When you look at the sun during your walking meditation, the mindfulness of the body helps you to see that the sun is in you; without the sun there is no life at all and suddenly you get in touch with the sun in a different way.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Toni Morission
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Beloved
Dịch giả: Hồ Như
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Hải Trần
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 868 / 20
Cập nhật: 2016-02-29 20:21:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
hông hẳn vội vã, nhưng không để mất thời gian, Sethe và Paul D leo lên những bậc thang trắng. Choáng ngợp vì đã hết sức may mắn tìm được nhà chị và chị ở nhà, cũng như vì chắc chắn sẽ được ân ái với chị, Paul D buông đi ký ức của hai mươi lăm năm qua. Trước anh một bậc thang là người thay thế Baby Suggs, cô gái mà họ từng mơ đến ban đêm và vì cô mà giao hợp với bò lúc rạng đông trong khi chờ cô lựa chọn. Hôn trên lưng chị không thôi đã đủ làm cho căn nhà rung chuyển, đã khiến anh phải đập căn nhà ra từng mảnh. Bây giờ anh sẽ làm hơn nữa.
Chị dẫn anh đến đầu cầu thang, nơi ánh sáng từ bầu trời rọi thẳng xuống vì cửa sổ tầng hai không nằm trên tường mà ở trên trần dốc của ngôi nhà. Chị dẫn anh vào một trong hai phòng, thầm mong anh không phiền lòng vì chị không sẵn sàng, vì cho dù chị biết nỗi thèm muốn là cái gì, chị đã quên mất nó ra sao; cái ghì siết và nỗi bất lực trong hai bàn tay; thị giác lòa đi cho đến khi đôi mắt chỉ còn nhìn thấy những chỗ để nằm xuống, và tất cả mọi thứ khác - nắm cửa, dây buộc, móc áo, nỗi u buồn co ro, và thời gian đang trôi qua - chỉ là vật chướng ngại.
Họ chưa cởi xong quần áo mọi chuyện đã xong xuôi. Nửa người trần truồng và thở gấp, họ nằm bên nhau, giận nhau và giận khung cửa sổ sáng trên trần nhà. Giấc mơ của anh về chị đã xưa quá, cũ quá rồi. Nỗi thiếu thốn của chị là không có giấc mơ nào của riêng chị. Giờ đây họ hối tiếc và quá ngượng ngùng không thể nào trò chuyện.
Sethe nằm ngửa, đầu quay đi hướng khác. Từ khóe mắt, Paul D nhìn thấy và không thích hình dáng khuôn ngực của chị, vẻ tròn xẹp và chảy xệ anh chắc chắn không cần đến trong đời, mặc dù ở dưới lầu anh đã ôm lấy ngực chị như thể đấy là phần đắt giá nhất của chính mình. Mê trận sắt uốn mà anh đã xem xét tỉ mỉ như kẻ đào vàng vọc tay vào đất quặng trên lưng chị, thật ra chỉ là một cụm sẹo ghê tởm. Không phải cái cây như chị nói. Có thể nó có hình dáng cái cây, nhưng nó hoàn toàn không sống như những cái cây anh biết vì cây cối trông niềm nở, chúng là thứ người ta có thể tin cậy và gần gũi, nói chuyện cùng nếu người ta muốn; như anh thường làm hồi xưa lúc anh ăn trưa trên cánh đồng của Tổ ấm. Anh luôn luôn ăn bữa trưa ở cùng một chỗ nếu anh có thể và việc chọn chỗ không phải là dễ vì Tổ ấm có nhiều cây đẹp hơn mọi nông trại xung quanh. Anh gọi cây anh chọn là Anh Em, và ngồi dưới gốc của nó, đôi khi một mình, đôi khi với Halle hoặc với những Paul khác, nhưng thường là với Sixo lúc ấy còn nói tiếng Anh và chưa trở nên điên dại. Da màu chàm và lưỡi đỏ chói, Sixo thí nghiệm nướng khoai tây qua đêm, gắn biết chính xác khi nào phải đặt đá nóng bốc khói vào lỗ, xếp khoai tây bên trên và phủ bằng cành cây để đến lúc họ nghỉ ăn trưa, buộc mấy con thú, rời cánh đồng đến Anh Em, khoai tây sẽ chín đến mức tuyệt hảo. Nó có thể dậy lúc nửa đêm. ra tận ngoài ấy, bắt đầu phủ đất lên trong ánh sao hay liền sau bữa ăn nó sẽ làm đá nguội bớt và xếp khoai để giành ăn ngày hôm sau lên trên. Nó chưa bao giờ làm được đúng cách, nhưng họ vẫn ăn những củ khoai chưa chín, quá chín, khô queo hay còn sống, cười, nhổ ra và cho nó lời khuyên.
Thời gian không trôi đi theo cách Sixo nghĩ, cho nên dĩ nhiên nó không bao giờ làm được đúng cách. Có lần nó tính toán đến từng phút cho một chuyến đi ba mươi dặm để gặp một người đàn bà. Nó khởi hành vào ngày thứ Bảy khi mặt trăng ở chỗ nó muốn, đến căn nhà gỗ của cô ta trước giờ lễ nhà thờ ngày Chủ nhật và chỉ có đủ thời gian chào hỏi trước khi phải trở về để kịp giờ ra đồng sánh thứ Hai. Nó lội bộ mười bảy giờ, ngồi xuống một giờ, quay lại và lội bộ mười bảy giờ nữa. Cả ngày Halle và mấy anh em Paul che giấu vẻ mệt mỏi của Sixo để ông Garner không biết. Hôm đó họ không ăn củ khoai tây nào, khoai ngọt hay khoai trắng. Nằm sóng soài cạnh Anh Em, giấu đi chiếc lưỡi đỏ chói, khuôn mặt màu chàm khép kín. Sixo ngủ như chết đến sau bữa ăn tối. Đấy mới là đàn ông và đấy mới là cái cây. Chính anh đang nằm trong giường và cái "cây" nằm cạnh anh không sao sánh bằng.
Paul D nhìn qua cửa sổ phía trên hai chân và kê hai tay gối đầu. Một khuỷu tay chạm phớt qua vai Sethe. Lớp vải chạm vào làn da làm chị giật mình. Chị đã quên anh chưa cởi áo sơ mi. Đồ chó, chị nghĩ và rồi nhớ ra chị đã không cho anh đủ thời gian để cởi áo. Hay cho chính chị thời gian để cởi váy lót mặc dù chị đã bắt đầu cởi trang phục từ trước khi chị thấy anh trên hàng hiên, giày tất của chị đã ở trong tay chị và chị không hề mang chúng trở lại; anh đã nhìn hai bàn chân trần ướt của chị và muốn bắt chước, khi chị đứng dậy nấu ăn anh đã cởi áo chị thêm nữa; xét cho cùng họ đã bắt đầu cởi áo nhanh đến thế, thì lẽ ra bây giờ họ phải hoàn toàn lõa thể. Nhưng có lẽ như Baby Suggs thường nói, đàn ông chỉ là thế thôi, không hơn không kém. Họ khuyến khích bạn đặt chút sức nặng của bạn vào tay họ và lúc bạn vừa cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu, thì họ vạch vòi những vết sẹo và những khổ cực của bạn, rồi sau đó họ làm điều anh đã làm: đuổi con chị đi và phá banh căn nhà. Chị cần đứng dậy, xuống lầu và hàn gắn lại tất cả. Căn nhà anh bảo chị bỏ đi như thể đấy là một thứ nhỏ nhặt - một chiếc áo sơ mi hay giỏ khâu có thể bỏ mặc hay cho đi lúc nào cũng được. Chị, người chưa từng có căn nhà nào ngoài căn nhà này, chị, người đã rời sàn đất để đến căn nhà này, chị, người phải mang một nắm củ cây hào vào bếp nhà bà Garner mỗi ngày để có thể làm việc trong ấy, để cảm thấy nó thuộc về chị một phần nào vì chị muốn yêu công việc chị làm, để gạt bỏ xấu xa đi và cách duy nhất chị có thể cảm thấy dễ chịu ở Tổ ấm là hái một loại cây cỏ xinh đẹp nào đó và mang theo mình. Ngày nào chị quên, ngày ấy bơ không nổi lên hay nước muối trong thùng làm phồng da cánh tay chị.
Ít nhất thì chuyện dường như là thế. Một vài đóa hoa vàng trên bình, vài cây mía buộc quanh tay cầm của cái bàn ủi dùng để giữ cánh cửa mở đón gió nhẹ làm chị yên ả lại, và khi bà Garner và chị ngồi xuống để nhặt rễ cứng hoặc làm mực viết, chị cảm thấy dễ chịu. Dễ chịu. Không sợ những người đàn ông đằng xa. Năm người ngủ trong khu nhà ở gần chị, nhưng không bao giờ về vào ban đêm. Chỉ giơ tay chạm vào chiếc mũ tơi tả khi họ gặp chị và nhìn chị chằm chằm. Và nếu chị mang thức ăn cho họ ngoài đồng, thịt heo muối và bánh mì gói trong một mảnh khăn sạch, họ không bao giờ nhận thức ăn từ tay chị. Họ đứng xa xa và đợi chị đặt nó trên mặt đất (dưới gốc cây) và bỏ đi. Hoặc là họ không muốn lấy bất cứ cái gì từ tay chị, hoặc là họ không muốn chị nhìn thấy họ ăn. Hai ba lần chị nấn ná. Núp trong bụi kim ngân, chị theo dõi họ. Không có chị, họ khác làm sao, cách họ cười và chơi đùa và đi tiểu và ca hát. Tất cả trừ Sixo người chỉ cười một lần - lúc cuối cùng. Halle dễ thương nhất, dĩ nhiên. Con thứ tám và là út của Baby Suggs, làm thuê khắp hạt để chuộc mẹ ra khỏi nơi ấy. Nhưng hóa ra anh cũng chỉ là một người đàn ông không hơn không kém.
"Đàn ông chỉ là thế thôi, không hơn không kém", Baby Suggs nói. "Nhưng một đứa con trai? Ôi chao, đấy mới là người quan trọng."
Điều ấy hợp lý vì nhiều nguyên do bởi suốt cuộc đời của Baby Suggs cũng như đời của Sethe, đàn ông đàn bà bị chuyển dịch như những con cờ. Không người nào Baby Suggs biết chứ đừng nói yêu, là không chạy trốn hoặc không bị treo cổ, bị cho mướn, cho mượn, mua lại, trả lại, dự trữ, cầm cố, thắng cuộc, lấy cắp hay bắt giữ. Vì thế tám người con của Baby Suggs có sáu cha. Theo bà, ác nghiệt của cuộc đời là nỗi sửng sốt của bà khi bà biết ra không ai ngừng chơi cờ chỉ vì trong đám quân cờ có con của bà. Bà giữ được Halle lâu nhất: hai mươi năm. Một đời người. Trao tặng cho bà, chắc hẳn để bù đắp cho chuyện bà đã chỉ nghe tin chứ không thể vẫy tay từ giã hai đứa con gái bị bán và đưa đi lúc chưa hết răng sữa. Bù đắp cho bà vì bà đã ăn nằm với một tên đốc công trong bốn tháng để được giữ lại đứa con thứ ba, một đứa con trai - chỉ để thấy nó bị đổi lấy củi vào mùa xuân năm sau và biết ra bà đã mang thai với gã đàn ông đã hứa sẽ không đổi con bà, và đã bị thất hứa. Đứa con ấy bà không thể thương và những đứa sau bà không muốn thương. "Chúa lấy đi theo ý Chúa bà nói. Và Chúa lấy đi, và Chúa lấy đi, và Chúa lấy đi và rồi tặng bà Halle, đứa con đã cho bà tự do khi tự do không còn ý nghĩa gì nữa.
May mắn lạ thường của Sethe là sáu năm tròn hôn nhân với người con trai "quan trọng" ấy, cha của tất cả con chị. Một ân sủng chị đã bất cẩn xem là chuyện đương nhiên, nương tựa vào đấy như thể Tổ ấm quả thật là một căn nhà đầm ấm. Như thể một nắm mía nhét vào tay cầm của cái bàn ủi chặn cửa trong căn bếp của một bà da trắng có thể biến căn bếp ấy thành bếp của chị. Như thể nhánh bạc hà trong miệng biến đổi được hơi thở cũng như mùi hôi của miệng. Chưa có ai khờ dại như thế.
Sethe dợm trở mình nhưng lại thôi. Chị không muốn gợi chú ý của Paul D, vì thế chị chỉ bắt chéo cổ chân.
Nhưng Paul D nhận biết cử động cũng như hơi thở khác đi của chị. Anh cảm thấy mình phải thử lại, lần này chậm hơn, nhưng cơn thèm đã qua. Thật ra không thèm muốn chị là một cảm giác dễ chịu. Hai mươi lăm năm và rồi chỉ là thoáng chốc!
Một điều Sixo có thể làm - như lần nó thu xếp hẹn hò với Patsy Người-đàn-bà-ba-mươi-dặm. Phải mất ba tháng và ba chuyến đi về dài ba mươi bốn dặm nó mới làm được. Thuyết phục được cô đi bộ một phần ba đường về phía nó, đến một chỗ nó biết. Một tòa nhà đá bỏ hoang người da đỏ dùng hồi xưa khi họ tưởng đất đai là của họ. Sixo khám phá ra tòa nhà trong một chuyến lẻn đi ban đêm, và xin phép tòa nhà cho nó vào ở bên trong sau khi đã cảm nhận được nơi chốn ấy như thế nào. Nó xin Thần Linh Da Đỏ cho phép nó mang người đàn bà của nó đến. Thần Linh bằng lòng và nó chỉ đường đi cặn kẽ cho cô giờ khởi hành chính xác, tiếng huýt gió chào mừng hay cảnh cáo của nó sẽ như thế nào. Họ thật sự có thể gặp ngay vì cả hai không được phép đi đâu làm chuyện riêng của mình, và vì Người- Đàn-bà-ba-mươi-dặm đã mười bốn tuổi và đã được định cho vòng tay của một kẻ khác. Khi nó đến, cô chưa đến. Nó huýt sáo và không thấy đáp lại. Nó vào chỗ ở bỏ hoang của dân da đỏ. Cô không có đấy. Nó trở lại chỗ hẹn. Cô không có đấy. Nó đợi lâu hơn. Cô vẫn không đến. Nó lo lắng cho cô và bước xuống đường về hướng cô ta sẽ đến. Được ba bốn dặm, nó ngừng lại. Đi tiếp về hướng ấy là vô vọng vì thế nó đứng trong gió và cầu xin giúp đỡ. Lắng tai để tìm một dấu hiệu nào đấy, nó nghe thấy một tiếng rên. Nó quay về hướng đó, đợi và lại nghe thấy tiếng rên.
Lúc ấy, đã thành liều lĩnh, nó gọi to tên cô. Cô trả lời bằng giọng nó nghe như còn sống - chưa chết. "Đừng cử động!" nó hét. "Thở mạnh cho anh tìm thấy em." Nó tìm ra thật. Cô ngỡ đã đến chỗ hẹn và đang khóc vì tưởng nó không giữ lời. Lúc ấy đến nhà Da Đỏ đã quá trễ, vì thế tụi nó nằm lăn ra tại chỗ. Sau đó nó đâm thủng bắp chân cô giả dạng dấu rắn cắn để cô có lý do giải thích tại sao cô không đến đúng giờ để làm việc giũ sâu khỏi lá thuốc lá. Nó chỉ dẫn tường tận cho cô cách theo dòng suối đi tắt về và tiễn cô đi. Khi nó đến đường lộ trời đã sáng tỏ và nó cầm quần áo trong tay. Bất thần, từ sau khúc quanh một chiếc xe ngựa lăn bánh đến. Người đánh xe trợn mắt, giơ cao cây roi trong khi người đàn bà ngồi cạnh hắn che mặt. Nhưng Sixo đã lẩn vào rừng trước khi ngọn roi kịp quất xuống trên tấm lưng màu chàm của nó.
Nó kể chuyện cho Paul F. Halle. Paul A và Paul D bằng một lối kể lạ thường khiến họ dở khóc dở cười. Sixo vào rừng cây ban đêm. Để nhảy múa, nó nói. Để mạch máu mở, nó nói. Nó làm như thế riêng tư, một mình. Không một ai trong những người còn lại nhìn thấy nó nhảy múa, nhưng họ có thể tưởng tượng và hình ảnh họ vẽ vời làm họ hăng hái cười ngạo nó - lúc ban ngày, khi an toàn.
Nhưng đấy là trước khi nó ngưng nói tiếng Anh vì nói tiếng Anh không có lợi gì. Nhờ Người-đàn-bà-ba-mươi-dặm, Sixo là người duy nhất không bị tê liệt vì khao khát Sethe. Không có gì sung sướng hơn ân ái với chị, Paul D đã thỉnh thoảng tưởng tượng đến trong hai mươi lăm năm. Anh mỉm cười vì sự khờ khạo của mình và trìu mến nghĩ về mình ngày xưa trong lúc anh xoay nằm nghiêng, đối diện chị. Mắt Sethe nhắm, tóc rối bời. Nhìn như thế này, không có đôi mắt sáng loáng khuôn mặt chị không quyến rũ lắm. Vậy đôi mắt chị hẳn là điều làm anh vừa dè chừng vừa khích động. Không có đôi mắt, khuôn mặt chị dịu hơn - anh tự chủ được với khuôn mặt ấy. Có thể nếu chị cứ nhắm mắt như thế. Nhưng không, còn miệng chị. Xinh. Halle không hề biết anh đã có cái gì.
Mặc dù mắt chị nhắm, Sethe biết tia nhìn của anh ở trên mặt chị, và đôi mắt trong tâm tưởng của chị nhìn thấy một hình ảnh của chính mình, hình ảnh chắc phải xấu xí lắm. Dù vậy tia nhìn của anh không giễu cợt. Mềm mại. Nó mềm mại một cách mong đợi. Anh không xét đoán chị - hay đúng hơn anh xét đoán nhưng không so sánh chị. Từ Halle đến bây giờ chưa người đàn ông nào nhìn chị như vậy: không yêu thương hay nồng nàn, nhưng chú tâm. Như thể anh đang xem xét bắp ngô tốt hay xấu. Halle như một người anh hơn là người chồng.
Sự chăm sóc của anh gợi nhớ đến quan hệ gia đình hơn là sự xác định sở hữu của một người đàn ông. Bao nhiêu năm họ chỉ nhìn thấy nhau ban ngày vào Chủ nhật. Thời gian còn lại họ nói chuyện hay đụng chạm hay ăn uống trong bóng tối. Bóng tối trước rạng đông và sau hoàng hôn. Vì thế nhìn nhau chăm chăm là niềm vui sáng Chủ nhật, và Halle nhìn ngắm chị như thể anh đang dồn trữ lại những gì anh thấy trong ánh sáng ban ngày để bù đắp cho chiếc bóng mờ anh nhìn thấy suốt thời gian còn lại trong tuần. Anh có quá ít thời gian. Ngoài việc ở Tổ ấm anh làm việc chiều Chủ nhật là để trả nợ cho mẹ. Khi anh hỏi Sethe làm vợ, Sethe hân hoan nhận lời và rồi họ không biết phải làm sao, không biết phải làm gì kế tiếp. Phải có một buổi lễ chứ? Mục sư, nhảy múa, tiệc tùng, điều gì đó. Chị và bà Garner là hai phụ nữ duy nhất ở đấy, nên chị quyết định hỏi bà.
"Halle và con muốn lấy nhau, thưa bà Garner."
"Ta có nghe." Bà mỉm cười. "Nó đã nói với ông Garner rồi. Con có bầu chưa?"
"Thưa bà chưa."
"Ôi con sẽ có bầu. Con biết vậy, phải không?"
"Vâng thưa bà."
"Halle dễ thương, Sethe ạ. Nó sẽ tử tế với con."
"Nhưng con muốn nói chúng con muốn lấy nhau."
"Con mới nói rồi. Và ta bảo được."
"Có đám cưới không ạ?"
Bà Garner đặt thìa nấu ăn xuống. Cười cười, bà chạm tay lên đầu Sethe nói: "Con là đứa trẻ dễ mến." Rồi thôi.
Sethe lén may chiếc áo và Halle treo dây thừng buộc thú lên một cái đinh trên tường trong căn nhà gỗ của chị. Họ ăn nằm với nhau lần thứ ba trên tấm nệm dưới sàn đất của căn nhà gỗ.
Hai lần đầu là ở mảnh ruộng ngô nhỏ xíu ông Garner trồng vì ngô là loại cây cả súc vật lẫn người đều ăn được. Sethe và Halle cùng tưởng là họ đã núp kỹ. Nằm bẹp dưới những thân ngô họ không nhìn thấy được gì kể cả những ngọn ngô nghiêng ngả trên đầu họ mà người khác ai cũng nhìn rõ.
Sethe mỉm cười vì sự khờ khạo của mình và Halle. Ngay cả mấy con quạ cũng biết và đến nhìn. Thôi bắt chéo chân, chị dằn được không cười ra tiếng.
Nhảy từ con bê sang con gái không có gì ghê gớm, Paul D nghĩ. Không phải sự thay đổi ghê gớm như Halle vẫn đinh ninh. Làm tình với chị trong ruộng ngô thay vì chỗ chị ở, cách căn nhà gỗ của những kẻ thua trận một thước là một cử chỉ ân cần. Halle muốn giữ riêng tư cho chị nhưng lại thành biểu diễn công cộng. Ai mà không thấy một gợn sóng nơi ruộng ngô trong một ngày không mây lặng gió? Anh, Sixo và hai Paul kia ngồi dưới gốc Anh Em, dội nước trong trái bầu khô lên đầm và qua đôi mắt ròng ròng nước giếng, họ nhìn râu ngô hỗn loạn trong cánh đồng bên dưới. Thật là khó, khó, khó, khó để ngồi đó cương cứng như chó, nhìn thân ngô nhảy múa giữa trưa.
Nước chảy trên đầu họ còn làm tệ thêm.
Paul D thở dài và trở mình. Sethe nhân chuyển động của anh cũng trở mình. Nhìn lưng Paul D chị nhớ vài thân ngô đã gẫy gập lại trên lưng Halle, và một trong những thứ ngón tay chị đã nắm chặt lấy là vỏ và râu ngô.
Râu ngô mượt mà làm sao. Chất ngọt giam kỹ làm sao.
Nỗi ngưỡng mộ ghen tị của bọn đàn ông đã ngắm nhìn Halle và Sethe tan chảy với bữa tiệc ngô non họ tự thết mình tối hôm ấy. Những bắp ngô non bẻ từ những thân ngô mà ông Garner hẳn đinh ninh đã bị mấy con chồn làm gẫy. Paul F muốn nướng phần ngô của mình, Paul A muốn luộc phần của mình và bây giờ Paul D không thể nhớ nổi rốt cục họ đã nấu mấy bắp ngô non chưa ăn được như thế nào. Điều anh nhớ là lúc anh rẽ râu ngô để tìm đầu trái bắp, cạnh móng tay của anh chỉ ấn nhẹ xuống để khỏi xước một hạt nào.
Tiếng lớp vỏ chật bị kẻo toạc xuống luôn luôn làm chị tin nó bị đau.
Ngay sau khi một lớp vỏ đã bị kéo xuống, lớp vỏ còn lại kéo theo và phơi bày ra những hàng hạt ngô e thẹn dâng đến cho anh. Râu ngô mượt mà làm sao. Chất ngọt giam kỹ tuôn ra nhanh chóng làm sao.
Dù răng và những ngón tay ướt của bạn chờ đợi điều gì, bạn vẫn không thể giải thích được nỗi rung động mà niềm vui bình dị ấy mang lại.
Râu ngô mượt mà làm sao. Mượt mà và mỏng mảnh và tự do làm sao.
Thương Thương - Toni Morission Thương