Người không đủ can đảm để mạo hiểm thì sẽ không gặt hái được gì trong cuộc sống.

Muhammad Ali

 
 
 
 
 
Dịch giả: Nhiều Dịch Giả
Biên tập: Oanh2
Upload bìa: Oanh2
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1914 / 78
Cập nhật: 2015-11-11 05:23:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Giới Thiệu Tác Giả
kutagawa Ryunosuke vụt qua trên nền trời văn học Nhật Bản như một ngôi sao băng, thật sáng nhưng cũng thật ngắn ngủi. Người ta trầm trồ ca ngợi tài năng ông và người ta thương tiếc cho số phận ông.
Tuy cuộc đời sáng tác của ông chỉ vỏn vẹn có mười lăm năm, nhưng ông đã để lại cho hậu thế một gia tài khá đồ sộ với khoảng ba trăm tác phẩm, trong đó hơn phân nửa là truyện ngắn, vô cùng phong phú về đề tài, về nội dung và rất đa dạng trong cách viết. Đó chính là cơ sở để người ta tôn ông làm bậc thầy của truyện ngắn. Phần văn nghiệp còn lại của ông là tùy bút, bình luận, bút ký, thơ, v.v…
Sau khi ông mất, năm 1935 một giải thưởng văn chương mang tên ông - giải thưởng Akutagawa đã ra đời. Giải thưởng này rất có uy tín trong giới văn học Nhật Bản, từ khi ra đời cho đến nay luôn luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện những tài năng trẻ. Oe Kenzaburo, nhà văn đoạt giải thưởng văn chương Nobel năm 1994, lúc còn trẻ là người đã được trao giải thưởng Akutagawa.
Ông còn là một trong những tác giả Nhật Bản rất được thế giới biết tiếng. Và ở Việt Nam tác phẩm của ông đã được giới thiệu rất sớm qua phim ảnh và qua các bản dịch. Tuy vậy những tác phẩm của ông, dịch ra tiếng Việt đang lưu hành trong nước hiện nay phần lớn không phải là những bản dịch trực tiếp từ tiếng Nhật mà qua những ngôn ngữ trung gian.
Trong chương trình thực hiện tuyển tập này chúng tôi đã chọn ba mươi tác phẩm tiêu biểu trải dài suốt cả cuộc đời viết văn của ông mà chúng tôi yêu thích, và dịch trực tiếp chúng từ nguyên tác tiếng Nhật. Chương trình làm việc này có chín người tham gia, tất cả đều là cựu sinh viên du học tại Nhật trong thập niên 1960 và hiện đang sinh sống ở nước ngoài. Các tác phẩm trong tuyển tập được sắp xếp theo thứ tự thời gian ra đời của nó. Mở đầu tuyển tập là tùy bút Nước dòng sông Cái (Okawa no mizu), tác phẩm đầu tay viết vào năm 1912 khi ông còn là một sinh viên tay trắng, và kết thúc với tác phẩm Ảo ảnh cuộc đời (Shinkiro) viết vào năm 1927, chỉ mấy tháng trước khi ông uống thuốc ngủ tự vẫn. Bên cạnh phần dịch thuật là hai bài biên khảo, một bài viết về xuất xứ của tác phẩm Sợi tơ nhện (Kumo no ito), một bài giới thiệu về thời đại, thân thế và sự nghiệp văn chương của ông.
Trong quá trình xuất bản tuyển tập này, chúng tôi xin cảm ơn những giúp đỡ tận tình của anh Trần Tiễn Cao Đăng, anh Nguyễn Cảnh Bình - Công ty sách Alpha và sự tận tụy làm việc của chị Hồ Thị Hòa. Nhân đây, chúng tôi xin cảm ơn tất cả bạn bè đã khuyến khích và thôi thúc chúng tôi hoàn tất tuyển tập.
Chúng tôi xin đón chờ những chỉ bảo vàng ngọc của quý độc giả để những lần xuất bản sau được tốt hơn.
o O o
Tiểu sử Akutagawa Ryunosuke
- 1892(1 tuổi) sinh ở Irifune (Tokyo), trường nam nhà Niihara. Mẹ phát cuồng, về làm con nuôi cho cậu là Akutagawa Michiaki, một văn nhân.
- 1898 (7 tuổi) học tiểu học. Học giỏi. Đã biết làm thơ Haiku.
- 1902 (11 tuổi) mẹ ruột chết. Cùng bạn đồng lứa lập tạp chí văn chương. Thích đọc các tác giả Nhật Bản thời Edo (Chikamatsu, Bakin, Ikku, Sanba), thời hiện đại (Koyo, Rohan, Ichiyo, Ogai) và truyện Trung Quốc (Tây du, Thủy hử).
- 1910 (19 tuổi) tốt nghiệp trung học với bằng khen. Nhập học văn khoa trường Ikko (Dự bị đại học). Quen biết với Kume Masao, Kikuchi Kan, Yamamoto Yuzo… những bạn đồng song và chung chí hướng.
- 1911 (20 tuổi) nội trú ở cư xá Hongo trường Đại học Đông Kinh. Nổi tiếng thông minh. Làm quen với tác phẩm của Auguste Strindberg, Anatole France, Henri Louis Bergson, Rudolf Eucken.
- 1912 (21 tuổi) viết tùy bút Nước dòng sông Cái (Okawa no mi zu)
- 1913 (22 tuổi) tốt nghiệp Ikko đứng thứ hai trong số hai mươi bẩy người. Vào khoa Anh và nuôi mộng sáng tác.
- 1914 (23 tuổi) cùng với các bạn Kume, Kikuchi, Yamamoto… tái bản (lần thứ 3) tạp chí Shinshicho. Ra mắt Tuổi già (Ronen) và vở kịch Tuổi xuân và cái chết (Seinen to shi).
- 1915 (24 tuổi) viết Mặt nạ hyottokon[1] (Hyottoko), cho đăng Cổng Rashomon (Rashomon). Gặp gỡ Natsume Soseki, từ đó hay lui tới học hỏi.
- 1916 (25 tuổi) tái bản (lần thứ 4) tạp chí Shinshicho. Cho đăng Cái mũi (Hana). Viết luận văn tốt nghiệp về William Morris, đỗ hạng hai trên hai mươi người. Trong năm, lần lượt đăng tải đó đây Cháo khoai (Imogayu), Chiếc mùi soa (Hankechi), Địa ngục cô độc (Kodoku Jigoku), Cha (Chichi), Chấy rận (Shirami), Hy vọng (Kibo), Sâu rượu (Sake no mushi), Con nộm Noroma[2] (Noroma Ningyo), Khỉ (Saru), Căng buồm (Shuppan), Thuốc lá và con quỷ (Tabako to Akuma), Cái ống điếu (Kiseru).
- 1917 (26 tuổi) cho ra đời tập truyện ngắn đầu tiên Cổng Rashomon (Rashomon), và tập thứ hai mang tên Thuốc lá và con quỷ (Tabako to Akuma). Cùng năm, cho in Bản tường trình của Ogata Ryosai (Ogata Ryosai oboegaki), Số mệnh (Un), Hỏi đạo tổ sư (Doso Mondo), Trung nghĩa (Chugi), Ghi chép về một đám tang (Sogiki), Bọn đạo tặc (Chuto), Người Do Thái lang thang (Samayoeru Yudajin), Một ngày kia trong đời O-ishi Kuranosuke (Aruhi no O-ishi Kuranosuke), Hứng sáng tác (Gesaku Zammai).
- 1918 (27 tuổi), đầu năm, cưới cô Tsukamoto Fumi. Định cư ở Kamakura, viết cho nhật báo Osaka Mainichi. Theo học haiku với Takahama Kyoshi (1874 -1959), truyền nhân của Masaoka Shiki (1867 -1902). Cùng năm ấy, đăng Tướng Tây Hương Long Thịnh (Saigo Takamori), Truyện đầu rơi (Kubi ga ochiru hanashi), Truyện về gã Yonosuke (Yonosuke no hanashi), Lòng đã trót yêu (Kesa to Morito), Địa ngục trước mắt (Jigokuhen), Sợi tơ nhện (Kumo no ito), Án mạng thời mới mở mang (Kaika no satsujin), Cái chết của một con chiên (Hokyonin no shi), Cánh đồng khô (Karenosho), Tị Tông môn (Jashumon).
- 1919 (28 tuổi) cho ra mắt tập truyện ngắn thứ ba, Thầy tuồng múa rối (Kairai - shi). Thôi làm giáo viên Anh văn ở trường hải quân, ông chính thức làm cho báo Osaka Mainichi nhưng không đến sở hàng ngày mà chỉ đăng độc quyền mỗi năm một số truyện. Bố đẻ - Niihara Toshizo mất, ông bỏ Kamakura dọn trở về nhà cũ vùng Tabata ở Tokyo, viết Hang quỷ đói (Gakikutsu). Năm này, tháp tùng Kikuchi Kan đi Nagasaki chơi nên chuyển qua những đề tài liên quan đến giai đoạn người ngoại quốc vừa tới Nhật. Viết Thầy Mori (Mori sensei), Tôi hồi đó (Ano koro no jibun no koto), Truyện thánh Christopher (Kirishitohoro shoninden), Những chuyện tôi đã gặp: mấy trái quýt, bãi lầy (Watakushi ga deatta koto: mikan, numachi), Trên đường (Rojo), Con mụ phù thủy (Yoba). Thêm tập phê bình Nghệ thuật và những vấn đề khác (Geijutsu to sonota).
- 1920 (29 tuổi) Ra tập truyện thứ tư Đèn kéo quân (Kagedoro). Sinh trưởng nam Hiroshi (phiên âm Kan của tên bạn Kikuchi Kan đặt cho con). Viết Cậu bé thợ săn Jirokichi (Rokozo Jirokichi), Tiệc khiêu vũ (Butokai), Niềm tin (Bisei no shin), Mùa thu (Aki), Thánh mẫu áo đen (Kokui Seibo), Chúa Kito ở Nam Kinh (Nankin no Kito), Cậu bé Đồ Tử Xuân (Toshishun), Bóng (Kage), Nàng O-Ritsu cùng lũ con (O-Ritsu to kodomo to).
- 1921 (30 tuổi) Ra tập truyện thứ tư Hoa nở về đêm (Yarai no hana). Cho ra mắt Bức họa núi thu (Shuzanzu), Cuộn tranh vẽ kiếp lai sinh (Ojo emaki), Thượng Hải du ký (Shanghai yuki), Mẹ (Haha), Đa tình (Koshoku).
- 1922 (31 tuổi) lại đi thăm Nagasaki. Tháng năm, cho ra tập tùy bút Điểm tâm (Tenshin), tháng tám, tuyển tập Hoa thiêng Shara[3] (Shara no hana), tháng mười một tập tiểu thuyết trung biên Tà Tông môn (Jashumon), coi như là phần tiếp theo của Jigokuhen. Sinh Takashi, con trai thứ. Lúc bấy giờ, sức khỏe của ông bắt đầu kém, có triệu chứng suy nhược thần kinh, thêm suy tim, rối loạn tiêu hóa vì lạm dụng thuốc ngủ. Khoảng thời gian này, viết Sư Tuấn Khoan (Shunkan); Bốn bề bờ bụi (Yabu no naka), Tướng quân (Shogun), Chiếc xe goòng (Torokko), Một truyện đền ơn (Ho - onki), Bà chúa Sáu (Roxu no miya no himegimi), Chợ cá (Uogashi), Trinh tiết (O - Tomi no Teiso), Hoa loa kèn (Yuri).
- 1923 (32 tuổi) cho đăng liên tiếp Lời phát biểu của một người hèn kém (Shuju no kotoba) trên Đungei Shunju. Tháng năm, cho ra mắt tập truyện thứ sáu nhan đề Áo Tết (Shunfuku). Quen biết với vợ chồng Okamoto Kanoko và Hori Tatsuo, cả hai sau đều là nhà văn có tiếng. Đi thăm Kyoto và viết B à à à à (Obabababa), rồi. Ba vật báu (Mitsu no Takara), Mấy con nộm (Hina), Trích sổ tay của Yasukichi (Yasukichi no techo kara), Bệnh của con (Kodomo no byoki), Cúi chào (Ojigi).
- 1924 (33 tuổi) Ra mắt tập truyện thứ bảy Gió Đông Nam (Kojakuhi). Biên tập sách nói về Văn chương Anh hiện đại (The modem series of Engỉish Literature) mất tám tháng ròng.
Ra tập tùy bút thứ hai Tạp thảo (Momokusa). Người chú chết, cậu em vợ thổ huyết, gây xúc động mạnh. Sức khỏe suy yếu dần. Trong năm viết Lời nhắn của cô dệt cửi (Itome oboegaki), Cục đất (Ikkai no tsuchi), Hòn đảo kỳ lạ (Fushigina shima), Cậu bé (Shonen), Cái lạnh (Samusa), Cuốn tiểu thuyết ái tình (Am ren - ai shosetsu).
- 1925 (34 tuổi) Ra mắt Tuyển tập Akutagawa Ryunosuke. Con trai thứ ba Yasushi ra đời. Phát hành Chuyến đi Trung Quốc (Shina Yuki) và sáng tác Thời trẻ của Shinsuke chùa Daidoji (Daidoji Shinsuke no hansei), Chân ngựa (Uma no kyaku), Tin tức từ trạm suối nước nóng (Onsendayori), Bên bờ biển (Umi no hotori). Có làm vài bài thơ nhưng vào thời điểm này, không những sức khỏe suy sụp mà hứng sáng tác cũng có vẻ cạn.
- 1926 (35 tuổi) Lại rối loạn tiêu hóa, suy nhược thần kinh phải lên suối nước nóng nghỉ ngơi. Cho phát hành tập tùy bút Ngựa, hoa mơ và chim cuốc (Ưma, ume, hototogisu). Đăng Cây quạt Hồ Nam (Konan no uchiwa), Một ngày cuối năm (Nenmatsu no ichinichi), Người đất Việt (Etsubito) (gồm 25 bài thơ đối đáp), Nhớ chuyện xưa (Tsui - oku), Đêm xuân (Ham no yo), Sổ điểm danh những người đã khuất (Tenkibo), di cảo Điềm gở (Kyo).
- 1927 (36 tuổi) về lại Tabata. Người anh vợ tên Nishikawa Yutaka tự sát sau khi đốt nhà, để lại một món nợ to, ông phải chạy đông chạy tây lo thanh toán. Bút chiến với Tanizaki Jun - ichiro chung quanh quan điểm nghệ thuật. Tập truyện thứ tám nhan đề Cây quạt Hồ Nam (Konan no Uchiwa) là tập truyện cuối cùng. Đêm 24 tháng 7 uống hai liều thuốc ngủ rất nặng, tự sát. Bên gối có đặt quyển Thánh Kinh. Để lại nhiều di thư cho thân nhân và bè bạn, trong đó có Thư gởi một người bạn cũ (Aru kyuyu e okuru tegami) viết cho Kume Masao. Ngày 27, đàn anh như Izumi Kyoka, bạn đồng lứa như Kikuchi Kan, lớp sau như Kojima Seijiro chung sức tổ chức tang lễ. Tác phẩm phát hành trước khi chết có Sơn trang Genkaku (Genkaku sobo), Ảo ảnh cuộc đời (Shinkiro), Hắn (Kare), Lại hắn (Kare daini), Biệt thự an nhàn (Yuyu - so), Xã hội thủy quái Kappa (Kappa), Dụ dỗ (Yuwaku), Nỗi u sầu của Taneko (Taneko no yu - utsu), Guồng máy - Chương đầu (Haguruma dai issho), Ba cánh cửa sổ (Mitsu no mado). Các di cảo được in trong năm gồm Hỏi và đáp trong bóng tối (Anchu mondo), tiếp đó là Lời phát biểu của một người dốt nát (Shuju no kotoba), Guồng máy (Haguruma), Đời một chú ngốc (Aru aho no issho), Người phương Tây (Seiho no hito) và Tục biên - Người phương Tây (Shoku Seiho no hito).
Tháng mười một, Toàn tập Akutagawa Ryunosuke gồm tám tập ra đời. Ngoài các tập luận thuyết văn học thì tùy bút cũng như các thi tập (mà ông viết với bút hiệu thơ Trừng Giang Đường) cũng được in lại.
Nguyễn Nam Trân
Chú thích:
[1] Mặt nạ có mõm chu chu như người đang thổi lửa. Mang lúc nhảy múa làm trò.
[2] Con nộm múa rối mà thầy tuồng Noromatsu Kampei dùng để diễn lần đầu năm 1670 ở Edo (Tokyo bây giờ).
[3] Trong kinh Phật, hoa này mọc ở vườn Kỳ Viên bên Thiên Trúc.
Trinh Tiết Trinh Tiết - Akutagawa Ryunosuke Trinh Tiết