Người khôn ngoan nhất không phải là người gặt hái được nhiều thành công, mà là người biết biến thất bại thành những lợi thế nhất định.

Richard R. Grant

 
 
 
 
 
Dịch giả: Nhiều Dịch Giả
Biên tập: Oanh2
Upload bìa: Oanh2
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1914 / 78
Cập nhật: 2015-11-11 05:23:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Biên Khảo: Akutagawa Dựa Vào Đâu Để Viết Sợi Tơ Nhện
Lạc bước vào rừng văn hóa
Akutagawa (1892-1927) xuất hiện trên văn đàn Nhật Bản như một hiện tượng hiếm có. Ông bắt đầu nổi tiếng trong làng văn với tài khai thác, triển khai những đề tài có sẵn trong các tác phẩm cổ điển Nhật Bản[2] và của cả những nước khác. Điều này làm cho một số người ngộ nhận là ông chỉ làm việc vay mượn. Ông vay mượn nhưng ông cũng sáng tạo. Sự vay mượn không chỉ dừng lại ở các câu truyện cổ mà ông còn dùng ngay cả những sáng tác đương thời. Ông không chỉ vay mượn một truyện để viết một truyện, mà trong lắm trường hợp đã tham khảo nhiều truyện để viết một truyện[3]. Ông đã tài tình thay đổi cấu trúc của các câu truyện cũ, gạn lọc nội dung cho đến chỗ tinh khiết nhất và với bút pháp thật độc đáo ông đã gây cho độc giả những ấn tượng mới, tạo dựng những giá trị vượt thời gian, không gian. Tính cả những năm 1912, năm ông viết tác phẩm đầu tay Nước dòng sông Cái (Okawa no mizu) khi mới còn là sinh viên, thì cuộc đời sáng tác của ông cũng chỉ vẻn vẹn khoảng mười lăm năm. Tuy vậy, ông đã để lại cho hậu thế một gia tài khá đồ sộ, khoảng ba trăm tác phẩm, trong đó hơn phân nửa là truyện ngắn vô cùng phong phú về đề tài, về nội dung và rất đa dạng về cách viết[4]. Đó là cơ sở để người ta tôn ông làm bậc thầy của truyện ngắn.
Akutagawa viết Sợi tơ nhện cho số khai trương của tạp chí Con chim đỏ (Akai Tori), tháng bảy năm 1918, thể theo lời yêu cầu của nhà văn bậc đàn anh Suzuki Miekichi. Suzuki Miekichi, người chủ trương tạp chí, kêu gọi các cây bút đương thời cung cấp sáng tác làm món ăn tinh thần cho thanh thiếu niên, vì lúc bấy giờ ở Nhật Bản, các truyện dành cho tuổi trẻ phần lớn là truyện thần tiên, truyện cổ tích.
Phong trào duy tân của Nhật Bản bắt đầu từ năm 1867, năm Vua Minh Trị lên ngôi, thực hiện phương châm “Phú quốc cường binh”, nhằm bảo vệ lãnh thổ khỏi bị các nước Tây phương xâm lăng. Phong trào duy tân, xuyên qua cao trào Thoát Á nhập Âu, không chỉ dừng lại ở việc du nhập kỹ thuật để công nghiệp hóa, mà còn đòi hỏi người Nhật Bản phải thay đổi tận gốc rễ - thay đổi toàn diện, từ cách suy nghĩ đến cách sống. Người Nhật đã tích cực mô phỏng và đã thành công trong sự nghiệp mô phỏng mọi khía cạnh của văn minh Tây phương, từ tổ chức chính trị, quân đội, giáo dục, nghệ thuật… cho đến cách ăn, cách mặc, cách chơi v.v… triết học và văn học Tây phương cũng được tích cực dịch ra tiếng Nhật. Chỉ trong vòng hai mươi lăm năm, nước Nhật đã trở nên hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự, sánh vai đước với các liệt cường. Qua chiến tranh Nhật – Trung (1894-1895) Nhật Bản xâu xé Trung Quốc, thôn tính Đài Loan, mười năm sau đánh đắm hạm đội Baltic của Nga trong chiến tranh Nhật – Nga (1904-1905) ở eo biển Tsushima giữa Kyushu và bán đảo Triều Tiên, tiếp theo đó nuốt chửng cả Triều Tiên (1910)[5]. Xã hội Nhật Bản vào thời của Akutagawa không còn là buổi giao thời của cái cũ gây áp lực làm trì trệ cái mới, nhưng đã nghiêng hẳn về phía thắng thế của văn minh Tây phương.
Những giá trị đạo đức Đông phương dựa trên sự hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng không còn là trọng tâm của sinh hoạt hàng ngày, ngược lại lợi ích của cá nhân được đề cao. Một khi toàn xã hội chuyển mình nghiêng về hướng cổ võ, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân phát triển tài năng riêng, đề cao mục đích sống là giàu sang, danh vọng, địa vị cá nhân, thì yếu tố ích kỷ trong đời sống mới càng ngày càng đậm sâu.
Akutagawa tốt nghiệp Đông Kinh đế quốc Đại học (nay là Đại học Đông Kinh), đại học tiêu biểu cho đỉnh cao tột bực của học vấn thời bấy giờ. Là nhà văn, đồng thời là thành phần trí thức ưu tú của Nhật Bản, ông không khỏi không cảm nhận những mâu thuẫn tinh thần, đạo đức trong xã hội, do đó khi viết câu truyện này cho thanh thiếu niên, chắc chắn ông đã cố ý gói ghém một lời răn.
Sợi tơ nhện tuy viết cho thanh thiếu niên, nhưng cũng là một tác phẩm được mọi lứa tuổi yêu chuộng. Giá trị văn chương và nội dung triết lý của nó đã thăng hoa, trở thành tuyệt tác không những của Akutagawa, của văn học Nhật Bản, mà là của cả kho tàng văn học thế giới.
Xuất xứ của Sợi tơ nhện
Sợi tơ nhện tuy chỉ chứa đựng một lời răn giản dị về tính ích kỷ, nhưng kết cấu câu chuyện được xây dựng trên cơ sở triết lý nhân quả của Phật giáo, những gì đang diễn ra trước mắt vừa là quả của nghiệp chướng trước đó, vừa là nhân của những gì sẽ xảy ra trong tương lai, hay cực đoan hơn, sắp xảy ra ngay sau đó. Thiện dẫn ta đến thiện, ác chuốc lấy ác. Một việc thiện dù nhỏ, tự nó là mầm mống, là hạt nhân dẫn đến cứu độ, dẫn đến siêu thoát. Nghiệp ác đưa con người đến khổ ải, đọa đày, hủy diệt.
Rõ ràng đây là một câu chuyện Phật giáo, thế mà không một nhà nghiên cứu hay bình luận văn học nào có thể tìm ra điển tích tương tự trong kho tàng sách vở của Nhật Bản, Trung Hoa hay Ấn Độ.
Người ta quay sang lùng kiếm kho tàng văn học Tây phương. Và chính ở đây người ta tìm ra được hai tác phẩm có thể trở thành lời giải cho xuất xứ của Sợi tơ nhện.
Giả thiết thứ nhất là câu chuyện Cây hành tây, một câu chuyện dân gian của nước Nga có bố cục và nội dung rất giống Sợi tơ nhện. Ông Yoshida Seiichi[6] trong bài bình giản phụ chú cuối tập truyện Sợi tơ nhện, đã dẫn chứng câu chuyện Cây hành tây này từ tác phẩm Anh em nhà Karamazov (1881) của Dostoevski (1821-1881) qua bản dịch tiếng Nhật của Yonekawa Masao như sau:
“Ngày xửa ngày xưa, có một bà già ác độc. Hồi còn sống bà không làm được một điều tốt nào cả. Bà ta chết xuống địa ngục, bị Sa Tăng bắt, liệng xác ngay vào ao lửa. Lúc ấy thiên thần hộ mệnh cho bà, lặng lẽ cố tìm xem trong suốt đời bà, bà có làm điều gì tốt không, để bạch cùng Đức Chúa Trời. Một lúc sau, thiên thần nhớ ra được một chuyện, bèn ngước lên bạch ngay với Đức Chúa Trời rằng, ngày xưa có lần bà ta đã nhổ một cây hành tây, thí cho một người đàn bà ăn mày đói khổ. Đức Chúa Trời phán, hãy đi nhổ một cây hành tây, chìa xuống dưới ao cho bà ta nắm lấy, kéo bà ta lên, nếu đầu đuôi thông suốt, kéo bà ta ra được ao lửa thì cho bà ta lên Thiên đàng, nếu cây hành tây nửa chừng bị đứt, phải bỏ bà ta ở đấy. Thiên thần liền chạy đến chỗ bà lão, chìa cây hành tây cho bà và bảo bà hãy nắm chặt lấy nó, xong cẩn thận kéo cây hành tây lên từ từ. Và, đúng vào lúc thiên thần gần như kéo bà lão lên khỏi mặt ao thì những cô hồn khác dưới ao cũng vừa nhận ra là bà lão đang được kéo lên, bèn hùa nhau níu lấy cây hành tây, mong được kéo lên, bèn hùa nhau níu lấy cây hành tây, mong được kéo lên theo. Bà già vốn là một người ác độc, liền co cẳng đạp mọi người xung quanh la ó rằng chỉ có mình tao được kéo lên thôi, chứ bọn bây đâu được. Ngay lúc bà ta vừa nói xong thì cây hành tây bỗng bị gẫy ngang, và bà già rớt xuống ao lửa trở lại, mãi tới bây giờ vẫn còn bị lửa thiêu. Thiên thần đành gạt nước mắt, bỏ đi.”
Quả thật câu chuyện này có bố cục và chi tiết giống hệt câu chuyện Sợi tơ nhện, một đối một. Cây hành tây có nhân vật chính là bà già ác độc thì Sợi tơ nhện có tên cướp độc ác. Cây hành tây có ao lửa thì Sợi tơ nhện có ao máu. Cây hành tây có Đức Chúa Trời, Sợi tơ nhện có Phật Thích Ca. Thiên thần chìa cây hành tây cho bà già, Đức Phật thòng sợi tơ nhện xuống cho Kandata. Cô hồn trong Cây hành tây hùa nhau níu cây hành tây thì cô hồn trong Sợi tơ nhện đeo theo sợi tơ nhện. Cả hai phương tiện cứu độ ấy đều đứt phựt vì hành động ích kỷ muốn chiếm đoạt sự cứu độ cho riêng mình, ruồng rẫy những người đồng cảnh ngộ. Một sự trùng hợp kỳ lạ là cả hai có kết thúc hoàn toàn giống nhau: bà già xấu bụng và tên cường đạo cùng rớt trở lại địa ngục, vì hành động bất nhân xuất phát từ tâm địa ích kỷ của mình.
Một lý do khác khiến người ta nghĩ Akutagawa đã vay mượn câu chuyện Cây hành tây để viết Sợi tơ nhện là vì ông giỏi tiếng Anh và rất sành sỏi văn học Tây phương (ở đại học, ông học ban Văn chương Anh và sau khi tốt nghiệp làm giáo sư dạy Anh văn). Người ta suy diễn, tất nhiên ông đã đọc tác phẩm Anh em Nhà Karamazov.
Nhưng chỉ với chừng ấy nội dung mà kết luận Cây hành tây là xuất xứ của Sợi tơ nhện thì chưa đủ bằng cớ thuyết phục.
Yoshida Seiichi, Miyoshi Yukio[7] và Donal Keene[8] cùng đề cập đến một giải đáp thứ hai. Riêng ông Yoshida cho biết Yamaguchi Seiichi mới là người đã trưng bằng cớ xác định được xuất xứ thực thụ củaSợi tơ nhện. Yamaguchi đã dẫn chứng tác phẩm Karma (Nghiệp chướng)[9] do Paul Carus viết vào năm 1894 và được đăng thành nhiều kỳ trên Tạp chí The Open Court phát hành ở Chicago. Karma là tập hợp tám câu chuyện xung quanh chuyến đi của một người phú thương buôn bán vàng ngọc. Trọng tâm tác phẩm là chuyện thứ năm, The spider web.
Nhà xuất bản The Open Court đã đặt cho Nhà sách Hasegawa ở Tokyo in nguyên bản tiếng Anh cộng thêm một số tranh màu, đóng thành sách, vỏn vẹn chỉ có 24 trang vào tháng 12 năm 1895. Cuốn sách này bán chạy đến nỗi nó được tái bản đến ba lần. Và ba năm sau, vào tháng 9 năm 1898 thì cũng nhà sách ấy in thêm bản tiếng Nhật do ông Suzuki Daisetsu (1870-1966) dịch. Ông Suzuki trước đó một năm đã được một tổ chức Phật giáo ở Nhật biệt phái sang Mỹ giúp việc cho Paul Carus[10]. Ông Suzuki đã dịch thoát cái tựa Karma (Nghiệp chướng) thành Inga no oguruma (Bánh xe nhân quả) và dịch thoát cả cái tựa The spider web (Mạng nhện) thành Kumo no ito hay Sợi tơ nhện[11].
Câu chuyện The spider web (Mạng nhện) bắt đầu với cảnh tên cướp Mahâduta đang hấp hối trong vòng tay của nhà sư, hắn lo sợ sẽ vĩnh viễn không được cứu độ. Nghe lời than của tên cướp, nhà sư từ tốn kể câu chuyện của Kandata dưới Âm Ty, và qua cậu chuyện đó đã cải huấn được tên cướp trước lúc hắn nhắm mắt.
Như thế rõ ràng là Akutagawa không những lấy nguyên văn cái tựa Sợi tơ nhện của bản dịch mà còn dùng nguyên cả tên của tên cướp Kandata trong nguyên tác. Ngay cái tên Kandata, khi viết dưới dạng chữ Hán, Akutagawa dùng nguyên văn chữ Hán trong bản dịch của ông Suzuki Daisetsu. Ba chữ Hán này khi đọc âm Việt Nam sẽ là Kiển Đà Đa.
Ở đây chỉ còn lại một nghi vấn: vậy thì Akutagawa đã lấy Sợi tơ nhện qua việc đọc thẳng nguyên tác tiếng Anh của Paul Carus? Hay qua việc đọc bản dịch tiếng Nhật của Suzuki Daisetsu? Không ai có thể thay thế Akutagawa để trả lời nghi vấn này một cách dứt khoát. Nhưng dựa trên tên tác phẩm là Sợi tơ nhện (tựa do Suzuki đã dịch thoát) và tên nhân vật chính Kandata viết bằng chữ Hán là Kiển Đà Da, đúng y ba chữ Hán Suzuki đã sử dụng, ta có thể đi đến kết luận mà không sợ sai lầm là Akutagawa đã lấy câu chuyện này từ bản dịch của Suzuki. Và rất có thể Akutagawa đã tham khảo câu chuyện Cây hành tây để xây dựng cấu trúc tác phẩm Sợi tơ nhện của mình.
Tính sáng tạo của Akutagawa xuyên qua việc vay mượn
Mặc dù Akutagawa đã vay mượn hầu như toàn bộ nội dung bản dịch của Suzuki Daisetsu, vả cái tựa lẫn cái tên nhân vật chính, nhưng Akutagawa đã lồng vào đó những sáng tạo của riêng ông.
Như đã trình bày ở trên, The spider web chỉ là một phần của tác phẩm Karma, câu chuyện thứ năm trong tám câu chuyện xoay xung quanh chuyến đi của một người phú thương buôn bán vàng ngọc. Trong đó tên cướp Mahâduta thật ra ban đầu chỉ là tên hộ vệ trung thành. Thế mà hắn bị người chủ nghi oan là đã ăn cắp túi tiền, bị chủ giao cho lính và bị đánh đập tra tấn. Hắn trốn vào núi đi theo một đám cướp, và trở thành thủ lĩnh. Về sau hắn chặn đánh chuyến đi giao hàng của người phú thương rồi cướp hết vàng ngọc của người chủ cũ, nhưng hắn lại không chia cho bọn em út mà đem giấu đi. Vì thế hắn bị bọn em út làm phản, một lần nữa lại bị đánh đập tàn nhẫn, may được nhà sư cứu giúp. Để cải huẩn hắn, nhà sư kể câu chuyện của Kandata, một tên đạo tặc suốt đời chỉ chuyên đi ăn cướp, giết người không gớm tay, duy nhờ làm được một điều thiện, đó là không nỡ giẫm chết con nhện bò bên vệ đường, nên được Đức Phật, nhủ lòng từ bi sai con nhện trên Niết bàn xuống cứu, và chính Đức Phật răn Kandata, hắn chỉ có thể thật sự được cứu độ nếu bỏ được cái bản ngã ích kỷ… Nhưng khi Kandata nắm sợi tơ nhện leo lên, thoát khỏi được âm ty, hàng hàng lớp lớp đang cố đeo lấy sợi tơ, leo lên theo với hắn. Và ngay khi hắn mở miệng xua đuổi, ruồng rẫy kẻ khác, sợi tơ đứt phựt, hắn lộn đầu trở xuống âm ty.
Xem như thế, The spider web là một câu chuyện nhuốm đầy màu sắc tôn giáo, trong đó có đoạn tả cảnh hào quang Đức Phật rọi xuống tận âm ty, cảnh Đức Phật trực tiếp răn Kandata phải diệt dục mới có thể thực sự được cứu độ. Có cả lời giải thích về sợi tơ nhện tuy mong manh, nhưng là sợi dây cứu độ chúng sinh, càng nhiều người bám vào, nó càng chắc ra. Rõ ràng đây là một câu chuyện tôn giáo mang chủ đích muốn chứng minh luận thuyết của tôn giáo ấy. Đọc The spider web, người đọc không khỏi không mang ấn tượng đang đọc một bài thuyết pháp, hay một câu chuyện tôn giáo dạy đời.
Trong khi đó đọc Sợi tơ nhện, độc giả mang cảm tưởng đang thưởng thức một sáng tác văn chương và tự mình khám phá ra bài học ẩn dụ trong áng văn. Akutagawa đã táo bạo nhưng cũng rất tài tình dám kể chuyện qua con mắt của Phật. Cái độc đáo của ông là đã kể một câu chuyện đọa đày dưới Âm Ty trong cảnh tinh khiết của Niết Bàn.
Ta hãy nghe ông bắt đầu:
“Đây là một câu chuyện xảy ra trên Cực Lạc. Một bữa nọ, Đức Phật một mình lững thững đi dạo bên hồ sen. Những đóa hoa sen trong hồ nở trắng toát, đẹp như ngọc. Từ giữa nhụy vàng một hương thơm ngào ngạt khó tả, ngan ngát tỏa ra khắp miền. Dạ thưa, trên Cực Lạc lúc đó đúng vào buổi sáng.”
Và ta nghe ông chấm dứt câu chuyện:
“Thế nhưng, trên Cực Lạc sen trong hồ vẫn nở như không có chuyện gì xảy ra. Những đóa sen trắng như ngọc, đài hoa lay nhẹ bên chân Phật. Từ giữa nhụy vàng một hương thơm ngào ngạt khó tả, ngan ngát tỏa ra khắp miền. Dạ thưa, lúc đó trên Cực Lạc đã gần đến đúng ngọ.”
Câu chuyện bắt đầu trên Cực Lạc và chấm dứt cũng trên Cực Lạc. Ông đã dựng hai cảnh hoàn toàn đối nghịch nhau, hai thái cực Cực Lạc và Âm Ty, ngay trong cùng một màn, diễn ran gay trước mắt người đọc. Ông dàn cảnh Đức Phật xuất hiện lững thững đi dạo bên hồ sen trong hương sen ngào ngạt và xác định “dưới hồ sen là đáy của Âm Ty” để hợp lý hóa tất cả những diễn biến sau đó dưới Âm Ty qua mắt Phật. Nhưng ông đã dừng lại ở vai người kể chuyện, không thêm thắt các chi tiết mầu nhiệm, hoang đường tôn giáo như ta thấy trong tác phẩm Karma. Chỉ vào đoạn chót ông mới cho một lời giải về cái buồn của Đức Phật.
“Vì cái tâm không có một chút từ bi, chỉ muốn một mình thoát khỏi địa ngục mà Kandata đã bị quả báo rớt trở lại địa ngục, dưới mắt Phật, là cả một điều bi đát thảm thương.”
Toàn bộ áng văn tuy ngắn, nhưng nó đã làm cho người đọc rộn ràng với nhiều đoạn tả cảnh vô cùng linh động. Ông đã dồn dập vẽ những chi tiết đối nghịch nhau, những cái xáo động dưới Âm Ty diễn ra trong bối cảnh thanh tĩnh của Niết Bàn. Cực Lạc trong sáng, tươi mát, tinh khiết. Âm phủ u tối, đọa đày, ghê rợn.
Akutagawa đã sắp xếp những diễn biến một cách rất tinh tế, tạo căng thẳng cho người đọc trong suốt câu chuyện. Câu chuyện kết thúc với cảnh Kandata lộn đầu rơi như một con vụ trở lại Âm Ty. Trong u minh chỉ lòn lại một sợi tơ cụt ngủn. Nhưng đó cũng là lúc Niết Bàn đang ở trong vùng ánh sáng giữa trưa, sen trong hồ vẫn nở, hương sen vẫn ngào ngạt. Niết Bàn không dao động.
Tác giả lược bỏ các chi tiết thuyết pháp tôn giáo của nguyên tác, không lồng vào tác phẩm của mình một ý kiến, nhường quyền phán xét cho độc giả, dù đó là thanh thiếu niên. Điều này càng làm tăng giá trị cho áng văn.
Đi tìm dữ liệu
Trong việc đi tìm dữ liệu để kiểm chứng tác phẩm Karma của hơn một thế kỷ trước, người viết đã tìm thấy những chi tiết chung quanh tác phẩm Karma như:
Paul Carus (1852-1919), là một triết gia người Đức sinh sống ở Chicago Mỹ. Ông là người đi tiên phong trong việc giới thiệu triết học Phật giáo vào nước Mỹ. Suốt từ năm 1887 cho đến lúc tạ thế, ông làm chủ biên hai tạp chí The Open Court và The Monist, cả hai đều do Nhà xuất bản The Open Court phát hành.
Ngay khi đọc tác phẩm Karma được đăng lần đầu tiên trên Tạp chí The Open Court, Nhà xuất bản của tạp chí này đã nhận được thư của dịch giả từ nhiều quốc gia xin phép dịch. Trong đó bản tiếng Nga là do đại văn hào Lev N. Tolstoi (1828-1910) dịch. Cũng như nguyên tác ở Mỹ, các bản dịch ở các nước khác cũng chỉ được đăng trên tạp chí chia thành nhiều kỳ. Duy chỉ có bản tiếng Anh in ở Nhật, và bản dịch ra tiếng Nhật của ông Suzuki, do Nhà sách Hasegawa ấn hành ở Tokyo là hai bản được in thành sách trước nhất.
Sau đó ở Pháp có người dùng bản tiếng Nga của Tolstoi dịch ra tiếng Pháp và tự tiện ghi Tolstoi là tác giả. Bản tiếng Pháp mang tên Tolstoi này lại được dịch sang tiếng Đức. Từ đó Âu châu chỉ biết đó như là một sáng tác của chính Tolstoi. Trớ trêu thay, tác phẩm tiếng Đức này được dịch trở lại tiếng Anh, đăng trong tạp chí The International Magazine cũng ở Chicago. Một ngẫu nhiên rất lý thú, trụ sở của tạp chí này lại nằm ngay trong cùng một khu phố với Nhà xuất bản The Open Court. Chính vì lý do địa lý ấy, Nhà xuất bản The Open Court phát giác ra dữ kiện sai lầm kia. Paul Carus viết thư khiếu nại Tolstoi. Tolstoi phải viết thư thanh minh, nay được sử dụng là Lời tựa cho cuốn sách Karma/Nirvana do Nhà xuất bản The Open Court phát hành. Xin trích dẫn một phần của lời tựa này[12] như sau:
“Một chân lý mà ngày nay đã bị lu mờ là mỗi chúng ta chỉ tránh được điều ác và làm được điều thiện là do nỗ lực riêng của từng cá nhân, ngoài ra không có cách nào khác, tác phẩm này đã nói lên được điều đó một cách vô cùng rõ rệt. Lời dẫn giải trong tác phẩm thật ý nhị vì nó chứng minh rằng cá nhân chỉ thực sự có hạnh phúc khi những người chung quanh cũng hạnh phúc. Ngay khi tên cường đạo trốn khỏi được địa ngục, chỉ nghĩ đến hạnh phúc vị kỷ, lập tức hạnh phúc của hắn chấm dứt ở đó và hắn đã rơi trở lại bể trầm luân như cũ…
Tôi đã đọc câu chuyện này cho trẻ em nghe và chúng rất thích. Và trong hàng người lớn, câu chuyện này sẽ giúp ta trực diện với những vấn đề quan trọng nhất trong cuộc sống. Và theo tôi đây là một câu chuyện tuyệt diệu mà tôi muốn giới thiệu với mọi người…
Chỉ đến khi nhận được thư (của Paul Carus) tôi mới biết tác phẩm Karma đang lưu hành mang tên tôi là tác giả, và tôi rất lấy làm tiếc… không phải chỉ ở chỗ một chuyện sai lầm như thế mà cứ đề tràn lan không có ai lên tiếng cải chính, nhưng còn ở chỗ tại sao lại có thể có một chuyện sai trái như thế, vì tôi sẽ vô cùng hân hạnh nếu được diễm phúc là tác giả của sáng tác này. Đây là tinh hoa trí tuệ của cả một quốc gia và cần được truyền bá cho toàn thể nhân loại như các tác phẩm Odyssey, Cuộc đời của Joseph và Thích Ca Mâu Ni.”
Lev N. Tolstoi
Những suy nghĩ thay lời kết
Hơn một trăm năm trước Paul Carus đã sưu tầm từ đâu đó trong kho tàng văn hóa Ấn Độ để viết tác phẩm Karma. Lev N. Tolstoi đã đánh giá nó như là tinh hoa, là kết tinh trí tuệ của cả một dân tộc, đặt nó đứng ngang hàng với tác phẩm Odyssey v.v…
Chúng ta thử đọc lại lời nhận xét của Tolstoi:
“… cá nhân chỉ thực sự có hạnh phúc khi những người chung quanh cũng được hạnh phúc…”
Chúng ta thử đổi chữ “cá nhân” thành chữ “quốc gia” chữ “người” thành chữ “nước” rồi thử đọc lại nó một lần nữa:
“… quốc gia chỉ thực sự có hạnh phúc khi những nước chung quanh cũng được hạnh phúc…”
Và suy nghĩ về sự hưng vong của các đế quốc, về biết bao cuộc chiến tranh của nước mạnh ức hiếp nước yếu trong lịch sử nhân loại, chúng ta càng thấy thấm thía lời nhận xét của Tolstoi về tính bất biến của bài học ẩn dụ trong tác phẩm Sợi tơ nhện, một bài học vượt biên giới cá nhân, thời gian và không gian, nghiệm đúng cả cho liên hệ giữa các dân tộc.
Ngoài ra, còn có bản dịch Kiển Đạt Đa ích kỷ của Diệu Hạnh Giao Trinh. Đây là một bản dịch từ tiếng Trung Hoa ra tiếng Việt, nhưng không thấy bản dịch chua xuất xứ và năm tháng của sáng tác. Nội dung và diễn tiến câu chuyện hoàn toàn giống tác phẩm Sợi tơ nhện của Akutagawa.
Đáng tiếc là công việc tìm nguồn chưa đến đích của nó. Paul Carus lấy câu chuyện này từ đâu? Không thấy ông nói đến. Người viết sẽ tiếp tục đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này và rất mong bạn đọc tham gia việc tìm kiếm này để làm giàu cho trí tuệ của người Việt nói riêng và cho thế giới nói chung.
Đinh Văn Phước
Tài liệu tham khảo
1. Bình giảng về Akutagawa Ryunosuke, Inoue Yasushi.
2. Akutagawa Ryunosuke từ A đến R, Nguyễn Nam Trân, e Văn.
3. History of Japanese Literature, Kato Shuichi. Vol.3.
4. Lịch sử Nhật Bản, Vĩnh Sính.
5. Bình giảng về Akutagawa Ryunosuke, Yoshida Seichi.
6. Bình giảng về Akutagawa Ryunosuke, Miyoshi Yukio.
7. A History of Japanese Literature, Donald Keene, Vol.3.
8. Karma, The Story of Buddhist Ethics, Paul Carus.
9. Karma/Nirvana, Two Buddhist Tales, Paul Carus.
10. Watakushi no rirekisho, Suzuki Daisetsu.
11. Suzuki Daisetsu Toàn tập, Vol.26.
Chú thích:
(1) Người viết xin cảm ơn các anh Đinh Vĩnh Thạnh, Trần Đình Tưởng, Nguyễn Nam Trân đã cung cấp tài liệu tham khảo, và nhất là anh Việt Châu, Cung Điền, Tôn Thất Phương, Nguyễn Nam Trân đã góp nhiều ý kiến hoàn thiện bài viết này.
(2) Bình giảng về Akutagawa Ryunosuke, Inoue Yasushi.
(3) Akutagawa Ryunosuke từ A đến R, Nguyễn Nam Trân.
(4) History of Japanese literature, Kato Shuichil. Vol3
(5) Lịch sử Nhật Bản, Vĩnh Sính.
(6) Bình giảng về Akutagawa Ryunosuke, Yoshida Seiichi.
(7) Bình giảng về Akutagawa Ryunosuke, Miyoshi Yukio.
(8) A History of Japanese Literature, Donal Keene, Vol.3.
(9) Karma, The Story of Buddhist Ethics, Paul Carus và Karma/Nirvana, Two Buddhist Tales, Paul Carus.
(10) Watakushi no rirekisho, Suzuki Daisetsu.
(11) Suzuki Daisetsu Toàn Tập, Vol.26.
(12) Karma/Nirvana, Two Buddhist Tales, Paul Carus.
Trinh Tiết Trinh Tiết - Akutagawa Ryunosuke Trinh Tiết