả vị ngọt, màu vàng sẫm, nhủ như quả mơ ở ta.
Bình thường tôi chỉ có anh tôi là bạn. Anh tôi bắt tôm, bắt cá rất giỏi. Tôi thường mang xô
chậu tháp tùng anh. Tôi hồi hộp theo dõi anh lấy vợt lùa bắt tôm, cá rồi đổ vào trong xô
chậu. Có khi anh còn bắt được con cá chép to bằng bắp tay người lớn nữa. Tôi thì chẳng bao
giờ bắt được con tôm con cá nào cả. Thế nhưng thấy lũ trẻ con hàng xóm xì xào ghen tỵ khi
chúng tôi xách xô chậu đầy ắp tôm c| đi ngang thì mũi tôi lại phổng lên vì hãnh diện. Tôi
vẫn còn nhớ như in món tôm rang cả vỏ của mẹ tôi.
Tôi có nhiều kỷ niệm về mẹ. Tỉnh Kagoshima có tập qu|n l{ v{o th|ng 12 h{ng năm, cứ đến
ngày kỷ niệm “Bốn mươi bảy nghĩa sĩ th{nh Akou”(1), học sinh lớp năm ở tất cả c|c trường
tiểu học đều phải tập trung ngồi thiền tại hội trường từ chập tối đến tận mười giờ đêm. Suốt
thời gian đó, thầy hiệu trưởng đứng trên bục đọc Truyền thuyết về bốn bảy nghĩa sĩ th{nh
Akou cho học trò nghe. Kagoshima ở phía nam Nhật Bản, nên mùa đông ấm hơn nhiều so
với các tỉnh kh|c. Nhưng v{o th|ng 12, ban đêm trời vẫn lạnh buốt. Thời tiết như vậy mà
bọn trẻ chúng tôi phải ngồi thiền, đứa n{o cũng rét run cầm cập, hai cẳng chân tê cóng,
chẳng còn lòng dạ nào mà nghe chuyện c|c nghĩa sĩ cả. Hết buổi, cơ thể chúng tôi gần như
đông cứng. Vừa lê thân hình lạnh giá về tới nh{ đ~ thấy mẹ tôi ngồi đợi sẵn cùng nồi chè
đậu đỏ nóng hổi. Tôi chẳng bao giờ quên được vị chè dịu ngọt chứa đầy tình thương của mẹ.
V{ cũng không bao giờ quên được cảnh mẹ tôi với khuôn mặt phúc hậu, ánh mắt yêu
thương nhìn đứa con vục đầu v{o b|t chè ăn lấy ăn để chẳng kịp nói một lời n{o. Đến tận
bây giờ, mỗi lần ngồi trước bát chè thì hình ảnh mẹ lại như hiện ra trước mắt.
1. Truyền thuyết về bốn bảy nghĩ sĩ th{nh Akou: theo s|ch sử Nhật Bản ghi lại thì năm 1701,
triều đình Kyoto cử sứ thần Kozukennosuke mang chiếu chỉ đến thành Edo. Nghênh tiếp sứ
thần Kira là Asano, lãnh chúa vùng Akou. Trong bữa tiệc, không hiểu sao sứ thần Kira vô cớ
mạt sát lãnh chúa Asano. Tức mình, l~nh chúa Asano rút gươm ra doạ chém sứ thần Kira.
Sau đó, sự kiện đến tai Shogun (Tướng quân). Lãnh chúa Asano bị khép tôi làm nhục triều
đình v{ chịu hình phạt tự rạch bụng tự vẫn. Để rửa hận cho chủ, bốn bảy võ sĩ thuộc hạ của
Asano đ~ tổ chức hạ s|t v{ đem thủ cấp của Kira đến d}n trước mộ Asano. Kết cục là cả bốn
bảy võ sĩ đều bị triều đình khép tội chết.
Trước khi vào lớp một, tôi là một đứa trẻ hay khóc nhè. Mỗi lần khóc thì phải hai ba tiếng
đồng hồ sau mới nín. Khi khóc m{ không có người đến dỗ tôi lại c{ng l{m gi{, lăn lộn trên
nền nhà mà gào. Tính hay hờn dỗi từ thuở thơ ấu không sao sửa hết ngay được. Đi đến
trường cũng phải có người dắt. Tôi không thể đi một mình như c|c bạn cùng lớp. Ở nhà thì
làm mình làm mẩy, nhưng ra ngo{i đường tôi lại nh|t như c|y. Ng{y khai giảng, mẹ dẫn tôi
tới trường nên không sao cả. Nhưng sang ng{y hôm sau, khi biết phải đi học một mình, tôi
vùng vằng khóc: “Không đi học đ}u, không đi học đ}u”. Thế là mẹ phải dẫn tôi đến trường
suốt cả tuần lễ đầu tiên.
Đến trường được một thời gian, tôi có bạn nên đi học vui hẳn lên. Nói đúng ra l{ do được
vui chơi nghịch ngợm với bạn bè nên tôi thích đến trường. Thời đó l{m gì có đồ chơi như
bây giờ. Chúng tôi thường là rủ nhau ra con sông gần nhà nghịch nước, bắt cá, hoặc chơi
trận giả...
Lúc mới vào lớp một, tôi học rất kh|. Như mẹ tôi kể lại, kết quả học tập ghi trong sổ liên lạc
của tôi bao giờ cũng đạt loại giỏi. Nhưng dần dần, do mải chơi nên đến lúc tốt nghiệp tiểu
học hầu như tôi chẳng để tâm vào bài vở nữa. Cũng không thấy cha mẹ tôi la mắng gì hết. Vì
thế hầu như suốt ngày tôi chỉ chơi v{ nghịch ngợm.
BỊ LAO
Giờ đ}y nhìn lại, có thể nói trong suốt thời gian học tiểu học, tôi được sống những ngày
hạnh phúc với thiên nhiên, được thiên nhiên ôm ấp. Vào mùa hè, với cái khố quấn quanh
hông, tôi lao mình xuống dòng sông trong xanh tung tăng bơi lội. Nhô đầu lên khỏi mặt
nước thì trước mắt là toà thành Shiroyama sừng sững với rừng cây rậm rạp bao quanh.
Thật khó tưởng tượng được cả một thiên nhiên trù phú lại tồn tại ngay giữa lòng thành phố
như vậy. V{ tình yêu thiên nhiên đ~ dần hình thành trong tôi.
V{o mùa xu}n năm 1944, sau khi tốt nghiệp trường tiểu học Nishida, tôi dự thi v{o trường
trung học nổi tiếng trong vùng không chút do dự – đó l{ trường trung học số 1 Kagoshima.
Khi đó, tôi chỉ nghĩ đơn giản là cho dù hồi tiểu học kết quả cứ kém dần, nhưng nhiều đứa
trong lớp sức học còn kém tôi xa m{ cũng thi v{o trường này, thế thì chỉ cần mình cố một tý
trong khi thi làm gì mà chẳng đỗ.
Thế nhưng tôi trượt vỏ chuối, đúng như thầy chủ nhiệm đ~ đe: “Học hành ấm ớ như cậu làm
sao đỗ được!”. M{ chỉ một mình tôi bị trượt. Tất cả những đứa khác, từ những thằng bạn
thân nhất đến mấy đứa con nhà giàu – tôi vốn không ưa chúng – bọn chúng học hành có
hơn gì tôi, nhưng chúng đều đỗ cả. Chẳng còn c|ch n{o kh|c, tôi đ{nh phải đi học trường
tiểu học bậc cao để chờ sang năm thi lại. Tuy đ~ tự an ủi mình, nhưng mỗi khi thấy lũ bạn
ng{y xưa nay xúng xính bộ đồng phục trung học thật oách sánh vai tới trường, tôi lại thấy
tủi thân quá. Chẳng hiểu có phải vì cứ tự dằn vặt mình qu| hay không, nhưng đến cuối năm
học trường tiểu học bậc cao thì tôi bị lao.
Một ông chú ruột tôi làm cảnh sát ở vùng Mãn Châu, Trung Quốc – khi về phép chú đến ở
nhà tôi. Có lẽ tôi bị lây rận từ chú tôi thì phải, nên ngứa ngáy khắp người. Cuối cùng tôi phải
nằm liệt giường vì sốt li bì. Nếu bị lao thì gay to. Mẹ tôi lo qu|, đưa tôi đi kh|m b|c sĩ. B|c sĩ
chẩn đo|n tôi bị nhiễm lao giai đoạn đầu.
Tôi lo lắng như vậy là có nguyên do. Hai vợ chồng chú tôi, ở cách nhà tôi chỉ mấy bước chân,
cũng đ~ chết vì bệnh lao. Ngay cả chú út của tôi cũng đang phải chạy chữa vì bị ho ra máu.
Thời đó, lao l{ thứ bệnh nan y. Những nh{ có người mắc bệnh lao, vì không muốn hàng xóm
xì xào, nên cứ phải đóng cửa im ỉm suốt ngày tự lo chạy chữa lấy.
Về phần tôi, vừa sốt li bì vừa lo sợ không yên. “Nếu cứ ho ra máu suốt như chú tôi thì chẳng
mấy mà mình chỉ còn da bọc xương, chắc... ” – tôi không d|m nghĩ tiếp. Một hôm bà hàng
xóm cạnh nhà nói vọng qua bức tường r{o: “N{y cậu, thử đọc cuốn n{y xem sao?” Rồi bà ta
đưa cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa da sờn cũ. Tựa s|ch ngo{i bìa in nhũ v{ng Ch}n
tướng Cuộc đời, do một nhà truyền giáo tên là Taniguchi Masaharu(1) viết.
Mặc dù biết đ}y l{ s|ch d{nh cho người lớn, nhưng trong t}m trạng nghĩ mình sắp chết, nên
tôi vẫn đọc ngấu đọc nghiến. Trong cuốn sách có đoạn: “Trong tr|i tim của chúng ta có một
cục nam châm cực mạnh. Cục nam châm này hút tất cả những gì có xung quanh nó, như dao
kiếm, súng lục, tai họa, thất nghiệp, bệnh tật...”. Đọc tới đó tôi liền nhớ ngay đến trường hợp
của mình.
1. Taniguchi Masaharu (1893 – 1985): nhà sáng lập giáo phái Seicho no ie (Ngôi nhà sinh
thành) ở Nhật Bản. Sau ki thôi dạy môn thần học ở trường Đại học Waseda, ông bắt đầu
hoạt động tôn giáo. Cuốn Ch}n tướng Cuộc đời là một tác phẩm nổi tiếng của ông.
Cứ mỗi khi phải đi ngang qua góc nh{ nơi chú tôi bị lao nằm đó, tôi lại lấy hai tay bịt mũi
chạy bán sống bán chết, chỉ sợ hít phải vi trùng lao. Trước đ}y tôi có đọc một cuốn sách y
khoa, trong đó viết rằng vi trùng lao có thể l}y qua đường hô hấp. Cho nên lần n{o tôi cũng
lấy cả hai tay bịt chặt lấy mũi rồi mới ù té chạy qua. Nhưng do còn qu| nhỏ, chẳng có kinh
nghiệm gì, nên tôi thường nín thở và bịt mũi sớm quá. Vì vậy, lẽ ra khi đến gần chỗ chú tôi
nằm mới cần phải bịt mũi v{ nín thở thì lúc ấy tôi lại phải buông tay ra vì tức thở. Và thế là
tôi lại hít lấy hít để không khí ở đó.
Nhưng không như tôi, anh tôi lại chẳng sợ gì cả: “Vi trùng lao có dễ l}y như m{y nghĩ đ}u”.
Và cả cha tôi nữa, hàng ngày ông vẫn bình thản ra v{o chăm sóc chú tôi. Khi biết chú tôi khó
lòng qua khỏi, cha tôi mới căn dặn mẹ tôi: “B{ cứ để chú ấy cho tôi lo. Bà không phải chăm
sóc nữa. V{ cũng đừng vào chỗ chú ấy nằm nữa.” Bệnh lao khi đ~ v{o giai đoạn cuối thì vi
trùng lao sinh sôi rất nhiều. Cha tôi cũng biết điều đó. Nhưng ông vẫn bình thản như không.
Và cả anh tôi cũng vậy. Chỉ có tôi, lúc n{o cũng cẩn thận phòng ngừa ngay từ đầu, phòng
ngừa hơn ai hết thì lại bị nhiễm lao.
Tôi thầm trách mình: Phải chăng chỉ vì tôi nhút nhát, lại lúc n{o cũng chỉ nghĩ tới mình, lúc
n{o cũng sợ bị lây, nên mới rơi v{o c|i cảnh sợ của nào trời trao của đó?
Trong khi đó, cha tôi với tình thương em s}u xa, bất chấp hiểm nguy vẫn chăm sóc chú tôi
cho tới phút cuối cùng. Nhưng vì thế vi trùng lao lại né, không bám vào ông. Còn tôi, một kẻ
chỉ nghĩ tới mình, tìm mọi cách tránh xa thì vi trùng lao ào tới bám lấy. Khi đó tôi còn rất
nhỏ, nhưng cũng thấy ra được nhiều bài học từ sự việc trên, và tự tỉnh ngộ đến tận bây giờ.
Việc tình cờ đọc cuốn Ch}n tướng Cuộc đời của ông Taniguchi quả thực l{ bước ngoặt làm
thay đổi đầu óc tôi. Nó khiến tôi phải nghĩ m~i về chữ “t}m” trong bản thân mình.
Bây giờ nhớ lại, mới thấy ông Trời đ~ có ý thử thách tôi bằng việc bị mắc bệnh lao. Ông Trời
đ~ ban cho tôi một trải nghiệm quý gi|, song lúc đó tôi qu| lo lắng, quá sợ hãi khi phải
chứng kiến cái chết của chú út tôi và của vợ chồng chú tôi trước đó nữa. Nhưng có lẽ tôi
được cứu thoát vì tâm hồn tôi đ~ có sự thay đổi sau khi đọc cuốn sách.
Máy bay Mỹ ném bom ngày càng khốc liệt, không nhà nào có thể sống yên một chỗ. Để tránh
bom, mọi người phải đi tản cư, chạy trốn hết chỗ n{y đến chỗ khác. Khi cứ phải gắng sức mà
chạy trốn như thế, người ta bỗng quên hết bệnh tật, trở nên mạnh khỏe lúc nào không hay.
NGƯỜI THẦY TẬN TÌNH
NHỮNG TRẬN KHÔNG KÍCH DỮ DỘI
Sang đầu năm 1945, còi b|o động mỗi khi máy bay Mỹ bay vào vùng trời tỉnh Kagoshima cứ
rú lên không ngớt. Chính vào thời điểm căng thẳng đó, bỗng một hôm, thầy Doi – giáo viên
chủ nhiệm của tôi - đến nhà và thuyết phục cha mẹ tôi: “C|c b|c nên cho ch|u Inamori thi
v{o trường trung học số 1 Kagoshima một lần nữa, vì cháu có khả năng…”. Không những
thế, thầy Doi còn giúp đỡ tôi rất tận tình. Thấy tôi còn rất yếu vì bệnh lao, thầy giúp tôi
mang đơn xin dự thi đến trướng trung học số 1 để nộp. Rồi đến ngày thi, thầy còn đến dìu
tôi đến tận phòng thì…
Tuy vậy, đến ngày công bố kết quả, vẫn không có tên tôi trong danh s|ch c|c thí sinh đỗ vào
trường dán trên bảng thông báo. Tôi tuyệt vọng về nhà, nằm vật ra giường. Cơn sốt vẫn
chưa dứt. Tiếng còi b|o động vẩn vang lên rền rĩ. Thầy Doi đến nh{ động viên tôi: “Đ{n ông,
con trai thì không được nản chí. Vẫn còn những con đường kh|c để đi…”. Thầy tiếp tục giúp
tôi nộp đơn thi v{o trường trung học tư thục Kagoshima. Nhưng t}m trạng của tôi khi ấy chỉ
muốn từ chối vì đ~ đi thi hai lần và cả hai lần đều hỏng. Hơn nữa tôi đang ốm. Bố mẹ tôi
cũng tuyệt vọng: “Đến nước này rồi... thôi thì đ{nh để nó kiếm việc đi l{m vậy.”. Nhưng thấy
thầy tận tình qu|, tôi cũng đồng ý đi thi lần nữa. May sao, lần n{y tôi đỗ. Thế l{ tôi đ~ có thể
lên học trung học.
Nếu không có thầy Doi thì không biết tương lai của tôi rồi ra sao? Nhờ tấm lòng và sự động
viên của thầy, mùa xu}n năm 1945, tôi đ~ v{o được trường trung học Kagoshima. Tôi học
chậm một năm so với bạn bè cùng lứa.
Nhưng, nửa đầu năm 1945 cũng l{ lúc chiến tranh sắp kết thúc nên những cuộc oanh kích
của máy bay Mỹ rất dữ dội. Trong hoàn cảnh bom đạn như thế, chẳng ai còn bụng dạ n{o để
mà học hành cả. Nhất là trận ném bom “rải thảm” của máy bay B.29, khiến nửa thành phố
Kagoshima chìm trong biển lửa. Trước đó hai ngày, chú út của tôi cũng qua đời khi bệnh lao
v{o gian đoạn cuối. Người chú tôi chỉ còn da bọc xương. Mỗi khi cha tôi dìu chú ra hầm trú
ẩn, chú lại thều th{o: “Thôi, không phải đưa em ra hầm nữa. Vi trùng lây sang các cháu thì
khổ. Cứ để mặc em nằm trong nhà. Anh cứ xuống hầm với c|c ch|u đi.” Khi c|i chết gần kề,
chú tôi ra ngoài sân nằm sưởi nắng. Khuôn mặt chú điềm tĩnh, bình thản đến lạ lùng, trông
cứ như người tu h{nh đắc đạo vậy. Chẳng bao lâu sau, chú tôi mất. Mẹ tôi v{ c|c dì đang ở
chỗ sơ t|n, trở về nh{ để lo tang lễ cho chú. Đúng v{o c|i đêm sau khi hỏa táng, cả nh{ ăn
cơm cúng – cũng vừa hết tuần chay – v{ đi ngủ thì xảy ra trận không tập khủng khiếp của
máy bay Mỹ. Cả nhà nháo nhào chạy ra hầm trú ẩn ở ngoài sân. Cha tôi cõng ông nội chạy
xuống hầm – ông tôi bị xuất huyết não, lại trúng gió nên chân tay liệt cả. Cha tôi, hồi nhỏ bị
viêm tai giữa - hậu quả của một lần bị ngã xuống sông – nên điếc một tai. Nhờ thế mà cha tôi
bị loại trong những lần tuyển quân. Ông không phải ra mặt trận. Ở nhà ông l{m đội trưởng
đội phòng cháy chữa cháy.
Hầm trú ẩn của nhà tôi là hầm chắc chắn nhất trong khu phố. Nóc hầm được chống bằng
những thân cây to. Có cả bậc lên xuống. Hầm s}u lút đầu tôi.
Cả nh{ đ~ chui xuống hầm. C|c đợt không kích càng lúc càng dữ dội hơn. Cha v{ anh trai tôi
nghiêng đầu ngó ra ngoài trời. Cả hai hốt hoảng kêu lên: “Cả vùng trời đỏ rực, Kagoshima
chắc bị san phẳng. Lửa đang lan tới. Nấp dưới này thì sẽ bị chết cháy mất. Thoát ra khỏi
hầm mau.” Nói rồi, cha tôi lại xốc ông nội lên lưng, lấy khăn tẩm nước cho{ng lên người và
chui ra khỏi hầm. Tôi cùng với mẹ cũng vội vớ lấy tấm chăn nhúng v{o thùng nước phòng
hỏa, quấn quanh người và phóng lên mặt đất. Đến bây giờ tôi vẫn còn cảm thấy tấm chăn
ngấm nước khi ấy sao mà lại nặng đến như vậy.
Cả nhà chạy về phía bờ sông. Từ dưới sông, h{ng ng{n con người đang lóp ngóp ngụp lặn,
tranh nhau leo lên bờ. Phía bờ sông bên kia chìm trong biển lửa. Dòng người từ bờ sông bên
kia tiếp tục lội qua. Máu hoà lẫn nước loang đỏ. Chưa kịp lên tới bờ thì đợt không kích thứ
hai, thứ ba lại ập tới. Bom xăng, bom ch|y nổ lụp bụp, mảnh văng tứ tung, nhà cửa cây cối
ch|y đỏ rực. Rất nhiều người bị bén lửa lăn lộn vùng vẫy. Đang đêm m{ trông rõ mồn một
như ban ng{y. Cảnh tượng thật kinh ho{ng không kh|c gì địa ngục. Chúng tôi quay đầu tiếp
tục chạy, bỏ lại bờ sông phía sau vì sợ đến lượt bờ sông bên n{y cũng sẽ bị không tập.
Vừa chạy tôi vừa nghĩ miên man về người chú mới mất. Có lẽ chú tôi – sau những cơn đau
đớn do bệnh tật hành hạ, cuối cùng với khuôn mặt bình thản đến lạ lùng – hình như đ~ linh
cảm trước được trận không tập hôm nay nên chú tôi đ~ trút hơi thở c|ch đ}y hai ng{y.
Những ngày cuối đời, chú tôi nằng nặc không chịu xuống hầm trú ẩn với lý do sợ lây vi
trùng cho các cháu. Có lẽ chú tôi cũng muốn làm vơi bớt gánh nặng đang đè trên vai cha tôi.
Đó l{ g|nh nặng người em bệnh tình hiểm nghèo v{ người cha tàn tật. Chú tôi cũng thừa
biết tính cách của cha tôi là trong hoàn cảnh n{o cũng không thể bỏ mặc cha v{ em để thoát
thân một mình cùng với gia đình. Vì vậy, chú đ~ chủ động đến với cái chết c|ch đ}y hai
ng{y…
Ngôi nhà của cha tôi không hề hấn gì trong suốt thời gian chiến tranh - quả là một phép lạ,
nhưng cuối cùng cũng bị bom cháy biến thành tro bụi v{o ng{y 13 th|ng 8 năm 1945, chỉ
hai hôm trước ngày chiến tranh chấm dứt.
Còn tôi vốn yếu ớt vì lao phổi, vậy mà trong khi phải lo chạy loại, tìm nơi ẩn nấp không hiểu
sao lại khỏe mạnh ra từ lúc nào không hay!
Nh{ ch|y. M|y in cũng mất. Cả nhà tôi chỉ còn biết nằm vạ vật ở nơi sơ t|n. Nạn lạm phát
làm cho số tiền cha tôi tích cóp được mỗi ngày một mất gi|. Chưa hết. Chính phủ lại đổi tiền.
Mỗi người chỉ được phát một số tiền hạn chế. Thế là bao nhiêu công sức khó nhọc dành
dụm của cha tôi biến thành công cốc. Cuộc sống của gia đình tôi ng{y một thêm nheo nhóc,
cơ cực. Cả nhà gồng mình g|nh nước biển về, đổ vào thùng rồi đun lên, lấy muối đem đi b|n.
Còn manh quần tấm áo nào lành lặn là mẹ tôi lại đem ra chợ, bán hoặc đổi lấy gạo về nấu
ch|o cho anh em chúng tôi ăn…
VẬT LỘN ĐỂ MƯU SINH
Sau chiến tranh, Nhật Bản chìm trong nghèo đói, người dân cả nước rơi v{o tình trạng thiếu
đói triền miên. Trong thảm cảnh ấy, lực lượng chiếm đóng Mỹ cung cấp lương thực và
những vật phẩm thiết yếu nhất. Ở trường học, học sinh cũng được ăn một bữa không mất
tiền. Người ta cưa đôi c|i thùng, đổ nước sôi v{o để hâm nóng những hộp thịt bò và phân
phát cho học sinh. Mỗi học sinh được nhận một hộp. Thời đó, thịt bò hộp là thứ xa xỉ phẩm,
chỉ cần tưởng tượng ra l{ đ~ thèm rỏ dãi.
Thời đó, c|i ăn không có, học sinh cũng phải đi khai hoang, trồng khoai, làm ruộng. Có
những ng{y đi lao động, trèo dốc, bụng đói, cổ khát, mắt hoa, không có lấy ngụm nước để
uống, đứa n{o đứa nấy mệt nhoài. Cả nhóm bốn năm đứa rủ nhau đi ăn trộm khoai để
nướng. Một đứa ở đằng xa đứng gác. Những đứa khác thì thận trọng nhóm lửa rồi vùi khoai
v{o. “Thầy giáo phát hiện ra khói thì chết.” Thế l{ đứa n{o đứa nấy ra sức quạt khói. Nhưng
nào ngờ, thầy giáo không phát hiện ra khói nhưng lại ngửi thấy mùi khoai nướng thơm
lừng. Thế là ông nổi giận lôi đình, tịch thu và lấy chân giẫm n|t khoai ngay trước mắt chúng
tôi. Sau chiến tranh, trung tâm thành phố Kagoshima chỉ là một đống hoang t{n, đổ nát. Vì
thế gia đình tôi phải thuê nhà ở lại nơi đang sơ t|n. Cả nhà nấu rượu lậu làm kế sinh nhai.
Tôi được sai đi mua men rượu ở tận thị trấn Miyakonojyo thuộc tỉnh Miyazaki bên cạnh.
Mỗi lần mua khoảng hai ba lít men, nhét vào ruột tượng, khoác lên vai mang về. Để nấu
rượu syochu, đầu tiên phải hấp khoai. Xong rồi nghiền n|t v{ để cho khoai nguội đi. Sau đó
trộn lẫn với men, rồi đổ v{o chum s{nh v{ đậy kín để ủ. Ít ngày sau, khoai lên men sẽ tạo
th{nh đường rồi th{nh rượu. Nhưng nếu ủ lâu quá, quá trình acid hoá diễn ra v{ rượu sẽ bị
chua. Vì vậy phải chưng cất đúng lúc. Khi chưng cất, lớp rượu đầu nhạt như nước lã chảy ra.
Một lúc sau đến lớp rượu có độ cồn cao, nặng như rượu đế. Cuối cùng là lớp rượu nồng độ
thấp. Cho cả ba lớp rượu vào thùng hòa lẫn v{o nhau để trung hoà nồng độ cồn. Tôi đến cửa
hàng bán thiết bị đo lường ở nội thành Kagoshima, mua dụng cụ đo độ cồn về để định cho
đúng nồng độ của rượu.
Sau đóm chúng tôi đổ chừng ba bốn lít rượu v{o túi cao su, đeo trên lưng v{ trước ngực, rồi
mang đi b|n. Thời đó, người mua nhiều hơn người bán, nên nấu được bao nhiêu bán hết
bấy nhiêu. Nhưng cuối cùng, nhà tôi thôi không nấu rượu lậu nữa vì sợ hàng xóm biết vì
mùi rượu nồng nặc cứ toả ra trong đêm mỗi khi nh{ tôi chưng cất.
Hàng ngày, từ nơi sơ t|n tôi đến trường trung học trong thành phố Kagoshima. Vì đường xa
nên chúng tôi phải đến trướng bằng c|ch ra đường cái vẫy xe tải. Có xe lấy tiền, cũng có xe
cho chúng tôi đi nhờ. S|ng n{o cũng vậy, tất cả lũ chúng tôi nhảy lên thùng xe tới trường. Xe
tải ng{y xưa, thùng xe không có chỗ bám nên mỗi khi xe cua gấp là chúng tôi lại bị hất văng
xuống ruộng lúa hai bên đường.
Một thời gian sau, sức khoẻ của tôi hồi phục hẳn. Tôi không còn mặc cảm, không còn nghĩ
ngợi lung tung nữa mà dồn sức vào học, nhất là môn toán vốn là môn tôi kém nhất. Tôi lấy
sách giáo khoa môn toán những năm cuối tiểu học ra ôn lại. Từ đó, môn to|n l{ môn kh|
nhất của tôi.
HỌC TIẾP HAY ĐI BÁN HÀNG?
Khi tôi đang học năm thứ ba trung học thì Nhật Bản cải cách giáo dục theo hệ 12 năm: cấp
một 6 năm, cấp hai 3 năm, cấp ba 3 năm. Trường trung học cũ ph}n th{nh cấp hai cải cách
và cấp ba cải cách. Cha tôi mong tôi thôi học để đi l{m. Chính tôi cũng nghĩ l{ sau khi tốt
nghiệp trung học thì sẽ đi l{m. Lúc đó, anh cả tôi học xong trung học l{ đi l{m luôn ở công ty
đường sắt nh{ nước. Thường thì con trai thứ như tôi hay được cha mẹ cho phép làm theo ý
muốn. Thấy cha mẹ vất vả quá, nên tôi chỉ muốn tốt nghiệp trung học một c|i l{ đi l{m ngay
để đỡ gánh nặng cho gia đình. Thế nhưng, từ khi chuyển sang hệ thống giáo dục cải cách, tất
cả bạn bè trong lớp tôi đều học tiếp lên cấp ba, nên tôi trong bụng cũng muốn đi học tiếp.
Trong khi còn chưa biết nên quyết định ra sao thì thầy hiệu trưởng Karachima, đồng thời là
giáo viên dạy toán, gặp tôi và khuyên tôi nên học tiếp lên cấp ba. Tôi rất phân vân: nhà quá
đông anh em, gia cảnh khó khăn, nhưng bạn bè tôi đều học tiếp lên cấp ba cả. Cha tôi chỉ
buông thõng một c}u: “Không học nữa, đi l{m”. Nhưng rồi cha tôi cũng xuôi lòng khi tôi n{i
nỉ: “Học xong cấp ba là con sẽ đi l{m ngay.” V{ thế là tôi tiếp tục theo học trường cấp ba
Kagoshima số 3. Tình cờ thầy Karashima cũng được điều động sang trường này và làm giáo
viên chủ nhiệm lớp tôi.
Nhưng chẳng bao l}u sau, trường cấp ba Kagoshima số 3 chuyển th{nh trường cao đẳng
thương nghiệp Kagoshima. Hai năm sau, chúng tôi cùng với thầy Karachima lại chuyển sang
trường cấp ba Gyokuryu. Chúng tôi được xếp học năm cuối cùng, và trở thành học sinh
kho| đầu tiên tốt nghiệp theo hệ cải cách của trường.
Tôi không có ý định học tiếp lên đại học. Tôi muốn sau khi tốt nghiệp cấp ba sẽ xin vào làm
ở ng}n h{ng địa phương, ng}n h{ng Kagoshima. Vì vậy, mỗi khi tan học là chúng tôi lại rủ
nhau chơi bóng ch{y l{m bằng vải cho tới tận tối mịt mới vác mặt về nhà. Thấy thế mẹ tôi
nổi giận – lúc này bà phải đi buôn gạo để kiếm thêm đồng ra đồng v{o: “ Cả nhà phải vất vả
để cho con ăn học. Vậy mà con chỉ biết rong chơi tối ngày. Thế là thế nào hả?”. Tôi rất hối
hận, không chơi bóng ch{y nữa và bắt đầu đi b|n túi giấy do cha tôi l{m. Trước chiến tranh,
ngoài việc in ấn nh{ tôi cũng từng sản xuất bao bì bằng giấy. Trước khi có máy làm bao bì tự
động, nhà tôi thuê c|c b{ gi{ h{ng xóm đến l{m theo phương ph|p thủ công. Tôi vẫn nhớ
như in hình ảnh cha tôi dùng dao xén cả tập mấy trăm tờ giấy. Các bà già làm công gấp túi
theo từng kích cỡ, rồi dùng hồ dán lại. Tôi bèn bàn với cha tôi: “Cha quay trở lại làm bao bì
giấy đi. Con sẽ mang đi b|n”.
Cha tôi l{m hơn chục loại bao bì giấy đủ kích cỡ. Tôi xếp chúng vào sọt tre, buộc vào poóc-ba-ga xe đạp chở đi b|n. Poóc-ba-ga xe đạp hồi xưa rất to, nên tôi tha hồ chất bao bì cao lút
đầu. Có hôm, tham xếp nhiều quá làm bánh trước chổng ngược lên trời. Lúc đầu, tôi chỉ
mang đi b|n ở các cửa hàng gần nh{ nhưng h{ng b|n không chạy lắm. Về sau, tôi chia thành
phố, thành bảy khu. Mỗi tuần- kể cả Chủ nhật – tôi chỉ tập trung bán ở một khu nhất định.
Và thế là cứ tan học tôi vội vã về nhà, ngồi lên xe đạp rong ruổi đi b|n h{ng. Từ các cửa hàng
bánh kẹo lớn trong thành phố đến các quầy bán lẻ trong hang cùng ngõ hẻm, không chỗ nào
là tôi không mò tới để tìm mối giao h{ng. Tôi đi b|n h{ng không quản nắng mưa, vất vả
chẳng khác gì các nhân viên tiếp thị thời nay. Đôi khi đến gõ cửa nh{ người ta, thấy tiếng
mở chốt lạch cạch, và rồi một cô g|i xinh đẹp trạc tuổi mình ló mặt ra, tôi xấu hổ quá chẳng
kịp chào hỏi vội chuồn thẳng.
Thời đó, trong nội thành Kagoshima có tới năm s|u c|i chợ trời. Mang bao bì tới đó l{ người
ta mua cả bó cho mình. Chỗ n{o cũng có c|c b{ buôn sỉ dữ dằn. Sau nhiều lần qua lại, chính
các bà ấy lại chủ động gọi tôi đến hỏi mua. Thậm chí có lần công mang tới thì cứ để lại đ}y,
chị b|n giúp cho.” Khi đ~ quen rồi thì cứ thế là bà này giới thiệu cho bà khác. Tôi trở nên nổi
tiếng ở các chợ trời với biệt danh Thằng túi giấy. Có một hôm, khi tôi đang mải miết đạp xe
chở đầy hàng, bỗng một bà gọi giật lại. “N{y, cậu túi giấy, chỗ tôi chuyên buôn sỉ bánh kẹo.
Các nhà buôn lẻ thường muốn mua có cả bao bì. Vì thế nếu cậu bỏ hàng cho tôi thì sẽ bán
chạy đấy.” Thế là tôi bỏ hàng cho bà ấy. Cứ hết là tôi lại mang tới. Những chỗ buôn bán
thuận lợi như thế chẳng phải lúc n{o cũng kiếm ra. Đương nhiên, người ta mua với số lượng
nhiều thì giá mình phải hạ xuống. Qua đó tôi hiểu được phần nào vai trò của các nhà buôn sỉ
trong mạng lưới lưu thông h{ng ho|.
Sau đó, vì người ta cứ kháo chuyện về tôi, nên rất nhiều nhà buôn bánh kẹo đặt làm bao bì ở
chỗ cha tôi. Bao bì giấy với nhãn hiệu Inamori có mặt khắp nơi trong tỉnh Kagoshima là nhờ
vậy. Quá nhiều đơn đặt hàng, cả cha tôi và tôi vô cùng bận rộn. Chúng tôi phải thuê thêm
nhiều học sinh tốt nghiệp trung học tới làm giúp, mua cả xe đạp cho chúng đi giao h{ng.
Những hôm đi gom tiền hàng, tôi buộc chặt c|i túi đựng tiền vào ghi-đông xe đạp. Túi tiền
lúc n{o cũng căng phồng. Về tới nhà là tôi giao cả túi tiền cho cha. Cha tôi lập tức ngồi vào
bàn, một tay gẩy bàn tính, một tay ghi chép vào sổ tính tính toán toán cả mấy tiếng đồng hồ.
Có thể nói tuy mới tập tọng vào nghề buôn b|n nhưng tôi đ~ bước đầu th{nh công. Người ta
kể lại với tôi rằng có một nhà sản xuất bao bì ở Fukuoka đ~ phải rút khỏi Kagoshima vì
không cạnh tranh được với sản phẩm của nhà tôi. Chỉ có điều là nếu tôi suy nghĩ tính toán
chi ly hơn về giá cả thì có lẽ thu được số tiền lời nhiều hơn thế. Nhưng tính tôi hay cả nể, cứ
thấy người ta bảo “bớt cho chị mấy giá nữa đi” l{ tôi lại gật. Bây giờ suy nghĩ lại, mới thấy
những ng{y gò lưng đạp xe đi b|n bao bì l{ một kinh nghiệm vô cùng quý báu trong cuộc
đời tôi. Cuộc đời kinh doanh sau này của tôi thực ra là khởi đầu từ những năm th|ng đó.
V{o năm cuối của trường cấp ba, tôi giao lại toàn bộ công việc cũng như nh}n viên của mình
cho anh tôi. Cho đến lúc đó tôi vẫn nghĩ l{ sau khi tốt nghiệp sẽ xin đi l{m, nhưng rồi thầy
Karashima lại đến nói với tôi: “Nếu em bỏ học giữa chừng như thế thì uổng lắm. Hãy cố
gắng học tiếp lên đại học.” V{ thế là, một lần nữa tôi lại quyết định học tiếp.
ÔN THI VẤT VẢ
Vì không định học tiếp, nên suốt thời gian dài, cứ tan học là tôi lại đi chơi bóng ch{y. Về sau
lại lao vào việc đi b|n h{ng. Vì vậy tôi không có thời gian để ôn thi v{o đại học. Trong khi tôi
phải đi b|n bao bì giấy thì những đứa bạn thân của tôi tập trung ôn luyện để đi thi. Nói thật
lòng là nhiều lúc tôi cũng cảm thấy ghen tỵ với chúng.
Có một lần, một người bạn th}n mang đến cho tôi xem cuốn s|ch hướng dẫn luyện thi. Đ}y
là cuốn sách xuất bản định kỳ nhiều số dành cho các thí sinh ôm mộng bước chân vào cổng
trường đại học. Tôi mượn những số mà bạn tôi đ~ đọc xong, đem về nh{ đọc th}u đêm
trong tâm trạng ao ước được v{o đại học. Ở trường, những câu chuyện của bạn bè tôi cũng
chỉ xoay quanh một chủ đề: Thi lên đại học. Vì thế m{ ước muốn được v{o đại học mỗi lúc
một lớn thêm trong lòng tôi. Anh cả cũng nói với cha mẹ tôi: “ Nh{ mình khó khăn, không có
ai học được đến nơi đến chốn cả. Thôi cha để cho Inamori thi v{o đại học đi.” Tức thì cha tôi
– bình thường l{ người vốn ít nói và lặng lẽ - liền nổi xung lên: “Học hết cấp ba chưa đủ sao
mà bây giờ lại đòi v{o đại học.” Thầy Karashima cũng đến nh{ nói vun v{o cho tôi: “C|c b|c
cố cho nó học lên đại học đi,” Khi thầy về, cha gọi tôi đến trước mặt v{ nói: “Muốn v{o đại
học thì phải v{o trường có tiếng tăm hẳn hoi, nếu không thì đừng.” Cha tôi nói “trường có
tiếng” ý muốn nói đến Đại học Quốc gia Kyushu. Cha cố ý đưa ra c|i trường rất khó thi đậu
để buộc tôi phải từ bỏ ý định học lên đại học.
Tôi bèn đem chuyện đó đến bàn với thầy chủ nhiệm, thầy khuyên: “Nếu phải lên tận tỉnh
Fukuoka để thi v{o trường Kyushu thì đằng n{o cũng thế, cậu cứ lên hẳn Osaka để thi vào
trường Đại học Quốc gia Osaka còn hơn.” Năm đó tôi thuộc số ít thí sinh trong tỉnh đạt kết
quả tốt tại cuộc thi thử trên toàn quốc nhằm kiểm tra khả năng học tiếp lên đại học, có lẽ vì
thế mà thầy khuyên tôi như vậy.
Kể từ khi quyết định thi v{o đại học, tôi liền miệt mài ôn luyện. Trong khi bạn bè ngủ say
sưa, tôi vẫn thức suốt đêm để học. Tôi đạt được kết quả tốt trong lần thi thử cũng l{ do tôi
đ~ cố gắng nhiều hơn bất cứ đứa nào kh|c. Hơn nữa, tôi phải cố cũng l{ để học bù những
kiến thức bị hổng trong nửa đầu những năm cấp ba.
THI TRƯỢT ĐẠI HỌC QUỐC GIA, ĐẬU ĐẠI HỌC TỈNH
Do từng mắc bệnh lao nên trong thâm tâm tôi muốn theo học dược khoa để trở th{nh dược
sĩ nghiên cứu bào chế ra các loại dược phẩm mới. Vì thế, tôi đ~ đ|p chuyến tàu lửa ban đêm
đi Osaka v{ dự thi v{o Khoa Y dược trường Đại học Osaka. Tôi rất tự tin vì được học trường
cấp ba của tỉnh, hơn nữa đ~ d{nh thời gian ôn luyện kỹ càng.
Nhưng, tr|i với mọi dự tính trong đầu, tôi thi trượt. Tôi bị sốc nặng. Nếu là do chủ quan hay
không tập trung ôn luyện thì cũng đ{nh. Đằng này với “kinh nghiệm đầy mình” từ những
lần thi trượt ở cấp dưới, tôi học ngày học đêm vậy mà lại vẫn trượt.
Không còn cơ hội “sang năm sẽ thi lại” nữa, tôi vội vã nộp đơn thi v{o Khoa Công nghiệp
thuộc trường Đại học của tỉnh. May mắn l{ ng{y thi v{o trường Đại học tỉnh tổ chức muộn
hơn so với ngày thi của c|c trường Đại học Quốc gia nên tôi vẫn kịp dự thi và cuối cùng
nhận được giấy b|o đỗ.
Trường Đại học Kagoshima sau n{y cũng trở th{nh Đại học Quốc gia. Lúc đó tôi định chọn
ngành Hóa hữu cơ – ngành học liên quan tới Y học v{ Dược học – trong Phân khoa Hóa học
Ứng dụng thuộc Khoa Công nghiệp của trường tỉnh, học tạm một năm rồi sẽ thi lại vào
trường Đại học Quốc gia Osaka. Nhưng gia cảnh nhà tôi không cho phép tôi làm theo ý
muốn. Việc tôi theo học ở trường đại học Kagoshima thôi cũng đủ l{m gia đình tôi vất vả
lắm rồi. Vì vậy tôi không thể thực hiện được ý định thi lại v{o trường Đại học Osaka.
Thời đó, Khoa Công nghiệp của Đại học Kagoshima chỉ có bốn ph}n khoa: Ho|, Điện, Cơ khí
và Xây dựng. Cả khoa chỉ có khoảng sáu, bảy mươi sinh viên. Vì vậy, sinh viên theo học các
ph}n khoa đều biết mặt v{ chơi th}n với nhau. Trong số đó, có một anh bạn đồng kho| cũng
học ngành Hoá hữu cơ với tôi. Anh ta hầu như không bao giờ đến trường, nhưng lúc n{o
cũng có mặt ở sòng đ|nh bạc bằng máy – Pachino. Anh ta lớn hơn tôi một tuổi, nhưng do
chơi bời, ngày ngày tụ tập ở sòng bạc chẳng chịu học h{nh gì nên lưu ban xuống học cùng
lớp với tôi. Anh ta, sau khi ra trường, về làm việc ở một công ty thương mại xuất nhập khẩu
m|y móc điện tử.
Hồi đó tôi l{ “con mọt s|ch”, chưa từng lai vãng tới sòng đ|nh bạc Pachino. Một hôm, thấy
tôi lúc n{o cũng chỉ học, anh ta rủ tôi đi đ|nh Pachino.
“N{y, Inamori, cậu có biết chơi Pachino không?”.
“Không. Không biết đ|nh.”
Thế rồi, anh ấy dẫn tôi đến một sòng bạc Pachino lớn ở trung tâm buôn bản sầm uất của
thành phố Kagoshima. Tôi vẫn còn nhớ là anh ấy cho tôi một hai trăm yên gì đó v{ bảo tôi
đ|nh thử. M|y đ|nh bạc Pachino ng{y trước nửa tự động, phải lấy tay đ|nh từng viên bi sắt
sao cho v{o đúng lỗ. Nói thật lòng là tôi chẳng thích thú gì cái trò cờ bạc cả. Vì thế trong suy
nghĩ, tôi - một kẻ suốt ng{y vùi đầu đọc sách ở thư viện – hơi coi thường anh ta: “ Suốt ngày
cờ bạc chẳng học hành gì cả, anh bị lưu ban cũng chẳng oan”. Nhưng chẳng biết từ chối sự
rủ rê của anh ta cách nào nên chẳng mấy chốc tôi đ~ thua sạch. Trong khi đó, anh bạn lưu
ban của tôi thì thắng to. Tôi đứng xem anh ta đ|nh hồi l}u, nhưng không khí trong sòng bạc
rất ngột ngạt và ồn ào nên tôi xin phép về trước.
Ý VỊ CỦA TÔ MỲ HAI VẮT
Mấy ngày sau, anh ta lại mò đến chỗ tôi và rủ đi đ|nh bạc tiếp. Tôi không muốn đi nhưng nể
nghe theo. Tôi lại thua v{ đến chỗ anh ta xin phép về trước. Nếu tôi nhớ không lầm thì hình
như trong lần thứ ba đi chơi cùng, khi nghe tôi xin phép về trước, anh liền ngăn: “Chờ anh
một chút. Anh xong ngay thôi m{.” Hôm đó, ngo{i tôi ra còn có một tay chơi nữa - biệt danh
là Goro thép – đi cùng. Cậu ấy cao lớn hơn tôi, nhưng cũng thua sạch như tôi cả. Cả hai đứng
ng}y người ra. Ở lại sòng bạc, đứng cạnh tay Goro thép, tôi khó chịu ra mặt.ừ
Ra khỏi sòng bạc Pachinco, anh bạn đường hoàng dẫn hai đứa chúng tôi vào một qu|n ăn
lớn ngay bên cạnh. Gọi là quán lớn, nhưng đó l{ so với những qu|n ăn kh|c v{o những năm
1945 thôi. Nếu so với bây giờ thì chẳng thấm v{o đ}u. Qu|n đó nổi tiếng với món “mỳ hai
vắt” - một món cao cấp, sang trọng lúc bấy giờ. Anh ta không chút chần chừ kêu ngay hai tô
mỳ hai vắt cho Goro v{ tôi. H{nh động của anh ta có thể ví như một cây roi quất thẳng vào
mặt tôi. Hoá ra, số tiền được bạc anh ta không dành cho riêng mình mà chia cho chúng tôi
cùng hưởng. Mới trước đó không l}u, tôi còn có ý khinh thường anh ta vì chỉ ham chơi nên
học rớt. Nhưng giờ đ}y, tôi nhìn anh ta bằng một con mắt kh|c. “Rủ một kẻ suốt ngày chỉ
biết đến sách vở đi chơi. Lại khao nữa…”. Nghĩ đến những gì anh ta đ~ l{m, tôi cảm thấy hối
hận. Tôi thầm tr|ch: “Mình đúng l{ một kẻ hẹp hòi, ích kỷ. Không đ|ng mặt đ{n ông”.
Sau đó, v{o năm học cuối tôi có dịp đi thực tập gần một tháng với anh ở một công ty chuyên
sản xuất bột giấy thuộc tỉnh Miyazaki. Bình thường, tôi hay giảng giải cho anh những vấn đề
khó nhằn hay những gì anh chưa hiểu trong khi thực tập. Nhưng về cách giao tiếp, cách
quan hệ giữa người với người ngoài xã hội thì tôi lại được anh tận tình chỉ bảo rất cặn kẽ.
Anh rất đ{n ông. Anh có thể giao tiếp một c|ch đường ho{ng v{ bình đẳng với mọi người
trong công ty. Còn tôi chỉ biết đứng nép sau lưng anh với vẻ lóng ngóng và thiếu tự tin. Tôi
học được nhiều điều qua thực tế giao tiếp từ anh. Thì ra “ với người này thì phải chào hỏi
thế này, với người kia thì phải chào hỏi thế kia…”
Những năm gần đ}y; trong c|c dịp gặp mặt hội lớp h{ng năm tôi thường nói với anh: “ Thời
gian qua, tôi được nhiều nơi mời nói chuyện về đề tài Những gì cần phải có ở con người.
Những lúc đó tôi luôn nhớ tới những điều anh đ~ chỉ bảo cho tôi khi còn l{ sinh viên đại
học. Đó l{ phải luôn ho{ đồng cùng với mọi người…”. Nghe tôi nói thế, anh chỉ cười và bảo:
“Cậu cứ nói quá thế nào ấy chứ. Tớ có chỉ bảo được gì cho cậy đ}u”.
Trong thời gian học Đại học Kagoshima, vì gia cảnh túng bấn nên tôi xin được trợ cấp học
bổng để trang trải một phần tiền học phí. Số còn lại, tôi đi l{m thêm để có tiền đóng nốt.
Suốt thời gian là sinh viên, tôi chỉ có độc một cái áo khoác mặc trên người và một đôi guốc
mộc đi h{ng ng{y. Tôi chăm chỉ học tập. Sách tham khảo đắt, không có tiền mua nên tôi
thường xuyên lên thư viện mượn đọc. Ngoài ra, tôi còn tham gia vào câu lạc bộ karate đề
rèn luyện thân thể. Vả lại, tập karate thì không phải tốn tiền mua dụng cụ tập luyện vì môn
này chỉ cần sức mạnh cơ bắp và một bộ áo tập l{ được. Cuộc sống thời sinh viên của tôi là
như thế. Rồi thấm thoắt cũng đến ng{y ra trường.
YAKUZA – PHẢI CHĂNG CŨNG LÀ MỘT CÁCH SỐNG?
Tuy nghèo khó nhưng gia đình vẫn dồn sức cho tôi học lên đại học. Vì vậy, tôi luôn tâm niệm
rằng sau khi tốt nghiệp đại học, tôi sẽ tìm việc làm trong một công ty có tiếng tăm để có
được thu nhập cao. Các gi|o sư cũng giới thiệu tôi cho rất nhiều nơi.
Nhưng thời cơ tôi tốt nghiệp đại học – năm 1955 - lại cũng l{ thời buổi khó kiếm công ăn
việc làm. Nếu không phải là họ hàng ruột thịt hoặc không có quan hệ thân thiết với các
th{nh viên trong ban l~nh đạo công ty thì không thể xin việc được.
Tôi từng mơ được làm việc trong ngành Hoá dầu - một ng{nh khi đó được cho là có tiềm
năng ph|t triển vượt bậc, v{ cũng l{ ng{nh m{ tôi có thể áp dụng được những điều đ~ học
trong trường vào thực tế. Tôi đăng ký thi tuyển vào rất nhiều công ty dầu lửa lớn nhất Nhật
Bản- công ty Dầu lửa Đế quốc. Nhưng chẳng công ty nào nhận tôi cả. Có vẻ như nếu không
có thế lực hoặc không quen biết thì dù có học giỏi, có tốt nghiệp đại học cũng chẳng có đất
dụng võ.
Khi đó trong tôi }m thầm dấy lên tâm trạng “x~ hội sao mà bất công đến vậy”. Suốt từ thuở
nhỏ, tôi chưa từng một lần được toại nguyện. Thi vào cấp hai: rớt. Năm sau thi lại cũng rớt.
Phải học cấp hai dành cho học sinh không v{o được trường chính quy. Vất vả lắm mới được
học tiếp lên cấp ba. Đến khi thi đại học thì nguyện vọng một không thành. Rồi xin đi l{m
cũng không được.
Tất cả những gì tôi định l{m đều bị trục trặc, đến nỗi trong tôi hình thành một đinh ninh
qu|i đản: người ta mà bốc thăm thì thế n{o cũng có lần trúng. Còn tôi dù có được bốc thăm
cả trăm lần thì cả trăm lần trượt. Có l{m gì cũng hỏng, như thể cuộc đời tôi l{ đồ bỏ đi vậy.
Khi đó trong tôi nảy sinh ý nghĩ: “Không biết chừng mình phải sống trong nỗi hận đời”.
Chiến tranh kết thúc mới chưa đầy mười năm, x~ hội Nhật Bản vẫn trong tình trạng nghèo
khổ hỗn loạn, tốt xấu lẫn lộn. Tôi đ~ từng suy nghĩ một cách rất nghiêm túc: “Dù mình có cố
đến mấy cũng bị xã hội gạt ra rìa. Hãy thử dấn th}n v{o con đường yakuza xem sao – làm
một gã maphia có học có khi lại hay. Thay vì chịu tủi nhục trong một xã hội đầy rẫy bất công
như thế thì thà sống trong thế giới yakuza m{ gi{u lòng nghĩa hiệp còn hơn. Mình đ~ từng
học karate nếu có phải đ|nh đấm tí chút cũng đ}u có ng|n.”
Tôi chợt nhận ra mình đ~ đi đi lại lại nhiều lần trước cửa văn phòng của yakuza nằm trong
trung tâm buôn bán sầm uất của thành phố Kagoshima.
Các bạn trẻ! Mỗi khi gặp thất bại, có lẽ trong lòng các bạn cũng dấy lên tâm trạng căm ghét
và hận đời như tôi ng{y trước: N{o l{ “ Vì sao lại ra nông nỗi n{y?”; hay “ Tôi có l{m gì nên
tội mà bị hành hạ khổ sở thế n{y?”.. khi đó tôi luôn mang trong lòng ý nghĩ “Dù cố mấy thì
cũng bị gạt ra rìa, mình sẽ phải ngậm hờn cho tới chết”.
CUỘC ĐỜI KHÔNG PHẢI TOÀN ĐIỀU XẤU
Tuy vậy, sau những suy tư trăn trở, tôi nghĩ lại: “Có hận đời đến mấy thì cuộc đời mình cũng
chẳng kh| lên được. Đúng l{ từ trước tới nay, mình luôn gặp “vận xui”, định l{m gì cũng
hỏng. Nhưng, dứt khoát là ông Trời có mắt. Cũng có thể bất hạnh đ~ luôn đeo đuổi mình cho
tới bận bây giờ. Nhưng từ nay về sau có lẽ ông Trời sẽ cho mình được hưởng hạnh phúc.
Vậy thì, cứ phải sống cho lạc quan lên, v{ luôn hướng về phía trước.”
Cảnh ngộ dù có khó khăn đến mấy thì mình vẫn cứ phải sống v{ không để mất hy vọng. Nghĩ
được như thế nên tôi đ~ kịp dừng bước ngay trước khi dẫm ch}n v{o con đường đen tối.
Cùng thời gian đó, gi|o sư Takeshita ở trường đại học giới thiệu cho tôi vào làm việc tại một
công ty chuyên sản xuất sứ c|ch điện cao áp ở Kyoto. Đó l{ Công ty Công nghiệp Shofu. Tôi
nhớ lại, khi thầy gọi đến báo cho biết: “ Thầy có người quen ở công ty đó. Họ có thể giúp em.
Em thấy thế n{o?”. Tôi đồng ý ngay tức thì: “Trăm sự nhờ thầy ạ”. Lúc đó tôi cảm thấy phấn
chấn vô cùng. Thế l{ tôi có được việc làm.
Nhưng, như tôi đ~ nói ở phần trước, ngành gốm sứ thuộc về lĩnh vực ho| vô cơ. Nó kh|c
hẳn hoá hữu cơ l{ chuyên ng{nh m{ tôi theo học. Hơn nữa, khi được biết công ty đó cần
tuyển sinh viên học về nam châm, tôi liền tìm tới gi|o sư dạy ng{nh ho| vô cơ thụ giáo. Tôi
bắt đầu nghiên cứu về đất sét, đặc biệt là loại đất sét tốt của vùng Iriki tỉnh Kagoshima. Sau
nửa năm miệt mài nghiên cứu, tôi tập hợp các dữ liệu và kết quả phân tích làm thành bản
luận văn tốt nghiệp.
Công ty Công nghiệp Shofu – nơi tôi sẽ đến làm việc - vốn l{ công ty đầu tiên sản xuất thành
công sứ c|ch điện cao áp tại Nhật Bản. Khi đó nó l{ một công ty rất nổi tiếng. Cha mẹ thấy
tôi được vào làm việc ở một công ty tiếng tăm, lại là công ty thuộc ngành chế tạo nên ông bà
rất vui và yên tâm. Còn anh trai mua tặng ngay cho tôi một bộ đồ vét.
Lận trong túi một số tiền ít ỏi, tôi rời Kagoshima lên Kyoto và vào làm việc ở Công ty Công
nghiệp Shofu. Nhưng, l{m được một thời gian tôi mới hiểu ra rằng công ty đang trong tình
trạng tài chính nguy ngập. Số tiền tôi mang theo chỉ có thể cầm cự được đến cuối tháng - tức
l{ đến kỳ l~nh lương đầu tiên. Nhưng đến ng{y ph|t lương thì công ty thông b|o chưa có
tiền và khất lương sau một tuần nữa sẽ trả. Rồi đến tuần sau công ty lại đề nghị khất thêm
một tuần nữa…
Tôi cảm thấy bực bội trong lòng. Đúng chỉ có những công ty “đồ bỏ” thế này mới chịu nhận
những sinh viên quê mùa tốt nghiệp đại học hàng tỉnh như tôi v{o l{m việc. Nhưng bực lên
thì nghĩ lung tung thế thôi, chứ tôi còn có lựa chọn nào nữa đ}u. Chẳng còn cách nào khác,
tôi đi mua bếp, mua nồi niêu xoong chảo đem về nhà tập thể tồi tàn của công ty tự nấu
nướng. Tối đến thì thu dọn nồi niêu bếp núc vào một góc rồi rải chiếu ra ngủ.
Một anh ch{ng nh{ quê hăm hở lên Kyoto, sau lưng có bao nhiêu người khích lệ. Vậy mà
đ}u ngờ bước khởi đầu cuộc đời “l{m người lớn” của tôi lại đ}m ra như vậy. Sau mỗi ngày
làm việc, tôi chạy vội ra khu chợ cóc gần công ty mua đồ về nấu. Cứ thấy cái mặt tôi là mấy
ông bà bán hàng lại cảnh c|o: “N{y, nói trước cho cậu biết nhé. Làm việc ở cái công ty ấy thì
chẳng ma nào nó chịu lấy cậu đ}u.” Tôi như rơi xuống vực thẳm.
Có thể nói những năm th|ng nửa đầu cuộc đời của tôi là một chuỗi những thất bại và nản
chí, động v{o c|i gì cũng hỏng.
Nhưng, giờ đ}y ngồi ngẫm lại, tôi cảm thấy những ng{y th|ng không đ}u v{o đ}u ấy chính
là chuỗi thứ thách mà ông Trời “ban cho” để rèn luyện n}ng cao cho con người tôi lên. Hơn
nữa, cũng nhờ thế m{ năng lực của tôi cũng ph|t triển như thể không có giới hạn.
CHƯƠNG HAI
ƯỚC MƠ SẼ THÀNH HIỆN THỰC
“Khi gặp khó khăn, gian khổ, con người ta ai cũng mong thoát khỏi tình cảnh đó. Nhưng trên
thực tế, dù rất muốn nhưng phần lớn đều khó tho|t ra được. Cuộc đời tôi là quá trình chịu
đựng sự bất hạnh, sự không được như ý v{ l{ qu| trình không ngừng nỗ lực hướng tới
tương lai tươi s|ng V{ nhờ thế m{ tôi đ~ thực hiện được ước mơ.”
LÀM VIỆC TẠI CÔNG TY THUA LỖ
Năm tôi v{o l{m – 1955 – Công ty Công nghiệp Shofu tuyển cả thảy năm nh}n viên mới tốt
nghiệp đại học. Nhưng khổ nỗi, cả năm đứa chúng tôi hễ cứ gặp nhau l{ y như rằng lại mở
miệng kêu ca, phàn nàn về công ty: “Tụi mình thật là xúi quẩy. Không dưng lại rủ nhau cùng
chui v{o c|i công ty “èo uột” n{y. Có l{m cả đời ở đ}y cũng không có tương lai. Mau mau
tính đường chuồn thôi”.
Trong thời buổi kiếm được công ăn việc l{m còn khó hơn lên trời, nếu không nhờ sự can
thiệp của c|c gi|o sư thì chúng tôi đừng hòng m{ mong có được chỗ làm này. Mặc dù vậy,
không ai trong chúng tôi cảm thấy hãnh diện gì cả mà chỉ suốt ngày ca cẩm về công ty. Thực
ra, mới đi l{m chưa đầy một tháng thì một người đ~ bỏ việc. Sang tháng thứ hai lại thêm hai
người nữa. V{ đến mùa thu thì trong số năm nh}n viên mới chỉ còn sót lại có hai. Một người
l{ tôi. Còn người kia là sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Kyoto, anh quê ở Amakusa, cùng
đảo Kyushu với tôi.
Hai đứa chúng tôi ở lại v{ động viên nhau: “Kêu ca ho{i cũng đ}u có giải quyết được vấn đề
gì. Thôi mình cứ chịu khó làm vậy”. Nhưng cả hai chúng tôi cùng hiểu rằng ở lại công ty thì
thực ra cũng chẳng có tương lai. Đến lúc n{o đó rồi cũng phải bỏ đi thôi. Nghĩ thì nghĩ thế,
nhưng nếu có định bỏ công ty n{y đi thì cũng không thể kiếm được công ty kh|c để đến.
Cuối cùng, chúng tôi thống nhất với nhau: tốt nhất l{ xung phong đi lính. Thế rồi, tranh thủ
ngày nghỉ, chúng tôi đến xin đơn ở trụ sở của lực lượng phòng vệ đóng ở Katsura, quận
Nishikyou, thành phố Kyoto. Sau đó, chúng tôi nộp đơn v{ dự thi v{o trường đ{o tạo sĩ quan
tại đơn vị đồn trú của lực lượng phòng vệ đóng ở thành phố Itami tỉnh Hyogo. Cả hai chúng
tôi cùng đỗ.
CHỈ CÒN LẠI MỘT MÌNH
Để theo học trường đ{o tạo sĩ quan cần phải có bản hộ tịch gốc. Hai chúng tôi ra bưu điện
đ|nh điện tín về bảo người nhà gửi gấp. Ít bữa sau, bạn tôi nhận được ngay, còn tôi cứ giục
đi giục lại m~i m{ gia đình vẫn không gửi. Sau này, tôi mới hay là anh trai tôi nổi giận nên
không gửi bản hộ tịch gốc cho tôi.
Thời kì đó, trong ho{n cảnh vẫn còn hỗn loạn sau chiến tranh, gia đình tôi sống rất nghèo
khổ. Cả nhà phải bóp bụng lắm tôi mới xin được việc làm trong công ty ở kyoto. Vậy m{ đi
làm mới năm bữa nửa tháng, luôn thấy tôi ca th|n đòi bỏ việc, anh tôi rất bực tức.
Quả thật, anh tôi đ~ hy sinh việc học lên đại học của mình cặm cụi làm việc để nhường cho
tôi. Và cả em gái tôi nữa cùng vất vả làm việc để phụ giúp gia đình. Trong l| thư gửi cho tôi,
anh tôi viết: “Anh luôn tin rằng em sẽ cố gắng làm việc để giúp gia đình tho|t khỏi cảnh
nghèo túng. Cả nhà phải chịu đựng đủ thứ để cho em học cấp ba, rồi theo học lên đại học.
Vậy mà mới đi l{m được ít bữa, em đòi bỏ việc. Em nghĩ gì vậy? Lẽ ra, chỉ riêng việc xin
được v{o l{m trong công ty cũng l{ tốt lắm rồi. Phải có lòng biết ơn mọi người chứ. Phải
siêng năng l{m việc…”.
Kết cục l{ tôi không v{o được trường đ{o tạo sĩ quan. Còn bạn tôi thì ổn. Thế là chỉ còn trơ
trọi một mình tôi ở lại công ty èo uột đó.
Công ty Công nghiệp Shofu sử dụng các nguyên liệu thông thường để sản xuất sứ c|ch điện.
Sứ c|ch điện là một loại gốm dùng vào việc c|ch điện cao thế. Công ty ra chỉ thị: “Tập trung
nghiên cứu, phát triển loại sứ mới phục vụ ng{nh điện tử - một ngành có tiềm năng ph|t
triển trong tương lai”. Từ đó, tôi được giao công việc nghiên cứu để tìm ra loại vật liệu mới
có khả năng c|ch điện ở dải tần số cao.
Còn lại một mình- những nhân viên mới đều đ~ bỏ đi nơi kh|c – tôi thầm nghĩ: “Chẳng có
chỗ n{o kh|c cho mình tìm đến. Kêu ca m~i thì cũng đến thế. Thôi từ nay cứ toàn tâm toàn ý
tập trung nghiên cứu tìm ra loại gốm công nghệ cao.” Cũng từ đó, tôi thay hẳn nếp nghĩ
trong đầu bằng cách tự nhủ thầm: thay vì những lúc rảnh rỗi mình cứ suy nghĩ lung tung thì
từ giờ mình sẽ dùng thời gian ấy để nghiên cứu. Từ đó, cuộc sống hàng ngày của tôi cũng
thay đổi. Bình thường, cứ hết giờ làm việc là tôi lại về nhà tập thể công ty để cơm nước, giặt
giũ. Tôi bắt đầu cảm thấy thiếu thời gian kể từ khi để tâm vào nghiên cứu. Vì vậy, tôi quyết
định bê hết nồi niêu xoong chảo từ nhà tập thể về phòng làm việc. Tôi dùng lò điện trong
phòng thổi cơm v{ ngủ lại luôn ở đó.
Có một điều lạ là khi tôi bắt đầu miệt mài nghiên cứu thì hàng loạt kết quả khả quan cứ theo
nhau xuất hiện. Ông trưởng phòng hết lời khen ngợi: “Cậu làm việc khá lắm!” Chẳng mấy
chốc, tiếng tăm của tôi lan khắp công ty, tới cả ban gi|m đốc. Họ cử người đến phòng nghiên
cứu khen ngợi v{ động viên tôi. Khác hẳn với th|i độ chán nản đến tột cùng trước đó, được
cấp trên để ý và khen ngợi, tôi cảm thấy công việc nghiên cứu trở nên hấp dẫn hẳn lên.
Thích thú với công việc, tôi lại càng cắm đầu cắm cổ vào nghiên cứu mày mò. Tôi trở thành
một người khác hẳn. Từ một kẻ mở miệng ra là muốn thôi việc, giờ đ}y, tuy mới 23 tuổi, tôi
đ~ mang trong lòng ý nghĩ: “Sẽ vực công ty lên bằng kết quả nghiên cứu của chính mình”.
Một vòng tuần ho{n theo hướng tích cực xuất hiện trong tôi. Được khen ngợi. Công việc trở
nên hấp dẫn. Càng nỗ lực không ngừng. Về sau, nhận thức của tôi ng{y c{ng s}u thêm: Điều
quan trọng nhất trong cuộc đời con người là ở chỗ phải tự tạo ra vòng tuần hoàn tích cực
như vậy cho mình.
CÔNG TY ĐIỆN TỬ MATSUSHITA ĐỂ MẮT TỚI TÔI
Sau khoảng một năm rưỡi tập trung nghiên cứu, tôi đ~ th{nh công khi tổng hợp được chất
fol stelite, một loại vật liệu gốm công nghệ cao mới. Mãi sau này tôi mới biết, trước tôi
khoảng một năm, phòng nghiên cứu phát triển của tập đo{n General Electric Hoa Kỳ cũng
đ~ tổng hợp thành công vật liệu này.
Có thể nói tôi l{ người đầu tiên tại Nhật Bản v{ l{ người thứ hai trên thế giới tìm ra vật liệu
mới này.
Trong khi tôi đang vất vả mày mò tìm cách ứng dụng loại vật liệu mới để làm thành sản
phẩm thì Công ty Công nghiệp Điện tử Matsushita - thuộc tập đo{n Matsushita, l{ tập đo{n
đang bắt tay vào sản xuất tivi trên cơ sở hợp tác kỹ thuật với Philips, một công ty h{ng đầu
thế giới của Hà Lan- quyết định sử dụng kết quả nghiên cứu của tôi.
Họ hiểu rõ tính năng tuyệt vời của vật liệu c|ch điện ở dải tần số cao do tôi tìm ra. Và thế là
tôi được họ tin tưởng đặt h{ng để sản xuất linh kiện “thanh gốm c|ch điện hình chữ U”
trong ống chân không của tivi. Như vậy, kết quả nghiên cứu của tôi lần đầu tiên được đưa
vào sản xuất hàng loạt với số lượng lớn. Sản phẩm do tôi – một kẻ suốt ngày kêu ca phàn
nàn khi mới bước chân vào công ty – làm ra, thực sự đ~ vực công ty sống lại. Thực ra, ở
công ty tôi thì chỉ có bộ phận của tôi là nhận được vô số đơn đặt h{ng v{ l{m ăn có l~i. Còn
các bộ phận khác vẫn rất ì ạch.
Để sản xuất kịp đơn đặt hàng, công ty cho sản xuất các thiết bị m|y móc theo đúng như thiết
kế của tôi. Và hàng loạt linh kiện do thiết bị máy móc ấy sản xuất được liên tục giao cho
kh|ch đặt hàng – Công ty Công nghiệp Điện tử Matsushita.
Đến thời điểm đó tôi mới vào công ty làm việc chưa đầy hai năm.
Nhưng có một điều khiến tôi lo lắng. Đó l{ l{m sao để những thanh niên mới vào làm việc
không bị rơi v{o tình trạnh giống như tôi khi mới tập tễnh bước vào công ty. Vì thế, tôi tạo
điều kiện cho họ có thời gian chơi bóng ch{y, tập quyền Anh… Tôi cố gắng tạo nên không
khí làm việc vui vẻ cho dù công ty vẫn còn nghèo, không có khả năng đ|p ứng đầy đủ những
nhu cầu vật chất và tinh thần cho công nhân.
QUYẾT GIỮ ĐÚNG HẠN GIAO HÀNG
Vật liệu c|ch điện do tôi tìm ra đ~ trở thành linh kiện không thể thiếu đối với Công ty Công
nghiệp Điện tử Matsushita. Tuy nhiên, có một chuyện đ|ng tiếc xảy ra là vào thời đó, giữa
ban l~nh đạo Công ty Shofu với công nhân luôn mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, trong công ty
thường xuyên xảy ra các cuộc đình công.
Mỗi khi xảy ra đình công thì việc giao hàng cho Công ty công nghiệp Matsushita lại bị gián
đoạn. “Không thể để những chuyện nội bộ g}y khó khăn cho kh|ch h{ng” – nghĩ như vậy, tôi
quyết định: riêng bộ phận của tôi phải duy trì sản xuất liên tục, không tham gia đình công.
Tôi l{m như vậy vì muốn bảo đảm sản xuất, có sản phẩm và giao h{ng đúng hạn cho khách
hàng.
Thời đó, phải gan lỳ v{ can đảm lắm mới từ chối không tham dự các cuộc đình công. Mỗi khi
xảy ra đình công thì công nh}n không thể v{o nh{ xưởng, v{o văn phòng, công ty cũng như
phòng nghiên cứu. Nếu xong việc mà rời xưởng về khu tập thể thì ng{y hôm sau có đến
xưởng cũng không v{o được. Như thế sẽ l{m gi|n đoạn việc giao hàng cho khách hàng.
Trước tình hình đó, tôi v{ mọi người quyết định sẽ không rời khỏi dây chuyền sản xuất mà
ngủ lại ngay trong xưởng. Việc giao sản phẩm cho kh|ch h{ng cũng thật ly kỳ hồi hộp.
Chúng tôi bí mật chuyển c|c bao h{ng qua tường bao quanh xưởng. Phía ngoài tôi bố trí
một nữ nh}n viên đứng đợi sẵn. Cô ấy có nhiệm vụ chuyển những bao h{ng được ném qua
tường đến tay kh|ch h{ng. Tôi xin được lạc đề một chút, cô nữ nh}n viên đứng đợi sẵn
ngoài bờ tường ngày ấy sau này trở thành vợ tôi.
Bất chấp những nỗ lực của bộ phận tôi, Công ty Shofu vẫn cứ suy sụp dần, số nợ ngày một
tăng. Vì trong cả công ty, chỉ riêng bộ phận nghiên cứu của tôi là có việc làm.
Thời đó l{ thời đại của ống chân không. Công ty khổng lồ Hitachi bắt đầu nghiên cứu chế tạo
ống chân không siêu nhỏ bằng gốm. Họ dự định chế tạo linh kiện này dựa trên các kết quả
nghiên cứu của Hoa Kỳ. Nhưng để l{m được ra nó thì phải có nơi cung cấp vật liệu. Thế là
họ đề nghị Công ty Shofu nghiên cứu tìm tòi. Và thế là cờ lại đến tay tôi.
Tôi miệt mài lao vào nghiên cứu nhưng m~i m{ không đạt được kết quả. Mặt kh|c, hướng
nghiên cứu của tôi lại tr|i ngược hoàn toàn với quan điểm của vị phó gi|m đốc phụ trách kỹ
thuật. Kết cục là tôi buộc phải thôi việc, rời khỏi công ty.
QUYẾT KHÔNG CHỊU THUA KÉM NGƯỜI
Biết tôi thôi việc, có một người đ~ tìm gặp và nói với tôi: “Anh nên tiếp tục công việc nghiên
cứu. Đừng bỏ dở, uổng lắm. Chúng tôi sẽ lập công ty cho anh.”
Năm 1959, Công ty Gốm Kyoto - tiền thân của công ty Kyocera sau này – ra đời với số vốn 3
triệu yên. Ở chương sau, tôi sẽ đề cập s}u hơn về quá trình tạo nghiệp này.
Nhưng khi được mọi người giúp đỡ - lập công ty để tôi tiếp tục công việc – thì nỗi lo bị phá
sản cứ ám ảnh tôi: “Nếu chẳng may thất bại, mình không chỉ bội ước với những người góp
vốn lập công ty m{ còn đẩy những nh}n viên tin tưởng đi theo mình ra đứng đường.” Vì vậy,
tôi làm việc không quản ng{y đêm. Chính nhờ sự nỗ lực không biết mệt mỏi với quyết tâm
không để thua kém người khác, Công ty Kyocera chúng tôi dần lớn mạnh và trở thành công
ty khổng lồ như hiện nay.
Việc một người như tôi - chỉ tốt nghiệp trường đại học hàng tỉnh, thế lực không có, may
phúc được thầy giáo giới thiệu mới kiếm nổi việc làm trong một công ty èo uột, suốt ngày ca
cẩm chỉ muốn bỏ việc – mà lại có thể gây dựng v{ đứng đầu một công ty khổng lồ như ng{y
nay, chính là kết quả của những nổ lực không biết mệt mỏi, tiến từng bước, từng bước một
cách âm thầm và tinh thần quyết không để thua kém người.
Bây giờ nhìn lại cuộc đời mình, tôi thấy điều quan trọng nhất l{ lúc n{o cũng phải có mục
tiêu rõ ràng và nỗ lực không ngừng để đạt cho được mục tiêu đ~ vạch ra. Công ty Kyocera
được ca ngợi như một tấm gương về sự th{nh công, nhưng không vì thế mà chúng tôi
phổng mũi huênh hoang, ngược lại vẫn âm thầm nỗ lực, nhờ thế mới có được như ng{y hôm
nay.
Sự trưởng thành của con người là quá trình tích tụ âm thầm, từng bước, từng bước một.
Các bạn trẻ! Chắc cũng có những lúc các bạn cảm thấy chán ngấy những gì mình đang học,
v{ tương lai đang chờ mình phía trước mới mờ mịt làm sao. Thực ra đó cũng l{ điều bình
thường, có lẽ ai cũng đ~ từng trải qua ít nhất một lần trong đời. Riêng tôi khi mới bước chân
vào Công ty Công nghiệp Shofu cũng thế.
Hồi mới đi l{m, suốt ngày giam mình trong phòng nghiên cứu, ng{y n{o như ng{y nấy,
quanh đi quẩn lại tôi cứ phải làm một vài công việc lặp đi lặp lại buồn ch|n, như dùng c|i
chày bằng đ| để trộn hỗn hợp hay quay cối xay nghiền nguyên liệu. Người ta bỏ vào cối
những viên bi sắt to nặng. Khi quay cối, những viên bi sắt ấy va vào nhau kêu lộc cộc và
nghiền nguyên liệu trong cối.
Thời gian đầu, tôi làm những công việc đó một cách miễn cưỡng thụ động.
Thế rồi, vào một ngày nọ, hình ảnh một đồng nghiệp lớn tuổi cùng phòng, cũng l{m những
việc như tôi, suốt ngày dùng chổi lông cọ rửa kỹ lưỡng cối nghiền bỗng đập vào mắt tôi.
Những viên bi sắt thường bị sứt mẻ nhiều chỗ. Bột nguyên liệu của mẻ nghiền trước thường
bám chặt vào những chỗ sứt đó, phải cọ cho thật sạch. Ông ấy cẩn thận lấy một thanh sắt
mỏng dẹt, nhọn đầu, cậy từng tí từng tí một, rồi lấy chổi lông quẹt cho đến khi sạch hẳn mới
thôi. Tôi đứng nhìn, trong bụng nghĩ thầm: “Tốt nghiệp đại học, lại có tuổi rồi mà phải làm
cái việc cọ rửa vớ vẩn như thế, không thấy ch|n sao…”
Nhưng khi kiểm tra kết quả thí nghiệm, chỉ riêng tôi l{ ít khi đạt được kết quả như trông
đợi. Tôi rất thất vọng mà không hiểu vì sao. Bất chợt, hình ảnh cặm cụi cọ rửa cối nghiền
của bậc đ{n anh hiện lên trong đầu tôi, và tôi vỡ lẽ. Thì ra chính cái việc rửa cối nghiền quấy
qu| cho xong đ~ l{m cho kết quả thí nghiệm của tôi bị sai lệch. Những vụn nguyên liệu từ
lần thí nghiệm trước vẫn còn bám trên các viên bi trong cối, mà chỉ cần một chút tạp chất
như vậy thôi cũng đủ làm tính chất của gốm thay đổi hẳn.
Bậc đ{n anh ấy không chỉ cọ rửa kỹ lưỡng mà còn cẩn thận lau chùi dụng cụ bằng chiếc
khăn bông sạch tinh luôn giắt bên hông.
Té ra là vậy. Ngay cả những công việc tưởng rất tầm thường như cọ rửa dụng cụ thí nghiệm
cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng, và phải được thực hiện một c|ch chu đ|o.
Theo sách vở tài liệu thì quá trình làm gốm rất đơn giản. Chỉ việc trộn đều các loại nguyên
liệu, nặn thành hình rồi nung nóng ở nhiệt độ cao và chờ sản phẩm ra lò. Nhưng thực tế thì
lại không đơn giản tí nào. Phải vừa làm vừa mày mò. Hỏng lần này làm lại lần khác. Và quá
trình ấy cứ lặp đi lặp lại suốt. Chỉ sau khi đ~ trải qua biết bao công sức khó nhọc và kiên
nhẫn bạn mới có thể tìm ra được loại gốm theo ý muốn.
Bình thường, người đồng nghiệp lớn tuổi ấy rất ít lời, lúc n{o cũng chỉ lẳng lặng chùi rửa, kỳ
cọ và lau dụng cụ. Hình ảnh khiêm nhường ấy làm tôi sáng mắt ra nhiều.
Chưa hết, bất kể ng{y đông th|ng gi|, lúc n{o ông cũng rửa dụng cụ bằng nước lã ở bồn rửa
nằm phía sau phòng thí nghiệm. Rửa xong, ông lại dán mắt vào dụng cụ để kiểm tra kỹ càng
xem có còn sót lại tí bụi bẩn nào không, rồi mới lấy khăn lau sạch sẽ. Chỉ khi đó ông mới
dùng nó vào thí nghiệm tiếp theo.
Ngày lại ngày, tôi trộn nguyên liệu, quay cối nghiền và âm thầm lặp đi lặp lại các thí nghiệm.
Tuy cố thực hiện nghiêm túc công việc được giao, nhưng trong lòng tôi không tr|nh khỏi
suy nghĩ: “Tốt nghiệp đại học. Nghiên cứu về gốm. Vậy mà công việc quanh đi quẩn lại chỉ có
thế thì không biết cuộc đời mình sau này sẽ ra sao?” Tôi không khỏi lo lắng khi nghĩ đến
tương lai, dù vẫn cặm cụi làm công việc nghiên cứu hàng ngày.
Thời đó, trong số những người nghiên cứu về gốm như tôi, có rất nhiều người được làm
việc ở các công ty lớn, nhiều người được giữ lại trường tiếp tục công việc nghiên cứu trong
các phòng thí nghiệm hiện đại với trang thiết bị tối t}n. Ngo{i ra, có người xuất sắc còn
được nhân học bổng Fulbright, sanh Hoa Kỳ nghiên cứu tu nghiệp.
Còn c|i th}n tôi thì ng{y n{o như ng{y nấy, thui thủi một mình trộn nguyên liệu, quay cối
nghiền trong cái phòng thí nghiệm tồi tàn của một công ty thua lỗ. Nhiều lúc sốt ruột quá,
tôi tự nhủ: “Có gắn cả cuộc đời vào chốn n{y cũng chắc gì đạt được kết quả”. T}m trạng mòn
mỏi ch|n chường cứ ám ảnh tôi hàng ngày.
ĐẤU TRANH VỚI TƯ TƯỞNG BẤT AN
Ngay cả việc học h{nh, có kiên trì đến mấy mà không thấy được tương lại thì cũng dễ rơi
vào tâm trạng thất vọng. Trường hợp của tôi cũng vậy.
Trong đầu tôi luôn có hai luồng suy nghĩ. Một là: nếu cứ như thế này mãi thì e rằng mình sẽ
thành kẻ vô tích sự cả đời mất thôi. Một luồng suy nghĩ kh|c: công việc mình đang l{m tuy
vất vả, tiến từng bước rất chậm chạp y như con s}u đo, v{ l{ cả một quá trình tích luỹ âm
thầm kéo d{i, nhưng một ng{y n{o đó nhất định sẽ đem lại thành quả to lớn.
Những kim tự th|p hùng vĩ ở Ai Cập cũng vậy thôi. Người xưa phải tốn biết bao công sức,
ròng rã hàng chục năm trời để chuyển hàng triệu tảng đ| khổng lồ, tìm cách xếp chồng lên
nhau thì mới xây dựng nên chúng.
Những lúc buồn chán, tôi lại phải tự “lên gi}y cót” cho mình: “Kiến tha l}u đầy tổ, mình cứ
âm thầm tích luỹ, nhất định sẽ có ngày công việc nghiên cứu của mình đem lại thành quả
rực rỡ. Vì vậy, chớ có nản lòng mới được.”
Suốt một thời gian d{i tôi luôn trăn trở: “Nên ở lại công ty? Hay nên bỏ đi l{ hơn?” Vì công
ty quá èo uột nên mọi người đ~ bỏ đi cả. Chính tôi cũng từng muốn bỏ hết m{ đi dù biết
rằng mình chẳng có nơi n{o để đến cả. Trong đầu tôi cứ lặp đi lặp lại những câu hỏi đ|p như
thế. Những người ở hoàn cảnh như tôi họ sẽ “lên hương”? Nhưng nhỡ bỏ đi lại là sai lầm,
cuộc đời mình xuống dốc từ đ}y thì sao? Hơn nữa, biết đ}u cứ ở lại và cố gắng thì cho dù
công ty có èo uột thật nhưng cuộc đời mình vẫn cứ tốt thì sao? Tóm lại thì “đi l{ đúng hay ở
lại l{ đúng?” – tôi thấy điên hết cả đầu.
Nhưng rồi tôi cũng x|c định được rõ một điều quan trọng: “Bỏ đi hay ở lại công ty thì cũng
thế cả. Nếu ở chỗ n{o mình cũng chỉ kêu ca, than thân trách phận chẳng đ}u v{o đ}u thì
cuộc đời mình chắc chắn không thể tốt đẹp lên đuợc.”
Giờ đ}y nhìn lại những chặng đường đ~ qua, một lần nữa tôi càng thấy rõ: thành quả to lớn
chỉ có được nhờ vào cả một quá trình nỗ lực không ngừng. Có những lúc ta băn khoăn, trăn
trở, có những lúc gian khổ, khó khăn, nhưng không vì thế mà ta lại buông xuôi. Tôi vẫn cần
mẫn, chịu khó trong công việc.
Có một câu thành ngữ nổi tiếng: “Bền bỉ là sức mạnh”. Tiếp tục công việc, kiên trì theo đuổi
sự nghiệp l{ điều quan trọng h{ng đầu trong cuộc đời. Có một điều mà tôi muốn truyền lại
cho thế hệ trẻ - thế hệ đang bắt tay vào công việc, bắt đầu xây dựng cuộc sống. Đó l{: H~y
âm thầm nỗ lực. Hãy tiếp tục nỗ lực. Và hãy không ngừng nỗ lực. Nói cụ thể hơn thì h~y xem
công việc của mình là trách nhiệm được Trời giao phó. Vì vậy, h~y theo đuổi công việc đó
trong suốt cuộc đời. Tôi cho rằng, để sống một cuộc đời có ý nghĩa thì đó l{ điều cần thiết
hơn bất cứ điều gì khác.
Nhưng để có thể theo đuổi v{ duy trì được nhiệt tình làm việc trong một thời gian dài thì
cần phải có những “ bí quyết” gì? C|c bạn hãy thử suy nghĩ cùng tôi.
THÍCH THÚ VỚI CÔNG VIỆC LUÔN SUY NGHĨ SÁNG TẠO
Điều quan trọng đầu tiên là thấy thích công việc.
Trường hợp của tôi thì sao? Như đ~ kể ở phần trước, tôi thường xuyên kêu ca, chê bai công
việc ở công ty đầu tiên m{ mình đi l{m. Nhưng rồi vì không thể tìm đuợc nơi n{o kh|c để đi
cả, tôi đ{nh vùi đầu vào công việc được giao – nghiên cứu gốm công nghệ cao. Và dần dần
tôi thấy thích thú với công việc nghiên cứu đó.
Thật tình thì chuyên ngành của tôi ở đại học là hoá hữu cơ, nên khi được giao đề tài nghiên
cứu gốm công nghệ cao, tức là nghiên cứu sang lĩnh vực tr|i ng{nh l{ hóa vô cơ, nên ngay từ
đầu tôi đ~ không thấy thích lắm. Nhưng vì không có nơi n{o để “chuồn”, hơn nữa công việc
lại đòi hỏi gấp nên “đ{nh” phải thích vậy. Có điều, tôi đ~ rất cố gắng để dần dần thấy yêu
thích nó.
Tôi nghĩ rằng đời người mấy ai có được “ vận may” l{ được làm công việc mình yêu thích
ngay từ đầu. Khi bước v{o đời, đa số đều phải làm những việc không như ý muốn. Thực tế là
như vậy. Cho nên để yêu thích công việc, người ta chỉ còn mỗi một cách là tự bản thân mình
phải cố gắng, phải nỗ lực. Và việc nỗ lực để “thấy thích” l{ điều quan trọng đầu tiên để bạn
có thể kiên trì theo đuổi công việc trong suốt một thời gian dài.
Nhưng kiên trì không có nghĩa l{ cứ theo đuổi công việc một c|ch mơ hồ mà không có mục
tiêu rõ r{ng n{o. Kiên trì có nghĩa l{ liên tục suy nghĩ v{ s|ng tạo không ngừng. Ngày mai
phải tốt hơn hôm nay. Ng{y kia phải tốt hơn ng{y mai. Phải để tâm sao cho công việc mỗi
ngày một tiến lên dù chỉ một chút nhỏ nhoi. Quá trình không ngừng suy nghĩ v{ s|ng tạo
như vậy sẽ tạo ra thành quả tuyệt vời.
Trong nghiên cứu, trong công việc hay trong sự nghiệp, tôi thường xuyên đặt câu hỏi cho
mình: “Còn có c|ch n{o tốt hơn nữa không?” Vì thế, từ khi ra trường cho tới nay, trong bất
kỳ lĩnh vực n{o tôi cũng luôn luôn cải tiến chất lượng.
Nhờ thế mà tôi có thể kiên trì theo đuổi lâu dài một công việc và sáng tạo được nhiều thứ
trong suốt sự nghiệp của mình.
“ Không ngừng suy nghĩ v{ s|ng tạo mỗi ng{y” – đó cũng l{ điều quan trọng thứ hai tôi
muốn nói với các bạn.
NIỀM VUI HỒN NHIÊN LÀ LIỀU THUỐC BỔ TRONG CUỘC ĐỜI
Điều thứ ba là hãy sống vui vẻ hồn nhiên.
Cũng như việc học hành, quá trình nỗ lực dấn thân vào nghiên cứu và làm việc là quá trình
lao động khắc nghiệt không kém gì so với người đi tu h{nh x|c để đạt đạo. Nhưng, nếu suốt
ngày chỉ nghĩ đến những cực nhọc trong quá trình khổ luyện đó thì sẽ khó m{ theo đuổi
được suốt cả năm, cả đời. Vì vậy, vấn đề thiết yếu là phải tìm thấy niềm vui, sự sung sướng
trong công việc, trong học tập.
Trường hợp của tôi, khi còn nghiên cứu gốm ở công ty èo uột đó, tôi mừng vui khôn tả mỗi
khi thí nghiệm có kết quả như trông đợi. Tôi vẫn thường khoái ra mặt mỗi khi được sếp
khen ngợi. Chính nhờ những niềm vui nho nhỏ như vậy nên tôi mới có thể tiếp tục theo
đuổi công việc nghiên cứu suốt chừng ấy thời gian.
Tôi xin kể ra đ}y một câu chuyện, nó xảy ra vào khoảng thời gian tôi đi l{m được chừng hai
năm. Khi đó, công việc hàng ngày của tôi là miệt mài phân tích các số liệu thí nghiệm. Cứ
mỗi lần kết quả thí nghiệm đúng như dự tính - với những thành phần nguyên liệu như thế
này sẽ cho ra vật thể có tính chất như thế ấy – là tôi lại vui mừng tột độ. Những lúc như thế
tôi luôn nhảy cẫng lên và reo hò thật to. Hồi đó, Phụ tá cho tôi là một thanh niên tốt nghiệp
một trường cấp ba nổi tiếng ở Kyoto, nhưng vì lý do kinh tế nên cậu ta không thể học tiếp
lên đại học được. Cậu ta giúp tôi đo đạc và so sánh các kết quả thí nghiệm. Mỗi khi thấy tôi
nhảy cẫng lên, cậu ta chỉ thản nhiên đứng nhìn. Tuy nhỏ hơn tôi đến vài tuổi, nhưng lúc n{o
cậu ta cũng có vẻ trầm tĩnh đến lạnh lùng. Một hôm, cậu ta nói với tôi: “Chẳng hiểu anh là
loại người gì nữa?”. Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Có chuyện gì thế?”. Cậu ấy liền đ|p: “Cứ hơi một
tí là anh lại nhảy cẫng lên. Đời một thằng đ{n ông không có nhiều niềm vui tới mức phải
nhảy lên như thế đ}u. Mới có được một chút kết quả thí nghiệm là anh lại sướng như ph|t
rồ ấy. Xin lỗi, tôi không nghĩ loại người như anh lại là sếp của tôi được.” Lời nói của cậu ấy
làm tôi lạnh cả xương sống.
Tôi đ{nh phải nói với cậu ta: “Cứ nhìn sự việc bằng con mắt lạnh lùng như cậu thì cuộc đời
này tối tăm lắm. Niềm vui sướng đem lại cho tôi niềm tin trong cuộc sống. Cậu cứ nghĩ xem,
nếu không có những niềm vui như thế thì làm sao có thể âm thầm nỗ lực và kiên trì làm cái
công việc chán ngắt như c|i việc nghiên cứu gốm này? Nếu không có niềm vui đó thì thử hỏi
liệu có ai chịu dấn thân vào nghiên cứu khi tiền lương thì thấp, tiền thưởng cũng không ở
cái công ty èo uột này? Tôi có là loại người như cậu nghĩ thì cũng chẳng sao cả. Tôi chỉ muốn
sống lạc quan với những niềm vui dù nhỏ nhoi cũng được. Cậu hiểu không?”.
Tôi luôn cảm nhận được điều mình nói trong suốt quá trình âm thầm nghiên cứu gốm công
nghệ cao. Và cả cuộc đời tôi sau n{y, tôi luôn luôn vui sướng từ đ|y lòng trước mọi thành
công dù lớn hay nhỏ. Chính những niềm vui, những cảm xúc như thế có tác dụng như những
liều thuốc bổ đem lại niềm tin trong cuộc sống.
Các bạn trẻ! Cuộc đời của các bạn sẽ thay đổi rất nhiều tuỳ theo cách nhìn lạc quan hay bi
quan về cuộc sống của bạn.
THÍCH NƠI LÀM VIỆC
Như đ~ nói ngay từ đầu cuốn sách này, nguyên nhân khiến tôi dấn thân vào công việc, cũng
như đạt được nhiều sự nghiệp trong hơn 40 năm qua, không có gì kh|c ngo{i sự âm thầm
nỗ lực không ngừng.
Để l{m được như vậy theo tôi cần phải hội đủ ba điều kiện. Đó l{ phải nỗ lực để thấy thích
công việc mình đang l{m. Tiếp đến là không ngừng suy nghĩ v{ s|ng tạo. Và cuối cùng là tìm
thấy niềm vui và cảm xúc trong công việc.
Ngo{i ba điều trên, tôi còn nói thêm với mọi nhân viên của Công ty Kyoto hai điều nữa. Đó
l{ “Thích nơi mình l{m việc” v{ “Ông Trời sẽ giúp người nào gắng công”.
Lúc mới bước v{o đời, công ty đầu tiên tôi đến làm việc là một công ty liên tục thua lỗ, nên
muốn thích cũng không thể thích nổi. Tôi phải tự trấn an mình bằng cách cố gắng không để
t}m lý ch|n ghét công ty vương vấn trong đầu. Và khi gạt bỏ đuợc t}m lý đó cũng l{ bước
khởi đầu để tôi thấy thích công việc về sau.
Khi không được vào làm việc ở một nơi mình mong muốn, mà phải chọn nơi người ta nhận
mình, thì con người ta hay nảy sinh t}m lý đứng núi này trông núi nọ. Thấy cái gì ở trường
đó hoặc công ty đó cũng tốt, còn chỗ mình thì c|i gì cũng dở.
Nhưng điều quan trọng là phải nhanh chóng gạt bỏ và thoát khỏi não trạng “tôi không sao
thích nổi công việc chán ngắt n{y”, “tôi không thể thích nổi chỗ l{m n{y” hoặc “tôi không
thích học ở trường n{y”. Tho|t khỏi đuợc não trạng th|i đó thì cuộc đời ta mới có thể có
những thay đổi to lớn.
Nếu ai đ~ từng phải nỗ lực đến tột cùng v{ trăn trở đến tột cùng về một việc n{o đó thì sẽ
hiểu đuợc điều tôi nói: “Ông Trời sẽ giúp người nào gắng công”.
Khi đề ra mục tiêu để nỗ lực phấn đấu, người ta thường tự chất vấn và tự trả lời. Đại thể là
“Muốn đạt được thì phải l{m như thế n{o?”, hay “Mình l{m như thế đúng hay sai?”. Thông
thường do không tìm được lời giải, người ta hay rơi v{o t}m trạng lo lắng, lúng túng. Trong
tình cảnh đó, nếu không chán nản hoặc buông xuôi giữa chừng mà vẫn tiếp tục trăn trở, nỗ
lực tột cùng để tìm lời giải thì nhất định sẽ có một sức mạnh dường như bất chợt hiện ra,
n}ng đỡ v{ thúc đẩy mình đi tới.
Đó chính l{ “t}m ngôn” ph|t ra từ đ|y lòng của các bạn. Và sức mạnh đó chính l{ món qu{,
là lời giải đ|p m{ ông Trời ban cho những ai đ~ v{ đang nỗ lực đến tột cùng.
SỐNG HẾT MÌNH MỖI NGÀY.
Từ khi còn trẻ, tôi vẫn luôn tự nhủ: Phải thường xuyên suy nghĩ, trăn trở và sáng tạo trong
công việc. Cùng một thí nghiệm thì hôm nay phải hơn hôm qua. V{ ng{y kia phải hơn ng{y
mai…
Bao giờ tôi cũng cố gắng dụng công hơn, s|ng tạo hơn mỗi khi bắt đầu một thí nghiệm mới:
“Hôm qua mình đ~ thế này. Hôm nay, mình sẽ thử c|ch kh|c, công phu hơn xem sao. Chắc
chắn dữ liệu sẽ đầy đủ hơn v{ kết quả sẽ tốt hơn.”
Ng{y nay tôi đắm chìm vào công việc. Thế nhưng tôi chưa bao giờ lập ra một “kế hoạch dài
hạn” n{o cho mình. Kể từ khi mới ra đời cho đến giờ, Công ty Kyocera chưa bao giờ có một
kế hoạch dài hạn nào hết. Trong giới kinh doanh, người ta thường khuyên nhau: “H~y lập kế
hoạch kinh doanh trong 5 năm hoặc 10 năm”. Nhưng trường hợp của tôi thì khác. Từ trước
tới nay tôi chỉ sống bằng những mục tiêu ngắn hạn. Phương ch}m của tôi l{ “Cố gắng hết
mình cho ng{y hôm nay”.
Vì sao vậy? Bởi vì dù có lập ra một kế hoạch to t|t vĩ đại, nhưng nếu không thực hiện đúng
được như kế hoạch thì người ta dễ rơi v{o t}m trạng mệt mỏi, ch|n chường. Đôi khi còn
khiến họ thối chí v{ buông xuôi đầu h{ng. Nguy cơ đó khiến cho suy nghĩ trở nên tiêu cựa.
Vì thế, tôi bao giờ cũng chỉ lập kế hoạch rõ ràng cho một ngày và cố gắng hết mình đạt được
mục tiêu đ~ đề ra trong ngày ấy.
Tôi thường xuyên bị người ta hỏi: “Vì sao ông không lập kế hoạch dài hạn?”.
Đối với tôi, cách sống của tôi là: hãy cố gắng hết mình cho ngày hôm nay thì sẽ nhìn thấy
ngày mai. Cố gắng hết mình cho tháng này thì sẽ nhìn thấy tháng sau. Cố gắng hết mình cho
năm nay thì sẽ nhìn thấy năm sau. Vì vậy, tôi sống hết lòng cho ngày hôm nay - để không ân
hận – hơn l{ cứ phải trằn trọc, trăn trở cho những việc chưa diễn ra trong 5 năm sau hay 10
năm sau. Tôi tu}n theo v{ thực hành tâm niệm này suốt 40 năm trời, v{ chưa khi nào thấy
chán nản trong công việc.
Có lẽ các bạn trẻ ai cũng mang trong mình ước mơ v{ hy vọng sẽ l{m được điều gì đó vĩ đại
trong cuộc đời. Nhưng, trước hết, các bạn nên biết rằng điều vĩ đại chỉ sinh ra từ những nỗ
lực âm thầm từng bước. Nếu chỉ vẽ lên ước mơ to lớn mà không âm thầm nỗ lực thực hiện
thì suốt cả đời ước mơ cũng chỉ l{ mơ ước mà thôi.
Không có chiếc thang máy tiện lợi nào dành riêng cho cuộc đời mình cả. Chỉ có thể đi lên
bằng đôi ch}n của chính mình và bằng sức lực của chính mình. Đừng ảo tưởng sẽ có con
đường đi tắt, đừng ảo tưởng sẽ có thủ đoạn chớp cơ hội để biến ước mơ th{nh hiện thực.
Phương ph|p tốt nhất thực hiện giấc mơ l{ tiến từng bước, từng bước chắc chắn như con ốc
sên trên con đường thực hiện giấc mơ.
Đọc đến đoạn này, có lẽ các bạn trẻ sẽ kêu lên rằng: “Bước từng bước như lời ông khuyên
thì có mất cả đời cũng chưa chắc đ~ đi hết một con đường”.
Không, không phải như c|c bạn nghĩ đ}u.
Trên thực tế, quá trình tích tụ từng bước, từng bước sẽ tạo ra hiệu quả cấp số nh}n như thể
có phép thần vậy. Chính những thành quả nhỏ nhoi sinh ra nhờ nỗ lực âm thầm mỗi ngày sẽ
kéo theo những thành quả và nỗ lực mới, rồi đến một ngày bạn chợt nhận thấy nó chất cao
như ngọn núi sừng sững không thể ngờ tới.
Đó l{ một phương ph|p x|c thực để biến giấc mơ trong học tập, trong thể thao hay trong
công việc thành hiện thực.
CHƯƠNG BA
KHÔNG QUÊN TRI ÂN NHỮNG TẤM LÒNG VÀNG
“Trong số các bạn trẻ, có nhiều bạn hiện đang cố gắng giải quyết các vấn đề trước mắt.
Nhưng cố mãi mà vẫn chưa có kết quả. Tuy vậy, các bạn hãy thử nỗ lực đến tột cùng - tới
mức không thể nỗ lực hơn được nữa – xem sao. Nếu đ~ cố gắng được đến như vậy thì thế
n{o cũng tìm được lời giải tuyệt vời như thể món quà mà ông Trời ban tặng. Và nhất định sẽ
xuất hiện những người hiểu và thừa nhận sự nỗ lực của bạn.”
CÂU CHUYỆN THÀNH LẬP CÔNG TY KYOCERA
Tôi đ~ kể cho các bạn về những khó khăn, những vấp váp trong quá trình nghiên cứu gốm
làm vật liệu chế tạo ống chân không cho Công ty Hitachi, về việc tôi phải ra đi do đối lập ý
kiến với ông phó gi|m đốc phụ trách kỹ thuật mới lên chức. Người ta đơn phương ra quyết
định với tôi: “Đề tài nghiên cứu n{y vượt quá khả năng của anh. H~y đứng sang một bên để
nhường chỗ cho người kh|c.” V{ tôi rời khỏi công ty. Nếu có ở lại thì cũng không thể biến
giấc mơ th{nh hiện thực vì người ta có chịu hiểu cho mình đ}u.
Nghe tin tôi rời công ty, toàn bộ nh}n viên dưới quyền do tôi đảm tr|ch kéo đến phòng ở
của tôi trong khu tập thể công ty. Họ đồng thanh nói: “Chúng tôi cũng sẽ thôi việc để đi với
anh”. Không ai chịu nghe theo lời khuyên của tôi là nên ở lại để tiếp tục công việc. Đến cả
cấp trên của tôi, ông Aoyama Masaji cũng nói với tôi: “Tôi cũng thôi việc theo cậu. Tôi sẽ tìm
nguồn vốn, thành lập công ty mới để cậu tiếp tục nghiên cứu.”
Ông Aoyama đến gặp hai người bạn đồng học thời còn là sinh viên khoa Công nghiệp
trường đại học Kyoto. Đó l{ ông Nishieda Ichie v{ ông Majikawa Tamotsu. Cả hai ông đều
đang giữ trọng trách trong Công ty Sản xuất Bảng điện Miyaki Denki.
Ông Aoyama ra sức thuyết phục hai ông bạn. Mặc dù họ không mấy tin tưởng (“Chúng tôi
chẳng biết cái cậu Inamori ấy giỏi giang đến mức n{o, nhưng giỏi thì giỏi chứ mới 26, 27
tuổi đầu thì làm nên trò trống gì”), nhưng cuối cùng họ cũng đồng ý. Họ còn kéo được cả
ông Miyaki Otoya, gi|m đốc Công ty Miyaki Denki cùng bỏ vốn ra lập công ty cho tôi.
Để đưa công ty v{o hoạt động, cần phải có vốn đầu tư thiết bị như lò nung điện, cần vốn
mua nguyên liệu, cần vốn lưu động… Số vốn đó lên tới cả 10 triệu yên. Thời đó, mười triệu
yên là khoản tiền rất lớn, nằm ngoài khả năng của chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi phải vay ngân
hàng.
Để vay ngân hành thì phải có tài sản thế chấp. Ông Nishieda – phó gi|m đốc Công ty Miyaki
Denki, bạn đồng học v{ l{ người được ông Aoyama thuyết phục – mang luôn căn nh{ đang ở
làm tài sản thế chấp ngân hàng. Vì tôi - người mà ông ấy chưa từng gặp – và vì công ty mới
ông ấy dám chấp nhận rủi ro không biết chừng mất hết cơ nghiệp.
Tôi nghe kể lại, khi đem chuyện thành lập công ty ra bàn với vợ, ông Nishieda nửa đùa nửa
thật: “N{y b{ nó ơi. B{ chuẩn bị tinh thần ngôi nhà bị ph|t m~i đấy nh|…”. Tức thì vợ ông ấy
vừa cười vừa đ|p lại: “Biết l{m sao được. Đ{n ông c|c anh đ~ phải lòng nhau thì cái gì mà
chẳng mang cho nhau hết…”.
Nhờ những tấm lòng hào hiệp giúp đỡ, tôi ra độc lập được.
QUA LÒ LUYỆN IBM ĐỂ TRỞ THÀNH CÔNG TY HÀNG ĐẦU THẾ
GIỚI
Công ty Gốm Kyoto ra đời ng{y 1 th|ng 4 năm 1959 với hai mươi t|m nh}n viên. Trụ sở
công ty là một nh{ kho đi mượn.
Tôi đặt tên công ty là Gốm Kyoto (Kyoto Ceramics) vì Kyoto là thành phố nổi tiếng trên thế
giới, không ai không biết. Hơn nữa, tôi nghĩ nếu sau này có làm việc với các công ty ngoại
quốc thì c|i tên đó sẽ làm họ dễ nhớ.
Chức gi|m đốc công ty tôi nhờ ông Miyaki, gi|m đốc Công ty điện Miyaki, đảm nhận giúp.
Ông Aoyama làm phó gi|m đốc. Còn tôi l{m phó gi|m đốc phụ trách kỹ thuật. Trên thực tế,
tôi được giao toàn quyền nắm công ty.
Ngay từ năm đầu tiên, chúng tôi đ~ l{m ăn có l~i. Điều này hoàn toàn bất ngờ đối với cả ông
Miyaki và ông Nishieda - người đ~ thế chấp căn nh{ đang ở cho ng}n h{ng để vay tiền lập
công ty. Vì cả hai ông đều cho là nhanh nhất cũng phải mất v{i năm, công ty mới ăn nên l{m
ra được. Có kết quả này là nhờ tinh thần làm việc quên mình của tất cả mọi người.
Khi công ty mới ra đời, tôi luôn phải trăn trở với nỗi bất an trong lòng: “Nếu mình thất bại,
trước hết tất cả anh em tin mình, đi theo mình sẽ phải ra đứng đường.” Vì thế nên tôi dốc
sức làm việc như điên, kết quả n{y l{ ngay năm đầu tiên công ty đ~ có lợi nhuận.
V{o năm 1960 – năm sau khi công ty Gốm Kyoto ra đời - chất bán dẫn transistor được thế
giới sự dụng rộng r~i để chế tạo những bộ phận chính yếu trong các sản phẩm điện tử như
radio, tivi… Công ty Kyocera chúng tôi đ~ tổng hợp thành công vật liệu gốm để chế tạo các
linh kiện cho những bộ phận quan trọng ấy. Thế là chúng tôi nhận được hàng loạt đơn đặt
hàng từ các công ty Microelectronics Hồng Kông, Fairchild Hoa Kỳ…
Năm 1965, linh kiện rod ceramics (dùng sản xuất linh kiện kháng trở) của Công ty Gốm
Kyoto được Công ty Instrument Texas Hoa Kỳ chọn sử dụng vào việc chế tạo m|y điện toán
lập trình cho t{u vũ trụ Apollo. Như vậy, sản phẩm do chúng tôi sản xuất được sử dụng
trong chương trình th|m hiểm vĩ đại: đưa con người lên Mặt Trăng.
Năm 1966, chúng tôi nhận được một đơn đặt hàng khổng lồ từ Công ty IBM, họ đề nghị
cung cấp 25 triệu bảng vi mạch Substrate (IC board). Với đơn h{ng n{y, doanh số của công
ty Gốm Kyoto chúng tôi tăng vọt. Từ 500 triệu yên lên đến 10 tỷ 50 triệu yên một năm.
Thế nhưng yêu cầu của IBM về quy cách tiêu chuẩn, độ chính xác của sản phẩm chặt chẽ gấp
mười lần so với quy c|ch v{ độ chính xác của công ty chúng tôi. Khó khăn đầu tiên khi thực
hiện đơn h{ng n{y l{ trong tay chúng tôi còn chưa có những thiết bị đo lường tinh xảo đến
như thế.
Tuy vậy, chúng tôi không bỏ cuộc. Tôi suy nghĩ thế n{y: năng lực kỹ thuật của công ty tôi lúc
đó chưa cao, vì thế sản phẩm do công ty chúng tôi sản xuất khó mà lọt qua nổi quá trình
kiểm định hết sức chặt chẽ của IBM. Nhưng sau n{y, khi trình độ kỹ thuật được nâng cao thì
chúng tôi sẽ giải quyết được vấn đề. V{ như vậy thì đến một lúc n{o đó, trình độ kỹ thuật
của Công ty Gốm Kyoto sẽ được thừa nhận ngang với trình độ thế giới.
Hơn nữa, mặt hàng bảng vi mạch IC mà chúng tôi nhận sản xuất lại chính là linh kiện nằm
trong sản phẩm chiến lược của IBM dưới tên gọi “System- 360”. Thử nghĩ xem: Công ty M|y
tính h{ng đầu thế giới IBM đặt hàng cho một công ty Nhật Bản, để sản xuất một linh kiện cơ
bản trong bộ phận chính cho sản phẩm chiến lược của mình! Vấn đề ở chỗ IBM không đặt
hàng một công ty lớn mà lại chọn Gốm Kyoto - vốn chỉ là một công ty nhỏ ở Nhật Bản. Điều
này chứng tỏ các công ty Hoa Kỳ chọn bạn hàng không phụ thuộc vào quy mô và tiếng tăm,
mà cứ có đủ năng lực kỹ thuật thì một công ty dù nhỏ họ cũng đặt hàng. Các công ty Hoa Kỳ
đ|nh gi| khả năng một công ty dựa trên trình độ kỹ thuật hiện tại chứ không dựa vào bề
dày lịch sử của công ty theo kiểu Nhật Bản.
Để đ|p ứng đơn đặt hàng, tôi quyết định đầu tư đầy đủ các thiết bị máy móc cần thiết và tự
mình đứng ra trực tiếp chỉ đạo mọi mặt. Cũng v{o th|ng 5 năm ấy, tôi nhận chức gi|m đốc
công ty. Khi đó tôi mới 34 tuổi. Và công ty thành lập mới được t|m năm.
Sau khi nhận chức gi|m đốc, tôi vẫn tiếp tục ở ngay trong khu tập thể của nhà máy Shiga.
Hàng ngày, không quản sớm tối, nhiều đêm thức trắng, tôi vùi đầu trong công việc. Ba tháng
trôi qua. Năm th|ng trôi qua, thời gian trôi đi vùn vụt. Cuối cùng chúng tôi đ~ tạo ra sản
phẩm đúng theo quy c|ch tiêu chuẩn được yêu cầu. Chúng tôi giao lô h{ng đầu tiên gồm
200 ngàn sản phẩm cho khách hàng. Thế nhưng, lô h{ng đó bị trả lại toàn bộ vì không lọt
qua được quá trình kiểm định chặt chẽ của IBM. Tôi lại bắt đầu nghiên cứu làm lại từ đầu.
ĐÃ CẦU TRỜI PHÙ HỘ CHƯA?
Chuyện xảy ra vào một ngày nọ. Lúc đó, khoảng hai giờ sáng. Tôi vẫn còn ở lại nhà máy. Tôi
đi quanh c|c bộ phận để động viên công nhân làm việc. Bất chợt, tôi thấy một nhân viên kỹ
thuật đứng khóc trước lò nung điện. Tôi lại gần hỏi nguyên do. Anh ta trả lời: Không sao ổn
định được nhiệt độ lò nung, nên các mẻ sản phẩm ra lò luôn bị sai lệch so với quy cách. Tôi
bèn bảo: “Thôi h~y về nghỉ đi. Hôm nay tạm thế đ~”. Nhưng thấy anh ta có vẻ chưa thuận, tôi
hỏi: “Thế trước lúc nung, cậu đ~ cầu Trời khấn Phật chưa?” Thực ra, tôi muốn khuyên anh
ta: đến nước phải “cầu Trời Phật phù hộ độ trì” tức là chỉ còn cách cố nữa, cố đến cùng mà
thôi.
Thế rồi, sau một hồi lẩm bẩm nhắc lại lời khuyên của tôi: “Cầu Trời khấn Phật chưa? Cầu
Trời khấn Phật chưa?” anh ta gật đầu v{ đ|p: “Tôi hiểu, thưa gi|m đốc. Tôi sẽ làm lại lần
nữa”. V{ anh ra l{m lại từ đầu.
Lặp đi lặp lại suốt qu| trình như vậy, cuối cùng chúng tôi đ~ khắc phục được các vấn đề nan
giải.
Trong công việc cũng như trong học tập, có nhiều người chỉ mới cố gắng một chút mà
không thấy kết quả là chán nản bỏ ngang giữa chừng. Nếu như vậy thì đừng mong l{m được
đều gì. Phải kiên trì, phải nhẫn nại, phải cố gắng đến mức không thể cố hơn được nữa mới
thôi. Nhiều người càng không thành công lại càng làm ẩu làm tả, rồi kết quả chưa đ}u đ~ vội
hài lòng. Họ là những người hay phải hối hận: “Biết thế thà mình cứ chịu khó và cố gắng
thêm một chút thì đ}u đến nỗi n{y”. C|i kh|c nhau giữa người th{nh công v{ người thất bại
là ở chỗ đó.
Bảy tháng sau khi nhận đơn h{ng, IBM gửi thông báo cho chúng tôi biết: Sản phẩm Công ty
Kyocera được chấp nhận đạt quy cách yêu cầu của IBM.
Nhưng bắt đầu từ đ}y mới là cuộc chơi chính. Phải giao một khối lượng khổng lồ 25 triệu
sản phẩm đúng thời hạn cho khách hàng. Nhà máy hoạt động hết công suất. Công nhân làm
việc ba ca. Không có ngày nghỉ, kể cả nghỉ đón năm mới, nghỉ lễ Bon (1). Cuối cùng, chúng
tôi hoàn thành khối lượng sản phẩm, kịp thời hạn giao hàng. Nhìn chuyến hàng cuối cùng
chất lên xe tải rời nhà máy, trong lòng tôi dấy lên một niềm tự hào: Khả năng của con người
thật là vô hạn.
Với khát vọng mãnh liệt phải hoàn tất công việc bằng mọi giá, với nỗ lực không biết mệt
mỏi, chúng tôi đ~ biến điều không thể thành có thể.
Nhờ được tôi luyện qua cái lò của một công ty h{ng đầu thế giới, niềm tin có thể đạt được
mục tiêu trong mọi tình huống đ~ hình th{nh vững chắc trong tôi và không có gì có thể lay
chuyển được.
Thông tin về việc IBM đ|nh gi| cao sản phẩm vi mạch (IC board) của Công ty Kyocera chúng
tôi và sử dụng chúng để việc chế tạo các máy tính chủ lực nhanh chóng lan khắp trong ngoài
nước. Không bao lâu sau, nhiều hãng điện tử Nhật Bản kéo đến công ty chúng tôi đặt hàng.
Nhờ thế mà Công ty Kyocera phát triển nhanh chóng. Năm 1971, công ty tham gia thị
trường chứng kho|n. Mười hai năm sau ng{y th{nh lập, chúng tôi đường hoàng gia nhập
nhóm c|c công ty h{ng đầu thế giới.
1.: Lễ hội Bon truyền thống kéo dài vài ngày, vào khoảng rằm tháng 7 âm lịch, nay được tổ
chức vào 15-8. Thời gian n{y người Nhật thường về quê viếng mộ người th}n, treo c|c đèn
lồng chỉ đường cho các linh hồn, làm cỗ cúng v{ thưởng thức điệu nhảy đặc biệc có tên là
bon odori.
KHIÊU CHIẾN VỚI TẬP ĐOÀN KHỔNG LỒ NTT
Năm 1983, xu hướng tự do hóa ngành viễn thông diễn ra ở Nhật Bản, biểu hiện qua việc tư
nh}n hóa Công ty điện thoại điện tín nh{ nước Denden Kosha (hiện nay là NTT). Trong bối
cảnh đó, tại cuộc họp của hội đồng quản trị Công ty Kyocera, tôi đề nghị các thành viên chấp
thuận dự án thành lập Công ty điện thoại Dainhi Denden.
Tôi yêu cầu hội đồng quản trị cho phép tôi được sử dụng 100 tỷ trong số 150 tỷ yên tiền
vốn m{ công ty Kyocera đ~ tích lũy được kể từ khi thành lập.
Việc thò ch}n v{o lĩnh vực thông tin viễn thông khi đó bị coi l{ h{nh động khiêu chiến vô
vọng với NTT. Nhưng hội đồng quản trị Kyocera chấp thuận đề xuất của tôi - bằng cách
thành lập Công ty Điện thoại Dainhi Denden (hiện nay là KDDI).
Ở Nhật Bản thời đó, công ty nh{ nước Denden Kosha độc quyền thị trường điện thoại quốc
nội. Vì thế, gi| cước điện thoại kh| đắt so với mặt bằng gi| cước trên thế giới. Mọi người
đều hy vọng với sự xuất hiện của công ty điện thoại mới sẽ có sự cạnh tranh v{ như vậy giá
cước điện thoại sẽ rẻ đi nhiều.
Nhưng không ai d|m lập ra một công ty điện thoại mới vì mức độ rủi ro quá lớn khi phải
đương đầu với công ty nh{ nước khổng lồ Denden Kosha. Chính vì thế, tôi quyết định đứng
ra “ khiêu chiến”.
Mặc dù vậy, trước một đối thủ có doanh số h{ng năm lên tới 40.000 tỷ yên, tổng số nhân
viên 330 ng{n người, sở hữu hệ thống hạ tầng thiết bị từ thời Minh Trị và mạng lưới cáp
thông tin có ở khắp mọi miền Nhật Bản thì không ai không ngán ngại. Trong khi Kyocera
chúng tôi dù đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng, nhưng doanh số h{ng năm v{o thời
điểm đó mới chỉ là 2.200 tỷ yên, tổng số nh}n viên cũng chỉ có 11 ng{n người. Thế mà,
chúng tôi lại quyết định lập ra công ty điện thoại mới để cạnh tranh thì chẳng khác nào
“ch}u chấu đ| xe”. Đó l{ chưa kể chúng tôi ho{n to{n “mù tịt” về lĩnh vực thông tin viễn
thông. Chuyên môn của bản thân tôi là Hóa ứng dụng, đương nhiên l{ kẻ nghiệp dư trong
công nghệ thông tin. Một người như vậy lại đòi đương đầu với ông độc quyền nh{ nước
khổng lồ thì có kh|c gì Đông Ki-sốt đòi vung ngọn giáo cổ lỗ đ|nh nhau với cối xay gió.
Trong tình cảnh đó, để bắt đầu công cuộc lớn lao như vậy thì phải có ý chí, động cơ v{ mục
đích thật cao cả mới lay chuyển được lòng người.
Đêm n{o cũng như đêm n{o, tôi luôn thao thức trước khi ngủ, tự chất vấn lòng mình: Động
cơ lập công ty điện thoại mới của mình có trong sáng thật không? T}m địa mình có thật sự
“thiện” không? Hay chỉ vì mình muốn chơi trội? Muốn được lưu danh? Có thực sự vì lợi ích
của người dân hay chỉ là nói miệng thế thôi?...
Suốt nửa năm trời, kể cả những lúc trở về nhà sau bữa rượu tàn, tôi vẫn cứ lặp đi lặp lại
trong lòng những lời tự vấn như vậy. Chỉ sau khi biết chắc lòng mình, ý chí mình gây dựng
sự nghiệp này hoàn toàn vì lợi ích của người dân, vì lợi ích của xã hội và không mảy may
dao động, tôi mới quyết định đặt ch}n v{o con đường này.
Quyết tâm của tôi được rất nhiều nhà kinh doanh ủng hộ.
Năm 1984, tôi th{nh lập Công ty Điện thoại Dainhi Denden.
Và chẳng bao lâu sau, làn gió tự do hóa thiết bị thông tin di động - tức l{ điện thoại gắn trên
xe ôtô thời đó, v{ ng{y nay l{ điện thoại di động – tràn tới, tôi đề xuất dự |n “Tiến thẳng
sang điện thoại di động” trong cuộc họp hội đồng quản trị của Dainhi Denden.
MOBILPHONE THƯƠNG HIỆU “AU”
Từ thuở bắt đầu kinh doanh chất bán dẫn với các công ty Hoa Kỳ, khi phát minh ra tổ hợp vi
mạch IC Package, tôi đ~ linh cảm thấy việc thu nhỏ linh kiện bán dẫn tính cao nâng cao sẽ
sớm thành hiện thực. Tôi tin tưởng rằng không bao lâu nữa sẽ xuất hiện loại điện thoại di
động kích thước nhỏ có thể nằm gọn trong lòng bàn tay.
Tuy vậy, thời đó chưa có nơi n{o trên thế giới th{nh công trong lĩnh vực điện thoại di động
(điện thoại gắn trên xe ô tô). Vả lại, Công ty Dainhi Denden của tôi cũng mới đi v{o hoạt
động ổ định. Vì thế, kế hoạch tiến sang lĩnh vực điện thoại di động do tôi đề xướng hầu như
bị mọi thành viên trong hội đồng quản trị phản bác. Chỉ có một thành viên duy nhất tán
đồng kế hoạch của tôi. Tôi nói với người đó: “Không ai chấp thuận cả. Chỉ có tôi và anh. Dù
vậy, chúng ta vẫn cứ l{m”. V{ thế là chúng tôi bắt tay vào việc phát triển điện thoại. Việc
cung cấp dịch vụ điện thoại di động au - hiện KDDI đang thực hiện – đ~ bắt đầu như vậy
đấy.
Rốt cuộc, Bộ Bưu chính cũng cấp giấy phép hoạt động cho Công ty Dainhi Denden chúng tôi.
Lúc ấy, ngoài chúng tôi ra còn có một công ty nữa cũng xin Bộ Bưu chính cấp phép tham gia
vào thị trường cung cấp dịch vụ điện thoại di động. Trước tình hình đó, bộ Bưu chính quyết
định phân chia thị trường dành cho các công ty mới tham gia – không bao gồm NTT – thành
hai Tokyo làm trung tâm) và khu vực Tokai (lấy thành phố Nagoya làm trung tâm). Vùng thị
trường thứ hai là các khu vực còn lại không thuộc vùng thứ nhất.
Chọn vùng thị trường nào trở thành vấn đề thương lượng căng thẳng giữa Dainhi Denden
và công ty mới kia. Bởi vì giữa hai vùng thị trường có sự chênh lệch rất lớn. Cụ thể là vùng
thị trường thứ nhất, còn được gọi l{ “vùng v{nh đai Th|i Bình dương” nối thủ đô Tokyo v{
thành phố Nagoya. Các thành phố lớn nhất Nhật Bản đều tập trung ở v{nh đai n{y v{ mọi
nhu cầu tiêu dùng cũng dồn cả v{o đ}y. Có thể nói, vùng thị trường thứ nhất là vùng có nhu
cầu lớn nhất.
Lẽ dĩ nhiên, Công ty Dainhi Denden chúng tôi muốn d{nh được quyền cung cấp cho vùng thị
trường thứ nhất n{y. Nhưng đối thủ của chúng tôi cũng muốn như vậy. Kết quả là chẳng ai
chịu ai. Trước tình hình ấy, tôi phải đi đến một quyết định đầy khó khăn l{ chấp nhận
nhường vùng thị trường thứ nhất cho đối thủ.
Tại cuộc họp nghe thông báo kết quả thương lượng, các thành viên tham dự - bao gồm rất
nhiều người đứng đầu c|c công ty h{ng đầu Nhật Bản, những người đ~ ủng hộ và cùng góp
vốn lập ra Công ty Dainhi Denden – đ~ nhao nhao đứng lên khiển trách tôi bằng những lời
lẽ năng nề. Họ nói: “Có một cái bánh bao thì phần nhân thịt ngon l{nh anh để đối thủ cướp
mất. Chỉ còn cái vỏ m{ anh cũng mang về và bắt chúng tôi phải xơi hả? Thế là thế n{o?”.
Tuy vậy, về sau bằng những nỗ lực quên mình, tôi vẫn kiên quyết cho triển khai Công ty
Điện thoại Di động Kansai Cellular – sử dụng phương thức thông tin vô tuyến. Chúng tôi
đứng h{ng đầu trong số các công ty mới tham gia thị trường. Tiến đến, chúng tôi còn hợp
nhất với IDO – chính l{ đối thủ được nhường phần thị trường béo bở nhất. Hiện nay, với
thương hiệu au, chúng tôi đang cung cấp dịch vụ điện thoại di động tuyệt vời cho người tiêu
dùng Nhật Bản. Thương hiệu điện thoại di động au của chúng tôi đang tranh đua vị trí nhất
nhì với thương hiệu docomo của NTT.
CỎ DẠI CŨNG CÓ ĐỨC HIẾU SINH
Qua kinh nghiệm kinh doanh hai công ty Kyocera và KDDI, có một điều tôi thường nói với
các nhà khởi nghiệp trẻ tuổi. V{ tôi cũng muốn truyền đạt điều ấy đến mọi bạn trẻ sẽ gánh
vác xã hội trong tương lai. Đó l{, vạn vật trên cõi đời n{y đều phải nỗ lực hết mức để tồn tại.
Như những cây cỏ dại mọc ở ven đường - đến c|i tên cũng không được người đời nhớ tới –
cũng đang nỗ lực để sống. Những cây cỏ dại ấy, tuy mọc lên giữa vết nứt trên đường nhựa,
bị thiêu đốt bởi c|i nóng ng{y hè, nhưng nó vẫn nỗ lực vượt qua chỗ chật chội, thoát khỏi
nóng bỏng để nở hoa, kết hạt. Một nhánh cỏ dại cũng biết chịu đựng hoàn cảnh để tồn tại.
Thế giới tự nhiên xung quanh chúng ta tồn tại được cũng l{ nhờ sự nỗ lực của từng nhánh,
từng nhánh cỏ dại mọc lên từ khe nứt trên mặt đường nhựa như vậy. Động vật, kể cả côn
trùng cũng thế. Để sống còn, tất cả đều phải nỗ lực hết mình. Nỗ lực không phải l{ điều gì
đặc biệt cả. Nỗ lực là lẽ đương nhiên để tồi tại.
Trong học tập, trong công việc nhiều khi nỗ lực rồi mà vẫn không thành công. Những lúc đó,
nếu chúng ta thử tiếp tục cố gắng, cố gắng đến mức tối đa m{ vẫn không th{nh thì sau đó có
phải bỏ cuộc mới không ân hận.
Nhưng nếu đó l{ kết quả của sự nỗ lực nửa vời thì thế n{o cũng có lúc c|c bạn phải hối hận
và thất vọng: “Biết vậy mình gắng thêm chút nữa thì đ}u đến nỗi n{y”. Không có gì vô nghĩa
bằng cuộc đời của những người suốt đời chỉ biết có “lẽ ra…” hay “biết thế…”
Trong mọi cảnh ngộ, dù có bất lợi đến đ}u đi nữa cũng phải nỗ lực tối đa. Tôi muốn khẳng
định với các bạn: “Nỗ lực tối đa” l{ điều kiện tiên quyết để chúng ta sống tồn tại được trên
tr|i đất này.
Bất kể kết quả là thế nào, miễn là các bạn hãy coi trọng từng giây, coi trọng từng phút, nỗ
lực và nỗ lực không ngừng… V{ đó chính l{ sức mạnh của Tự nhiên.
HỌC CÁI GÌ Ở TRƯỜNG?
“Điều quan trọng nhất đối với trẻ em là học cái gì ở trường. Theo tôi, có lẽ là học cách sáng
tạo, học cách nỗ lực và học cách sống l{m người. Các em hãy tìm gặp những người tốt bày
bảo cho mình những điều như vậy. Và hãy mở ra cuộc đời tuyệt vời cho chính mình.”
TẠI SAO LẠI MẮNG HỌC TRÒ?
Có hai chuyện từ hồi học cấp I đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in trong đầu.
Chuyện thứ nhất xảy ra trong giờ học môn xã hội. Thầy gi|o đặt câu hỏi: “Em n{o biết, vì sao
gạo của tỉnh Kagoshima ta lại có mặt ở các tỉnh kh|c trên đảo Kyushu?”
Thường ngày, cứ ngồi vào lớp l{ đầu óc tôi chỉ mong sao chóng ta trường, chạy ù ra sông
câu cá cùng bạn bè. Chẳng mấy khi tôi chú ý nghe giảng bài. Chẳng hiểu làm sao, hôm ấy tôi
lại quan t}m đột xuất, hướng lên bảng nhìn thầy giáo. Và câu hỏi của ông thầy chui tọt vào
tai tôi. Tôi thầm nghĩ: “Dễ như thế m{ cũng hỏi”. Tôi giơ tay xin trả lời. Thấy đứa học trò
lười học, hiếm khi nào xin phát biểu nay lại giơ tay, thầy giáo ngạc nhiên, nhưng ông cũng
cho phép tôi.
Tôi đứng dậy và dõng dạc nói: “Thưa thầy, đó là vì tỉnh ta thừa gạo ạ”. Chưa kịp ngồi xuống
tôi đ~ nghe tiếng thầy gi|o qu|t: “Trả lời vớ vẩn. Dốt đặc.” Tôi b{ng ho{ng, chẳng hiểu vì sao
lại bị mắng. Sau đó, thầy giải thích một thôi một hồi rồi kết luận: “Vì tỉnh ta thừa gạo nên
đem b|n cho c|c tỉnh xung quanh”.
Nếu câu hỏi l{ “ Em n{o biết vì sao tỉnh ta thừa gạo?” thì đ~ đi một nhẽ. Đằng này, câu hỏi là
“Vì sao gạo tỉnh ta lại có cả ở các tỉnh lân cận?” thì c}u trả lời của tôi “L{ vì tỉnh ta thừa gạo”
không thể nào sai.
Bình thường, không có chuyện gì thì tôi cũng đ~ không muốn học rồi. Lại thêm cái chuyện
tôi vừa kể ra đ}y, khiến cho tâm trạng tôi càng thêm buồn chán.
TÁC PHẨM TRONG DỊP NGHỈ HÈ.
Một chuyện nữa m{ tôi không sao quên được xảy ra vào thời chiến, khi tôi mới học lớp bốn.
Nhà trường ra bài tập thủ công trong dịp nghỉ hè. Bạn bè trong lớp đều có tác phẩm của
mình. Có đứa còn đi thu thập côn trùng làm tiêu bản. Tôi thì chẳng nghĩ ra được điều gì. Có
muốn vận dụng kiến thức đ~ học để l{m cũng không được, vì tôi hầu như chẳng để tâm học
hành trên lớp. Một ý tưởng bất chợt loé lên trong đầu tôi. Thử làm dụng cụ đo chiều cao vật
thể xem sao? Những lúc đi chơi với bạn bè sau núi, vui đùa với nước trên dòng sông nhỏ, đ~
nhiều lần tôi muốn có một dụng cụ đo độ cao để biết cây cổ thụ này hay mỏm đ| chót vót
kia cao tới mức nào.
Thế rồi, tôi vào rừng chặt tre, ôm cả bó mang về. Tôi thông mắt tre làm ống ngắm giống như
ống kính viễn vọng. Gắn miếng xen-luy-lô vào trong lòng ống và khắc vạch chuẩn, tiếp đến
tôi l{m c|i gi| đỡ ba ch}n, đặt ống tre lên giá và gắn cố định.
Đó l{ c|i dụng cụ đo độ cao mà tôi làm trong dịp hè.
C|ch đo như sau: để dụng cụ đo c|ch vật thể định đo khoảng hai chục mét, rồi cắm một cái
cọc cao khoảng một mét bên cạnh vật thể ấy. Sau đó chỉnh ống ngắm. Khi ngắm, thấy vật thể
tương đương với vạch chuẩn nào trong lòng ống thì sẽ suy ra được chiều cao của vật thể ấy.
Đó l{ tôi ứng dụng kiến thức tỷ lệ đ~ học ở trường.
Tôi đắc ý mang tác phẩm đến trường, trong bụng nghĩ thầm: “Đ}y l{ một phát minh quan
trọng. Có thể đo được chiều cao của mọi vật”.
Thoạt nhìn thì dụng cụ của tôi không có gì bắt mắt cả. Chỉ là một đoạn tre, được gắn trên cái
chạc ba chân bằng keo dán. Thầy giáo mới hỏi: “C|i gì thế n{y?”
Tôi đ|p: “Đ}y l{ dụng cụ có thể đo được chiều cao của bất cứ vật gì đấy ạ.” Thầy giáo hỏi
tiếp: “Đo như thế n{o?”. Tôi bèn giải thích: “ Chỉ cần đặt dụng cụ cách xa vật định đo. Nhìn
qua ống ngắm là biết được chiều cao của vật thể đó ạ.” Bất ngờ, cái ống ngắm gắn với đế ba
chân bằng keo b|n bong ra, rơi xuống lăn lốc. Cả lớp cười ầm lên, còn tôi ngượng chín cả
mặt.
Trong lúc tôi luống cuống cầm ống tre lên định gắn lại thì thầy giáo bồi thêm một đòn nữa.
Ông mắng: “Đồ dốt nát. Thế n{y m{ cũng đòi đo chiều cao {?” Đối với tôi, nó là tác phẩm đắc
ý nhất. Vậy mà thầy chẳng cần biết đầu đuôi sự việc ra sao đ~ vội dè bỉu chê bai. Tôi tức quá,
chỉ muốn thét lên: “Thưa thầy, em đ~ phải bỏ biết bao công sức mới l{m ra được nó…”
Của đ|ng tội, c|i “cao trắc kế” tôi l{m không thể n{o đo được chính xác chiều cao vật thể. Vì
muốn đo được thì phải vận dụng toán hàm số, lượng giác. Chứ không chỉ bằng công thức tỷ
lệ như tôi vẫn tưởng. Nhưng vì mới học lớp bốn, chưa học về hàm số, lượng giác nên tôi
không biết là chỉ dùng tỷ lệ thì không đo được.
Lẽ ra thầy giáo phải biết c|ch động viên học trò mới phải. Nếu như, lúc đó thầy nói với tôi:
“Inamori có tinh thần d|m nghĩ d|m l{m. T|c phẩm của em rất hay. Nhưng nó không thể đo
chiều cao của vật thể được. Cần phải có thêm kiến thức về lượng giác mới có thể l{m được
dụng cụ này. Khi nào lên cấp hai, các em sẽ được học những kiến thức đó. Tuy vậy, thầy
cũng khen ngợi em…” thì có lẽ tôi đ~ phấn khởi mà học hành nghiêm chỉnh sẽ không phụ
lòng thầy.
Bây giờ, nói lại chuyện này, tôi muốn nói với các thầy cô giáo là nếu cứ vùi dập sự sáng tạo
và nỗ lực của học trò ngay từ mầm mống như thế, thì không những không khơi dậy được tài
năng tiềm ẩn ở trẻ em, mà còn làm thui chột t{i năng của chúng.
COI TRỌNG TÍNH SÁNG TẠO
Ở đ}y tôi không định bàn về thực trạng giáo dục trong nh{ trường Nhật Bản. Tôi chỉ muốn
nhấn mạnh với các bạn là phải coi trọng tính sáng tạo.
Phần lớn những điều mà các bạn học được ở trường là tiếp thu và vận dụng kiến thức. Bản
thân sự học đó không phải dở. Đầu óc trẻ em tiếp thu trí thức mới như bọt biển hút nước.
Chúng trưởng thành và v{o đời nhờ những tri thức có được đó.
Tuy nhiên, sẽ rất phiến diện nếu đ|nh gi| năng lực của học trò mà chỉ dựa trên kết quả
những bài kiểm tra ở trường. Vì những bài thi hầu như chỉ nhằm kiểm tra xem khả năng
thuộc lòng kiến thức của học sinh đến đ}u.
Phải chăng, với bảng thành tích học tập loại ưu ở trường, khi ra ngoài xã hội thì cuộc đời
người đó sẽ suôn sẻ? Tôi đ|nh gi| con người trên cơ sở coi trọng khả năng, vận dụng kiến
thức đ~ học vào cuộc sống - nói cách khác là khả năng tư duy, s|ng tạo sau khi v{o đời - chứ
không dựa vào bảng thành tích tốt xấu trong học tập.
Thuộc lòng kiến thức mới chỉ là một mặt trong năng lực tuyệt vời của một con người.
Nhưng thuộc lòng chưa phải là tất cả. Vấn đề là ở chỗ vận dụng vô số kiến thức đ~ thuộc ấy
vào cuộc sống như thế nào? Tức l{ đòi hỏi tính sáng tạo.
Lẽ dĩ nhiên, tôi không có ý chê bai những t{i năng thuộc dạng tiếp thu tri thức. Nhưng, theo
thiển nghĩ của tôi thì tri thức là những gì m{ người ta đ~ biết. Không thể mở ra thời đại mới
nếu chỉ dựa vào những điều đ~ biết. Cái mà xã hội cần là gì? Chính là tính sáng tạo dựa trên
tri thức và thông tin.
Nước Nhật Bản sau chiến tranh Thế giới thứ hai, nếu lùi xa hơn về quá khứ thì l{ nước Nhật
Bản kể từ công cuộc Minh Trị Duy T}n, luôn luôn theo đuổi một nền giáo dục thiên về tri
thức. Nền giáo dục đó tuy không sản sinh ra được thiên t{i, nhưng cũng đ{o tạo ra được
nhiều người ưu tú. Trên cơ sở tiếp thu tri thức Âu - Mỹ, nền giáo dục đó đ~ đóng vai trò to
lớn trong việc nâng cao mặt bằng dân trí trên khắp đất nước Nhật Bản.
Nhìn lại quá trình học tập của bản thân mình trong những năm tiểu học, trung học, trung
học phổ thông v{ đại học, tôi cũng thấy rất rõ đặc điểm của nền giáo dục Nhật Bản trong
thời gian qua. Đó l{ buộc học sinh phải ganh đua nhồi nhét kiến thức càng nhiều càng tốt và
đ|nh gi| năng lực học sinh theo tiêu chí “học thuộc lòng”.
Nhưng thời đại sắp tới có lẽ sẽ không có chỗ cho một nền giáo dục “bắt chước người”, hoặc
học theo người đi trước. Mà thời đại mới - một thời đại không thể dự b|o trước điều gì – đòi
hỏi phải có một nền giáo dục đặt trọng tâm vào việc dạy cho người học biết cách vận dụng
tri thức trong cuộc sống như thế n{o v{ đ|nh gi| năng lực của học sinh theo tiêu chí ấy.
KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI NHẬT
Tôi đang điều h{nh “Quỹ Inamori”
H{ng năm, Quỹ Inamori tổ chức trao tặng giải thưởng quốc tế - Giải thưởng Kyoto – cho
những nhà khoa học xuất sắc. Công ty Kyoto của chúng tôi phát triển được như ng{y nay l{
nhờ công lao của biết bao người trong xã hội. L{ người nắm giữ phần lớn cổ phần của Công
ty Kyoto, tôi có được một tài sản khổng lồ không thể ngờ tới. Để tỏ lòng biết ơn với đời, để
trả ơn cho đời, tôi quyết định lập ra Giải thưởng Kyoto. Tính đến năm 2004, Giải Kyoto vừa
tròn 20 tuổi.
Giải Kyoto d{nh cho ba lĩnh vực: Kỹ thuật Công nghệ Tiên tiến, Khoa học Cơ bản, v{ Tư
tưởng - Nghệ thuật. Ngoài ra, khi bình xét giải, thì ngoài khả năng chuyên môn, chúng tôi
còn chú trọng tới nhân cách của các ứng viên. Giải Kyoto gồm một tấm Huy chương gắn
hồng ngọc và ngọc bích lấp lánh do công ty chúng tôi chế t|c. Đi kèm với Huy chương l{ một
khoản tiền mặt trị giá 50 triệu yên.
Trong số các giải thưởng quốc tế trên thế giới thì Giải Kyoto do tôi đề xướng là giải thưởng
được đ|nh gi| cao không thua kém giải Nobel. Các nhà khoa học trên thế giới thuộc đủ mọi
lĩnh vực đều mong ước đoạt được giải này.
Quá trình lựa chọn người đoạt giải được tổ chức ra sao? H{ng năm, ban tổ chức giải thưởng
gửi h{ng ng{n thư đề nghị giới thiệu cho các chuyên gia nổi tiếng của từng lĩnh vực ở Nhật
Bản và khắp nơi trên to{n thế giới. Người ta giới thiệu các ứng viên cho ban tổ chức. Các
ứng viên được xét chọn qua ba bước. Bước bình chọn của Ủy ban Chuyên môn. Bước bình
chọn của Ủy ban Thẩm tra. V{ bước bình chọn của Ủy ban Trao Giải Kyoto. Ba bước bình
chọn này thường mất cả năm trời. Cuối cùng là việc quyết định người đoạt giải.
Từ trước tới nay, hầu hết các nhà khoa học được Giải Kyoto đều là những người có kết quả
nghiên cứu đầy sáng tạo v{ đi trước thời đại. Nhưng hầu hết người được Giải lại không phải
là người Nhật Bản. Người ta thường nghĩ Giải Kyoto là giải thưởng của Nhật Bản thì đương
nhiên đa số người nhận giải sẽ phải l{ người Nhật Bản. Nhưng trên thực tế, với việc xét
chọn công bằng, người được nhận giải phần lớn l{ người Mỹ v{ người c|c nước khác.
Chỉ cần nhìn vào kết quả tuyển chọn của Giải Kyoto, tôi nhận thấy với nền giáo dục ở Nhật
Bản như hiện nay thì khó lòng nuôi dưỡng được tính sáng tạo trong học sinh. C|c nước Âu-Mỹ, nhất là Mỹ, đang sản sinh ra những t{i năng kiệt xuất đến mức so về tính sáng tạo thì
Nhật Bản không là gì cả. Thực tế l{ c|c gi|o sư h{ng đầu Nhật Bản trong Ủy ban Thẩm định
vẫn thường nói với tôi: “Một sự thực đ|ng buồn l{ người Nhật Bản chúng ta không thể so
s|nh được với người Mỹ về khả năng s|ng tạo.”
HÃY SUY NGHĨ VỀ MỤC ĐÍCH CUỘC SỐNG
Theo tôi thấy, trẻ em ở Mỹ được hưởng một nền giáo dục hướng vào phát triển nhân tính
hơn nhiều so với trẻ em Nhật Bản. Trẻ em ở Mỹ được tự do phát triển cho đến hết cấp ba.
Thời gian từ cấp một cho đến hết cấp ba là khoảng thời gian mà trẻ em Mỹ có thể thong thả
suy tính về mục tiêu cuộc đời mình. Nói c|ch kh|c, đó l{ thời gian cho chúng suy nghĩ về
nguyện vọng: Lớn lên mình sẽ làm gì?
Sau khi x|c định được mục tiêu “mình sẽ l{m gì”, chúng bước ch}n v{o đại học và bắt đầu
thu thập một cách quyết liệt những học vấn cơ bản cần thiết cho việc đạt mục tiêu đ~ định.
Thực tế cũng cho thấy, sinh viên Mỹ n{o cũng đều có ý thức rõ ràng về mục đích cuộc đời và
tập trung tiếp thu những trí thức liên quan tới mục tiêu đó.
Về điểm n{y, trong c|c trường học ở Nhật Bản, không ai nói rõ ràng cho các em biết quá
trình học phổ thông l{ qu| trình để c|c em x|c định mục tiêu trong cuộc đời mỗi người.
Tuy vậy, đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, học sinh nhất thiết phải có cơ hội, phải có thời
gian để suy nghĩ về khả năng của mình trước khi bước v{o đời. Chúng phải tự đặt ra cho
mình những câu hỏi và phải được giúp đỡ để tự trả lời: Mình sẽ làm gì, sẽ trở thành con
người thế nào? Cuộc đời mình nên như thế nào thì tốt?...
Trên cơ sở ý thức rõ mục tiêu của mình, bước sang thế kỷ 21, tính sáng tạo càng trở nên cấp
thiết đối với Nhật Bản. Bởi vì nếu so với Hoa Kỳ, Nhật Bản là một quần đảo, v{ không được
thiên nhiên ưu đ~i cho một chút tài nguyên nào cả.
Cho tới nay, Nhật Bản đ~ th{nh công đưa trên việc tiếp thu thật nhiều tri thức, vận dụng tri
thức để phát triển các ngành kỹ thuật cao, sản xuất loạt các sản phẩm công nghiệp tuyệt vời
nhất thế giới với giá thành rẻ và xuất khẩu sang c|c nước kh|c. Nhưng từ nay về sau, ngành
chế tạo Nhật Bản chắc chắn phải di dời c|c căn cứ sản xuất sang c|c nước đang ph|t triển
để hạ chi phí sản xuất. V{ khi đó, ở Nhật Bản chỉ còn lại một thứ tài sản duy nhất, đó l{
nguồn lực. Vì thế vấn đề tối quan trọng là phải làm thế n{o để sử dụng một c|ch năng động
và sáng tạo nguồn nhân lực này!
Điều tôi lo lắng nhất là nếu nền giáo dục cứ cản trở tính sáng tạo của lớp trẻ như hiện nay,
thì đến một lúc n{o đó, Nhật Bản sẽ trở thành một đất nước gồm toàn những người không
biết vận dụng tri thức vào việc gì cả.
Bây giờ vẫn còn kịp. Tôi mong các bạn phải lưu t}m, phải ý thức rõ ràng và phải phát huy
mạnh mẽ khả năng s|ng tạo của bản thân mình.
Tôi cũng mong c|c nh{ gi|o - những người dẫn đường cho lớp trẻ - hãy thực thi một nền
giáo dục nâng cao tính sáng tạo của học sinh.
Khi suy nghĩ về tương lai của Nhật Bản, từ đ|y lòng mình, tôi hy vọng chúng ta sẽ nuôi
dưỡng được lớp trẻ trở thành những con người ph|t huy được tính sáng tạo một cách tuyệt
vời.
CÓ DÁM HỌC LẠI HAY KHÔNG?
Ở trường học thường có đủ loại học sinh, có em học giỏi, có em học kém. Tôi vốn l{ đứa
không hứng thú học hành ngay từ những năm tiểu học. Bài tập về nh{ tôi cũng chẳng buồn
ngó tới chứ đừng nói gì tới ôn tập hoặc chuẩn bị b{i trước giờ lên lớp. Vì tôi mải chơi nên
kết quả học tập ghi trong sổ liên lạc vô cùng kém cỏi.
Nhưng khi lên cấp hai, tôi bắt đầu nghiêm túc học tập. Tôi học lại kiến thức cơ bản của môn
toán – môn mà tôi dốt nhất - từ chương trình lớp bốn. Bởi vì không thể x}y căn nh{ vững
chắc nếu nền móng yếu. Vun đắp nền tảng cơ bản là quá trình học tập âm thầm, thường
khiến học trò chán nản. Hơn nữa, chắc không ít bạn cười tôi chỉ vì thấy tôi lên học cấp hai
rồi mà vẫn phải học lại kiến thức toán lớp ba.
Tuy nhiên, tôi thường tự hỏi tại sao mình không thích môn toán? Khi hiểu rõ là vì hổng kiến
thức từ những năm cấp một, tôi quyết tâm học lại từ đầu. Những thay đổi sau này của cuộc
đời tôi có thể nói chính là nhờ việc học lại môn toán từ đầu như vậy. Trên thực tế, từ môn
học bị tôi ghét nhất, môn toán trở thành môn sở trường của tôi, l{ cơ sở để tôi theo học đại
học khoa tự nhiên. Về sau, nó còn liên quan tới cả việc lập ra Công ty Kyocera – chuyên tạo
ra kỹ thuật cao.
LÚA NGẮN NGÀY VÀ LÚA DÀI NGÀY
Con người ta cũng có hai loại, giống như c}y lúa ngắn ngày và cây lúa dài ngày vậy. Nghĩa l{
có người phát triển nhanh, có người chậm phát triển. Trong quá trình học tập ở trường,
người thuộc loại “lúa ngắn n{y” thường đạt thành tích tốt ngay từ đầu. Còn người thuộc loại
“lúa d{i ng{y”, trong lúc người “lúa ngắn ng{y” đ~ có kết quả tốt thì mình vẫn chưa ph|t huy
được đầy đủ khả năng, vẫn cứ lẹt đẹt sau người ta.
Tôi cho rằng, việc hổng kiến thức cơ bản từ lớp dưới dẫn tới tình trạng dù có chăm chỉ học
tập ở lớp trên nhưng vẫn không theo kịp chương trình. Bản th}n tôi, tuy đ~ lên cấp hai
nhưng vẫn quyết định học lại toán cấp một cũng do xuất phát từ suy nghĩ mình thuộc loại
lúa dài ngày, nếu quyết tâm học lại nội dung chương trình cấp một, thì thành tích học tập
vẫn cải thiện được.
Ở Mỹ, ngay cả ở bậc đại học, người ta vẫn có chương trình dạy lại cho những người thuộc
loại lúa dài ngày.
Trong khi đó ở Nhật Bản, con đường phát triển hầu như được quyết định ngay từ những
năm cuối cấp hai dựa trên bảng điểm tổng kết. Nết là tôi thì tôi sẽ nói với em học sinh rằng:
Đừng vội nản lòng. Hãy nỗ lực từ bây giờ và sẽ không bao giờ là muộn cả.
Trong số các bạn, có lẽ cũng có nhiều người chán nản vì cho rằng có cố cũng không kh|
được. Tôi nghĩ hơi kh|c. C|c bạn thử xem lại mình xem: có bị hổng kiến thức không? Và
hổng kiến thức năm n{o? Khi đ~ biết rõ, thay vì dằn vặt trăn trở, các bạn hãy học lại kiến
thức cơ bản xem sao.
Cũng có bạn sẽ cho rằng còn thời gian đ}u để học lại nữa. Nhưng chính những nỗ lực âm
thầm đó sẽ ra hoa kết quả sau này. Cuộc đời tôi, nhờ học lại kiến thức cơ bản nên thành tích
học tập được cải thiện và tạo ra con người tôi như ng{y nay.
Các bạn trẻ - những người sẽ gánh vác xã hội tương lại - nếu quyết tâm bắt đầu từ bây giờ
thì sẽ không bao giờ muộn. Cho dù phải đi đường vòng, nhưng tôi vẫn muốn khuyên các
bạn hãy trở về vạch xuất phát và làm lại từ đầu.
HÃY Ý THỨC VỀ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC
Có một vấn đề mà trong quá trình học tập, tôi mong các bạn trẻ đừng bao giờ quên. Đó l{
nâng cao nhân tính trong bản thân mình.
Tôi sẽ trình bày cụ thể hơn ở đoạn sau. Trước hết tôi muốn nói với các bạn: Nhận xét có giá
trị nhất về một người l{ “Người đó bản tính tốt”, “Con người đó tốt”. Nh}n tính còn quan
trọng hơn cả việc có kiến thức hay có tính năng động, sáng tạo trong mỗi cá nhân.
Tôi nghĩ c|c bạn đang giai đoạn cắp s|ch đi học đều biết: không nơi n{o khó chịu và bất an
hơn ở lớp học nếu trong lớp có những kẻ chuyên ăn hiếp, bắt nạt bạn bè. Ngoài xã hội cũng
vậy nếu đ}u đ}u cũng chỉ thấy những kẻ cứ mở miệng ra là nói xấu người kh|c. Ngược lại,
nếu ở trường học cũng như ngo{i x~ hội toàn những người tốt, luôn có tinh thần giúp đỡ
tương trợ lẫn nhau thì ai ai cũng đều vui vẻ học hành và làm việc. Tôi muốn các bạn hãy
phấn đấu trở thành những người tốt như vậy.
Tôi hy vọng, sẽ có rất nhiều em nghe theo lời khuyên của tôi, tự mỗi em sẽ cố gắng rèn
luyện sức sáng tạo, nâng cao tính sáng tạo.
Nhưng nếu chỉ biết nỗ lực để phát huy tính sáng tạo cho riêng mình, chỉ biết làm theo ý
thích của mình, không đo|i ho{i tới người xung quanh thì cuộc đời cũng sẽ không xuôi
thuận. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: song song với những nỗ lực cá nhân còn phải nâng cao
thêm nhân tính ở bản thân mình nữa.
Muốn vậy, cần phải học một thứ nữa. Đó l{ học Đạo đức.
Ở c|c trường học hiện nay, hầu như không có giờ học Giáo dục Đạo đức. Và cả trong sinh
hoạt thường ng{y, chúng ta cũng hiếm khi nghe thấy hai từ Đạo đức. Phải chăng vì dị ứng
với từ này hay sao mà nhiều người muốn tránh nó? Trên thực tế, tôi cảm thấy các bạn trẻ
hiện nay phần lớn đều không dành thời gian để suy nghĩ về Đạo đức, kể cả trên phương
diện cá nhân.
Nhưng tôi cho rằng ngay từ bây giờ việc nghiêm túc xem xét lại vấn đề Đạo đức trở thành
vấn đề rất quan trọng đối với nước Nhật Bản sau này.
Bởi vì - cứ nhìn lại lịch sử là thấy rõ - bất kỳ một quốc gia nào, một xã hội nào nếu ý thức về
đạo đức của người l~nh đạo, của người dân sinh sống ở đó bị xao nhãng thì ắt hẳn đất nước
đó, x~ hội đó sẽ điêu t{n, trị an rối loạn và sức mạnh cũng mất. Ngược lại, nếu ý thức về đạo
đức của mọi người ở đó cao thì cho dù trong một thời điểm n{o đấy, đất nước đó còn nghèo
nàn về kinh tế nhưng nhất định sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Nhật Bản hiện đang đứng trước khúc quanh.
Từ một nước bại trận, đổ nát sau chiến tranh, nhưng nhờ tinh thần hợp lực và làm việc
quên mình của mọi người dân nên Nhật Bản đ~ tạo ra bước phát triển kỳ diệu. Nổi bật nhất
là về kinh tế. Trên lĩnh vực xe hơi hay điện máy gia dụng, các xí nghiệp Nhật Bản đ~ tạo ra
những kỹ thuật và sản phẩm tuyệt vời, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế toàn cầu.
Những linh kiện điện tử có tính năng cao do Nhật Bản chế tạo và cung cấp cũng đang góp
phần to lớn vào công cuộc tạo ra xã hội thông tin ho| cao độ, xã hội điện toán.
Ngoài ra, cùng với phát triển của ng{nh cơ khí chế tạo thì các ngành cung cấp dịch vụ như
tín dụng v{ lưu thông cũng trưởng th{nh vượt bậc.
Từ một nước bại trận, nhờ sự nỗ lực nghiêm túc và quên mình của mọi người dân nên Nhật
Bản có được những bước phát triển nhảy vọt về kinh tế tới mức cả thế giới phải trầm trồ
thán phục. Hiện nay, tuy là một quần đảo nhỏ bé nhưng Nhật Bản đ~ trở th{nh cường quốc
kinh tế đứng thứ hai trên thế giới.
Yếu tố mang đến sự phát triển ở Nhật Bản trong thời gian qua, không có gì kh|c ngo{i đức
tính cần cù chịu khó, tinh thần vươn lên trong từng người dân Nhật Bản trên cơ sở nền tảng
Đạo đức.
KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ ĐẤT NƯỚC ĐIÊU TÀN
Vậy thì Đạo đức l{ c|i gì? Theo suy nghĩ của tôi thì Đạo đức là chuẩn mực xét đo|n để người
ta phân biệt được điều tốt, điều xấu trong cuộc sống.
Nhờ có lòng nhiệt huyết, lòng kiên nhẫn, ý chí vươn lên v{ sức chịu đựng được thúc đẩy bởi
những suy nghĩ đúng đắn mang tính người của người lao động, nên nước Nhật bại trận
trong chiến tranh đ~ ho{n tất việc khôi phục lại đất nước trên cơ sở ngành chế tạo sử dụng
kỹ thuật siêu việt.
Dù có sức mạnh kỹ thuật đến mấy, nhưng nếu con người sử dụng kỹ thuật ấy không có
lương t}m đạo đức thì làm sao có cảnh ai ai cũng đổ mồ hôi sôi nước mắt làm việc quên
mình được. V{ như thế cũng đồng nghĩa với việc không thể thắng trong cuộc cạnh tranh
trên trường quốc tế.
Điều tôi vô cùng lo lắng là trong nền giáo dục kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai ở Nhật
Bản, người ta đ~ không dạy cho trẻ em những gì thuộc về Luân lý, thuộc về Đạo đức - trụ cột
n}ng đỡ sự phát triển của Nhật Bản. Tôi nghĩ rằng điều đó, chính l{ hậu quả nặng nề mà
cuộc chiến tranh dù đ~ kết thúc c|ch đ}y cả nửa thế kỷ vẫn còn để lại ở Nhật Bản.
Trong xã hội Nhật Bản hiên tại, những tội |c trước kia không ai có thể tưởng tượng nổi thì
nay xảy ra hàng ngày, tội phạm trong tầng lớp thanh thiếu niên ngày một tăng, x~ hội đang
đi v{o con đường điêu t{n. Tôi cho rằng đó l{ vì trong khi giàu lên về kinh tế thì tinh thần
của người Nhật Bản đang ng{y một nghèo đi. C|i tạo nên sự phong phú về mặt tinh thần
chính l{ Đạo đức.
Tiêu chuẩn để phân biệt điều tốt, điều xấu là nền tảng căn bản của Đạo đức. Nó bắt đầu từ
những việc rất đỗi bình thường đối với con người ta – không được l{m điều |c, điều xấu.
Thế mà ở trường học, ở gia đình, những quy tắc sống cơ bản với tư c|ch l{ con người như
vậy cũng không ai dạy, người ta tiếp tục lẩn tránh. Nếu thế thì có lẽ không bao lâu nữa, hai
từ Đạo đức sẽ trở thành những từ chết. Trong một xã hội như vậy, ý thức về cái thiện, cái ác
trong mỗi con người sẽ mất đi. Khi đó, xuất hiện đầy rẫy những kẻ chuyên cướp bóc, giết
người – m{ trước đ}y ai cũng biết đó l{ điều ác thì giờ đ}y nhiều người lại làm ngơ: ôi d{o,
chuyện bình thường ấy m{, có gì đ}u phải lo lắng. Tôi lo rằng, cứ theo đ{ n{y thì x~ hội sẽ
biến th{nh địa ngục.
Ngay đến thế giới loài vật cũng còn có c|c quy tắc rõ r{ng. Đó l{ trí tuệ tự nhiên đ~ hình
thành sau biết bao triệu năm. Đến loài thú cũng còn hiểu được theo bản năng, rằng nếu vi
phạm các quy tắc ấy thì bản thân chúng, con cái chúng khó lòng tồn tại nổi.
Trong xã hội lo{i người nếu chúng ta không học và không bảo vệ những quy tắc tối thiểu thì
từng cá thể con người sẽ làm theo ý thích bừa bãi của mình. Một khi đ~ rơi v{o tình trạng ấy
thì xã hội c{ng ng{y c{ng điêu t{n, môi trường xã hội v{ môi trường tự nhiên đều xấu đi v{
đến một lúc n{o đó, nh}n loại sẽ đứng trước nguy cơ tồn vong.
Ví dụ, cứ cho l{ đ~ bắt đầu lại việc Giáo dục Đạo đức từ bây giờ thì để một đứa trẻ trưởng
th{nh cũng phải đợi mất hai mươi năm. Trong thời gian chờ đợi đó, nếu đạo đức của người
Nhật Bản có mỏng dần đi, thì tôi cũng không lo sợ lắm. Nhưng đ~ đến lúc không thể chậm
trễ thêm được nữa.
MONG MUỐN TRỞ THÀNH NGƯỜI CÓ ÍCH
Vậy, các bạn - những người đọc cuốn sách này – các bạn nhận thức ra sao về vấn đề Đạo
đức?
Nói tới Đạo đức thì người ta thường liên tưởng ngay tới một c|i gì đó vừa nghiêm khắc vừa
cứng nhắc. Nhưng thứ Đạo đức m{ tôi suy nghĩ v{ trình bày ở đ}y l{ thứ Đạo đức rất đơn
giản, hãy chỉ làm việc tốt, đúng với tư c|ch một con người, được biểu hiện qua những suy
nghĩ v{ h{nh động rất đương nhiên, vốn phổ biến ở bất cứ đ}u trên thế giới này. Ví dụ như
“không dối tr|”, “phải thành thật”. “không làm ảnh hưởng tới người xung quanh”, “có lòng
tốt với mọi người”. Chính vì đó l{ những gì cơ bản nhất của con người nên nhiều người coi
đó l{ tiêu chuẩn phân biệt giữa thiện và ác trong bản thân mình. Vả lại, vì đó chính l{ thứ
Đạo đức bộc trực và tự nhiên, nên nó sẽ trở thành tiêu chuẩn Đạo đức có sức bao dung mà ở
đ}u cũng chấp nhận được trong thế kỷ 21 này.
Ví dụ, chàng thanh niên nhìn thấy một cô g|i xinh đẹp, trong lòng liền nảy ra suy nghĩ “Gi|
cô ấy để ý tới mình thì hay biết mấy”. Suy nghĩ của anh ta là một thứ tình cảm hết sức tự
nhiên của con người, vậy m{ trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, ở c|c trường học Nhật Bản,
trong giờ Giáo dục Tu th}n, người ta đ~ coi sự luyến |i như thế là một thứ tình cảm độc hại.
Tôi nghĩ rằng Giáo dục Tu thân theo cách đó không thể coi là giáo dục Đạo đức theo nhân
tính của con người được. Lẽ ra, tính luyến ái có tác dụng nâng cao bản thân phải được thừa
nhận l{ Đạo đức.
Điều quan trọng đặc biệt trong lương tri có sẵn ở con người từ xưa tới nay l{ luôn suy nghĩ
vì người khác. Thế giới ngày nay cần những thứ đạo đức như “muốn l{m điều gì có ích cho
người xung quanh”, “muốn l{m gì đó cho người, cho đời”.
Lẽ dĩ nhiên, dù có tấm lòng thông cảm với nỗi đau của người đời hoặc vì lợi ích xã hội,
nhưng nhiều khi người ta không thể làm theo ý nguyện ngay được. Tuy vậy, vấn đề mấu
chốt l{ kiên trì theo đuổi ý nguyện đó. Nếu nỗ lực thực hiện ý nguyện “muốn giúp ích cho
đời” thì nhất định sẽ đến một ngày ý nguyện đó sẽ trở thành hiện thực.
Tôi muốn các bạn trẻ - những người gánh vác thế giới sau này – h~y x|c định lý tưởng cho
mình, h~y hướng tới nó và hãy nỗ lực thực hiện lý tưởng đó. Hoặc tối thiểu cũng phải luôn
luôn suy nghĩ sẽ nỗ lực thực hiện nó. Được như vậy thì nhân tính trong bản thân bạn sẽ
được n}ng lên, tương lai của bạn cũng như tương lại của nhân loại nhất định sẽ tốt đẹp.
CHƯƠNG NĂM
KHÔNG NẢN LÒNG TRƯỚC VẬN ĐEN
“Trong cuộc đời, lòng nhiệt tình v{ phương ph|p tư duy còn trọng hơn cả năng lực. Giả dụ,
có người năng lực tuy yếu nhưng luôn suy nghĩ cần phải làm việc gì đó cho mọi người và
luôn nỗ lực không ngừng, thì người đó nhất định sẽ đạt được thành quả hơn hẳn người có
năng lực nhưng c|ch tư duy sai lầm và thiếu nỗ lực. Các bạn đừng bao giờ nản chí nếu thấy
rằng năng lực của mình yếu. Việc tư duy đúng v{ nỗ lực không mệt mỏi sẽ nuôi dưỡng bạn
trưởng th{nh.”
MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC ĐỜI – TÂM HỒN CAO THƯỢNG
Tôi l{ người sáng lập Công ty Kyocera v{ nuôi dưỡng nó trong suốt hơn 40 năm. Đến nay,
Kyocera đ~ trở thành một công ty khổng lồ. Và một công ty khác, Công ty Dainhi Denden do
tôi lập ra sau đó - hiện nay là công ty KDDI- cũng trở thành công ty lớn.
Ngo{i ra, tôi còn được rất nhiều trường đại học trao danh hiệu Tiến sĩ danh dự, được nhiều
đo{n thể và quốc gia trao giải thưởng v{ hu}n chương cao quý.
Phải chăng tôi là một vĩ nh}n? Không, không phải như vậy. Các bạn nên nhớ rằng: những
người nổi tiếng được cả thế giới thừa nhận l{ vĩ nh}n thật ra đều là những con người rất đỗi
bình thường.
Mục đích cuộc đời của tôi ở chỗ: Phải trở th{nh người tốt. Người tốt là người có tâm hồn
cao đẹp. Tâm hồn cao đẹp và luôn quan tâm tới người kh|c. Đối với tôi, việc luôn quan tâm
đến người kh|c l{ điều rất quan trọng.
Người luôn quan t}m đến người khác nói một c|ch kh|c l{ người có lòng nhân hậu. Mục
đích cuộc đời tôi là trở th{nh người có tâm hồn cao đẹp, có lòng nhân hậu, luôn quan tâm
đến người khác.
Có nhiều người muốn trở thành tổng gi|m đốc công ty lớn, muốn trở thành tỷ phú… Nhưng,
ở góc độ ý nghĩa cuộc sống, mục đích sống, thì những ước muốn như thế hoàn toàn không
có một chút giá trị n{o. Đứng ở góc độ l{m người thì cuộc đời chỉ có giá trị khi người đó đ~
trở th{nh con người tuyệt vời đến độ n{o. Đó cũng l{ lý do m{ giới tự nhiên, vũ trụ và Thần
Phật mang đến biết bao thử thách cho chúng ta. Những thử th|ch đó không chỉ là những
hoạn nạn hay bất hạnh mà còn là sự thành công nữa.
GIAN NAN RÈN LUYỆN MỚI THÀNH NHÂN
Thời trẻ, biết bao lần tôi gặp thất bại và nản chí. Nhưng, cũng có người thành công rất sớm
và cuộc đời luôn thuận buồm xuôi gió. Ví dụ, trong giới kinh doanh mạo hiểm (venture
business) có không ít người thành lập công ty từ rất sớm, niêm yết cổ phần trên sàn giao
dịch và mới ngoài 30 tuổi m{ đ~ có t{i sản lên tới h{ng trăm tỷ yên. Người ngoài nhìn vào
thì nghĩ: anh ta sao m{ sung sướng thế. Nhưng, đối với những người trong cuộc như anh ta
thì sự th{nh công cũng l{ một thử thách. Mà thử th|ch đó l{ do ông Trời mang lại. Và ông
Trời muốn biết con người anh ta thay đổi ra sao trước thử th|ch đó.
Con người thường ngạo mạn và xa hoa vì gặt h|i th{nh công v{ có địa vị từ quá sớm. Nhưng
có vay thì có trả. Sự th{nh công thường là kết quả của quá trình nỗ lực không ngừng, chỉ
tiêu đúng mức, tính toán chi li, không hoang phí. Tuy vậy, sau những thành công thì con
người hay dành nhiều tiền bạc và thời gian vào các thú vui, chơi bời… Ngo{i ra, mới vừa
th{nh công đ~ lên mặt huênh hoang. Như thế thì th{nh công cũng chỉ đến trong phút chốc.
Đến cả tài sản v{ địa vị phải vất vả lắm mới có được, cũng sẽ biến mất lúc nào không hay. Và
cuộc đời sẽ trở nên bi đ|t.
Thà rằng đừng sớm thành công và nếu như tiếp tục nghiêm túc trong công việc và cuộc
sống thì đ}u đến nỗi… Hối hận thì đ~ muộn. Những ví dụ như trên thì vô v{n, kể ra không
hết.
CHẤP NHẬN ĐỐI ĐẦU VỚI THỬ THÁCH
Tôi cũng có kinh nghiệm tương tự.
Câu chuyện xảy ra trong lần hội lớp tiểu học, tổ chức ở tỉnh Kagoshima. Tôi có đến tham dự.
Vả lại trước đó bạn bè đ~ nhắn tin: “Cậu phải đến nhé, mọi người ai cũng mong gặp lại cậu
đấy.”
Ngày hội lớp, mọi người kéo đến đông vì bạn bè đều muốn gặp và hỏi chuyện tôi - một
người được coi l{ th{nh đạt trong sự nghiệp. Các bạn tôi mỗi người mỗi vẻ. Có người thì
l{m công ăn lương, sắp về hưu. Có người thì kinh doanh cửa hàng.
Bạn bè gặp lại nhau mừng mừng rỡ rỡ. Những lời thăm hỏi những câu chuyện về quá khứ
thật rôm rả vui vẻ. Trong không khí đó, có một người - từng là lớp trưởng, đỗ v{o trường
trung học m{ tôi trượt - nhắc lại câu chuyện từ thuở đi học. “Có một lần, tớ mặc đồng phục
đang trên đường đến trường thì gặp cậu đi ngang qua. Cậu chẳng nói chẳng rằng, chỉ lườm
tớ một cái rồi đi thẳng. Đến tận bây giờ, tớ vẫn không thể quên được cái trừng mắt như giận
dữ, ghen tức của cậu lúc đó.”
Tôi thì chẳng nhớ gì cả. Có lẽ cũng có chuyện đó thật. Vì lúc đó tôi đang trong t}m trạng
buồn ch|n. “Tại sao số mình lại đen thế này? Vì sao mình toàn gặp những điều không may
thế này? Thi lần n{o cũng trượt…” Vì thế việc tôi ghen tức với bạn tôi - học giỏi, đỗ vào
trường tốt – là chuyện có thật.
Về sau, tôi có nghe anh kể lại, sau khi học lên trung học Kagoshima, nhà anh bị trúng bom
cháy sạch, gia cảnh tan nát. Thời đó, trẻ mồ côi do chiến tranh đầy rẫy, ở khu phố n{o cũng
đều có c|c băng nhóm trẻ bụi đời. Anh tham gia vào một băng, l{m điều xấu, từ đ|nh lộn
đến lừa đảo, trộm cắp. Cuộc đời chẳng đ}u v{o đ}u. Thế rồi, may sao như anh nói: “Mình
tỉnh ngộ vì nhận ra, nếu sống như thế mãi thì cuộc đời hỏng mất. Mình bắt tay làm lại từ
đầu. Nhờ thế mới có ng{y hôm nay.”
Thành công nhỏ nhoi thời niên thiếu khiến cho cuộc đời anh đảo lộn.
Chắc các bạn đ~ hiểu điều tôi muốn nói thông qua câu chuyện của con người và sự việc cụ
thể. Đó l{ trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là dù có thành công sớm thì cũng đừng vì thế mà
vội hài lòng, vỗ ngực huênh hoang. Ngược lại, trước hoạn nạn hay thất bại cũng đừng vì thế
m{ buông xuôi, đầu hàng. Tất cả những thứ thành công, hoạn nạn, thất bại đều là những thử
thách do Trời Phật mang lại. Và thiện ý của Trời Phật là muốn chúng ta h~y vượt qua mọi
thử thách và hãy tiếp tục cuộc sống. Chính vì vậy, vấn đề quan trọng l{ th|i độ của chúng ta
trước thất bại và thành công ra sao? Việc chấp nhận thử thách, không ngừng nỗ lực vượt
qua thử th|ch cũng đồng thời là quá trình hoàn thiện bản thân.
GƯƠNG TÔI LUYỆN TRONG THỬ THÁCH
Tôi thường nghĩ, con người ta khi mới sinh ra ai cũng như viên đ| thô. Theo thời gian, nhờ
được rèn giũa mới trở th{nh người có nhân cách giống như viên ngọc quý tỏa sáng.
Vậy ta phải rèn giũa bản th}n như thế nào? Có một người để các bạn có thể tham khảo. Đó
là ông Saigo Takamori (1), một nhân vật có vai trò quan trọng trong công cuộc Minh Trị Duy
Tân.
Saigo Takamori là một nhân vật lịch sử mà tôi rất khâm phục. Thuở nhỏ, ông là một đứa trẻ
bình thường như bao đứ trẻ khác, có biệt danh l{ Uđo. Tuy vậy, về sau ông là một người có
nh}n c|ch được mọi người tôn kính, kể cả các bậc vĩ nh}n thời cuối Mạc Phủ như Katsu
Kaisyu (2) chẳng hạn. Saigo Takamori đ~ góp phần vào sự nghiệp vĩ đại trong lịch sử Nhật
Bản - sự nghiệp Minh Trị Duy Tân.
Saigo Takamori l{ người từng trải qua biết bao thử thách. Thời trẻ, ông cùng với người bạn
nối khố - một nh{ sư – đ~ từng trầm mình xuống biển Kagoshima để cùng chết. Nhưng kết
cục l{ người bạn thì chết, còn ông vẫn sống. Nỗi đau đó theo suốt cuộc đời ông. Chưa hết,
ông đ~ từng chuốc lấy sự nổi giận của Shogun (tướng quân) và bị đầy ra đảo hai lần. Đặc
biệt là lần thứ hai, ông bị đưa ra tận đảo Okierabu thuộc tỉnh Kagoshima, c|ch xa đất liền.
Ông bị tống vào ngục tối, chịu cảnh lao khổ dãi nắng dầm mưa. Cuộc đời ông trải qua biết
bao cay đắng.
------------(1): Saigo Takamori (1827 – 1877) l{ võ sĩ xuất thân ở l~nh địa Satsuma - tỉnh Kagoshima
ngày nay. Là một trong ba chính trị gia xuất sắc thời Minh Trị. Chủ trương của ông là thiết
lập chính thể cộng hoà ở Nhật Bản. Năm 1877, do kh|c biệt về đường lối với chính phủ mới
về vấn đề Triều Tiên, ông trở về Kagoshima và mở trường tư thục. Ông l{ người l~nh đạo
đội quân của những người thuộc h{ng sĩ tộc bất bình với chính phủ mới ở đảo Kyushu. Ông
đ~ tự vẫn sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh Tây Nam (1/1877 – 99/1877) chống lại
qu}n đội của chính phủ mới.
(2): Katsu Kaisu (1823 – 1899) là Hạm trưởng nổi tiếng với việc chỉ huy chiến hạm
Kanrimaru Nhật Bản vượt Th|i Bình dương năm 1860. Ông l{ người chủ trương chuyển
giao quyền lực của Mạc Phủ cho chính phủ mới Minh Trị trong hoà bình. Ông lần lượt trải
qua các chức vụ Tư lệnh Hải quân, thành viên của viện Cơ mật trong chính phủ Minh Trị.
Đồng thời ông cũng l{ t|c giả của tác phẩm Lịch sử Hải quân, Kỉ nguyên khai quốc.
Tuy nhiên, trong nghịch cảnh, ông vẫn nỗ lực tìm mọi cách học tập, tu dưỡng bản thân. Ông
chịu đựng gian khổ, biến gian khổ trở thành sức bật cho sự trưởng thành của mình. Và ông
kiên trì nỗ lực m{i giũa nh}n c|ch. Về sau, ông được tha và trở về đất liền. Ông trở thành
một người có t{i ph|n đo|n, có t{i thấy được sự vật, nhân cách của ông thu phục lòng người
và ông trở thành một trong những người kiến tạo công cuộc Minh Trị Duy Tân.
Tôi giới thiệu chuyện này với các bạn vì nó dạy cho chúng ta biết Saigo Takamori đ~ h{nh
động ra sao khi gặp thử thách trong cuộc đời. Khi gặp gian nan, bị hoàn cảnh quật ngã thì
các bạn chọn cách sống oán trách số phận, thù hận con người hay chọn cách sống như ông
Saigo Takamori: nỗ lực quên mình, vượt qua gian khổ.
Con người trưởng thành hay không chính là ở chỗ rẽ này.
D|m đứng trực diện với khó khăn, nỗ lực không ngừng. Không huyên hoang trước thành
công, tiếp tục thận trọng nỗ lực. Chỉ khi n{o con người d|m đối diện với nhiều thử thách
trong cuộc đời như vậy thì mới trưởng th{nh được.
TÌM CHO MÌNH LẼ SỐNG
Có một nhà triết học tên là Nakamura Tenpu (1). Thời niên thiếu của ông là giai đoạn
chuyển tiếp từ cuối thời Minh Trị sang thời Đại Chính. Ông đ~ từng luyện yoga ở Ấn Độ. Ông
sinh ra trong một gia đình trung lưu. Cha ông l{m việc trong Bộ Ngân Khố v{ l{ người đảm
trách việc in tiền giấy cho chính phủ.
Thuở nhỏ, Tenpu là một đứa trẻ ngổ ngược khó bảo, thường hay cãi lộn một cách vô lối.
Tenpu đ~ từng bị đuổi học khỏi trường trung học vì cãi cọ, ẩu đả với bạn bè và dẫn đến cái
chết của bạn.
-------------1. Nakamura Tenpu tên thật l{ Nakamura Sanrou, sinh năm 1876 tại Tokyo. Ông được coi là
nhà khai sáng triết lý yoga ở Nhật Bản. Ông dành cả cuộc đời theo đuổi Chân - Thiện - Mỹ.
-------------Khi cuộc chiến tranh Nhật – Nga nổ ra, Tenpu đầu qu}n cho cơ quan tình b|o v{ sang M~n
Ch}u l{m gi|n điệp. Khi đó, Tenpu mới 16 tuổi. Và ông đ~ tung ho{nh ngang dọc khắp Mãn
Châu. Nghe nói ông là một người dũng cảm đến táo tợn. Nào là một mình một gậy gắn dao
đ|nh nhau với băng M~ tặc. Nào là gặp địch thủ to lớn gấp mấy cũng không chùn bước. Năm
20 tuổi về lại Nhật Bản, ông bị bệnh lao thập tử nhất sinh. Con người vùng vẫy ngang dọc
một thời ấy, nay đổ quỵ vì căn bệnh hiểm nghèo, nhiều lần thổ huyết, người xanh như t{u l|.
Đúng lúc cầm chắc cái chết, ông quyết định sang Mỹ v{ ch}u Âu để hiểu rõ hơn “Cuộc đời
rốt cục l{ gì?”. Trước khi chết, ông muốn hiểu rõ cuộc đời của chính mình để rồi có chết
cũng yên lòng. V{ ông lên đường. Kết thúc chuyến chu du, trên đường trở về Nhật Bản, tại
một cảng của xứ sở Ai Cập, ông gặp được một thánh nhân Ấn Độ.
“Ta biết chắc anh l{ người Nhật Bản. Ta cũng biết: Anh có một lỗ thủng to trong lồng ngực
và anh trong tình trạng sống dở chết dở. Nhưng anh đang cố gắng về tới Nhật Bản mới chết.
Nhưng số anh chưa chết được đ}u. H~y đi theo ta…”
Nghe vị thánh nói vậy, Tenpu bèn đi theo. Tenpu được đưa tới vùng núi Himalaya thuộc Ấn
Độ - nơi trú ngụ của vị thánh. Và từ đó, Tenpu bắt đầu tu hành. Việc tu hành hàng ngày là
tọa thiền.
Tọa thiền mở ra sự giác ngộ, sực thức tỉnh. Ông Tenpu đ~ gi|c ngộ một cách tuyệt vời. Bệnh
lao cũng khỏi hẳn từ lúc nào không hay. Ông trở về Nhật Bản và gặt hái thành công trong
nhiều lĩnh vực, kể cả trong chức vụ Thống đốc Ngân hàng. Những năm cuối đời, ông từ bỏ
mọi công việc, từ bỏ mọi địa vị và bắt đầu công việc mới: đứng diễn thuyết ở đầu phố. Với
lòng mong muốn nói cho nhiều người biết: Con người dù gặp phải nghịch cảnh, gặp bất
hạnh đến đ}u trong qu| khứ cũng vẫn có được cuộc đời tuyệt vời nếu có cái tâm, nên cứ vào
mỗi giờ cố định trong ngày, ông lại ra đứng diễn thuyết ở nơi đông người qua lại.
“Vũ trụ này bảo đảm cho tất cả mọi người đều được bình đẳng, bảo đảm cho tất cả mọi
người một tương lại tốt đẹp phong phú. Tương lai tươi s|ng rực rỡ vẫn đang chờ đón, dù
các bạn đang gặp nghịch cảnh, đang gặp bất hạnh. Các bạn có nhận được điều đó hay không
hoàn toàn phụ thuộc vào cái tâm của mình..”
“H~y tin rằng niềm hạnh phúc tuyệt vời tươi s|ng đang chờ đón c|c bạn trong tương lai. C|c
bạn hãy từ bỏ những ý nghĩ tối tăm như lòng căm tức, thù ghét người khác, tâm trạng oán
hận cuộc đời. Hãy tìm cho mình lẽ sống. Hãy thắp lên hy vọng. Tương lai tươi đẹp đang chờ
đón chúng ta v{ c|c bạn h~y đừng bao giờ mảy may nghi ngờ về điều đó. H~y tin v{ h~y
bước vào cuộc đời.”
“Cuộc đời tốt hay xấu tuỳ thuộc hoàn toàn vào cách tiếp nhận của chính mình. Chỉ vẻn vẹn
có bấy nhiêu đó thôi vậy m{ con người cũng không biết. Vì không biết nên con người bối
rối, lầm lạc. Do đó tất cả đang sống vô nghĩa. Chỉ cần tin và sống theo tâm thì chắc chắn cuộc
đời tốt đẹp sẽ mở ra cho các bạn…”.
Ông Tenpu đ~ d{nh hết cả phần đời còn lại của mình đi khắp mọi nơi rao giảng những điều
như vậy.
Phải ngoài 30 tuổi tôi mới biết đến cuộc đời ông. Tôi khâm phục c|ch suy nghĩ, c|ch sống
của ông. Tôi cũng rất chịu khó đọc và nghiền ngẫm các trang sách của ông. Ở trong tôi có
một niềm tin mãnh liệt như ông Tenpu từng nói: Cuộc đời của người nào phụ thuộc vào cái
tâm của chính người đó. Nói c|ch kh|c, cuộc đời thay đổi tuỳ theo c|ch nghĩ, c|ch sống ở
mỗi con người.
ĐÁP SỐ CUỘC ĐỜI
Có một điều tôi muốn truyền đạt tới các bạn - những người đang khai ph| con đường đi cho
mình. Đó l{: cuộc đời là sự b|o đ|p cho những ai có tư duy đúng đắn và nỗ lực – đúng như
lời ông Tenpu. Tôi xin được giải thích rõ hơn điều này bằng phương trình sau đ}y:
ĐÁP SỐ CUỘC ĐỜI = NĂNG LỰC x LONG NHIỆT TÌNH x CÁCH TƯ DUY
Thông qua phương trình trên v{ cuộc đời của bản thân, tôi muốn giải đ|p thắc mắc của các
bạn: Không có cách nào dành cho những người chỉ có năng lực trung bình lại muốn có cuộc
sống tốt.
“Năng lực“ ở đ}y có nghĩa l{ những gì bẩm sinh, có sẵn trong con người bao gồm năng lực
mang tính thể trạng như thần kinh vận động có phát triển hay không, có khỏe mạnh hay
không, có sức khoẻ hay không, chứ không phải theo nghĩa đầu óc có thông minh hay không.
Cũng có bạn có suy nghĩ theo kiểu: Mình l{ người không có năng lực lắm vì ít được học
hành, muốn l{m cũng không được.
Nhưng c|c bạn thử nhìn vào tôi mà xem. Thi lên cấp hai - trượt. Thi v{o đại học quốc gia –
cũng trượt. Khi đi l{m thì không v{o được công ty tốt. Vậy thì phải chăng tôi l{ người có
năng lực cao?
Tuy nhiên, thông số thứ hai l{ “Lòng nhiệt tình” thì do mình tự quyết định được. Bởi vì nó là
ý chí bản thân. Vì vậy, tôi quyết tâm không chịu thua người kh|c. Tôi luôn suy nghĩ: Bản
th}n mình năng lực đ~ không bằng người thì bù lại lòng nhiệt tình phải hơn người. Cứ có
lòng nhiệt tình và ham muốn làm việc để không thua kém ai thì dù đầu óc có bình thường
thì chắc chắn cũng sẽ hơn khối người đầu óc thông minh nhưng lười biếng.
LUÔN SUY NGHĨ LẠC QUAN
Và thông số thứ ba l{ c|ch tư duy. Như ông Tenpu từng nói: Chúng ta suy nghĩ thế nào thì
cuộc đời sẽ được quyết định thế ấy. Tuyệt đối không được nghĩ rằng tương lại của mình sẽ
chẳng ra gì. Việc tin tưởng rằng “Cuộc đời màu hồng đang ở phía trước đợi c|nh tay đón
nhận của chúng ta” l{ điều quan trọng. Phải thắp lên hy vọng, sống với niềm lạc quan yêu
đời. Ông Tenpu cũng nói: “Chỉ cần trong bản thân mỗi người có được sự suy nghĩ như thể
tương lai tươi s|ng đang chờ đón thì cũng đủ làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp”. Ông nói
rõ: “Điều quan trọng nhất trong cuộc đời chính l{ l{m sao suy nghĩ được như vậy”. Ông còn
nhấn mạnh thêm: “Chỉ cần bấy nhiêu đó thôi cũng đ~ đ|ng sống lắm rồi”. V{ ông than thở:
“Vậy mà, hầu như không ai biết tới điều ấy. Cho nên nhiều kẻ mới lầm lạc và sống một cuộc
đời chẳng ra l{m sao”.
Tôi cũng nghĩ đúng như ông nói. Vì thế, tôi đưa thông số C|ch tư duy – thông số quan trọng
nhất, v{o trong phương trình.
Tôi giải thích kỹ hơn về phương trình nói trên. Cuộc đời là phép tính nhân của ba yếu tố
Năng lực, Lòng nhiệt tình v{ C|ch tư duy. Nếu chấm điểm trên cơ sở đ|nh gi| Năng lực theo
thang điểm từ 0 điểm tới 100 điểm, trường hợp người có trí thông minh thấp hơn cả mức
trung bình và chỉ được 30 điểm chẳng hạn. Bù lại, điểm về Lòng nhiệt tình l{ 90 điểm vì
người ấy ham muốn làm việc gấp mấy chục lần so với người kh|c thì điểm cuộc đời sẽ là 30
x 90 = 2.700 điểm.
Mặt kh|c, trường hợp người thông minh, điểm Năng lực được 90. Vì thông minh nên đỗ vào
trường đại học nổi tiếng bậc nhất. Nhưng, nếu người đó mang trong đầu lối suy nghĩ: Chẳng
tội gì phải làm việc cật lực như lũ ngu đần. Đ~ ngu đần lại không đi học thì phải làm việc
quần quật như tr}u l{ phải, thì về Lòng nhiệt tình lắm cũng chỉ có thể cho 10 điểm. Vậy thì
điểm cuộc đời của người ấy 90 x 10 = 900.
Tôi luôn nghiệm thấy, người biết rõ những hạn chế về năng lực của mình nếu luôn chịu khó,
nỗ lực thì bao giờ cũng có Đ|p số Cuộc đời hơn hẳn những người thông minh nhưng lười
biếng.
Riêng C|ch tư duy có thang điểm từ - 100 điểm đến + 100 điểm. Nếu sống với lòng thù hận
cuộc đời, nhìn đời bằng lăng kính méo mó thì điểm về C|ch tư duy sẽ là âm. Khi nhân với số
}m thì đương nhiên đ|p số cuộc đời là âm.
Giả dụ, một người có năng lực tuyệt vời, có lòng nhiệt tình mạnh mẽ nhưng lại thù o|n, căm
giận cuộc đời thì đ|p số cuộc đời của người đó l{ số âm càng lớn tương ứng với điểm về
năng lực và lòng nhiệt tình cao.
Người có tư duy lạc quan, có tấm lòng trong s|ng luôn hướng về phía trước thì sẽ có được
đ|p số cuộc sống tuyệt vời.
LỜI DẠY CỦA VỊ SƯ GIÀ
Nói về những thử thách trong cuộc đời thì tôi từng có kinh nghiệm như thế này.
Năm 1972, với mục đích đa dạng hoá sản phẩm, Công ty Kyocera chúng tôi tiến v{o lĩnh vực
Y tế. Chúng tôi nghiên cứu và sử dụng vật liệu gốm công nghệ cao vào việc chế tạo chân
răng nh}n tạo, xương nh}n tạo. Trước đó, tôi được c|c gi|o sư trường đại học Osaka
khuyên: “Vật liệu kim loại bị cơ thể con người đ{o thải không tiếp nhận. Chúng tôi đề nghị
các anh thử dùng vật liệu gốm công nghệ cao xem sao”.
Không có gì tuyệt vời hơn việc ứng dụng gốm công nghệ cao - sản phẩm mà tôi nghiên cứu
từ thời còn trẻ - giúp ích cho sức khỏe con người và cống hiến cho sự tiến bộ về y học. Hơn
nữa lại nhận được sự hỗ trợ của trường đại học. Chúng tôi chế tạo th{nh công ch}n răng
nhân tạo. Năm 1978, chúng tôi được Bộ Y tế cấp giấy phép. Song song với việc chế tạo chân
răng nh}n tạo, chúng tôi cũng th{nh công trong việc nghiên cứu và chế tạo xương nh}n tạo
và khớp xương nh}n tạo. Và các sản phẩm n{y cũng nhận được giấy phép từ Bộ Y tế. Hoạt
động sản xuất v{ kinh doanh trong lĩnh vực y tế cũng đi v{o quỹ đạo ổn định.
Tuy nhiên, vào năm 1985 xảy ra một việc mà chúng tôi không ngờ tới. Số là, chúng tôi nhận
được lời đề nghị của một b|c sĩ khoa Chấn thương chỉnh hình: “Sản phẩm khớp xương h|ng
nhân tạo bằng gốm công nghệ cao của Kyocera rất tốt. Các ông nên tiếp tục nghiên cứu chế
tạo cả khớp xương đầu gối nữa…” Gi|m đốc phụ trách tiếp thị của công ty chúng tôi chần
chừ: “Mong ông cho chúng tôi thêm thời gian. Vì còn phải xin phép Bộ Y tế…” Tức thì ông
b|c sĩ liền nói: “Đ}u cần phải xin phép nữa. Sản phẩm khớp xương h|ng đ~ được cấp phép
rồi thì khớp xương đầu gối không có vấn đề trở ngại gì. Vì cùng một loại vật liệu v{ hơn nữa,
khớp nào chẳng là khớp. Vả lại, bệnh nhân lại đang rất cần. Họ cũng sẵn sàng tự hoàn toàn
chịu trách nhiệm nếu có vấn đề gì xảy ra”. Nghe ra cũng có lý, hơn nữa vì bệnh nhân nên
công ty chúng tôi đ~ đ|p ứng yêu cầu của b|c sĩ.
Tuy vậy, trong văn bản quy định về thuốc và các dụng cụ y tế của Bộ Y tế có ghi rõ: “Đối với
xương nh}n tạo và khớp nhân tạo, dù được sản xuất bằng vật liệu cùng loại nhưng hình
dáng và kích thước sản phẩm khác nhau thì vẫn phải có giấy phép riêng cho từng sản phẩm
mới được phép đưa v{o sử dụng”
Kết quả là công ty chúng tôi bị quy vào tội “Vi phạm quy định về giấy phép sản phẩm”. Sự
kiện này trở th{nh đề tài phê phán công ty chúng tôi một cách nặng nề và ồn ào trên các
trang báo. Suốt 25 năm kể từ ngày thành lập, lần đầu tiên Công ty Kyocera bị xã hội phê
ph|n v{ lên |n tơi bời.
Tôi cứ nghĩ việc làm của công ty chúng tôi cũng chỉ vì bệnh nhân mà thôi. Vậy m{… Bộ phận
sản xuất kinh doanh sản phẩm y tế của công ty bị rút giấy phép v{ đình chỉ hoạt động suốt
một tháng.
Khi sự việc xảy ra, lời dạy bảo quý giá của ông Nishikata Tansetsu đ~ cứu giúp tinh thần tôi.
Ông là một vị cao tăng đứng đầu phái Lâm Tế Tôn Tâm Tự và là vị sư tư vấn cho những câu
hỏi nặng tính trần tục của tôi. Hồi đó, ông l{ vị sư trụ trì chùa Enfuku (Viên Phúc tự) toạ lạc
ở phía nam thành phố Kyoto.
Mỗi lần tôi đến viếng chùa là lại được ông mời uống trà. Trong khi ông pha trà thì tôi kể với
ông những câu chuyện trong công ty và bao giờ cũng được ông dành thời giờ nghe. Rồi tôi
kể cho ông nghe về việc bị báo chí dựng chuyện đ|nh tơi bời ra sao.
Nghe tới đó, vì sự già cất tiếng: “Thôi có kêu ca cũng vậy. N{y tôi nói để anh biết. Việc gặp
gian nan chính là bằng chứng chứng tỏ mình đang sống đấy.” Gi~i b{y nỗi lòng để mong
được ông an ủi, vậy mà ông lại nói ra những lời không ngờ tới.
“Khi anh gặp nạn cũng l{ lúc c|i nghiệp (món nợ tiền kiếp) ng{y trước biến mất. Nghiệp
biến mất thì đ|ng lẽ vui mới phải. Ta không biết đó l{ cái nghiệp gì, nhưng c|i nạn anh gặp
phải chỉ có chừng đó m{ đ~ l{m biến đi c|i nghiệp tiền kiếp thì lẽ ra phải ăn mừng mới đúng
chứ.” Lời dạy của sư gi{ không những giúp tôi gượng dậy m{ còn vô cùng quý gi| đối với
tôi. Lời dạy đó đ~ giúp tôi tiếp nhận bình thản mọi chỉ trích, phê phán. Vì tôi hiểu rằng đó
chính là thử thách mà ông Trời mang đến.
CON ĐƯỜNG ĐẮC ĐẠO
Như tôi đ~ nói, mục đích của cuộc đời là ở chỗ l{m người. L{m người có nghĩa l{ trở thành
người có tâm hồn cao đẹp, có tấm lòng nhân hậu, biết thông cảm và quan tâm tới người
khác. Dù có tiền của, có địa vị nhưng nếu quên đi sự khiêm nhường, có th|i độ hách dịch
huênh hoang thì không thể coi là có cuộc đời tốt đẹp được vì đi chệch khỏi mục đích của
cuộc đời. Chỉ có những người có tấm lòng nhân hậu, biết thông cảm và quan tâm tới người
khác mới l{ người thực sự tuyệt vời. Việc vượt qua được vô số thử thách và trở th{nh người
có tấm lòng như vậy thì tương lai tươi đẹp mới mở ra cho mình.
Tôi quan niệm mục đích cuộc đời chính là việc trở thành con người có tấm lòng cao thượng.
Vì thế, tôi vạch ra cho mình một kế hoạch: đến năm 60 tuổi, sẽ tịnh tâm dành thời gian học
lại về c|ch l{m người. Và nếu được thì sẽ đọc thật nhiều sách về tôn gi|o. Trước khi làm
cuộc viễn du của phần hồn – đi v{o cõi vô định – tôi muốn chuẩn bị sẵn cái tâm cho mình.
Nếu có thể tôi sẽ vào cửa Phật và theo học các vị thiền sư.
Tôi đ~ rắp t}m như vậy từ c|ch đ}y rất lâu.
Vậy m{, đúng năm tôi 60 tuổi thì công việc lại ngập đầu, không l{m sao có được thời gian
như dự định. Và rồi, ngoảnh đi ngoảnh lại, tôi đ~ bước sang tuổi 65. Chẳng ai biết trước
được mình sẽ sống được đến khi n{o. Hơn nữa nếu cứ vướng vào công việc bận rộn thế này,
tôi không thể có cơ hội v{o nơi cửa Phật được.
Chính lúc này là lúc thích hợp nhất để tu hành. Và thế là tôi quyết định đem điều mà mình
nung nấu bấy l}u nay đến bàn cụ thể với các vị sư trong chùa. Đồng thời tôi cũng nhờ sư l~o
Nishikata Tansetsu - vị cao tăng m{ tôi hết lòng tôn kính – l{m Ph|p độ cho phép tôi được
nhập môn.
Đúng v{o lúc sắp đặt xong xuôi kế hoạch nói trên thì b|c sĩ cho biết tôi bị ung thư dạ dày và
phải phẫu thuật sớm. Thế là ngày dự định vào chùa trở thành ngày nhập viện để cắt bỏ khối
u.
Người ta cắt bỏ đi hai phần ba dạ dày của tôi. Nhưng sau đó, khối u vẫn tái phát. Ngày nay,
việc cắt bỏ khối u dạ d{y không còn l{ điều phức tạp nhu trước kia nữa. Nhưng trường hợp
tôi có lẽ vì số đen hay sao đó m{ phẫu thuật bị thất bại. Thời gian tôi phải nhập viện và chịu
đau đớn dài gấp nhiều lần so với người khác.
Cuối cùng tôi cũng được ra viện. Không thể để vuột cơ hội lần hai nữa, tôi xuống tóc cạo đầu
và trở th{nh người tu h{nh. Tôi đ~ v{o chùa dù thời gian rất ngắn. Một hôm, sư l~o
Nishikata đến gặp tôi và dạy: “Có lẽ quay về với xã hội, làm những việc có ích cho đời mới là
con đường đắc đạo đối với anh.” Tôi nhận lời dạy bảo, trở về công ty. Không bao lâu sau, tôi
rút khỏi tuyến đầu trên mặt trận kinh doanh, lập ra v{ điều hành Quỹ Inamori, mở trường
quản trị tư thục Selwa với mục đích đón nhận v{ đ{o tạo các nhà kinh doanh trẻ tuổi, xây
dựng các trung tâm dành cho trẻ khuyết tật trên khắp Nhật Bản… Tôi từng bước bắt tay
thực hiện những công việc có ích cho đời.
LỜI PHẬT DẠY
Để sống cuộc đời tốt đẹp, tôi khuyên các bạn hãy tham khảo những lời Phật dạy: trở thành
người có tấm lòng nhân từ, biết thương người l{ điều quan trọng nhất. Nếu biết tu dưỡng
th{nh người có thiện tâm thì có thể sống cuộc đời tuyệt vời tới mức bản th}n người đó cũng
không thể tưởng tượng nổi. Nếu biết tu dưỡng thì không những sẽ trở th{nh người có đạo
tâm mà mọi điều bất hạnh cũng l|nh xa v{ mở ra cảnh giới tốt đẹp.
Để có thể trở th{nh người như vậy, Phật dạy sáu phép sửa mình: đó l{ bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tiến, thiền định, bát nhã.
Đầu tiên l{ giúp đỡ mọi người - tức là bố thí. Việc cúng dường tiền bạc, thực phẩm được gọi
là bố thí. Nói rộng ra thì giúp đỡ người khác là thực chất của “hạnh bố thí”. Bố thí là làm việc
cho đời, cho người. Nói cách khác, bố thí xuất phát từ tấm lòng nhân từ v{ thương người.
Thấy người nghèo khổ thì động lòng muốn giúp. San xẻ bớt cho ngươi những gì mình đang
có bằng lòng nhân từ, cảm thông v{ thương xót. Hết lòng làm việc thiện cho đời, cho người.
Các bạn có thể hiểu lầm chỉ có những người dư dả tiền bạc mới có thể bố thí hoặc quyên
góp. Dù không có tiền bạc nhưng nếu có lòng tốt thì vẫn l{m được những việc lợi lạc cho
mọi người.
o BA TÍNH XẤU TRONG CON NGƯỜI.
Tiếp đến là trì giới. Trì giới có nghĩa l{ tu}n thủ những điều răn để ngăn không cho c|i |c
trong mình nảy sinh. Phật dạy những điều răn m{ người ta không nên phạm phải. Nếu ta
mắc lỗi thì phải thành khẩn xét lại mình v{ không được lặp lại lỗi lầm đó nữa.
Vì sao con người lại phạm lỗi lẫm, làm những điều không nên không phải? Đó l{ vì con
người mang gánh nặng nhục thể, nghĩa l{ bản năng thực dục và tính dục. Thực dục, và tính
dục là những bản năng rất cần thiết để con người có thể tồn tại. Nhưng nó cũng l{m cho con
người sinh ra ích kỷ.
Ngoài bản năng ra còn có một thứ nữa nằm sẵn trong con người, đó l{ những thứ dây buộc
mình (mà tiếng nhà Phật gọi l{ “phiền n~o”). Theo Phật thì trong con người có tới 108 loại
dây trói khác nhau. Trong số đó có ba c|i đ|ng sợ nhất, đó l{ Tham, S}n v{ Si, gọi là Tam
độc. Tham có nghĩa l{ tham lam, ham hố. S}n có nghĩa l{ nóng nảy, tức giận. Si có nghĩa l{ si
ngốc, ngu muội.
Giả dụ có một nhà kinh doanh thành lập công ty. Nhờ nỗ lực quên mình mà công việc l{m ăn
ph|t đạt. Công việc ngày một nhiều đòi hỏi sự quyết đo|n nhạy bén của người đứng đầu.
Người đó dựa v{o đ}u để có thể quyết đo|n nhanh v{ chính x|c? Đó l{ nhờ con người có trí
năng. Trí năng giúp con người có thể xem xét v{ ph|n đo|n đúng đắn sự vật. Nhưng khi cần
đưa ra quyết định, con người lại hay dùng tới bản năng chứ không phải trí năng, tức là học
dựa vào những cảm tính yêu ghét và những tính toán vị kỷ. Chẳng hạn như ham hố muốn
thể hiện mình, luôn muốn mình là trung tâm của mọi sự khiến cho đầu óc con người trở nên
thiếu tỉnh táo.
Trên thực tế, không ít gi|m đốc của c|c công ty cũng hay quyết định dựa trên bản năng v{
cảm tính. Đôi khi những quyết định theo kiểu đó không ngờ lại được việc. Thế là họ trở nên
tự mãn, kiêu ngạo. Ba cái xấu trong con người họ được thể ng{y c{ng b{nh trướng, lấn át cả
trí năng. Chúng trở th{nh “quỷ dữ” chế ngự họ. Thiện tâm ở họ tất nhiên sẽ chẳng còn, mọi
người sống chết ra sao cũng mặc, chỉ cần một mình có lợi l{ được. Lần hồi rồi không còn ai
muốn hợp tác với họ nữa, công việc trục trặc, công ty lụi bại. Tham, S}n, Si đ~ khiến cuộc
đời họ n|t bét như tương.
Tôi sống trong thế giới kinh doanh nên thường lấy những câu chuyện l{m ăn của các công
ty ra để răn mình. Khi lòng tham, giận dữ, ngu muội còn chế ngự trong lòng thì người ta sẽ
hay phạm phải sai lầm trong cuộc đời. Có lẽ các bạn - những người đang đọc cuốn sách này
– cũng từng làm những điều không nên không phải và giờ này vẫn còn đang hối hận. Muốn
tìm nguyên nhân tại sao mình lại như thế thì theo tôi có lẽ chúng đều xuất phát từ Tham,
Sân, Si mà ra cả.
Vì thế mà Phật dạy ta phải gắng sức tuân thủ những điều răn để kiềm chế ba c|i độc, đừng
để chúng chế ngự chúng ta.
o LÀM NGƯỜI
Phép sửa mình thứ ba – tinh tiến.
Tinh tiến có nghĩa l{ phải cố gắng hết sức trong cuộc đời. L{m gì cũng phải chịu khó gắng
công, không được lười biếng.
C|c nh{ sư quét dọn chùa chiền, cày ruộng cuốc vườn cũng l{ một cách tu hành. Vì tu hành
không chỉ có ngồi toạ thiền mà còn phải lao động để bồi dưỡng tâm tính.
Phép tinh tiến dạy cho con người phải nỗ lực hàng ngày và chịu khó hàng ngày.
Đối với các bạn trẻ thì tôi nghĩ tinh tiến tức là nỗ lực học tập và làm việc. Gần đ}y, ở Nhật
Bản có xu hướng không còn coi cần cù chăm chỉ là vốn quý nữa. Nhiều người quan niệm
làm việc chỉ l{ để kiếm tiền. Nhưng, tôi muốn các bạn trẻ - những người gánh vác xã hội sau
này – nên hiểu rõ: Tâm hồn bạn sẽ được rèn giũa nhờ sự cố gắng hết mình trong công việc.
Có một ví dụ tốt cho các bạn – đó l{ một người sống dưới thời Edo, tên là Ninomiya
Sontoku. Ngay từ thuở ấu thơ, Ninomiya Sontoku đ~ mồ côi cha mẹ, phải đi ở nhờ nhà ông
chú. Cậu bé phải làm việc quần quật từ s|ng đến tối ngo{i đồng. Đêm xuống cậu chong đèn
dầu ngồi học. Học được ít lâu, cậu bị người chú cấm không cho học vì tốn tiền dầu đèn. Kể
từ đó, cậu thất học. Sau này lớn lên, Sontoky vẫn cần cù công việc đồng áng không kể khuya
sớm. Nhờ noi theo gương ông m{ cả làng trở nên trù phú.
Những câu chuyện về ông chẳng mấy chốc lan ra khắp vùng. C|c l~nh chúa thay nhau đến
gặp để vời ông tới giúp cho c|c l{ng nghèo khó trong l~nh địa mình. Ông giúp cho làng nào
thì l{ng đó thay da đổi thịt.
Những năm cuối đời, chính quyền Mạc Phủ mời ông vào thành Edo làm việc. Từ một nông
dân chân lắm tay bùn, ông trang trọng trong lễ phục Kamisimo – trang phục của samurai,
sánh vai với các lãnh chúa. Mỗi khi ông vào cung yết kiến Tướng qu}n, người ta hết lời ca
ngợi: “Giọng nói sang sảng, phong th|i đĩnh đạc chẳng khác gì quý tộc bẩm sinh. Nhìn ông ai
cũng ngỡ là một vị l~nh chúa.”
Có thể nói ông Ninomiya Sontoku là một bằng chứng tuyệt vời tiêu biểu cho lao động và sự
cần cù đ~ n}ng cao nh}n c|ch.
Qua câu chuyện trên, tôi mong các bạn trẻ hiểu rằng “tinh tiến” - chịu khó cố gắng làm việc –
l{ con đường ngắn nhất để tâm hồn trở nên cao thương.
Điểm thứ tư trong phép sửa mình là phải nhẫn nại.
Nhẫn nại là phải biết chịu đựng trước mọi nghịch cảnh. Chịu đựng gian khổ, không chùn
bước trước khó khăn, không kêu ca ph{n n{n là một c|ch để nuôi dưỡng tâm tính.
Trong cuộc đời, cũng có những lúc ta bị người kh|c coi thường, khinh miệt. Khi đó, nỗi tức
giận - một trong “Tam độc” – tr{o lên điều khiển con người ta. Và vì thế m{ ta thường mắc
phải sai lầm. Đó l{ lý do tại sao có bị coi thường, bị khinh miệt ta phải biết chịu đựng, biết
kiềm chế sự nóng giận, đừng để giận mà mất khôn. Nói rộng hợn, dù gặp cảnh ngộ trớ trêu
đến đ}u, hoặc hoàn cảnh khổ sở đến đ}u cũng phải cố gắng chịu đựng và tiếp tục nỗ lực hơn
nữa để hoàn thiện mình.
Đời người đ}u chỉ toàn màu hồng. Có người gặp cảnh khổ khi còn trẻ, cũng có người về già
mới gặp. Qu| trình l{m người cũng l{ qu| trình chịu đựng v{ vượt qua những hoàn cảnh
khó khăn trong cuộc đời.
Thứ năm l{ học c|ch tĩnh t}m (thiền định cũng l{ một c|ch để tĩnh t}m vậy). Mỗi ngày nên
dành chút ít thời gian tĩnh t}m, để ngẫm lại những h{nh động, việc làm của mình trong
ngày.
Cuộc đời lúc phẳng lặng lúc sóng gió. Tâm hồn con người cũng dao động khi vui, khi buồn.
Tĩnh t}m giúp người ta l{m tĩnh lặng c|i t}m dao động của mình. Mỗi ngày hãy dành một
chút thời gian để bình tâm trở lại, chỉ cần mỗi ngày một lần l{ được.
Thứ sáu là nâng cao trí tuệ (chữ nhà Phật gọi là bát nhã). Nếu người ta thực hiện được năm
điều nói trên thì sẽ đạt trí tuệ chân thực, tức l{ đạt tới chân lý của vũ trụ. Cuộc đời sẽ trở
nên hạnh phúc vui vẻ khi người ta đạt được 6 c|i đó.
CHƯƠNG SÁU
NUÔI DƯỠNG TÂM HỒN
“Trong giới thể thao cũng như trong giới doanh nghiệp, thành công khi còn trẻ l{ điều tuyệt
vời. Nhưng, con người thường hay ngây ngất trước thành công và không còn tiếp tục phấn
đấu nữa. Huống chi thành công quá sớm chứa đựng nhiều mầm mống nguy hiểm. Các bạn
trẻ, giả sử các bạn đang m~n nguyện thì cũng h~y khiêm nhường và tiếp tục phấn đấu. Có
như vậy, tâm hồn các bạn sẽ trở nên cao thượng và cuộc đời cũng trở nên tốt đẹp hơn.”
TẬP TRUNG SUỐT 90 PHÚT
Công ty Kyocera chúng tôi đang t{i trợ v{ điều h{nh đội bóng đ| Kyota Purple Sunga - đội
bóng của cố đô Kyoto. Đội bóng ra đời trên cơ sở trưng cầu ý kiến và lấy chữ ký của người
dân Kyoto. Phần lớn nguồn kinh phí cho đội bóng là do Kyocera tài trợ v{ tôi cũng tham gia
vào việc quản lý điều hành.
Từ trước tới nay những đội bóng có thành tích kém cỏi trong mùa giải thường thay máu
bằng cách loại bỏ các cầu thủ cũ v{ bổ sung các cầu thủ mới sau khi mùa bóng kết thúc.
Trước khi được chúng tôi tài trợ thì đội bóng Purple Sunga cũng l{m như vậy.
Trong bóng đ|, tôi chỉ là kẻ ngoại đạo. Nhưng phương ch}m điều hành hiện thời của tôi là
để tăng cường sức mạnh cho đội bóng thì không thể chỉ bằng cách thay thế cầu thủ mà phải
đầu tư thời gian và tiền bạc để đ{o tạo cầu thủ.
Cầu thủ của đội xuất thân từ nhiều nguồn. Có cầu thủ trưởng thành từ c|c đội trẻ. Có cầu
thủ mới v{o đội sau khi tốt nghiệp phổ thông v{ đại học.
Tôi yêu cầu gi|m đốc điều hành và huấn luyện viên trưởng đội bóng phải nuôi dưỡng và
đ{o tạo họ thành các cầu thủ giỏi.
Tôi muốn đội bóng phải là một tập thể mà ở đó huấn luyện viên trưởng, các cầu thủ cùng
nhau khổ luyện, rèn giữa, tích luỹ kinh nghiệm và truởng thành. Đội bóng phải là một tập
thể đo{n kết và thống nhất. Huấn luyện viên phải hiểu rõ chuyên môn v{ t}m tư của cầu
thủ. Và cầu thủ phải nắm vững v{ tu}n theo ý đồ của huấn luyện viên.
Tuy nhiên, cho dù phương ch}m của tôi là phải đầu tư trong một thời gian d{i để nuôi
dưỡng đội bóng giống như một công ty, nhưng không có nghĩa l{ tôi sẽ giữ lại cả những cầu
thủ ch}y lười luyện tập. Chỉ có những cầu thủ tập luyện chăm chỉ, những cầu thủ luôn nỗ
lực mới có chỗ trong đội bóng. Bởi vì chỉ có những con người biết nỗ lực và nỗ lực hết mình
mới phát triển được.
Xem một trận đấu qua màn ảnh nhỏ hoặc xem trực tiếp trên sân, khán giả sẽ nhận ra ngay
cầu thủ n{o thi đấu thiếu tập trung. Nhất là những cầu thủ khi không có bóng trong chân thì
lững thững cúi đầu như đi bộ trên sân.
Đ~ l{ cầu thủ thực thụ thì phải hết sức tập trung cho trận đấu. Thật khó chịu khi nhìn thấy
cầu thủ bị giật mình khi bóng bay đến chân mình.
Mà việc phải tập trung tinh thần cũng chỉ vẻn vẹn trong có 90 phút chứ phải lâu la gì. Một
cầu thủ không thể tiến xa được nếu không thể tập trung tinh thần trong khoảng thời gian
ngắn ngủi như vậy. Một khi đ~ bước ch}n v{o con đường chuyên nghiệp thì không thể
không tập trung tinh thần vào trái bóng bất kể nó đang ở đ}u v{ tình huống nào xảy ra trên
sân cỏ.
Ngoài ra, khi xem nhiều trận bóng đ|, tôi thấy việc ghi bàn hay bị thủng lưới thường xảy ra
ở cuối hiệp hai từ những phút 70 hay 80. Tôi nghĩ rằng đấy là thời điểm mà cầu thủ cả hai
đội đều thấm mệt, vì vậy đội giành phần thắng l{ đội mà các cầu thủ có tinh thần và sức lực
tranh đua cho đến tận những giây cuối cùng của trận đấu. Cho nên tôi bao giờ cũng quan s|t
các cầu thủ tập trung tinh thần ra sao trong thời gian hơn 90 phút thi đấu. Cầu thủ nỗ lực
đến mức nào trong trận đấu l{ điều quan trọng nhất đối với tôi. Tôi chủ trương giữ lại cầu
thủ nào miệt mài cố gắng luyện tập v{ thi đấu dù có những khiếm khuyết về kỹ thuật như
tốc độ bứt phá, khả năng sút bóng chính x|c… Những cầu thủ chịu khó chắc chắn sẽ tiến xa.
Cuộc đời con người cũng giống như vậy. Tài năng trời phú có thể khỏa lấp nhiều thứ, nhưng
dứt khoát không có chuyện cứ thiên tài là thắng được nỗ lực.
Lẽ dĩ nhiên, trong thế giới chuyên nghiệp không có chỗ đứng cho những cầu thủ mà trình
độ kỹ thuật và thể lực thua kém cả người bình thường. Nhưng, chủ trương của tôi là coi
trọng những người nỗ lực cho dù người đó có khiếm khuyết về năng lực. Quá trình nỗ lực
hàng ngày sẽ nâng cao khả năng kỹ thuật, cũng như tính người trong con người cầu thủ.
Giải vô địch quốc gia J- Ieague Nhật Bản có rất nhiều cầu thủ trẻ xuất sắc xuất thân từ các
đội bóng trường học. Họ là những cầu thủ được khán giả hâm mộ ngay từ lúc còn rất trẻ.
Nhưng tiếc là không ít cầu thủ trong số đó t{i năng bị mai một do kiêu ngạo, ch}y lười tập
luyện. Một khi trở nên tự cao tự đại thì người ta cũng thường không còn nỗ lực. Và thế rồi
chẳng mấy chốc t{i năng cũng mất theo.
Các cầu thủ trong đội Purple Sunga đều là các cầu thủ chuyên nghiệp ngay từ khi còn rất trẻ,
vì vậy người n{o cũng mong muốn trở th{nh ngôi sao. Tôi cũng cầu mong cho họ cố gắng
trở thành những cầu thủ tuyệt vời, thành ngôi sao nổi tiếng v{ đi tới đ}u cũng được khán
giả nhắc tới: “À, đó l{ ngôi sao của đội Purple Sunga đấy”.
Để được như vậy, bao giờ tôi cũng nghiêm khắc nhắc nhở các cầu thủ phải tập trung tinh
thần trong suốt 90 phút thi đấu.
CÓ DŨNG KHÍ CHÍNH TRỰC
Tinh thần tranh đấu l{ điều cần thiết trong cả thể thao lẫn cuộc đời. Nhưng, tinh thần mà tôi
nói ở đ}y kh|c hẳn với kiểu tranh đấu chống đối của những kẻ ương ngạnh. Người can đảm
thực sự l{ người biết lắng nghe ý kiến của người đi trước, của cấp trên, l{ người biết sửa
chữa khiếm khuyết và biết bù đắp những gì mà mình còn thiếu.
Người thực sự có tinh thần tranh đấu v{ can đảm l{ người bình thường thì rất lặng lẽ nhưng
có ý chí tranh đấu bất chấp hiểm nguy. Trong thể thao cũng như trong công việc, những
người biết lắng nghe, có tinh thần tranh đấu thực sự là những người sẽ tiến xa.
Về dũng khí theo nghĩa đó, tôi muốn kể một câu chuyện để các bạn tham khảo. Đó l{ c}u
chuyện về ông Oba Mitsuo - người đầu tiên trên thế giới một mình đơn độc chu du từ Bắc
cực tới Nam cực. Công ty Dainhidenden chúng tôi hân hạnh được cung cấp một số trang
thiết bị theo đề nghị của ông Oba khi ông đi xuyên qua Nam cực.
Trở về, ông Oba có đến chỗ tôi để c|m ơn sự hợp tác của công ty cho chuyến đi. Tôi có hỏi
ông: “Chắc ông phải mạo hiểm lắm trong suốt chuyến đi băng qua Bắc cực và Nam cực. Ông
thật sự là một người có dũng khí v{ lòng quả cảm”. Tức thì ông Oba đ|p: “Ông nhầm rồi. Tôi
không có được dũng khí như ông nói đ}u. Thực sự tôi là một kẻ nhút nh|t”.
Ông còn cho tôi biết thêm, phần lớn những thành viên hừng hực lòng quả cảm v{ dũng khí
của đội thám hiểm đều gặp thất bại giữa chừng. Ngược lại, số sống sót và trở về được đều là
những người như ông – nhút nhát và luôn sợ hãi.
Nghe chuyện ông kể, tôi nghĩ trong th|m hiểm, trong kinh doanh, trong nghiên cứu cũng
như nhau. Người đi được đến cùng chặng đường l{ người thận trọng, thận trọng đến mức
nhút nh|t, v{ l{ người chuẩn bị đầy đủ, tỉ mỉ nhất trước khi bắt tay vào bất cứ việc gì.
CÁI TÂM QUYẾT ĐỊNH GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
Bây giờ tôi muốn nói về việc mà tôi lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuốn s|ch n{y, cũng như
tôi đ~ nói r~ bọt mép với cả các cầu thủ đội Purple Sunga. Đó l{ gi| trị con người được quyết
định bởi cái tâm.
Cuộc đời đ| bóng của một cầu thủ nhiều lắm cũng chỉ kéo d{i đến tuổi ba mươi. Trong giới
bóng đ|, cầu thủ ngo{i ba mươi hầu như được liệt vào loại luống tuổi. Nhưng đối với cuộc
đời một con người thì ngo{i ba mươi cũng vẫn l{ đầu xanh tuổi trẻ. Gần đ}y, tuổi thọ của
người Nhật Bản ngày một tăng, nhiều người trên tám chục rồi mà vẫn khỏe mạnh.
Một cầu thủ bóng đ|, giải nghệ v{o lúc ngo{i ba mươi, nếu thọ đến t|m mươi tuổi thì có
nghĩa l{ còn phải sống năm chục năm nữa. Tôi không rõ các cầu thủ trong đội bóng Kyoto
Purple Sunga, cũng như c|c cầu thủ thể thao chuyên nghiệp, ý thức thế nào về cuộc sống
của mình trong tương lai. Nhưng, tôi muốn họ sau này phải luôn tự hào về một thời từng là
cầu thủ. Vì sao tôi lại nói như vậy? Bởi vì, tôi từng chứng kiến nhiều trường hợp ân hận,
những thành công quá sớm đ~ l{m hỏng toàn bộ qu~ng đời về sau của mình.
Ở Nhật Bản, một cầu thủ giỏi dù mới hai mươi tuổi, cũng đ~ nhận được những khoản lương
hậu hĩnh v{ những lời ca ngợi, tâng bốc. Mức thu nhập tối thiểu của họ là 10 triệu yên, loại
cao thì từ 30 đến 40 mươi triệu yên một năm.
Thu nhập cỡ từ 30 triện đến 40 triệu yên một năm thì chỉ có gi|m đốc c|c công ty h{ng đầu
Nhật Bản mới có thể có được. Vậy mà một cầu thủ mới ở độ tuổi hai mươi đ~ kiếm được
hàng chục triệu yên một năm, nếu bản thân anh ta không phải l{ người thật chín chắn hoặc
cha mẹ anh ta không quản lý giúp thì tôi e rằng chính số tiền đó sẽ làm hỏng cuộc đời anh ta
về sau.
Người có t{i đến mấy, có thu nhập cao gấp vài chục lần so với người cùng lứa tuổi nhưng
nếu cuộc đời hỏng thì t{i năng v{ thu nhập đó cũng trở nên vô nghĩa.
Vì thế, tôi muốn rằng những người có t{i năng trời phú thì càng phải suy nghĩ nghiêm túc về
“Cuộc đời l{ gì?” v{ “Lối sống của mình phải như thế n{o?”
DẤN THÂN ĐỂ THÀNH NGƯỜI
Các cầu thủ bóng đ| chuyên nghiệp thành công từ khi còn bé thường sống ra sao khi kết
thúc qu~ng đời cầu thủ?
Phần lớn các cầu thủ đều từ giã sân cỏ ở tuổi ngo{i ba mươi. Trừ một v{i người trở thành
huấn luyện viên, còn số đông thì mỗi người mỗi ngả. Người thì mở cửa hiệu buôn bán,
người thì xin vào làm việc trong các công ty.
Điều quan trọng nhất khi một cầu thủ trở về cuộc sống đời thường là gì? Dứt kho|t đó
không phải l{ t{i năng v{ th{nh tích trong bóng đ| của anh ta. Giả dụ anh ta từng là cầu thủ
siêu sao, nhưng một khi đ~ cởi giầy, nếu anh ta vẫn cứ sống trong tâm trạng của một siêu
sao thì cuộc đời anh ta chỉ có âm mà không thể l{ dương được. Không nói ra nhưng mọi
người đều thừa hiểu rằng t{i đ| bóng l{ một thứ vô ích trong cuộc sống đời thường. Điều có
nghĩa nhất đối với cuộc sống l{ nh}n c|ch. “Anh ta l{ người có nhân cách. Chúng tôi muốn
nhận anh ta vào làm việc…” – đó mới l{ điều quan trọng nhất.
Người kế tục tôi làm Chủ tịch Công ty Kyocera là Ito Ukensuke. Khi tôi còn làm ở phòng thí
nghiệm Công ty công nghiệp Sofu thì cậu ta là trợ lý. Ito tốt nghiệp trường cấp ba ở tỉnh
Okayama. Điều kiện làm việc của các trợ lý ở một công ty thua lỗ như Công ty công nghiệp
Sofu thì không thể có cảnh áo choàng trắng muốt, thiết bị hiện đại, phòng nghiên cứu sạch
bong như trợ lý ở c|c trường đại học. Cậu ta giúp tôi làm việc trong điều kiện phòng nghiên
cứu nhếch nhác, bụi bặm, thiết bị cái có cái không.
Đến tận giờ, tôi vẫn còn nhớ hồi đó vì công ty qu| nghèo nên không thể mua nổi thiết bị
mới. Ito suốt ngày phải đánh vật với cái máy dập thủ công cũ kỹ để làm linh kiện ti vi cung
cấp cho Công ty Hitachi. Người cậu nhỏ thó, phải dùng cả hai tay mới đủ sức đẩy cần dập
lên, rồi lại kéo mạnh nó xuống không khác gì cử tạ. Chưa đầy một tháng mà hai cánh tay cậu
cơ bắp nổi lên cuồn cuộn.
Lao động cơ bắp là công việc hàng ngày Ito giúp tôi. Một hôm cậu ta nói với tôi: “Em mới hết
lớp mười hai, nên muốn theo học đại học ban đêm để n}ng cao trình độ”. Lúc đó tôi mới
biết cậu ta đ~ thi v{ đủ điểm đỗ v{o trường đại học ban đêm Doshisha. Tôi khuyên: “Chẳng
cần phải học đại học đ}u. Cứ ở đ}y tôi dạy cho”. V{ Ito nghe tôi, không v{o đại học nữa. Từ
đó trở đi, Ito dấn thân vào công việc, phát huy mọi khả năng v{ trở thành một người có
những phẩm chất tuyệt vời.
Tổng số nhân viên ở Nhật Bản v{ nước ngoài của Công ty Kyocera l{ hơn 50 ng{n người.
Cán bộ trong Công ty phần lớn đều đ~ tốt nghiệp c|c trường đại học nổi tiếng ở Nhật Bản và
Hoa Kỳ. Tuy chỉ học hết lớp mười hai, nhưng Ito vẫn được mọi người kính trọng ở tư c|ch
của một người l~nh đạo. Trong Công ty Kyocera cũng có một số gi|m đốc các bộ phận quan
trọng, nhất là ở c|c nh{ m|y đóng ở địa phương, chỉ có trình độ văn ho| cấp hai.
Tại sao những người chỉ có trình độ học vấn hạn chế mà vẫn làm tốt công việc như vậy? Câu
trả lời của tôi là do họ có nhân cách. Có nhân cách tuyệt vời mới thu phục được mọi người,
mới đứng đầu được tập thể.
Vậy thì làm thế n{o để trở th{nh con người có nhân cách tuyệt vời như vậy? Lời giải đ|p rất
đơn giản. Đó l{, như tôi đ~ lặp đi lặp lại trong cuốn sách này, dấn thân vào công việc, âm
thầm nỗ lực v{ kiên trì đến cùng.
Nh}n c|ch con người chỉ hình thành và hoàn thiện thông qua nỗ lực, d|m đối diện v{ vượt
qua khó khăn, gian khổ một cách âm thầm. Nếu chỉ có đầu óc thông minh và tốt nghiệp đại
học danh tiếng không thôi thì chưa đủ.
Người nào từng trải qua gian khổ, từng làm việc cực nhọc người ấy chắc chắn sẽ trưởng
thành. Ở họ có sức hấp dẫn đặc biệt.
Vì thế, tôi luôn nhắc nhở các cầu thủ trong đội Pupre Sunga rằng: “Phải mang hết sức mình
khi luyện tập hay khi làm bất cứ việc gì. Lúc ban đầu có thể chưa ai biết tới, nhưng nếu nỗ
lực thì 5 năm sau, m{ có thể 10 năm sau người ta mới biết. Có thể không thành siêu cầu thủ
nhưng chắc chắn sẽ nên người. Và chắc chắn sẽ th{nh công khi ra đời làm việc.
NGƯỜI GIỎI BỎ ĐI NGƯỜI CHẬM Ở LẠI
Kể từ khi thành lập Công ty Kyocera, tôi tuyển rất nhiều nhân viên mới vào làm. Thời kỳ
đầu, nhiều người giỏi tôi muốn nhận về thì chẳng thấy ai nộp đơn. Thi thoảng lắm mới có
một vài thanh niên có vẻ thông minh, lanh lợi tìm đến. Qua thực tế làm việc với những nhân
viên này, tôi rất kỳ vọng ở họ. Nhiều lần tôi nghĩ: “Cậu này tháo vát nhanh nhẹn đúng như
mình mong muốn. Sau này có khả năng giao phó công ty cho cậu ta được. Hoặc cứ với đ{
này thì cậu ta chẳng mấy chốc sẽ trở thành chuyên gia kỹ thuật tầm cỡ đ}y”.
Ngược lại, nhiều nhân viên mới rất châm chạp, đầu óc thì chẳng có vẻ gì sáng dạ cả. Hướng
dẫn hay chỉ thị mãi cho họ thì cũng giống như nước đỗ đầu vịt vậy. Nhiều khi tôi nghĩ thầm:
Những nhân viên này khó mà tiến bộ được.
Khổ nỗi, những nhân viên thông minh, nhạy bén m{ tôi đặt nhiều hy vọng, sau một v{i năm
làm việc là bỏ đi mất. Muốn giữ chân họ lại nhưng chỉ nhận được câu trả lời của họ là:
Không nhìn thấy triển vọng ở Công ty Kyocera.
Còn những nh}n viên đầu óc chậm chạp, kém nhạy bén thì chẳng một người nào bỏ Công ty
đi cả. Họ ở lại và làm việc rất chăm chỉ. Mỗi khi nhìn họ lẳng lặng làm việc, tôi lại nghĩ: “Chắc
không chỗ nào nhận vào làm cả nên mới ở lại với mình…”
Từ thực tế đó, tôi nhiều khi nghĩ l{ Công ty Kyocera khó phát triển được vì người tài không
thèm tới, họ mà có tới thì sau dăm bữa nửa thánh lại bỏ đi…
ĐẶC TÍNH KHIẾN NGƯỜI BÌNH THƯỜNG TRỞ THÀNH PHI
THƯỜNG
Tuy nhiên, nhìn lại chặng đường 40 năm, những nhân viên hồi đó có vẻ chậm chạp thì trên
thực tế họ đ~ trở thành các cán bộ l~nh đạo tuyệt vời. Nhờ đức tính cần cù và kiên trì công
việc trong suốt chặng đường dài, giờ đ}y họ đ~ trưởng thành và trở thành những con người
ưu tú.
Tôi cảm thấy xấu hổ vì một thời đ~ nghĩ sai về họ. Tôi thành tâm xin lỗi.
Hiện nay, trong Công ty Kyocera có rất nhiều người giỏi từng tốt nghiệp c|c trường đại học
h{ng đầu đang l{m việc. Nhưng đồng thời, trong số các cán bộ giữ cương vị trọng trách
cũng có không ít người chỉ mới tốt nghiệp phổ thông. Những người n{y, đều rất con người.
Họ đứng trên tuyến đầu, xả thân trong công việc, dẫn dắt Công ty đi lên. Có thể nói: Kiên trì
biến người bình thường thành phi thuờng.
Trong tất cả c|c lĩnh vực, những người được coi l{ danh nh}n, để đạt được điều đó tôi chắc
rằng người nào trong số họ cũng đều âm thầm nỗ lực, bền bỉ nỗ lực. Trên thế gian, những
người t{i năng, thông minh, nhậy bén, l{m gì cũng th{nh công thì rất hiếm. Chỉ có những
người không bao giờ chán nản, dành cả đời bền bỉ kiên trì theo đuổi một mục tiêu thì người
đó mới được xã hội tôn vinh là danh nhân.
CÓ CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC SỰ KHIỂN TRÁCH KHÔNG?
Nếu không dấn thân và rèn luyện trong một hoạt động cụ thể n{o đó thì người ta không thể
trưởng th{nh lên được. Dấn thân và rèn luyện có nghĩa l{ nếm trải gian nan vất vả, không
chùn bước, kiên trì nỗ lực. Trong con người n{o cũng vậy, khi bắt tay vào một việc gì đó thì
cũng có lúc gặp tâm trạng chán nản, muốn bỏ cuộc. Nếu vượt qua được tâm trạng đó, rèn
luyện khả năng chịu đựng thì mới tu dưỡng được th{nh người. Có thế thì mới không bị ám
ảnh bởi thứ hào quang nhất thời như trong thể thao, mới được cuộc đời chấp nhận.
Không chỉ riêng cầu thủ bóng đ| thuộc J-Ieague, mà hầu như c|c cầu thủ thể thao chuyên
nghiệp - kể cả những người có thu nhập h{ng năm từ 30 đến 40 triệu yên - đều buộc phải từ
giã sự nghiệp thi đấu ở tuổi ngoài 30. Những cầu thủ đó đi l{m ở các công ty, nếu l{m được
việc thì có lẽ lương cao lắm cũng chỉ khoảng 200 ngàn yên một tháng, và còn hay bị sếp
khiển trách nữa. Trong hoàn cảnh đó, nếu l{ người vốn quen với việc được tâng bốc, ca
ngợi, lòng tự ái lại cao gấp đôi người bình thường v{ chưa từng nếm mùi vất vả lúc trẻ - thì
thường bỏ việc. Họ đến công ty kh|c cũng lại gặp hoàn cảnh tương tự. Họ chẳng l{m được
trong công ty nào cả.
Nếu l{ người tu dưỡng được nhân cách khi còn là cầu thủ thì dù phải làm việc trong hoàn
cảnh như vậy họ vẫn có thể chịu đựng được. Bất cứ việc gì họ cũng sẽ không nề hà miễn là
có thể l{m được. Với nh}n c|ch như vậy họ sẽ được lòng tin với mọi người xung quanh kể
cả với cấp trên. Và nếu họ dấn thân, tận tuỵ trong công việc thì công ty cũng đ|nh gi| cao v{
sẽ được cất nhắc vào những chức vụ quan trọng.
Trường hợp những người tự đứng ra gây dựng sự nghiệp – vì chẳng tội gì lại chui vào làm ở
công ty bé tẹo với đồng lương còi cọc - thì sự thể sẽ ra sao? Ví dụ như định mở nhà hàng
chẳng hạn. Sẽ không thể thành công nếu con người chưa ho{n thiện. Để kinh doanh nhà
h{ng thì trước hết phải biết cúi đầu tỏ lòng trọng thị khách hàng. Dù bận rộn đến mấy, cũng
phải luôn tươi cười, phải luôn đ|p ứng trước bất kỳ đòi hỏi nào của thực khách. Ngoài ra,
còn phải vào bếp tự rửa bát, rửa đĩa để tiết kiệm chi phí nữa.
Đối với những người từng một thời sống trong hào quang thì thật khó có thể cúi đầu trước
khách hàng hay rửa đống b|t đũa bẩn thỉu. Tuy vậy, nếu l{ người đ~ từng nếm đủ mùi gian
khổ, đ~ từng gặp nghịch cảnh và hoàn thiện nhân cách ngay từ trẻ thì chắc chắn người đó sẽ
dứt bỏ được ám ảnh của quá khứ hào quang và tiếp tục nỗ lực hết mình trong hoàn cảnh
mới.
Do đó, tôi thường xuyên nhắc nhở các cầu thủ Purple Sunga rằng: sau khi giã từ cụôc đời
cầu thủ, bước vào những năm th|ng d{i của cuộc sống đời thường thì phải l{m sao để người
n{o cũng có thể tự tin và dõng dạc tuyên bố: “Tôi đ~ trưởng thành về nhân cách trong thời
kỳ là cầu thủ”. Tôi muốn Purple Sunga phải trở th{nh đội bóng được xã hội thừa nhận. Ngay
cả sau này – khi đ~ chấm dứt sự nghiệp cầu thủ, có trở thành nhân viên công ty hay chủ
kinh doanh nh{ h{ng thì cũng phải là những người đi đ}u cũng được xã hội chấp nhận và
quý mến. Đó cũng là trách nhiệm của tôi – trách nhiệm của những người nuôi dưỡng lớp
trẻ.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC QUAN TÂM ĐẾN NGUỜI KHÁC.
Tôi đ~ nói nhiều về việc: Có thể thay đổi được số phận tuỳ theo tư tưởng và nỗ lực của bản
thân, có thể thay đổi số phận – dù rằng bị những nỗi bất hạnh đeo đuổi – theo chiều hướng
tốt nhờ nghĩ điều thiện v{ l{m điều thiện.
Vậy, thế n{o l{ điều thiện?
Trong ngôn ngữ có hai từ “ích kỷ” v{ “vị tha”. người ích kỷ l{ người chỉ cần có lợi, chỉ cần tốt
cho riêng mình l{ được, còn người kh|c ra sao cũng mặc.
Từ “vị tha” tr|i nghĩa với từ “ích kỷ”. Người có tấm lòng vị tha l{ người khi làm bất cứ điều
gì cũng nỗ lực vì người khác chứ không phải chỉ để thỏa mãn dục vọng của mình. Ví dụ, có
người cầu Trời khấn Phật để mong sao thực hiện được những ước vọng c| nh}n. Đ}y l{
hành vi tự lợi tức là chỉ cầu mong thực hiện mục đích riêng. Tôi thấy đó cũng l{ điều bình
thường. Nhưng, cũng l{ mong ước nếu tiến bộ hơn một chút thì nó sẽ l{ “Mong sao mẹ tôi
chóng khỏi bệnh.” Đ}y l{ cầu mong cho người thân, gần với nghĩa vị tha hơn. Ngo{i ra, còn
những mong ước mang tính vị tha sâu sắc hơn như: mong ước những điều tốt lành cho bạn
bè, cho tập thể, cho xã hội, cho đất nước và cho nhân loại.
Nếu đối tượng mong ước mở rộng ra như vậy thì là những mong ước vì người khác chứ
không phải chỉ mong uớc cho bản th}n. Khi đó, mong ước đ~ tiến gần tới vị tha. Giả dụ:
Thay vì mong ước cho mình “trở nên gi{u có” hoặc “dồi dào sức khỏe” thì h~y mong ước
cho “ho{ bình trên to{n thế giới”.
Tôi hy vọng các bạn trẻ hiểu rõ tầm quan trọng của lòng vị tha.
NGƯỜI CÕI ĐỊA NGỤC NGƯỜI CÕI CỰC LẠC
Trong cuộc sống hàng ngày, mọi h{nh động của chúng ta thường nhắm tới hơn thiệt, thắng
thua. Bị tính ích kỷ chi phối nên chúng ta chỉ tính toán những điều có lợi cho mình.
Nếu thế gian toàn là những người như vậy – như x~ hội Nhật Bản những năm gần đ}y – thì
dù có gi{u có sung túc đến mấy rồi cũng sẽ điêu t{n. Để thế gian ngày một tốt hơn, tôi
thường nói với mọi người: “Chẳng phải đ~ tới lúc chúng ta phải coi trọng lòng vị tha, phải
sống vì mọi người dù bản thân có thiệt thòi…”
Tấm lòng quan tâm tới người khác, tấm lòng vị tha quan trọng đến mức n{o? Đức Phật đ~
thuyết giảng điều đó một cách dễ hiểu thông qua câu chuyện sau đ}y.
Ở chùa nọ, có một nhà tu hành trẻ tuổi là Vân Thủy. Một hôm, Vân Thuỷ hỏi vị sư gi{ trụ trì
chùa:
“Thưa thầy, con nghe nói có cõi cực lạc v{ cõi địa ngục. Điều đó có thật không ạ? Và những
cõi đó l{ nơi như thế n{o?”
Vị sư gi{ đ|p: “Có thật đấy con ạ. Chỉ có điều hai nơi đó không kh|c nhau lắm như con tưởng
đ}u. Tho|ng nhìn thì cõi cực lạc v{ cõi địa ngục là hai thế giới hoàn toàn giống nhau. Điểm
khác nhau duy nhất là tấm lòng của những người sống ở đó. Những người sống ở cõi địa
ngục là những người ích kỷ chỉ nghĩ về bản thân. Còn ở cõi cực lạc là những người có tấm
lòng vị tha, luôn quan tâm tới người kh|c.”
Vân Thuỷ thắc mắc: “Chỉ khác nhau ở tấm lòng m{ cũng phải chia thành hai cõi, thế là thế
nào ạ?”
Để giải đ|p, sư l~o kể cho Vân Thủy câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có một nồi mỳ mạch – udon (1) - để giữa nh{. B|t nước chấm để bên cạnh. Mỳ Mạch là món
ăn thịnh soạn với những người khổ tu như V}n Thủy. Bên cạnh nồi mỳ để sẵn những đôi
đũa d{i tới 1 mét. Quy định của nhà bếp là chỉ được ăn bằng loại đũa đó v{ phải dùng đầu
đũa để gắp mỳ, chấm vào bát nước chấm. Đến đoạn này thì cả cõi địa ngục và cõi cực lạc đều
y hệt nhau. Kích cỡ nồi, số người ăn vẫn vậy. Chỉ có tấm lòng của những người ở đó l{ kh|c
nhau.
“N{o con thử tưởng tuợng xem điều gì sẽ xảy ra ở đó?”
Mọi người đang đói. Có mỳ trước mặt. Chuyện gì sẽ xảy ra khi họ được phép bắt đầu bữa ăn.
Những người ở cõi địa ngục lập tức tranh nhau gắp mỳ, tranh nhau chấm v{o b|t nước
chấm. Khổ nỗi, đũa d{i qu| nên không sao đưa udon v{o miệng mình được. Cảnh thê thảm
hiện ra. Kết cục l{ không ai ăn được miếng nào trong khi mỳ rơi vương v~i quanh m}m.
Những người ấy trở thành quỷ đói chỉ còn da bọc xương.
Trong khi đó, những người đầy lòng vị tha sống ở cõi cực lạc. Tiếng mời mọc vang lên: “N{o,
chúng ta ăn chung nhé.”, “Xin mời, xin mời”. Mọi người nhường nhau, lần lượt gắp mỳ, chấm
nước chấm v{ đưa v{o miệng người đối diện. Người đối diện ăn xong: “C|m ơn. Tôi đủ rồi.
Đến lượt tôi giúp b|c ăn”. Cứ thế mọi người hợp sức, nhường nhịn lẫn nhau, ai cũng được
ăn v{ không sợi mỳ n{o vương v~i rơi ra ngo{i.
“Khung cảnh cõi cực lạc l{ như thế đấy. Nhưng nếu chỉ nhìn bề ngoài thôi thì khó phân biệt
được đ}u l{ cõi địa ngục v{ đ}u l{ cõi cực lạc.” Vị sư gi{ giảng bài cho Vân Thuỷ.
Tuy cùng một sự việc nhưng mang lại kết quả khác nhau tuỳ theo “t}m” được thể hiện qua
câu chuyện. Chúng ta, có thể xây dựng một xã hội tốt đẹp nếu tất cả chỉ có lòng vị tha, quan
tâm lẫn nhau.
---------
1. Udon: một loại mỳ làm bằng lúa mạch.
SUY NGHĨ NHẤT ĐỊNH THÀNH HIỆN THỰC
Xã hội hiện nay tràn ngập các loại hàng hóa tiện lợi như ô tô, đồ điện gia dụng, m|y tính…
Những sản phẩm do tiến bộ khoa học kỹ thuật mang lại. Tư duy xuất phát từ những khao
khát của con người – “muốn được như thế kia” hoặc “có nó thì tiện qu|” – đ~ mang lại văn
minh vật chất như vậy. Chẳng phải l{ văn minh vật chất bùng nổ và phát triển khiến xã hội
lo{i người trở nên mất thăng bằng v{ sa đọa đó sao? Nếu đúng như vậy thì cần phải phát
triển văn minh tinh thần - thứ văn minh có gốc rễ ở thiện tâm - để điều hoà và làm cho xã
hội tốt hơn.
Mọi người điều biết chân lý: Thiện tâm sẽ mang đến kết quả tốt. Có một câu ngạn ngữ Trung
Quốc: “Tích thiện dư phúc”. Những người thiện t}m, luôn l{m điều thiện thì nhất định sẽ
hạnh phúc. Có phúc do tích t}m đức. Lời khuyên đó được truyền từ đời n{y sang đời khác
bởi vì từ xa xưa, con người đ~ biết rõ thiện tâm sẽ mang đến kết quả tốt.
Tuy nhiên, nếu nhìn v{o “tư duy xuất phát từ dục vọng” đ~ tạo nên văn minh vật chất hiện
nay thì có thể thấy người ta thiếu hẳn ý thức về thiện tâm. Bởi vì, để có kết quả tốt từ ý nghĩ
tốt cần cả một khoảng thời gian dài. Có khi là một tháng, hai tháng sau, có khi là một năm,
hai năm sau v{ cũng có khi l{ 10 năm sau hoặc 20 năm sau. Tức là có sai lệch về thời gian
giữa giai đoạn “nghĩ điều tốt, l{m điều tốt” v{ giai đoạn “đem lại kết quả tốt”.
Trong khi đó, với tư duy xuất phát từ dục vọng đ~ tạo nên văn minh vật chất thì người ta dễ
nhận thấy vì nó có mục tiêu cụ thể và kết quả một cách cụ thể. Do đó, trong suốt một thời
gian dài, nhu cầu hoạt động tinh thần thuần tuý bị xem nhẹ nếu đem so với văn minh vật
chất.
May mắn thay, thế hệ trẻ đang suy nghĩ lại về tầm quan trọng của văn minh tinh thần - một
khái niệm khó cảm nhận – thông qua các hoạt động xã hội như bảo vệ môi trường, hoạt
động từ thiện… Tôi rất vui mừng vì xu hướng đó mở ra tương lai tươi s|ng cho nh}n loại.
THIỆN TÂM VÀ Ý CHÍ CỦA VŨ TRỤ
Tôi cho rằng thiện tâm – hay nói cách khác là tấm lòng quan tâm tới người khác - sẽ đưa x~
hội lo{i người đến một viễn cảnh tốt hơn. Nói theo c|ch kh|c nữa thì thiện tâm là tinh thần
tất cả vì xã hội, vì mọi người. Thực hiện hàng ngày những việc vì người khác còn là việc phát
huy bản chất con người. Bời vì, con người vốn có khả năng hướng thiện, lựa chọn hành
động vì mọi người, muốn giúp ích cho người khác. Và tôi cho rằng vũ trụ cũng tr{n đầy tấm
lòng vị tha, tr{n đầy tình thương yêu.
Vũ trụ ra đời c|ch đ}y 130 tỷ năm. Lúc đó, vũ trụ chỉ là một khối vật chất nóng bỏng, nén
chặt nhỏ bằng nắm tay. Khối vậy chất nén chặt gây ra một vụ nổ lớn và trở th{nh vũ trụ như
ng{y nay. V{ theo như giả thuyết mới nhất của ngành vật lý vũ trụ thì vũ trụ vẫn đang tiếp
tục giãn nở. Lo{i người chúng ta sinh ra và hiện đang sống trong vũ trụ n{y. Trong vũ trụ,
các hạt cơ bản kết hợp với nhau tạo thành nguyên tử. V{ đến lượt các nguyên tử hợp với
nhau tạo thành phân tử, đại phân tử. Rồi xuất hiện các phân tử hữu cơ hợp thành tế bào.
Những tế bào ngày một phức tạp, có khả năng di truyền tạo ra sự sống. Sự sống trải qua
nhiều quá trình tiến hoá mới xuất hiện loài ngừơi. Nếu như hạt cơ bản cứ giữ nguyên là hạt
cơ bản… Hay nếu như nguyên tử cứ giữ nguyên là nguyên tử… thì không biết nhờ những
nguyên nhân bí ẩn nào, tất cả mọi thứ đều sinh thành, phát triển và tiếp tục phát triển cho
tới khi xuất hiện lo{i người.
Tôi nghĩ có một thứ “nguyên khí” đẩy vạn vật theo chiều hướng tốt tràn ngập vũ trụ. Hoặc
trong vũ trụ vạn vật quấn quýt nhau, v{ tr{n đầy một năng lực như tình yêu thương, dẫn
đường cho vũ trụ sinh hoá và trở nên tốt lành.
Nhìn lại qu| trình hình th{nh vũ trụ, mặc dù người ta gọi vũ trụ là vô thức nhưng rõ ràng là
có quy luật vận động theo chiều hướng tốt. Có lẽ đó l{ ý chí của vũ trụ.
Kết luận của tôi sau bao trăn trở, suy nghĩ v{ tìm kiếm là chỉ khi n{o tư duy v{ h{nh động
trong con người phù hợp và thích ứng hoàn toàn với ý chí của vũ trụ và tất cả đều tiến hoá
theo chiều hướng tốt thì mọi việc đều trôi chảy. Nếu chúng ta đi ngược lại với ý chí của vũ
trụ như chỉ muốn tốt cho riêng mình, còn mặc kệ mọi người xung quang thì mọi việc đều
trục trặc.
Do đó, chúng ta phải nỗ lực sao cho mọi người đều có lòng vị tha, xã hội tr{n đầy tình
thương yêu.
MỤC ĐÍCH CUỘC ĐỜI LÀ DƯỠNG TÂM
Chắc các bạn cũng giống như tôi, thời trẻ ai cũng vẽ ra hình ảnh lý tưởng cho cuộc đời mình:
N{o l{ “mình sẽ sống thế n{y”, n{o l{ “mình sẽ th{nh người thế kia trong tương lai”
Với tôi, khi đang l{ sinh viên Đại học Kagoshima, tôi mong muốn trở thành chuyên gia kỹ
thuật h{ng đầu. V{ tôi cũng đ~ từng mơ được nhận giải Nobel cho những phát minh tuyệt
vời.
Kể từ khi lập Công ty Kyocera, tôi luôn nỗ lực và bằng mọi cách biến nó thành một công ty
tầm cỡ, điều kiện làm việc tốt và mọi người đều hăng say lao động. Thật may mắn, tôi đ~ gặt
hái thành công trên cả hai phương diện là chuyên gia kỹ thuật và doanh nhân.
Tuy nhiên, đến một lúc n{o đó thì tôi cũng sẽ từ gi~ cõi đời. Con người không thể mang theo
được chút gì sang thế giới bên kia. Công ty Kyocera sẽ ra sao? Công ty KDDI sẽ ra sao? Tổ
chức Quỹ Inamori sẽ ra sao? Tất cả những thứ tôi phải vất vả tạo lập sẽ ra sao? Vì cái gì mà
tôi làm việc hết mình như vậy?
Mục đích của cuộc đời là gì?
Như tôi đ~ nhiều lần đề cập, mục đích cuộc đời tôi l{ l{m sao nuôi dưỡng tâm hồn mình tốt
được chút n{o hay chút đấy, chứ không phải nhằm mục đích có được địa vị, danh tiếng, tiền
bạc. Và việc đó cũng phù hợp với ý chí của vũ trụ m{ tôi đ~ nói tới khi nãy.
Chỉ riêng việc được sống trên thế gian n{y đ~ không phải là ý chí của bản thân tôi. Và trong
cuộc đời hơn 70 năm qua, tôi gặp biết bao hoạn nạn cũng như được hưởng biết bao hạnh
phúc. Một lần nữa tôi nhận thấy, mục đích cuộc đời tôi l{ đối đầu với thử th|ch, nuôi dưỡng
tâm hồn, làm tâm hồn thêm cao thượng.
PHÁT HUY THIỆN TÂM - BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Tôi muốn thế kỷ 21 là thế kỷ m{ con người phải ý thức rõ rệt hơn nữa về “thiện t}m”. D}n
tộc Nhật Bản vốn là dân tộc có truyền thống nuôi dưỡng tinh thần hào hiệp vì mọi người.
Khí hậu Nhật Bản với bốn mùa thay đổi phong phú, không có vùng sa mạc khô cằn cũng như
vùng băng tuyết giá lạnh. Người Nhật Bản sống trong điều kiện thiên nhiên ôn ho{, hưởng
ân huệ, phúc lộc từ núi non, biển cả. Hơn nữa, được đại dương bao bọc nên Nhật Bản hầu
như tr|nh được các cuộc chiến tranh với các dân tộc khác. Tôi cho rằng tinh thần hiền hoà
của người Nhật Bản được tạo nên bởi thiên nhiên phong phú và lịch sử như vậy.
Trong thảm hoạ động đất Hanshin (1), hình ảnh những người bị nạn giúp đỡ, san sẻ cho
nhau, hình ảnh những thanh niên tình nguyện tham gia các hoạt động cứu trợ… đ~ l{m cả
thế giới thán phục. Đó l{ biểu hiện của tinh thần Nhật Bản - truyền thống tương th}n, tương
ái.
Bước vào thế kỷ 21, văn minh vật chất vẫn tiếp tục lấn tới mạnh mẽ. Cần phải phát triển
hơn nữa văn minh tinh thần dựa trên cơ sở thiện t}m, sao cho không để bị những tiến bộ
của văn minh vật chất lấn át. Trong quá trình tiến hoá của văn minh tinh thần trên thế giới,
tôi tin rằng người Nhật Bản - với truyền thống tuyệt vời của mình - nhất định có vai trò
quan trọng. Nếu chúng ta - người Nhật Bản - sống có thiện t}m, đi đầu trong việc tạo ra một
xã hội tốt đẹp thì nhất định sẽ được cả thế giới kính trọng.
-------------1. Trận động đất lớn xảy ra ngày 17 th|ng Giêng năm 1995, g}y thiệt hại nặng nề v{ cướp đi
sinh mạng của hơn 5.500 người vùng phía nam tỉnh Huogo và nhất là thành phố Kobe, Nhật
Bản.
----------
MONG SAO NHẬT BẢN LÀ SOHOUKA TRÊN THẾ GIỚI
Trước đ}y, tôi được mời tham gia vào dự án cải cách hành chính Nhật Bản. Tôi đ~ từng giữ
chức chủ tịch một uỷ ban nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản trên thế giới. Kể từ đó, tôi chỉ
mong sao Nhật Bản trở thành một đất nước được các dân tộc khác thực sự kính trọng. Hình
ảnh cụ thể về một nước Nhật Bản như thế ở tôi là hình ảnh của những người được gọi là
sohouka trong các làng xóm, thị trấn ng{y trước.
Sohouka là những người như thế nào? Lẽ dĩ nhiên, họ không phải là những người có chức
vụ công, làm công việc h{nh chính. Người nắm quyền lực chính trị tuơng đương với chức
trưởng thôn, trưởng x~ như ng{y nay l{ c|c vũ sĩ với chức danh daikan (thế quan) hay
shouya.
Sohouka là những người không có bất cứ quyền lực v{ địa vị nào ở địa phương đó. Nhưng
nhân cách và lòng bao dung ở họ khiến cho họ là những “l~nh tụ” trên thực tế. Sohouka là
những người có chút ít tài sản, có học thức, được gi|o dưỡng và nhất l{ có nh}n c|ch. Người
trong vùng, bất cứ gặp hoạn nạn gì cũng tìm tới sohouka để được bàn bạc, khuyên bảo. Và
sohouka còn giúp đỡ cho những người nghèo khó trong vùng cả về vật chất và tinh thần.
Mặc dù có ảnh hưởng lớn tới d}n chúng như vậy, song sohouka không bao giờ tỏ ra quyền
thế, hách dịch.
Tôi muốn Nhật Bản từ nay về sau, được người ta biết đến không phải chỉ là một cuờng quốc
kinh tế nhiều tiền lắm của, cũng không phải như một con sen đầm có sức mạnh quân sự mà
l{ đất nước có vai trò như sohouka đầy lòng vị tha trên thế giới. Nếu được như vậy, thì Nhật
Bản chắc chắn sẽ được các dân tộc khác tôn trọng thực sự. Tôi vẽ nên viễn cảnh này, lý
tưởng này và tôi mong sao những người thực hiện viễn cảnh đó, lý tưởng đó chính l{ c|c
bạn trẻ, những người đang đọc cuốn sách này.
Từ những trang đầu tiên của cuốn sách, tôi luôn nói rằng suy nghĩ của bạn nhất định thành
hiện thực. Tôi mong rằng các bạn hãy tin lời tôi, h~y mang trong lòng ước muốn cao cả và
hãy nỗ lực quên mình. L{m được như thế, tôi chắc rằng các bạn sẽ có cuộc đời tuyệt đẹp.
Từ đ|y lòng, tôi cầu chúc cho các bạn trẻ - những người g|nh v|c đất nước trong tương lai -sức khỏe và tinh thần hăng hái.
Cho phép tôi dừng bút ở đ}y.
LỜI BẠT
KANDA YOSHINOB
GS giáo dục học Đại học Kagoshima, Nhật Bản
Đ}y l{ cuốn sách nói về lẽ sống của con người mà tác giả của nó đ~ viết bằng cả tấm lòng,
với mong muốn truyền sinh khí và sức mạnh tâm hồn cho tầng lớp thanh thiếu niên Nhật
Bản. Tác giả mong muốn lớp trẻ, nhất là những người đang lưỡng lự, ph}n v}n trước
ngưỡng cửa cuộc đời sẽ đọc cuốn sách này. Cuốn s|ch n{y đề cập việc con người có khả
năng ph|t triển tuyệt vời nếu có ước mơ, ho{i b~o v{ nỗ lực để thực hiện những gì mình ấp
ủ”.
Từ thuở thiếu thời, tác giả cuốn sách – ông Inamori – đ~ gặp biết bao thử thách và thất bại,
nhưng bằng những nỗ lực và thành công của mình, ông thuyết phục độc giả rằng: nuôi
dưỡng tâm hồn là mục đích tối hậu của cuộc đời; những thử thách và thất bại cũng đồng
thời là sức bật; và chính những gian truân, khổ cực sẽ mang lại khả năng to lớn cho sự phát
triển của con người. Là một doanh nh}n th{nh đạt, ông đ~ x}y dựng công ty của mình thành
một công ty tầm cỡ thế giới v{ đ~ đóng góp những cống hiến tích cực mang tính nh}n văn
cho xã hội trên nhiều lĩnh vực.
Việt Nam đang trên con đường phát triển đất nước trở nên giàu mạnh, xây dựng xã hội
công bằng, văn minh v{ d}n chủ. Tôi nghĩ rằng các bạn Việt Nam có thể tham khảo được
nhiều điều bổ ích trong c|ch suy nghĩ của ông Inamori, nhất là chủ đề mà tác giả muốn trình
b{y: nh}n c|ch con người có vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế của
đất nước. Nếu chỉ gi{nh được độc lập dân tộc m{ chưa ph|t triển tự cường về kinh tế thì
cũng vẫn chưa có nền độc lập thực sự. Phát triển tự cường về kinh tế cũng l{ vấn đề chung
của c|c nước đang ph|t triển.
Tuổi trẻ mang cái tôi thuần khiết trong lòng, không so đo tính to|n thiệt hơn cho riêng
mình. Với c|i tôi đó, ước mơ v{ hy vọng trong tương lai cũng hiện ra thật thuần khiết. Tác
phẩm Ước mơ của bạn nhất định trở thành hiện thực muốn đề cập đến tầm quan trọng của
tính người, năng lực hướng thiện trong con người.
Xuất phát từ mục đích khắc phục bệnh tự kỷ trung tâm, cuốn sách trình bày những suy nghĩ
trong mối liên quan với quá trình phát triển nh}n c|ch. Đối với trẻ em, vui chơi l{ công việc
hết sức quan trọng. Qu| trình vui chơi trẻ em là quá trình mà khả năng gắn kết ràng buộc
mang tính nhân bản được rèn luyện một cách tự nhiên. Theo ông J.Piaget, nhà tâm lý học
nổi tiếng trên thế giới, thì thông qua vui chơi, trẻ em hình thành các mối quan hệ con người
một cách tự ph|t. Đồng thời các nền tảng đạo đức như tính nhường nhịn, quan t}m đến
người kh|c cũng được hình thành trong trẻ em
Khi viết Ước mơ của bạn nhất định thành hiện thực, tác giả Inamori không tuyệt đối hoá
những khát vọng c| nh}n, cũng như không khẳng định rằng bất cứ ước muốn nào của con
người cũng sẽ trở thành hiện thực. Trong quá trình phát triển của trẻ em, có một thời kỳ
không thể tránh khỏi là việc trẻ em suy nghĩ theo hướng tự kỷ trung tâm. Vì lẽ đó, ông đề
cập tới việc thanh thiếu niên vừa phải nỗ lực dưỡng tâm, vừa phải có ý chí thực hiện hoài
bão của mình. Việc nỗ lực dưỡng t}m được biểu hiện qua những h{nh động như: không chỉ
nghĩ tới bản thân mà còn phải luôn nghĩ tới người khác, giữ lời hứa và không lừa dối…
Tác giả đề cập nhiều về khái niệm “nỗ lực”. Nỗ lực theo quan niệm của ông không hề là việc
“nhắm mắt tuân phục sự chỉ bảo của người khác và cố gắng làm theo”. Ông muốn đề cập về
quan niệm nỗ lực trên tinh thần tự do, độc lập, tự tôn v{ đầy tính sáng tạo. Ông vốn là một
nhà kỹ thuật nhưng luôn cởi mở tấm lòng v{ đ~ l{m việc quên mình để chế tạo những sản
phẩm có tính bước ngoặt trong lịch sử kỹ thuật để cống hiến cho nhân loại. Đối tượng mà
nỗ lực của của ông hướng tới là tinh thần sáng tạo trong lao động và khao khát cống hiến
cho xã hội.
Ông cho rằng ở Nhật Bản, giáo dục nh{ trường không ph|t huy được năng lực sáng tạo độc
đ|o v{ c| tính của học sinh. Nh{ trường Nhật Bản loại bỏ và không dung nạp những học
sinh thiếu ý thức về “trật tự tập thể” v{ chỉ thừa nhận những học sinh có khả năng học
thuộc lòng. Với suy nghĩ của ông, lẽ ra nh{ trường phải l{ nơi dạy cho học sinh phải học đầu
tiên về cung cách làm người.
Ông chỉ ra rằng trình trạng thiếu “khả năng tự kiềm chế dục vọng và cảm xúc” ở thanh thiếu
niên chính là sản phẩm của văn minh vật chất. Ông nhấn mạnh, trẻ em vốn rất đa dạng, cá
tính kh|c nhau, năng lực khác nhau, tình cảm yêu ghét khác nhau và người lớn phải tôn
trọng sự khác biệt đó. Trong bối cảnh “chiến tranh thi cử”, Nhật Bản đ~ thực hiện việc giáo
dục đồng nhất.
Ông đòi hỏi người làm công tác giáo dục phải tôn trọng những đứa trẻ có c|ch nghĩ kh|c với
thói thường, những đứa trẻ có cái nhìn độc đ|o v{ phải thấy hết tầm quan trọng của những
ý tưởng của trẻ em khác biệt với những điều chúng được dạy dỗ. Tất cả những điều này là
khuyến nghị của Inamori đối với nền giáo dục Nhật Bản hiện nay.
Tinh thần độc lập, tự tôn có vai trò to lớn để phát triển đất nước trong quá trình hiện đại
hóa ở Nhật Bản. Trên đồng tiền có mệnh giá lớn nhất - đồng 10.000 yên - của Nhật Bản có in
hình của Fukuzawa Yukizawa (1835 – 1901), nhà giáo dục nổi tiếng thời Cận đại. Ông là
người có vai trò quan trọng trong cuộc hiện đại hoá Nhật Bản với các tác phẩm Khuyến học
(1), l{ người đ~ th{nh lập trường đại học tư thục Keiyo. Tôi được biết cuốn Khuyến học
cũng đ~ được chuyển ngữ sang tiếng Việt. Mong bạn đọc Việt Nam tham khảo.
Ở Nhật Bản, nếu như trong buổi đầu tiên của công cuộc hiện đại hóa dưới thời Minh Trị có
ông Shibuzawa Eiichi (1840 – 1931) - một doanh nhân tiêu biểu cho tinh thần độc lập tự
tôn và vì ích lợi cộng đồng thông qua các hoạt động kinh tế cụ thể như lập ng}n h{ng đầu
tiên ở Nhật Bản, lập các công ty, các trường tư thục v{ l{ người đi đầu trong nhiều hoạt
động phúc lợi xã hội, thì ông Inamori Kazuo – tác giả cuốn sách - được xem như một doanh
nh}n điển hình cho tinh thần độc lập, tự tôn và ích lợi cộng đồng trong xã hội Nhật Bản hiện
đại. Ông Inamori là người đặc biệt chú trọng đến khả năng chuyển ho| “lòng vị kỷ” th{nh “
lòng vị tha tr{n đầy tình thương yêu” trong mỗi con người.
-------1.: đ~ in ở Nhà xuất bản Trẻ, 2003.
-------Ông đ~ nhận thấy mối hiểm họa trước các hiện tượng bệnh lý tâm thần xuất hiện do sự
thoái hoá về đạo đức trong xã hội Nhật Bản hiện đại. Nó là kết quả của chiều hướng “con
người giàu lên về vật chất nhưng nghèo đi về tinh thần”. Những biểu hiện cụ thể của bệnh lý
n{y l{: quan điểm “coi tiền là trên hết”, thói ích kỷ mãn tính, tình trạng tham nhũng trong
c|c cơ quan công quyền, các hoạt động trục lợ bất chính, nạn bắt nạt ăn hiếp bạn bè trong
trường học, các vụ án hình sự coi thường mạng sống con người, huỷ hoại môi trường sinh
th|i…
Ông hoài nghi các thành quả của chủ nghĩa tiêu thụ ở thế kỷ 20. Trên cơ sở các giá trị truyền
thống và cách sống truyền thống, ông chủ trương xét lại nền văn minh vật chất l{m sa đoạ
nh}n tính. Đồng thời, ông đề xướng cách nhìn mới về văn minh vật chất: Phải có nhân tính
và nhất là phải có cái tâm trong hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, ông không đứng trên quan
điểm của thuyết nhị nguyên l{ văn minh vật chất gi{u lên thì văn minh tinh thần nghèo đi.
Đối với ông, chính nghĩa x~ hội, tư tưởng cộng sinh, tinh thần dân chủ là những vấn đề lớn
trong ý thức con người. Ông coi trọng tư tưởng cộng sinh và tuần hoàn trong quá trình hình
th{nh môi trường xã hội của đời sống thị d}n. Ông luôn suy nghĩ về tư tưởng cộng sinh và
tuần hoàn trong mối quan tâm mang tính lịch sử như ở nền văn ho| Jomon, một dân tộc
sống bằng nghề săn bắt, đốt nương l{m rẫy là những phương thức tồn tại cùng với tự nhiên.
Khi đặt ra vấn đề cộng sinh trong môi trường xã hội, ông nêu lên việc các quốc gia phát
triển phải biết tự kiềm chế trên cơ sở tôn trọng vòng tuần hoàn của tự nhiên cũng như
trong việc tiêu thụ tài nguyên. Và ông nhấn mạnh, tôn trọng các giá trị đa nguyên l{ vấn đề
rất quan trọng. Ông đưa ra giải pháp: Nhật Bản muốn được các quốc gia trên thế giới tôn
trọng thì hãy trở thành sohouka. Tức l{ h~y đảm trách vai trò dẫn đạo có nhân tính và có
khả năng gi|o dưỡng chứ không phải vì có quyền lực và sức mạnh.
Tôi cho rằng, đứng trên góc độ toàn cầu để xem xét thì quan điểm của Inamori là Nhật Bản
có thể đảm tr|ch vai trò đó không phải ở chỗ phải có sức mạnh, hay phải là có ghế thường
trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc. Mà Nhật Bản phải là một nước có những đóng
góp lớn lao vào công cuộc phát triển của c|c nước đang ph|t triển trên thế giới, thông qua
các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, các hoạt động hữu nghĩ quốc tế của công dân
Nhật và các hoạt động kinh tế tư nh}n.
Tác giả đề cao vai trò của các công ty vừa và nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế Nhật
Bản. Ông lập ra trường tư thục Seiwa, có phân hiệu trên khắp đất nước Nhật, để đ{o tạo các
nhà quản trị nhằm phát triển mạnh mẽ hơn nữa các xí nghiệp vừa và nhỏ trong xã hội Nhật.
Ông rất coi trọng vai trò của Luật chống độc quyền v{ l{ người đi đầu cho việc kêu gọi các
tập đo{n kinh tế lớn tự kiềm chế, xây dựng môi trường cạnh tranh công bằng, tự do và lành
mạnh.
Ở Nhật Bản, từ xa xưa người ta đ~ coi trọng những người có khả năng kiềm chế tự dục
trong l{m ăn buôn b|n, có tấm lòng vì người khác và coi việc l{m ăn buôn b|n cũng l{ việc
công ích. Người khởi đầu cho tư tưởng này là ông Ishida Baigan (1685 – 1744). Ông
Inamori đ~ học tập và triển khai những nguyên tắc đạo đức thương nh}n do ông Ishida
Baigan khởi xướng. Đạo đức thương nh}n x}y dựng trên tinh thần nhân ái, nhờ có người
khác mua hàng mà mình mới trở nên giàu có và vì vậy, khi người khác gặp khó khăn thì
đương nhiên mình phải cứu giúp. Khi thương nh}n nỗ lực làm thỏa mãn nhu cầu khách
hàng thì cuộc sống sẽ trở nên hoà hiếu. Vai trò của thương nh}n l{ sau khi th{nh đạt, có tiền
có của thì phải làm những việc có ích cho đời.
Đối với Inamori, cuộc đời con người có ý nghĩa thông qua những hoạt động mang tính sáng
tạo. Ông đ|nh gi| cao tính cần cù, sáng tạo của Ninomiya Sontoku (1787 – 1850), một nhân
vật nổi tiếng sống ở cuối thời Mạc phủ, trong việc xây dựng nông thôn. Ông nói về lao động
của con người trong mối quan hệ với “ch|nh tinh tiến” theo lời dạy của Phật về “B|t ch|nh
đạo”. Karl Marx (1818 – 1883) cũng từng nói “lao động là cội nguồn của sự sung túc xã hội”
v{ “lao động là tài sản quý giá nhất của con người”.
Ở Nhật Bản, trước Marx gần 100 năm có một nh{ tư tưởng là Ando Shoeki (1703 – 1762).
Ông cho rằng người nông dân trực tiếp lao động tạo ra sản phẩm là những người có giá trị
nhất. V{ ông đề xướng tư tưởng “trí tuệ có tính tuần hoàn tự nhiên”. Ngay cả cây cỏ cũng nỗ
lực hết mình để tồn tại. Sức mạnh của tự nhiên thể hiện ở chỗ dù trong hoàn cảnh bất lợi
đến mấy thì vạn vật vẫn nỗ lực tồn tại. Đó cũng l{ nhận thức của Inamori.
Một tư tưởng khác của Inamori l{ “Thông qua qu| trình lao động sáng tạo, con người sẽ
hiểu sâu sắc chân lý cuộc đời”. Lao động của một doanh nh}n trước hết mang lại hạnh phúc
cả về vật chất lẫn tinh thần cho những người lao động làm việc cho mình. Tiếp đến là tinh
thần cống hiến cho sự phát triển xã hội v{ cho con người. Triết lý kinh doanh của ông ta ra
đời trên cơ sở ý tưởng “Kinh doanh vì điều thiện, không vì tư lơi”.
Thông qua chính cuộc đời của tác giả - một doanh nhân gánh vác trách nhệm với xã hội -cuốn sách này sẽ giúp ích cho các bạn thanh thiếu niên – lớp người đang mang trong lòng
những ước mơ ho{i b~o – về lẽ sống, về cách sống. Tác giả nhấn mạnh lời khẳng định “Ước
mơ của bạn nhất định trở thành hiện thực” từ nhiều góc độ khác nhau. Tôi mong các bạn trẻ
sẽ đọc mỗi chương của cuốn sách này trong mối quan hệ nhất quán của nó.
Chia sẻ ebook: http://downloadsach.com/
Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi
Ước Mơ Của Bạn Nhất Định Thành Hiện Thực Ước Mơ Của Bạn Nhất Định Thành Hiện Thực - Inamori Kazuo