The wise man reads both books and life itself.

Lin Yutang

 
 
 
 
 
Tác giả: Ransom Riggs
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 12 - chưa đầy đủ
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4781 / 181
Cập nhật: 2022-06-27 09:41:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7
húng tôi đi theo người trợ lý của Bentham vào căn phòng, đi qua những món đồ nội thất quen thuộc, qua bức tường thứ tư bị mất, và bước ra một khu rừng thường xanh rậm rạp. Trong đó đang là giữa trưa, vào quãng cuối thu hay đầu xuân, không khí giá lạnh và khen khét mùi khói của gỗ cháy. Bàn chân chúng tôi bước lạo xạo trên một lối mòn đã hình thành rõ ràng, âm thanh chỉ còn tiếng chim hót và tiếng nước đổ từ trên cao xuống ào ào khe khẽ nhưng ngày một rõ. Người trợ lý của Bentham nói rất ít, và với chúng tôi thế cũng tốt; Emma và tôi đang ở trong trạng thái căng thẳng bồn chồn cao độ và không hề hứng thú với những cuộc trò chuyện tán gẫu.
Chúng tôi đi xuyên qua rừng cây và chui ra vào một con đường lượn vòng quanh một triền núi. Phong cảnh chơi trụy toàn đá xám xịt và những vạt tuyết. Xa xa là những cây thông như những hàng lông bàn chải cứng đơ. Chúng tôi chạy đi với nhịp vừa phải, cẩn thận để không làm mình kiệt sức quá sớm. Sau vài phút, Chúng tôi đi vòng quanh một khúc uốn cong và thấy mình đang đứng trước một thác nước đổ ào ào như sấm dậy.
Ở đây có một trong những biển chỉ đường Bentham đã hứa. LỐI NÀY, nó ghi rõ như ban ngày.
" Chúng ta đang ở đâu vậy?" Emma hỏi.
" Argentina." Người trợ lý đáp.
Theo biển hiệu, chúng tôi đi theo một lối mòn đã dần bị cây to vào bụi cây mọc lên che lấp. Chúng tôi gạt những bụi mâm tôi sang bên và khó nhọc tiến bước, thác nước lặng dần sau lưng. Lối mòn kết thúc ở một con suối nhỏ. Chúng tôi men theo dòng suối vài trăm mét cho tới khi đến lượt nó cũng kết thúc, dòng nước chảy vào một cửa hàng thấp mở ra ở sườn đồi, lối vào bị dương xỉ và rêu che khuất. Người trợ lý quỳ gối xuống bên bờ suối và đẩy rạp một lùm cỏ dại xuống - sau đó cứng người như hóa đá.
"Cái gì vậy?" tôi thì thầm.
Anh ta rút một khẩu súng ngắn từ thắt lưng ra rồi bắn ba phát vào trong cửa hang. Một tiếng rú lạnh người vọng ra đáp lại, rồi một sinh vật lăn nhào xuống suối, đã chết.
"Cái gì vậy?" Tôi lại hỏi, Nhìn chằm chằm vào sinh vật nọ. Nó toàn những lông và móng vuốt.
"Không biết." Người trợ lý nói. "Nhưng nó đang rình đợi cậu."
Sinh vật đó không phải là thứ tôi có thể nhận dạng - nó có thân hình sần sùi, hàm răng sắc nhọn, và đôi mắt to lồi ra, và thậm chí đôi mắt giống như cũng phủ đầy lông. Tôi tự hỏi liệu có phải đã Caul phái nó phục ở đó - liệu có phải hắn đã lường trước kế hoạch có em trai và cài sẵn bẫy tại mọi lối dẫn vào Máy Xuyên Vòng của hắn.
Dòng suối cuốn cái khác đi.
"Bentham nói ông ấy không có khẩu súng nào cơ mà." Emma nói.
"Ông ấy không có." Người trợ lý đáp. "Khẩu súng này là của tôi.
Emma nhìn anh ta đầy trông đợi. "Vậy chúng tôi có thể mượn được chứ?"
"Không." Anh ta cất súng đi. Rồi chỉ vào trong hang. "Đi qua đó. Tìm đường lần ngược trở lại nơi chúng ta xuất phát. Cô cậu sẽ tới chỗ đám xác sống.
"Anh sẽ ở đâu?"
Anh ta ngồi xuống tuyết. "Đây."
Tôi nhìn Emma, cô lại nhìn tôi, cả hai chúng tôi cố che giấu mình đang cảm thấy mong manh ra sao. Cố bao một lớp thép quanh tim chúng tôi. Cho những gì chúng tôi có thể sẽ thấy. Có thể sẽ làm. Có thể sẽ xảy đến với chúng tôi.
Tôi lội xuống suối và giúp Emma xuống. Nước suối lạnh buốt. Cúi người xuống ngó vào trong hang, Tôi thấy ánh sáng ban ngày lờ mờ ở phía cuối hang. Một cuộc chuyển đổi nữa, từ bóng tối ra ánh sáng, một cuộc tái sinh giả hiệu.
Có vẻ không còn sinh vật đầy răng nanh nào đợi bên trong, vì thế tôi hạ mình xuống nước. Dòng suối dâng lên từ chân tới tận hông tôi, và một cơn lạnh buốt khiến tôi nghẹn thở. Tôi nghe thấy Emma xuýt xoa sau lưng mình khi cô làm điều tương tự, rồi tôi bám lấy thành cửa hang và chui vào trong.
Phải ngâm mình trong nước lạnh chảy xiết khiến người ta đau đớn như thế bị kim đâm lên khắp cơ thể. Mọi cảm giác đau đều là một động lực thúc đẩy, và cảm giác này lại càng thế; tôi quờ tay tìm chỗ bấu và khẩn trương đẩy mình qua đường hầm đá, trườn qua những mẩu đá sắc trơi nhẵn và những trụ đá chĩa xuống thấp, có lúc gần ngộp thở khi nước ngập kín mặt. Rồi tôi chui ra khỏi hang, và quay người lại giúp Emma.
Chúng tôi trèo lên khỏi dòng suối lạnh cóng và nhìn quanh. Cảnh vật giống hệt phía bên kia cái hang, chỉ có điều ở đây không có người trợ lý, không có vỏ đạn rơi trên tuyết, không có vết chân. Như thế chúng tôi vừa bước qua một tấm gương vào trong thế giới được nó phản chiếu, thiếu đi một vài chi tiết.
"Cậu tái mét kìa." Emma nói, đoạn kéo tôi lên bờ rồi ôm lấy tôi. Hơi ấm của cô lan đi trong tôi, đem cảm giác trở lại cho tứ chi tê dại.
Chúng tôi rảo bước, lần ngược lại từng bước con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi tìm đường trở lại chỗ bụi mâm xôi, lên quả đồi, đi qua chỗ thác nước - tất cả cảnh vật đều giống hệt, ngoại trừ tấm biển LỐI NÀY Bentham đã cắm sẵn cho chúng tôi. Nó không tồn tại ở bên này. Vòng Thời Gian này không thuộc về ông ta.
Chúng tôi lại tới chỗ khu rừng nhỏ. Phóng từ cây này sang cây khác, dùng mỗi thân cây làm vật che chắn cho tới khi chúng tôi tới cuối con đường mòn, thế chỗ nó là một cái sàn rồi một căn phòng, nằm ẩn sau và đẹp che giấu bởi hai cây linh sam mọc chéo nhau. Song căn phòng giày khác với căn phòng của Bentham. Nó trơ trụi - không đồ đạc, không giấy dán tường có hình hoa văn - và sàn cũng như vách tường đều là bê tông nhẵn nhụi. Chúng tôi bước vào trong và lần mò trong bóng tối tìm một cái cửa, lướt bàn tay dọc theo các vách tường cho đến khi tôi tình cớ mắc phải một tay cầm nhỏ được thu vào trong hốc.
Chúng tôi áp sát tai vào cánh cửa, lắng nghe xem có giọng nói hay có tiếng bước chân không. Tôi chỉ nghe thấy những tiếng vọng mơ hồ.
Thật từ tốn, thật cẩn thận, tôi hé cánh cửa ra một chút. Rồi ghé đầu qua khe hở để nhìn ra. Ở bên kia cửa là một sảnh rộng bằng đá lượn cong, sạch bóng như bệnh viện và sáng đến chói mắt, những bức tường nhẵn nhụi được trổ những cánh cửa cao màu đen, trông như những cửa nhà mồ, hàng chục cửa như thế uốn cong theo vách tường, nhanh chóng khuất khỏi tầm nhìn.
Nó đây: tòa tháp của lũ xác sống. Chúng tôi đã chui vào trong hang hùm.
* * *
Tôi nghe thấy tiếng bước chân lại gần. Tôi liền rụt đầu vào trong cửa. Không còn đủ thời gian để đóng cửa lại.
Qua khe hở, tôi thoáng thấy một bóng trắng vụt qua khi một người đàn ông đi ngang qua. Y bước đi hối hả, mặc áo choàng phòng thí nghiệm, cuối đầu xuống đọc một tờ giấy cầm trên tay.
Y không trông thấy tôi.
Tôi đợi tiếng bước chân của y ném xuống rồi rón rén chui ra hành lang. Emma theo sau, khép cửa đóng lại sau chúng tôi.
Trái hay phải? Sàn nhà dốc lên về bên trái, dốc xuống về bên phải. Theo lời Bentham, chúng tôi đang ở trong tòa tháp của Caul, song các tù nhân của hắn thì không có đây. Chúng tôi cần ra ngoài, vậy là đi xuống. Xuống, và sang phải.
Chúng tôi rẽ phải, men theo bức tường bên trong trong khi hành lang chạy xoáy trôn ốc xuống dưới. Những cái đinh cao su chân dài tôi kêu kèn kẹt. Trước đó tôi không nhận ra âm thanh này, và khung cảnh im lặng của dãy hành lang có tường cứng sẵn sàng khuếch đại mọi tiếng động khiến tôi phải bước từng bước rón rén.
Chúng tôi tiếp tục đi một lát, rồi Emma cứng người, và đôi cánh tay ngang tôi để chặn tôi lại.
Chúng tôi lắng nghe. Khi tiếng bước chân của chúng tôi đã lắng lại, chúng tôi có thể nghe thấy những tiếng bước chân khác. Chúng vang lên phía trước chúng tôi, và rất gần. Chúng tôi hối hả tìm tới cánh cửa gần nhất. Nói dễ dàng mở ra. Chúng tôi lao vào trong, đóng cửa lại, áp lưng tựa lên cửa.
Căn phòng chúng tôi chui vào có hình tròn, cả tường và trần đều thế. Chúng tôi đang ở trong một đường ống thoát nước khổng lồ, rộng tới chín mét và vẫn đang xây dựng dở dang - và không chỉ có hai chúng tôi ở đây. Cuối đường ống mở ra một ngày đang mưa, có một tá người đang ngồi trên một giàn giáo hình đường ống, ngỡ ngàng nhìn chúng tôi chằm chằm. Chúng tôi đã làm gián đoạn giờ nghỉ ăn trưa của họ.
"Này! Chúng mày vào đây kiểu gì thế?" Một người hét to.
"Chúng ta trẻ con." Một người khác nói. "Này, đây không phải sân chơi đâu!"
Họ là người Mỹ, và có vẻ không biết chúng tôi là ai. Chúng tôi không dám trả lời vì sợ nhỡ lũ xác sống trong hành lang nghe thấy, và tôi lo rằng tiếng la lối của những người công nhân có thể cũng sẽ thu hút sự chú ý của chúng.
"Cậu cầm theo cái ngón tay đó rồi chứ?" Tôi thì thầm với Emma. "Bây giờ có lẽ là lúc phù hợp để thử nó đấy."
Vậy là chúng tôi cho họ thưởng thức ngón tay. Nói vậy ý tôi là chúng tôi đeo mặt nạ treo bụi vào ( chúng bị dòng suối làm ướt nhẹp nhưng vẫn dùng được), Emma bóp vụn một ít ngón tay út của Mẹ Bụi, và chúng tôi bước theo đường ống về phía đám người và tìm cách tung bụi về phía họ. Đầu tiên, Emma thử thổi thứ bụi đó từ lòng bàn tay khum lại của cô, song chúng chỉ cuộn lên thành một đám bụi quanh đầu chúng tôi, làm mặt tôi ngứa ran nên và hơi tê đi. Sau đó, tôi thử ném bột, nhưng cũng không ăn thua. Có vẻ như thứ bột gày không hiệu quả lắm trong vai trò vũ khí tấn công. Đến lúc này, những người xây đường ống trở nên mất kiên nhẫn, và một người đã nhảy từ trên giàn giáo xuống để dùng vũ lực loii chúng tôi ra ngoài. Emma các ngón tay đi và dùng tay thắp lên một ngọn lửa - có một tiếng bụp! khi ngọn lửa trên tay Emma đốt cháy bụi đang lơ lửng trong không khí, chúng lập tức biến thành khói.
"Ái chà!" Người đàn ông thốt lên. Anh ta bắt đầu ho và nhanh chóng đổ vật xuống sàn, lăn ra ngủ. Khi vài người bạn chạy tới giúp anh ta, cả họ cũng trở thành nạn nhân của đám khói gây mê và ngã vật ra đất bên cạnh anh ta.
Đến lúc này, những người công nhân còn lại đã trở nên vừa tức giận vừa sợ và đang la hét về phía chúng tôi. Chúng tôi chạy trở lại chỗ cánh cửa trước khi tình hình có thể trở nên xấu hơn. Tôi kiểm tra để đảm bảo hành lang an toàn và chúng tôi lách người ta trở ra.
Khi tôi đóng cửa lại sau lưng, tiếng nói của những người đó lặng xuống hoàn toàn, như thế cánh cửa không chỉ ngăn giữ âm thanh lại bên trong mà bằng cách nào đó tắt luôn chúng đi.
Chúng tôi chạy một quãng ngắn, rồi dừng lại và lắng nghe tiếng bước chân, rồi lại chạy, rồi dừng và lắng nghe, lao vòng trôn ốc xuống tòa tháp, cứ chạy rồi dừng lặp đi lặp lại. Thêm hai lần nữa, chúng tôi nghe thấy có người tới và chạy vào nấp sau các cánh cửa. Bên trong một cánh cửa là một khu rừng nhiệt đới mịt mù hơn nữa vang vọng tiếng hú của khỉ, cánh cửa cuốn lại thì mở ra một căn phòng bằng gạch không nung, bên ngoài là mặt đất phủ tuyết dày và những dãy núi nhô lên lờ mờ phía xa.
Sàn dưới chân trở nên bằng phẳng và hành lang uốn thẳng ra. Sau chỗ ngoặt cuối cùng là một cặp cửa hai cánh, phía sau là ánh sáng ban ngày rạng rỡ.
" Đáng lẽ quanh đây phải có thêm lính gác chứ nhỉ?" Tôi bồn chồn nói.
Emma nhún vai và hất hàm về phía các cánh cửa, đó có vẻ là lối ra duy nhất của tòa tháp. Tôi sắp sửa đẩy cửa ra thì nghe thấy tiếng người nói ở phía bên kia. Một người đàn ông đang kể chuyện đùa. Tôi chỉ có thể nghe thấy bập bõm, không rõ từng tiếng, nhưng chắc chắn đây là một chuyện đùa, vì khi y kết thúc có một tràng cười phá lên.
"Lính gác của cậu đây." Emma nói, như một người phục vụ đang mang ra một món ăn tưởng tượng.
Chúng tôi có thể chờ và hi vọng chúng đi chỗ khác, hoặc mở cửa ra và xử lý chúng. Phương án sau can đảm và nhanh chóng hơn, vậy là tôi triệu hôi Jacob Mới lên và thông báo với cậu ta rằng chúng tôi sắp mở toang cửa ra và chiến đấu, và làm ơn đừng thảo luận chuyện này với Jacob Cũ, chắc chắn cậu ta sẽ nhăn nhó và cự lại. Nhưng khi tôi thu xếp xong thì Emma đã chia tay rồi.
Im lặng và nhanh chóng, cô đẩy mở một cánh cửa ra. Dàn hàng trước mặt chúng tôi là cái lưng của năm gã xác sống mặc đồng phục cọc cạch, tất cả đều đeo bên hông súng ngắn hiện đại loại dùng cho cảnh sát. Chúng đứng đó khá dửng dưng, mặt nhìn về phía đối diện với chúng tôi. Không gã nào thấy cửa mở. Phía trước chúng là một cái sân, bao quanh sân là những tòa nhà thấp trông như doanh trại, và vươn cao lên ở cách xa hơn là bức tường của pháo đài. Tôi trỏ trỏ về phía ngón tay xấu trong túi áo Emma - ngủ. Tôi mấp máy miệng, ý muốn nói làm lũ xác sống này bất tỉnh, sau đó lôi chúng vào trong tháp có vẻ là phương án hành động khả thi nhất. Cô hiểu, kéo cửa đóng lại một nửa, rồi bắt đầu moi ngón tay ra. Tôi với lấy những chiếc mặt nạ che bụi đang gài dưới thắt lưng.
Thế rồi có khối gì đó cháy rực vèo qua tường báo đài ngoài xa, bay trong không trung về phía chúng tôi thành một đường vòng cung đẹp mắt, rồi rơi bịch xuống giữa sân, làm bắn tung tóe khắp nơi những đám lửa nhỏ cháy chập chờn, khiến đám xác sống loạn cả lên. Hai gã xác sống đánh bạo lại xem thứ gì vừa rơi xuống, và trong lúc chúng cúi xuống kiểm tra nùm rác bẩn thỉu đang cháy, một quả cầu lửa tên lửa bay qua tường và rơi trúng một gã trong bọn. Y ngã vật ra, người bùng cháy. (Từ mùi hôi thối của thứ này, và nó lại còn cháy rất mạnh, thì có thể thấy đó là một hỗn hợp gồm xăng và phân).
Mấy tên gác còn lại chạy tới dập lửa cho đồng bọn. Một tiếng còi báo động bắt đầu vang lên chói tai. Trong vòng vài giây, lũ xác sống ào ào lao ra từ các toà nhà quanh sân và hối hả chạy về phía tường pháo đài. Cuộc tấn công của Sharon đã bắt đầu, Chúa ban phước cho ông ta, và vừa đúng lúc. Với một chút may mắn, nó sẽ cho chúng tôi cơ hội để tìm kiếm mà không bị cản trở - ít nhất trong vòng vài phút. Tôi đoán chắc không mất nhiều hơn chừng đó thời gian để lũ xác sống dẹp xong vài kẻ nghiện mật thần thánh được trang bị máy bắn đá.
Chúng tôi nhìn quanh sân. Ba phía sân được bao quanh bởi những toà nhà thấp, gần như giống hệt nhau. Không có mũi tên nhấp nháy hai bảng đèn nê-ông nào thông báo sự hiện diện của các Chủ Vòng. Chúng tôi sẽ phải tìm kiếm, nhanh hết mức có thể, và hi vọng mình gặp may.
Ba trong số mấy gã khác sống đã chạy lên tường, để lại hai gã đang dập lửa cho gã đang bị phân cháy phủ kín người. Chúng đang lăn gã này trên đất, quay lưng về phía chúng tôi.
Chúng tôi chọn ngẫu nhiên một tòa nhà - tòa nằm bên trái - và chạy tới cửa của nó. Bên trong là một căn phòng rộng nhét chật cứng đến ngộp thở các thứ nom và ngửi như quần áo cũ. Chúng tôi chạy xuống một lối đi, hai bên là từng dãy quần áo đủ hình thù, có xuất xứ từ đủ thời kỳ và nền văn hóa, tất cả đều được ghi nhãn và sắp xếp lại. Có lẽ đây là tủ quần áo cho tất cả các Vòng Thời Gian lũ xác sống đã thâm nhập. Tôi tự hỏi liệu cái áo len đan bác sĩ Golan khuôn mặt trong những lần hẹn gặp của chúng tôi có từng được treo trong căn phòng này hay không.
Nhưng các bạn của chúng tôi không có ở đây, và các Chủ Vòng cũng thế, vì thế chúng tôi len qua các lối đi tìm kiếm một lối sang toà nhà bên cạnh mà không phải đi trở ra khoảng sân trống trải.
Không có lối thông nào. Chúng tôi bỏ phải là mạo hiểm ra ngoài lần nữa.
Chúng tôi đi tới cửa và quan sát qua khe cửa, chờ đợi trong khi một kẻ tụt lại sau chạy qua sân, vừa chạy vừa mặc nốt bộ đồng phục lính gác. Khi đường đi đã an toàn, chúng tôi lao ra ngoài.
Những thứ bị bán vào rơi khắp nơi quanh chúng tôi. Khi đã hết phân, đội quân mới huy động tức thì của Sharon bắt đầu ném vào những thứ khác - gạch, rác, xác những con vật nhỏ Tôi nghe thấy một vật bị ném vào tuôn ra một tràng chửi rủa khi nó rơi bịch xuống đất và nhận ra hình thù méo mó của một cái đầu trên cầu đang lăn trên mặt đất. Nếu không phải tim tôi đang đập thình thịch, rất có thể tôi đã cười phá lên.
Chúng tôi băng qua được sân với toà nhà bên phía đối diện. Cánh cửa nom có vẻ hứa hẹn: nặng nề và bằng kim loại, chắc chắn nó đã được canh gác nếu như không phải vì tai lính gác bỏ vị trí chạy lên tường pháo đài. Hiển nhiên ở trong đó phải có thứ gì quan trọng.
Chúng tôi mở cửa và lách vào trong một phòng thí nghiệm nhỏ lát gạch men trắng sặc mùi hóa chất. Đôi mắt tôi bị thu hút về phía một chiếc tủ đựng đầy những dụng cụ phẫu thuật khủng khiếp, tất cả đều bằng thép sáng bóng. Có tiếng rù rù trầm trầm vọng qua tường, tiếng rung khi vận hành của máy móc, tất cả một thứ âm thanh khác nữa..."
"Cậu có nghe thấy không?" Emma nói, căng người ra nghe ngóng.
Tôi có nghe thấy. Nó được duy trì liên tục và lanh lảnh, nhưng rõ ràng là tiếng người. Ai đó đang cười.
Chúng tôi nhìn nhau bối rối. Emma đưa ngón tay của Mẹ Bụi cho tôi và dùng tay thắp một ngọn lửa, đoạn cả hai chúng tôi đều đeo mặt nạ vào. Chúng tôi nghĩ mình đã sẵn sàng cho bất cứ điều gì, cho dù khi hồi tưởng lại, đúng là chúng tôi chưa hề được chuẩn bị để sẵn sàng đối diện với chốn kinh hoàng đang chờ đợi phía trước.
Chúng tôi đi qua những căn phòng mà lúc này đang thật khó có thể mô tả lại vì tôi đã cố xóa chú ra khỏi trí nhớ của mình. Cứ phòng sau lại ghê rợn hơn phòng trước. Đầu tiên là một phòng mổ nhỏ, bàn mổ được trang bị bị những dây đai và kẹp giữ. Những cái ống bằng sứ nằm dọc theo các bức tường đứng sẵn sàng để hứng lấy chất lỏng chảy ra. Tiếp theo là một khu vực nghiên cứu, những cái xương sỏi nhỏ xíu và những thứ sương khác được nối vào các thiết bị điện và máy đo. Các bức tường dán những tấm ảnh được chụp lấy liền ghi lại các thí nghiệm tiến hành trên động vật. Đến lúc ấy thì chúng tôi rùng mình và phải đưa tay lên che mắt.
Song điều ghê sợ nhất vẫn còn ở phía trước.
Căn phòng tiếp theo là một thí nghiệm đang tiến hành dở dang. Chúng tôi bắt gặp hai y tá và một bác sĩ trong khi bọn họ đang tiến hành một quy trình giáo nào đó trên một đứa trẻ. Bọn họ căng một cậu bé ra giữa hai cái bàn, báo được trải ra bên dưới cậu bé để hứng những giọt rơi xuống. Một y tá giữ chặt hai bàn chân cậu bé, trong khi tay bác sĩ ghì chặt lấy đầu cậu và lạnh lùng nhìn chằm chằm vào mắt cậu.
Bọn họ quay lại và thấy chúng tôi, còn những chiếc mặt nạ che bụi chúng tôi đeo và hai bàn tay bốc lửa, họ liền la lên cầu cứu, nhưng không còn ai khác ở đó để mà nghe. Tay bác sĩ lao tới một cái bàn đầy những dụng cụ cắt, song Emma đã chặn được đường hắn, và sau một lát chống trả ngắn ngủi, hắn đành bỏ cuộc và giơ hai tay lên. Chúng tôi dồn đám người này vào góc phòng và bắt chúng nói cho chúng tôi biết các tù nhân bị nhốt ở đâu. Chúng không chịu nói lời nào, vậy là tôi thổi bụi vào mặt chúng cho tới khi chúng ngã vật ra thành một đống dưới sàn.
Đứa trẻ bị hoảng sợ nhưng không tổn hại gì. Có vẻ như cậu nhóc không biết làm gì để đáp lại những câu hỏi dồn dập của chúng tôi ngoài thút thít khóc - Em không sao chứ? Còn ai giống em nữa không? Ở đâu? - vì thế chúng tôi nghĩ vào lúc này tốt nhất là giấu cậu bé đi. Quấn cậu bé cho một tấm ga để giữ ấm, chúng tôi đặt cậu vào trong một ngăn tủ tường nhỏ, kèm theo lời hứa sẽ quay lại, tôi hi vọng chúng tôi có thể giữ lời.
Căn Phòng kế tiếp rộng và thoáng như một khu phòng trong bệnh viện. Có những hơn hai mươi chiếc giường được xích vào tường, và những người đặc biệt, cả người lớn lẫn trẻ con, bị buộc chặt vào giường. Không ai có vẻ còn tỉnh táo. Những cây kim và đường ống chạy từ lòng bàn chân họ tới những cái túi đang đầy dần thứ chất lỏng màu đen.
"Họ đang bị rút dịch." Emma nói, giọng lạc đi. "Linh hồn họ đang bị rút ra."
Tôi không muốn nhìn vào khuôn mặt họ, nhưng chúng tôi phải nhìn. "Ai đây, ai đây, các bạn là ai?" Tôi lẩm bẩm trong khi chúng tôi hối hả chạy từ giường này sang giường khác.
Thật đáng hổ thẹn, nhưng tôi đã hi vọng rằng không ai trong những con người khốn khổ này là bạn của chúng tôi. Chúng tôi nhận ra được vài người: Melina, cô gái điều khiển đồ vật từ xa. Cặp anh em trắng bệch, Joel-và-Peter, bị tách riêng ra để không có nguy cơ tạo ra một tiếng hét hủy hiệt nữa. Khuôn mặt họ nhắn nhó, các múi cơ căng cứng và nắm tay siết chặt ngay cả khi ngủ, như thể cả hai đều đang bị những giấc mơ khủng khiếp giày vò.
"Chúa ơi." Emma nói. " Họ đang cố chống cự."
" Vậy chúng ta hãy giúp họ." Tôi nói, và bước tới cuối giường Melina, tôi cẩn thận rút cây kim ra khỏi bàn chân cô. Một giọt chất dịch đen nhỏ xíu rỉ ra từ vết thương. Sau giây lát, khuôn mặt cô dãn ra.
"Xin chào." Một giọng nói cất lên từ đâu đó trong phòng.
Chúng tôi vụt quay lại. Một người đàn ông bị xềng chân đang ngồi trong góc. Ông ta cuộn tròn người lại và lắc lư, đồng thời có tiếng cười phá lên trong khi đôi môi không hề mỉm cười, đôi mắt ông ta như hai mảnh băng đen kịt.
Tiếng cười lạnh giá của ông ta chính là âm thanh chúng tôi đã nghe thấy vọng qua các căn phòng.
"Những người khác bị giam ở đâu?" Emma hỏi, quỳ gối xuống trước mặt ông ta.
"Sao cơ, tất cả họ đều ở đây cả rồi?" Người đàn ông nói.
"Không, những người khác." Tôi nói. "Chắc chắn phải có nhiều hơn."
Ông ta lại phá cười lên, hơi thở của ông ta phả ra thành một quầng sương nhỏ - thật lạ, vì trong phòng không hề lạnh. "Các người đang đứng ở trên họ đấy." Người đàn ông nói.
"Nghiêm túc đi nào!" Tôi gắt lên, mất bình tĩnh. " Chúng tôi không có thời gian cho trò này đâu."
"Làm ơn." Emma khẩn khoản. "Chúng tôi là người đặc biệt. Chúng tôi ở đây để giúp ông và mọi người, song trước hết chúng tôi cần tìm ra các Chủ Vòng của chúng ta. Họ đang ở trong tòa nhà nào?"
Người đàn ông nhắc lại rất chậm rãi. "Các người. Đang đứng. Ở trên họ." Những lời ông ta nói làm phả ra đều đều một luồng không khí lạnh giá vào mặt chúng tôi.
Đúng lúc tôi định túm lấy người đàn ông bà lắc, ông ta giơ một cánh tay ra và chỉ vào thứ gì đó đằng sau chúng tôi. Tôi quay lại và nhận ra một tay cầm được ngụy trang ẩn dưới sàn nhà lát gạch men - cũng như đường viền hình vuông của một nắp cửa.
Ở trên họ. Đúng nghĩa đen.
Chúng tôi chạy tới chỗ tay cầm, xoay nó, và kéo một cánh cửa lên khỏi sàn. Một cầu thang kim loại xoáy trôn ốc dẫn xuống bóng tối.
"Làm sao chúng tôi biết ông đang nói thật?" Emma hỏi.
" Các người không thể biết." Người đàn ông nói, và điều đó cũng chẳng sai.
"Vậy cứ thử nào." Tôi nói. Xét cho cùng, cũng chẳng còn nơi nào khác để đi, ngoài quay trở ra theo con đường chúng tôi đã đi vào.
Emma trông có vẻ rất đau khổ, ánh mắt cô đi từ cầu thang bên dưới nên những cái giường ở quanh chúng tôi. Tôi biết cô đang nghĩ gì, song thậm chí cô còn không yêu cầu điều đó - không có thời gian để đi qua từng chiếc giường tháo kim cho tất cả mọi người. Chúng tôi cần phải quay trở lại giúp họ sau. Tôi chỉ hi vọng khi chúng tôi quay trở lại, sẽ mang theo cùng gì đó nữa.
* * *
Emma hạ mình xuống cầu thang bằng kim loại rồi đi xuống cái hố tối om dưới sàn. Trước khi đi theo, tôi đưa mắt nhìn người đàn ông điên loạn và đưa một ngón tay đặt lên môi. Ông ta nhe răng cười và bắt chước cử chỉ của tôi. Tôi hi vọng ông ta có ý như thế thật. Tôi bắt đầu leo xuống cầu thang và kéo cánh cửa đậy xuống sau lưng mình.
Emma và tôi đứng sát cạnh nhau ở gần đỉnh cầu thang hẹp xoáy trôn ốc và nhìn xuống. Phải mất một lát để mắt chúng tôi thích nghi từ căn phòng sáng trưng phía trên sang hố ngầm gần như không chút ánh sáng nào có thành lát đá thô ráp này.
Cô nắm lấy cánh tay tôi và thì thầm vào tai tôi.
"Các phòng giam."
Cô chỉ xuống. Dần dà chúng lờ mờ hiện lên trong tầm mắt: những chấn song của các phòng giam.
Chúng tôi đi xuống cầu thang. Không gian bên dưới bắt đầu dần hiện ra: chúng tôi đang ở đầu một hành lang ngầm dài; chạy dọc hai bên là các phòng giam, và cho dù chúng tôi vẫn chưa thể thấy ai đang bị giam bên trong, tôi đã có một khoảnh khắc ngập tràn hi vọng. Nó đây rồi. Đây chính là nơi chúng tôi hi vọng tìm ra.
Thế rồi trong hành lang đột nhiên vang lên tiếng ủng nện xuống sàn. Cảm giác căng thẳng lan khắp người tôi. Một gã lính gác đang đi tuần, súng trường đeo bên vai, súng ngắn đeo bên hông. Hắn vẫn chưa thấy chúng tôi, nhưng hắn rồi sẽ thấy bất cứ lúc nào. Chúng tôi ở cách cánh cửa phía trên quá xa để hi vọng chạy thoát theo lối đã xuống, và khoảng cách dưới nền hầm quá xa để có thể dễ dàng nhảy xuống và chiến đấu với hắn, vì thế chúng tôi ngồi xổm xuống và thu mình ra sau, hi vọng phần tay vịn mảnh dẻ của cầu thang của để đủ để che giấu chúng tôi.
Nhưng không thể nào. Chúng tôi gần như ở ngang tầm mắt hắn. Hắn chỉ còn cách có hai mươi bước chân, rồi mười lăm. Chúng tôi cần phải làm gì đó.
Vậy là tôi làm.
Tôi đứng dậy và bước xuống cầu thang. Hắn thấy tôi ngay lập tức, tất nhiên rồi, nhưng trước khi hắn kịp nhìn kỹ tôi bắt đầu nói. "Mày không nghe thấy báo động sao? Tại sao mày lại không ở ngoài bảo vệ tường pháo đài?"
Đến khi hắn nhận ra tôi không phải là cấp trên hắn vẫn nhận lại thì tôi đã xuống tới sàn, và đến khi hắn bắt đầu đưa tay lấy súng thì tôi đã thu hẹp được nữa khoảng cách giữa chúng tôi, lao thẳng về hắn như một hậu vệ. Tôi dùng vai huých vào hắn đúng lúc hắn siết cò. Súng nổ vang, phát đạn bắn ra sau tôi. Chúng tôi cùng ngã lăn sàn. Tôi phạm phải sai lầm cố ngăn cản hắn bán một phát nữa trong khi đồng thời cố dùng cái ngón tay - lúc này nó nằm sâu trong túi áo phải của tôi - để tấn công hắn. Tôi không có đủ chân tay để làm cả hai việc, thế là hắn hất tôi ra và đứng dậy. Tôi tin chắc đáng lẽ tôi đã xong đời lúc ấy nếu hắn không thấy Emma đang lao về phía mình, hai bàn tay cháy rực, và quay sang bắn cô thay vì tôi.
Hắn siết cò bắn một phát nữa song phát súng luống cuống đi quá cao, và điều này cho tôi đúng cơ hội tôi cần để lồm cồm bò dậy và tấn công hắn lần nữa. Tôi ngáng hắn và chúng tôi cùng ngã nhào theo hành lang, lưng hắn đập mạnh vào chấn song của một phòng giam. Hắn đánh vào mặt tôi - thật mạnh, bằng khuỷu tay - và tôi lảo đảo ngã xuống. Rồi hắn đưa súng lên để bắn tôi, và cả Emma lẫn tôi đều không ở đủ gần để ngăn được hắn.
Đột nhiên, một đôi bàn tay mập mạp vươn ra từ trong bóng tối qua các chấn song, túm lấy tóc gã lính canh. Đầu hắn bị kéo mạnh ra sau và đập vào làm những chấn song kêu vang lên như chuông.
Gã lính canh mềm nhũn và trượt xuống sàn. Rồi Bronwyn bước tới từ bên trong phòng giam, áp mặt vào các chấn song, mỉm cười.
"Jacob! Emma!"
Tôi chưa bao giờ vui mừng đến thế khi thấy bất cứ ai khác. Đôi mắt to, nhân hậu của cô, cái cằm mạnh mẽ của cô, mái tóc nâu xơ xác của cô - đó chính là Bronwyn! Chúng tôi luồn cánh tay qua các chấn song ôm cô thật chặt, và cảm thấy xúc động cũng như nhẹ nhõm đến mức chúng tôi bắt đầu lắp bắp - "Bronwyn, Bronwyn." Emma thảng thốt. "Có thực là cậu đấy không?"
"Có đúng là cậu không đấy?"
Bronwyn nói. "Tất cả bọn mình đã cầu nguyện và hi vọng, và, phải, mình đã rất lo rằng lũ xác sống đã bắt được cậu..."
Bronwyn ghì chúng tôi vào các chấn song mạnh tới mức tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ đổ bốp một cái. Các chấn song này dày như gạch và làm bằng thứ vật liệu nào đó còn cứng hơn cả sắt, và tôi hiểu ra đây là lý do duy nhất khiến Bronwyn không thể rót ra khỏi phòng giam của cô.
"Khoong... thở được." Emma rên rỉ, Bronwyn liền xin lỗi rồi buông chúng tôi ra.
Lúc này, khi đã có thể nhìn kỹ Bronwyn, tôi nhận ra một vết bầm trên má cô và một vết sẫm màu rất có thể là máu ở một bên áo cô. "Chúng đã làm gì cậu vậy?" Tôi hỏi.
"Chẳng có gì ghê gớm cả." Cô đáp. " cho dù đã có nhiều lời đe dọa."
" Còn những người khác?" Emma nói, lại trở lên hoảng hốt. "Những người khác đâu?"
"Ở đây!" một giọng nói vọng lại từ phía cuối hành lang. "Đằng này!" Một giọng khác vang lên.
Và rồi chúng tôi quay lại, thấy khuôn mặt của các bạn mình đang áp sát vào các chấn song của những phòng giam chạy xuôi theo hành lang. Họ kia: Horace và Enoch, Hugh và Claire, Olive, đang há hốc miệng nhìn qua các chấn song về phía chúng tôi từ trên sát trần phòng giam của cô, lưng áp sát trần phòng - tất cả đều ở đó, tất cả đều đang hít thở và còn sống, ngoại trừ Fiona đáng thương - cô thiệt mạng khi rơi xuống vách đá ở trại động vật của cô Wren. Nhưng ngay lúc này chúng tôi không có cái quyền xa xỉ là thương khóc cho cô.
"Ôi, tạ ơn những loài chim, những loài chim thần kỳ khốn kiếp!" Emma reo lên, chạy tới cầm tay Olive. "Cậu không thể hình dung ra bọn tớ đã lo lắng thế nào đâu!"
"Cũng không bằng một nửa những gì hội này đã lo lắng!" Hugh nói vọng lên từ cuối hành lang.
"Tớ đã nói với họ là các cậu sẽ tìm đến bọn tớ" Olive nói, gần òa khóc. "Tớ nói đi nói lại với họ mãi, nhưng Enoch cứ luôn nói tớ nghĩ vậy thì đúng là đồ ngốc..."
" Đừng bận tâm, giờ họ đây rồi!" Enoch nói. "Cái gì khiến hai người lâu gớm thế?"
"Nhân danh Perplexus, làm thế nào các cậu tìm được bọn mình thế?" Millard hỏi. Cậu ta là người duy nhất lũ xác sống bận tâm cho mặc đồ tù nhân - một bộ đồ áo liền quần kẻ sọc cho dễ thấy.
"Bọn tớ sẽ thuật lại toàn bộ câu chuyện." Emma nói. "Nhưng trước hết chúng ta cần tìm các Chủ Vòng và đưa tất cả mọi người ra khỏi đây đã!"
"Họ ở cuối hành lang!" Hugh nói. "Qua chỗ cánh cửa lớn ấy!"
Ở cuối hành lang có một cánh cửa kim loại đồ sộ. Trông nó có đủ vững chãi để đảm bảo an toàn cho hầm an ninh của một ngân hàng - hay chặn đứng một con hồn rỗng.
"Các cậu cần có chìa khóa." Bronwyn nói, và cô chỉ vào một chùm chìa khóa trên người gã lính canh bất tỉnh.
"Cái chìa to bằng vàng ấy. Tớ đã thấy hắn dùng nó!"
Tôi hối hả tới chỗ đã đứng canh và giật chùm chìa khóa khỏi thắt lưng hắn. Sau đó, tôi cầm nó đứng như hóa đá, mắt nhìn qua nhìn lại giữa các cửa phòng giam và Emma.
"Nhanh lên, giúp bọn này ra đi!" Enoch nói.
"Bằng chìa nào đây?" Tôi nói. Chùm chìa khóa có đến hàng chục chiếc, tất cả đều giống hệt nhau trừ chiếc chìa vàng to.
Mặt Emma tối sần. "Ôi, không"
Sẽ sớm có thêm lính canh tới, và mở khóa tất cả các giam sẽ mất nhiều phút quý giá. Vậy là chúng tôi chạy tới cuối hành lang, mở khóa cánh cửa, rồi đưa chùm chìa khóa cho Hugh, người bị giam trong phòng gần đó nhất. "Mở cửa cho chính cậu rồi cho những người khác nhé!" Tôi nói.
"Rồi đợi ở đây cho tới khi bọn tớ quay lại đón các cậu." Emma nói thêm.
"Không đời nào!" Hugh nói. "Bọn tớ sẽ đi theo các cậu!"
Không có thời gian để tranh cãi - và tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe được những lời đó. Sau suốt quãng thời gian chúng tôi phải đơn độc xoay sở vừa qua, tôi rất trông đợi có thêm trợ giúp.
Emma và tôi kéo mở cánh cửa đồ sộ trông như cửa lô cốt, nhìn các bạn mình lần cuối, rồi chui vào trong.
* * *
Ở phía bên kia cánh cửa là một căn phòng dài hình chữ nhật đầy những đồ nội thất để làm việc, được những bóng đèn huỳnh quang màu xanh lục trên trần chiếu sáng. Căn phòng cố hết sức để tạo ra ấn tượng của một văn phòng, song tôi không bị lừa. Tường được phủ bọt cách âm. Cánh cửa đủ dài để trị được một vụ nổ hạt nhân. Đây không phải là một căn phòng.
Chúng tôi có thể nghe thấy ai đó đi lại ở phía đầu xa của căn phòng, song tầm nhìn của chúng bị chắn lại bởi một cái tủ đựng hồ sơ kênhg càng. Tôi chạm vào cánh tay Emma, gật đầu - đi thôi - và chúng tôi bắt đầu lặng lẽ tiến lên, hi vọng có thể bí mật tiếp cận được kẻ đang ở trong này với chúng tôi.
Tôi thoáng thấy một cái áo choàng trắng và cái đầu hói của một người đàn ông. Rõ ràng không phải là một Chủ Vòng. Chẳng lẽ chúng không nghe thấy cửa mở? Không, chúng không nghe thấy, và rồi tôi hiểu ra vì sao: vì chúng đang nghe nhạc. Một giọng nữ đang hát một bài nhạc rock êm dịu, lả lơi - một bài hát cũ tôi từng nghe qua trước đây nhưng không nhớ nổi tên. Thật lạ lùng, thật lạc lõng khi nghe nói ở đây, lúc này.
Chúng tôi trườn tới, bài hát vang lên vừa đủ lớn để át đi tiếng bước chân của chúng tôi, đi ngang qua cái bàn làm việc bày đầy giấy tờ và bản đồ. Một cái giá tựa vào tường có xếp hàng trăm cái bình thủy tinh, bên trong đựng đầy thứ chất lỏng màu đen với những váy ánh bạc lượn lờ. Nán lại, tôi thấy mỗi bình đều có nhãn, tên các nạn nhân có linh hồn làm trong bình đều được in bằng chữ nhỏ.
Ghé mắt nhìn qua bên kia cái tủ đựng hồ sơ, chúng tôi thấy một gã đàn ông mặc áo choàng phòng thí nghiệm ngồi sau một cái bàn làm việc đầy áp giấy tờ, quay lưng lại phía chúng tôi. Xung quanh y là một cuộc trưng bày giải phẫu tùy hứng đầy ghê rợn. Một cánh tay bị lột da với phần cơ phô ra. Một cột sống được treo như chiến lợi phẩm trên tường. Vài cơ quan nội tạng không dính máu bày giải giác như những mảng tranh ghép thất lạc trên mặt bàn. Gã đàn ông đang viết gì đó, gật đầu, khe khẽ ngân nga một bài hát - những lời gì đó về tình yêu, về những phép màu.
Chúng tôi bước ra ngoài khoảng trống và băng qua sàn tiến về phía y. Tôi nhớ ra mình đã nghe bài hát đó lần cuối ở đâu: ở chỗ nha sĩ, trong khi một món dụng cụ nhọn bằng kim loại đâm vào làm thịt mềm, hồng hồng của lợi tôi.
"Em khiến cô yêu thật vui."
Giờ chúng tôi chỉ còn cách y vài mét. Emma chìa một bàn tay ra, sẵn sàng thắp lửa trên đó. những ngày trước khi chúng tôi kịp tiếp cận người đàn ông, y lên tiếng nói với chúng tôi.
"Xin chào. Ta đang đợi mấy người đây."
Đó là một giọng nói trơn tru mà tôi sẽ không bao giờ quên nổi. Caul.
Emma làm lửa bùng lên từ hai lòng bàn tay cùng âm thanh như roi quất. "Nói cho chúng tôi biết các Chủ Vòng ở đâu, và có thể tôi sẽ lưu lại tính mạng cho ông."
Giật mình, gã đàn ông quay ngoắt lại trên ghế. Những gì chúng tôi thấy cũng làm chúng tôi giật mình: bên dưới đôi mắt mở to, khuôn mặt ông ta là một thứ da thịt bị hoại như chảy nhẽo ra. Người đàn ông này không phải là Caul - thậm chí có không phải là một xác sống - và người vừa nói không thể là ông ta. Môi người đàn ông đã bị khâu dính vào nhau. Hai bàn tay ông ta cần một cái bút chì kim và một thiết bị điều khiển nhỏ từ xa. Một biển trên được cài trên áo choàng của ông ta.
Warren.
"Kìa, mấy người sẽ không động đến Warren tội nghiệp chứ, phải không nào?" Giọng nói của Caul lại vang lên, từ cùng chỗ tiếng nhạc phát ra: một cái loa trên tường. "Cho dù các người có làm thế cũng chẳng quan trọng. Lão chỉ là chủ nhân của ta thôi."
Warren c người ngồi thụt sâu vào cái ghế xoay, kinh hãi nhìn ngọn lửa trên bàn tay Emma.
" Ông đang ở đâu?" Emma hét lên, nhìn quanh.
" Đừng bận tâm!" Caul nói qua hệ thống loa. "Điều đáng quan tâm hơn là các người đã tới gặp ta. Ta rất vui mừng! Thế này dễ hơn phải đi săn lùng các người rất nhiều!"
"Cả một đạo quân đặc biệt của chúng tôi đang trên đường tới!" Emma nói dối. "Đám đông trước cổng pháo đài của ông chỉ đứng trước mũi giáo thôi. Nói cho chúng tôi biết các Chủ Vòng ở đâu, và có thể chúng ta sẽ giải quyết được chuyện này trong hòa bình!"
"Đạo quân cơ à!" Caul bật cười thốt lên. Ở London còn chẳng sót lại đủ người đặc biệt sẵn sàng chiến đấu để lập ra một đội chữa cháy nữa là một đạo quân. Còn về đám Chủ Vòng lâm ly èo uột của các ngươi, miễn những lời đe dọa trống rỗng đi - ta rất vui lòng chỉ cho các người thấy bọn họ ở đâu. Warren, ông vui lòng làm việc đó được không?"
Waren bấm một cái nút điều khiển từ xa đang cầm trong tay, và cùng một tiếng phụt thật to, một tấm Panel trên tường trượt sang một bên chúng tôi. Đằng sau đó là bức tường thứ hai làm bằng kính dày, mở vào một căn phòng rộng chìm trong bóng tối.
Chúng tôi ép sát mặt vào lớp kính, khum bàn tay quanh mặt để nhìn. Dần dần, không gian trước mắt hiện ra như một tầng hầm bị bỏ quên lâu ngày, lộn xộn đầy những đồ nội thất, những tấm màn nặng nề và những thân người bất động như đóng băng trong những tư thế lạ lùng, rất nhiều trong số đó, giống như những mảnh rời trên bàn làm việc của Warren, đã bị lột mất da.
Ôi Chúa ơi, hắn đã làm gì họ...
Đôi mắt tôi đảo tới đảo lui trong bóng tối, tim đập thình thịch.
"Đó là cô Glassbill!" Emma kêu lên, và rồi tôi cũng thấy bà. Bà ngồi xoay người sang một bên trên ghế, với dáng vẻ đầy nam tính và khuôn mặt phẳng lì, hai bím tóc cân đối hoàn hảo rủ xuống hai mé đầu. Chúng tôi đấm lên kính và gọi bà, song bà chỉ nhìn trừng trừng mê mụ, không đáp lại lời gọi của chúng tôi.
"Các người đã làm gì bà ấy?" Tôi hét lên. " Tại sao bà ấy không trả lời?"
"Bà ấy bị rút bớt một chút linh hồn." Caul nói. "Chuyện này thường có xu hướng làm bộ óc bị đờ đẫn đi."
" Đồ khốn nạn!" Emma hét lên, và đấm vào mặt kính. Warren lùi lại cái ghế đang ngồi vào góc phòng. "Đồ quỷ dữ, ti tiện, hèn hạ..."
"Ồ, bình tĩnh nào." Caul nói. " Ta chỉ lấy có một chút linh hồn của bà ta thôi, và các bảo mẫu còn lại của mấy người đều đang ở trạng thái sức khỏe cực tốt, dù tinh thần không được vậy."
Một thứ ânh sáng chói gắt từ phía trên đầu được bật lên rọi xuống căn phòng lộn xộn, và đột nhiên có thể thấy rõ ràng phần lớn những thân hình trong đó chỉ là hình nộm - không, hiển nhiên không phải là thật - một thứ ma na canh hay mô hình giải phẫu nào đó, được bày thành tư thế như các bức tượng với gân và cư bị uốn vào gập lại. Nhưng giữa những hình nhân bị bịt miệng, trói lại vào ghế và cọc gỗ, nheo mắt nhắm tịt lại trước nguồn sáng bất ngờ xuất hiện, là tám người thật, đang sống, hay mười - tôi không có thời gian để đến tất cả họ - phần lớn đã lớn tuổi, tóc xõa rối bời nhưng vẫn giữ được vẻ cao quý.
Các Chủ Vòng của chúng tôi.
"Jacob, là họ!" Emma kêu lên. " Cậu có thấy cô..."
Ánh sáng tắt vụt đi trước khi chúng tôi kịp tìm cô Peregrine, và lúc này đôi mắt tôi, bị bóng tối làm mất khả năng quan sát, không thể thấy được gì sau tấm kính nữa.
"Bà ta cũng ở đó." Caul nói kèm theo một tiếng thở dài chán chường. "Bà chim thánh thiện của các người, bảo mẫu của các người..."
"Chị gái ông." Tôi nói, hy vọng điều này có thể đưa được một chút nhân tính vào con người hắn.
"Ta chắc cũng không khoái phải giết chị ta." Hắn nói. "Và ta đoán ta sẽ không làm thế - với điều kiện các người trao cho ta thứ ta muốn."
"Và đó là cái gì?" Tôi nói, rời xa khỏi tấm kính.
"Không nhiều nhặn gì." hắn nói dửng dưng. "Chỉ một chút linh hồn của các ngươi thôi."
"Cái gì!" Emma gầm lên.
Tôi phá lên cười.
"Nào, nào, nghe tôi nói đã!" Caul nói. "Ta thậm chí còn không muốn toàn bộ. Chỉ một phần bằng một giọt thuốc nhỏ mắt thôi. Thậm chí còn ít hơn phần ta lấy từ cô Glassbill. Phải, việc này sẽ khiến người ta lơ mơ một chút trong một thời gian, nhưng sau vài ngày các người sẽ khôi phục lại hoàn toàn thần trí."
"Ông muốn lấy linh hồn của tôi vì ông nghĩ nó sẽ giúp ông sử dụng được thư viện." Tôi nói. "Và đoạt lấy mọi sức mạnh."
"Ta thấy là cậu đã nói chuyện với em ta." Caul đáp. " Cậu có thể cũng biết: đến giờ ta đã gần hoàn thành việc đó rồi. Sau khi bỏ cả đời ra nghiên cứu, cuối cùng ta đã tìm thấy Abaton, và các Chủ Vòng - tập hợp hoàn hảo của các Chủ Vòng này - đã mở khóa cho ta. Than ôi, chỉ tới lúc đó ta mới biết vẫn còn cần một yếu tố nữa. Một người đặc biệt với một tài năng rất đặc biệt, hiếm khi bắt gặp ở thế giới ngày nay. Đúng lúc ta gần như tuyệt vọng trong thể tìm ra một người như thế thì nhận ra cháu nội của một người đặc biệt họ rất có thể khớp với yêu cầu, và những Chủ Vòng này, bây giờ đã vô dụng với ta về mọi mặt khác, có thể vào vai mồi nhử. Và họ đã làm được điều đó! Ta thực sự tin đó là định mệnh, chàng trai ạ. Cậu và ta, chúng ta sẽ cùng nhau đi vào lịch sử người đặc biệt."
"Chúng ta sẽ không đi đâu cùng nhau cả." Tôi nói. " Nếu không có được sức mạnh đó, ông sẽ biến thế giới thành địa ngục sống."
"Cậu hiểu lầm ta rồi." Hắn nói tiếp. "Cũng không lấy gì làm ngạc nhiên; phần lớn mọi người đều thế cả. Phải, ta đã biến thế giới thành địa ngục cho những người chắn đường ta, nhưng lúc này, khi đã gần đạt được mục tiêu của mình, ta sẵn sàng tỏ ra rộng lượng. Hào hiệp. Biết tha thứ."
Âm nhạc, vẫn réo rắt dưới giọng nói của Caul, đã lắng xuống thành một giai điệu êm đềm của nhạc cụ, trái ngược với cơn hoảng loạn và kinh hoàng tôi đang cảm thấy đến mức tôi rùng mình ớn lạnh.
" Cuối cùng chúng ta sẽ được sống trong hòa bình và hòa hợp." Hắn nói, giọng thật trơn tru và dỗ dành. "Khi đó ta sẽ là vua, là chúa của các người. Đó là thứ bậc tự nhiên của thế giới người đặc biệt. Chúng ta vốn chưa bao giờ được tạo ra để sống như thế này, tản mát và bất lực. Do phụ nữ cai quản. Không còn chuyện éo uột núp váy các Chủ Vòng nữa. Vị trí xứng đáng của chúng ta, với tư cách người đặc biệt, là đứng đầu nhân loại. Chúng ta sẽ cai trị Trái Đất và tất cả dân cư của nó. Cuối cùng chúng ta sẽ được thừa kế thứ thuộc về chúng ta."
" Nếu không nghĩ bọn này sẽ đóng vai trò nào trong chuyện đó." Emma nói. " thì ông mất trí rồi."
"Ta cũng chỉ trông đợi chờ đó từ cô, cô gái." Caul nói. "Cô thật điển hình cho những người đặc biệt được các Chủ Vòng nuôi nấng: không tham vọng, chỉ nghĩ xem mình được làm gì và không được làm gì, còn lại chẳng nhận thức được gì khác. Im đi, ta đang nói chuyện với chàng trai.
Khuôn mặt Emma đò phừng phừng như ngọn lửa trên bàn tay cô.
"Nói tiếp đi." Tôi nói ngắn gọn, nghĩ tới đó lính canh rất có thể đang trên đường tới, và các bạn chúng tôi vẫn đang lúng túng với chùm chìa khóa ngoài hành lang.
"Đây là đề xuất của ta." Caul nói. "Để các chuyên gia của ta tiến hành quy trình của họ trên cậu, và khi đã có thứ ta cần, ta sẽ để cậu và các bạn cậu tự do rời đi - và cả các Chủ Vòng của cậu nữa. Dù thế nào đi nữa, khi đó họ cũng không còn gây ra mối đe dọa nào với ta nữa."
" Thế nếu tôi từ chối?"
"Nếu cậu không cho ta lấy linh hồn cậu ra theo cách dễ dàng và không đau đớn, thì đám hồn rỗng của ta sẽ làm điều đó, chúng hẳn còn trên cả vui mừng ấy chứ. Tuy nhiên, chúng không nổi danh về sự dịu dàng đâu, và một khi chúng đã xong việc với cậu, tại E rằng ta sẽ không thể ngăn chúng động đến các Chủ Vòng của cô cậu. Thế nên cậu thấy đấy, ta sẽ có thứ ta muốn dù bằng cách nào."
"Không có chuyện đấy đâu."
Emma nói.
"Cô đang ám chỉ tới trò mánh vặt vãnh của cậu ta chăng? Ta đã nghe nói chuyện cậu ta có thể kiểm soát một con hồn rỗng, nhưng nếu hai con một lúc thì sao? Hay ba, hay năm?
"Bao nhiêu cũng được, miễn tôi muốn." tôi nói, cố tỏ ra tự tin, điềm tĩnh.
" Đó là điều ta rất thích nhìn thấy." Caul nói. "Vậy ta phải hiểu đó là câu trả lời của cậu?"
Cứ nhìn nhận như ông thích." Tôi nói. " tôi sẽ không giúp ông."
"Ồ, bé con." Caul nói. "Như thế sẽ vui hơn nhiều lắm!"
Chúng tôi có thể nghe thấy Caul cười vọng ra từ trong loa, rồi tôi giật mình trước một tiếng rè rè rất to.
"Giờ ông định làm gì?" Emma hỏi.
Tôi cảm thấy một cơn đau nhói buốt như cắt trong bụng, và không cần Caul phải giải thích gì, tôi có thể hình dung ra chính xác điều đang xảy ra: trong một đường hầm bên dưới căn phòng nhốt các Chủ Vòng, một con hồn rỗng vừa được thả ra ở sâu bên dưới. Nó đang tiến lại gần hơn, leo lên phía một tấm lưới trên sàn đang cọt kẹt mở ra. Nó sẽ sớm ở giữa các Chủ Vòng.
"Hắn thả một con hồn rỗng lên!" Tôi nói. "Nó đang đi vào trong căn phòng đó!"
"Chúng ta sẽ bắt đầu với chỉ một con hồn rỗng thôi." Caul nói. "Nếu cậu có thể khống chế được nó, ta sẽ giới thiệu cậu với các bạn nó."
Tôi đấm thình thình lên lớp kính. "Để chúng tao vào!"
"Rất vui lòng." Caul nói. "Warren?"
Warren bấm một cái nút khác trên điều khiển từ xa. Một phần bức tường kính bằng cỡ cánh cửa trượt mở ra.
"Tớ sẽ đj!" tôi nói với Emma. "Cậu ở đây canh chừng hắn!"
"Nếu cô Peregrine ở trong đó, tớ cũng vào."
Rõ ràng là không thể thuyết phục cô từ bỏ ý định này.
" Vậy chúng ta đưa hẳn theo." Tôi đói.
Warren tìm cách chạy đi, nhưng Emma đã túm lấy lưng áo khoác ông ta.
Tôi chạy qua cửa, lao vào bóng tối và căn phòng lộn xộn, sau lưng tôi là Emma, một bàn tay túm lấy cổ áo gã tù nhân không còn miệng đang vùng vẫy.
Tôi nghe thấy cánh cửa kính đóng sập lại sau lưng chúng tôi.
Emma bật rủa.
Tôi quay lại nhìn.
Ở bên kia cánh cửa, nằm trên sàn, là cái điều khiển từ xa. Chúng tôi đã bị nhốt ở trong.
* * *
Chúng tôi mới chỉ ở trong phòng được vài giây thì gã tù nhân vùng được khỏi tay Emma và lao biến vào bóng tối. Emma bắt đầu đuổi theo, nhưng tôi giữ cô lại - ông ta không đáng quan tâm. Điều đáng quan tâm là con hồn rỗng, lúc này đã sắp chui ra khỏi đường hầm của nó để xông vào phòng.
Nó đang đói ngấu. Tôi có thể cảm thấy cơn đói cồn cào của nó như thể đó là cảm giác của chính mình. Chỉ một lát nữa, nó sẽ bắt đầu mở tiệc bằng các Chủ Vòng, trừ phi chúng tôi có thể chặn nó lại. Trừ phi tôi có thể chặn nó lại. Tuy nhiên, trước hết, tôi sẽ phải tìm ra nó, mà căn phòng chồng chất đầy những đồ tạp nham và những cái bóng tối đen tới mức khả năng trông thấy hồn rỗng của tôi không còn là một lợi thế lớn.
Tôi bảo Emma cho thêm ánh sáng. Cô làm các ngọn lửa trên hai bàn tay mình bùng mạnh lên hết mức có thể, nhưng có vẻ làm thế chỉ khiến những cái bóng dài ra.
Để giữ an toàn cho cô, tôi yêu cầu cô đứng lại cạnh cửa. Cô từ chối. "Chúng ta sẽ bám sát nhau." cô nói.
" Vậy thì đừng bám nhau đằng sau lưng tớ. Xa đằng sau tớ."
Ít nhất cô cũng đồng ý với tôi điều đó. Trong khi tôi đi ngang qua cô Glassbill đang ngồi đờ đẫn và vào sâu hơn trong phòng, Emma tụt lại sau vài bước, giơ một bàn tay lên cao trên đầu để soi đường cho chúng tôi. Những gì chúng tôi có thể thấy từ căn phòng trông giống như một bệnh viện dã chiến không có máu, những hình ảnh người bị xé toạc nằm rải rác khắp nơi.
Bàn chân tôi đá vào một cánh tay. Nó phát ra tiếng đùng đục rồi văng đi - thạch cao. Đây, một thân người trên cái bàn. Kia, một cái đầu trong một cái bình đựng đầy chất lỏng, mắt và miệng mở to, chắc chắn là đầu người thật nhưng không phải có xuất xứ gần đây. Nơi này có vẻ là phòng thí nghiệm, phòng tra tấn đồng thời cũng là kho chứa đồ của Caul. Hắn, cũng như em trai, là kẻ mê tích trữ những thứ kỳ lạ và quái gở - chỉ có điều trong khi chỗ của Bentham được sắp xếp ngăn nắp thì Caul cần gấp một người trợ lý.
"Chào mừng tới sân chơi của hồn rỗng." Caul nói, giọng nói được tăng âm của hắn vọng khắp phòng. " Bọn ta tiến hành các thí nghiệm trên chúng ở đây, cho chúng ăn, quan sát chúng xé thức ăn. Ta tự hỏi chúng sẽ ăn phần nào của các người trước tiên? Một số hồn rỗng bắt đầu bằng đôi mắt... một món khai vị nho nhỏ..."
Tôi vấp phải một thân người, thân người này kêu thét lên khi bàn chân tôi giẫm vào nó. Nhìn xuống, tôi thấy khuôn mặt đang sợ chết khiếp của một phụ nữ trung niên nhìn lại mình, đôi mắt hoảng loạn - một Chủ Vòng mà tôi không biết. Không dừng bước, tôi cúi người xuống thì thầm. "Đừng lo, chúng tôi sẽ đưa bà ra khỏi đây." Nhưng không, tôi nghĩ, chúng tôi sẽ không thể; chốn hỗn độn của những hình khối và những cái bóng điên rồ này hẳn sẽ là nơi chứng kiến cái chết của chúng tôi - Jacob Cũ đang trồi lên, tuôn ra những lời ảm đạm, và không thể làm cho cậu ta im đi được.
Tôi nghe thấy thứ gì đó dịch chuyển ở sâu hơn trong phòng, theo sau là tiếng ướt nhẹp của một cái miệng hồn rỗng đang há ra. Nó đang ở đây, cùng chúng tôi. Tôi nhắm mình về phía nó và chạy - vấp chân, rồi nhổm dậy. Emma cũng đang chạy, giục giã. "Jacob, nhanh lên."
Caul, qua hệ thống loa, nhại giễu chúng tôi. "Jacob, nhanh lên."
Hắn ta cho nhạc to lên: giục giã, lạc quan, điên loạn.
Chúng tôi đi ngang qua thêm ba, bốn Chủ Vòng, tất cả đều bị trói và đang vùng vẫy, thế rồi cuối cùng tôi nhìn thấy nó.
Nguyên kích cỡ của nó cũng khiến tôi khựng lại, nín thở, đầu óc quay cuồng. Con hồn rỗng này khổng lồ - cao hơn con tôi đã thuần phục đến mấy cái đầu, cho dù thân mình lòng khòng còng xuống, đầu nó vẫn đụng trần. Nó còn cách chúng tôi sáu mét, hàm há ngoác ra, những cái lưỡi dò tìm trong không khí. Phía trước tôi vài bước chân, Emma đang sững sờ chìa bàn tay ra, chỉ vào một thứ, đồng thời chiếu sáng nó.
"Kìa! Nhìn xem!"
Tất nhiên không phải cô nhìn thấy con hồn rỗng, mà là mục tiêu nó đang nhắm tới: một người phụ nữ đang vùng vẫy, bị treo ngược chân lên một cái sườn bò, cái váy đen của bà xõa xuống quanh đầu. Cho dù ở tình trạng đó, và cho dù ở trong bóng tối, tôi vẫn nhận ra bà - đó là cô Wren.
Addison bị treo ngay cạnh bà. Họ đang vùng vẫy, ú ớ và bị bịt miệng, và chỉ còn cách họ vài bước chân là một con hồn rỗng, những cái lưỡi của nó lúc này đang duỗi ra hướng về phía họ, quấn quanh vai cô Wren để kéo bà lại chỗ cặp hàm của nó.
"DỪNG LẠI!" Tôi hét lên, thoạt đầu bằng tiếng Anh, sau đó bằng thứ ngôn ngữ lạo xạo mà hồn rỗng có thể hiểu được. Tôi hét lên lần nữa, rồi lần nữa, cho tới khi nó dừng lại thật - dù không phải nó chịu sự điều khiển của tôi, mà vì tôi đột nhiên trở thành một con mồi đáng quan tâm hơn.
Nó thả bà Chủ Vòng ra, và bà bị lăng đi như một quả lắc. Con hồn rỗng quay những cái lưỡi của nó về phía tôi.
"Cắt dây hạ cô Wren xuống chồng lúc tử dụ con hồn rỗng đi chỗ khác." Tôi nói.
Tôi vừa bước xa khỏi chỗ cô Wren vừa liên tục nói với con hồn rỗng, hi vọng kéo nó rời xa khỏi bà và hướng sự chú ý của nó vào tôi.
Ngậm mồm lại. Ngồi xuống. Nằm xuống.
Nó quay khỏi phía cô Wren trong lúc tôi di chuyển - tốt, tốt - và sau đó khi tôi lùi lại, nó lao tới.
Phải rồi. Giờ thì sao đây?
Hai bàn tay tôi cùng đút vào túi áo. Ở trong một túi tôi giữ những gì còn lại từng ngón tay của Mẹ Bụi. Trong túi kia là một bí mật - một lọ mật thần thánh tôi đã xoáy từ căn phòng ngoài trong lúc Emma nhìn đi chỗ khác. Tôi đã lấy nó trong một khoảnh khắc tự tin suy giảm. Sẽ thế nào nếu tôi không thể tự thân vận động? Sẽ thế nào nếu tôi một sự trợ lực?
Con hồn rỗng phóng một cái lưỡi về phía tôi. Tôi thụp xuống nấp sau một ma nơ canh, và cái lưỡi quấn quanh hình nhân thay vì tôi, nhấc nó lên và quăng nó đập vào một bức tường, vỡ tan.
Tôi nhào người tránh khỏi cái lưỡi thứ hai. Và va mạnh vào ống chân của một cái ghế nằm chổng ngược. Cái lưỡi quất mạnh xuống sàn nhà đúng chỗ tôi vừa rời khỏi. Con hồn rỗng lúc này đang vờn đùa với tôi, song chẳng mấy chốc nữa nó sẽ ra đòn kết liễu. Tôi cần phải làm gì đó, và có hai điều tôi có thể làm.
Dùng cái lọ hoặc cái ngón tay.
Chẳng đời nào tôi khống chế được con hồn rỗng này mà không viện đến khả năng tăng lực có một lọ mật thần thánh. Mặt khác, cái ngón tay được bóp vụn của Mẹ Bụi không phải là một thứ tôi có thể phóng ra xa khỏi mình, thêm nữa tôi đã để mất cái mặt nạ. Nếu phải dùng cái ngón tay, tôi sẽ chỉ làm mình ngủ; như thế còn tệ hơn cả công cốc.
Trong khi một cái lưỡi nữa quật mạnh xuống sàn ngay bên cạnh tôi, tôi trườn người vào dưới một cái bàn và lấy cái lọ từ trong túi áo ra. Tôi lóng ngóng mở nút lọ, hai bàn tay tôi run lẩy bẩy. Liệu nói sẽ biến tôi thành một anh hùng hay một nô lệ đây? Chỉ một lọ thôi thì liệu có thể thực sự biến tôi thành kẻ nghiện ngập cả đời không? Và đâu là kết cục tồi tệ nhất, là một kẻ nghiện, một nô lệ, hay chết trong dạ dày con hồn rỗng này?
Cái bàn bị giật phăng đi, làm tôi bị phơi ra. Tôi nhỏm dậy. Dừng lại, dừng lại. Tôi hét lớn, đồng thời đẩy lùi từng bước ngắn trong khi những cái lưỡi của con hồn rỗng quất về phía tôi, chỉ chếch đích vài phân.
Lưng tôi chạm vào tường. Chẳng còn chỗ nào để chạy trốn nữa.
Tôi bị một cú quật vào bụng, rồi cái lưỡi đã quật vào tôi duỗi ra, vươn tới để quấn quanh cổ tôi. Tôi cần chạy nhưng tôi lại đang choáng váng, mọp người gập lại, thở không nổi. Rồi tôi nghe thấy một tiếng gầm gừ giận dữ - không phải từ con hồn rỗng - và một tiếng sủa kiên cường, vang vọng.
Addison.
Đột nhiên, cái lưỡi đang vươn tới của tôi cứng lại, như thể bị đau, rồi thu lại. Con chó, con chó giống boxer nhỏ can đảm đó, đã cắn nó. Tôi nghe thấy nó gầm gừ vàtrtu lên trong lúc bắt đầu chiến đấu với một sinh vật vô hình to gấp mình hai mươi lần.
Tôi buông mình ngồi xuống sàn, lưng tựa vào tường, không khí được hít vào đầy hai lá phổi. Tôi cầm cái lọ lên, lúc này đã quả quyết. in tưởng là tôi không có bất cứ cơ hội nào nếu không viện đến nó. Tôi mở nút ra, giơ cái nó lên ngang mắt, rồi ngửa đầu ra sau.
Vừa đúng lúc đó tôi nghe thấy tên mình. "Jacob." được nhắc tới thật nhẹ nhàng trong bóng tối, cách tôi vài bước chân.
Tôi quay sang nhìn, và kia, trên sàn nhà, nằm giữa một đống phần cơ thể người giả, là cô Peregrine. Bầm dập, bị trói, đang vật lộn có nói qua lớp màn mờ đục của đau đớn hay thuốc mê, nhưng dẫu sao bà cũng đang ở đó, chăm chú nhìn tôi bằng đôi mắt xanh lục sắc sảo.
"Đừng!" Bà khẽ nói. " Đừng làm thế." Giọng bà gần như không thể nghe rõ, gần như không tồn tại.
"Cô Peregrine!"
Tôi hạ cái lọ xuống, đậy nút vào, lồm cồm bò tới chỗ bà đang nằm. Người mẹ thứ hai của tôi, vị thánh của người đặc biệt. Sa cơ, bị thương. Có khi còn đang hấp hối.
"Nói với cháu là bà không sao đi." Tôi nói.
"Bỏ cái đó xuống." Bà nói. "Cậu không cần nó."
"Có, có đấy. Cháu không giống như ông.
Cả hai chúng tôi đều hiểu tôi muốn nói tới ai: ông nội tôi.
"Có, cậu giống cậu ấy." Bà nói. "Tất cả những gì cậu cần đã ở sẵn bên trong cậu rồi. Bỏ cái đó xuống và thay vì thế cầm lấy cái kia." bà hất hàm về phía một thứ nằm giữa chúng tôi: một thanh gỗ có rìa nhọn lởm chởm bung ra từ một cái ghế gãy.
"Cháu không thể. Cái đó không đủ."
"Có đấy." bà cam đoan với tôi. "Chỉ cần nhắm vào mắt."
"Cháu không thể." tôi nói, song vẫn làm theo. Tôi đặt cái lọ xuống và cầm lấy thanh gỗ.
"Chàng trai cừ khôi." bà thì thầm. "Giờ đi làm điều gì đó ghê gớm với nó đi."
"Cháu sẽ làm." Tôi nói, và bà mỉm cười, đầu lại ngả xuống sàn.
Tôi đứng dậy, lúc này đã hoàn toàn quả quyết, thanh gỗ nắm chắc trong tay. Ở đằng xa trong phòng, Addison đang cắn ngập răng vào một trong những cái lưỡi của con hồn rỗng và trèo cưỡi nên nó như một chàng cao bồi trong hội thi cưỡi ngựa hoang chưa thuần, bám chắc một cách can đảm và gầm gừ trong khi con hồn rỗng vung lưỡi quật nó hết ra sau lại ra trước. Emma đã cắt dây thừng hạ cô Wren xuống và đang đứng canh cho bà, quờ quạng vùng vẫy đôi bàn tay cháy rực.
Con hồn rỗng quật mạnh Addison vào một cái cột, và con chó bị văng ra.
Tôi bắt đầu tiến về phía con hồn rỗng, chạy nhanh hết mức qua những chướng ngại vật là tay chân giả nằm rải rác khắp nơi trên đường. Nhưng giống như một con thiêu thân bị hút vào lửa, con quái vật dường như quan tâm tới Emma hơn. Nó bắt đầu tiến lại gần cô, vậy là tôi hết về phía nó, đầu tiên bằng tiếng Anh - "Này! Đằng kia!" - rồi bằng tiếng hồn rỗng: Lại mà bắt tao đi, đồ khốn!"
Tôi nhặt lấy thứ gần tầm tay nhất - tình cờ đây lại là một bàn tay giả - và ném vào nó. Bàn tay giả bật nảy ra khỏi lưng con hồn rỗng, và con quái vật quay đầu lại đối diện với tôi.
Lại mà bắt tao lại mà bắt tao.
Trong giây lát, con hồn rỗng có vẻ bối rối, vừa đủ thời gian để tôi lại gần nó mà không bị những cái lưỡi của nó chộp lấy. Tôi dùng thanh gỗ nhọn đâm nó, một, rồi hai lần, vào ngực. Nó phản ứng như thể bị ong đốt - không hơn - rồi dùng cái lưỡi quật tôi xuống sàn.
Dừng lại, dừng lại, dừng lại. Tôi hét lên bằng tiếng hồn rỗng, tuyệt vọng tìm thứ gì đó có thể tác động tới nó, song con quái vật này như thể được bọc giáp chống đạn, hoàn toàn miễn nhiễm với những gì tôi đưa ra. Thế rồi tôi nhớ tới ngón tay, cái mẩu nhỏ như mẩu phấn viết cho thứ bụi đang nằm trong túi áo mình. Trong khi tôi lấy nó ra, một cái lưỡi phóng tới quấn quanh tôi và nhấc bổng tôi lên không trung. Tôi có thể nghe thấy Emma la hét với nó, quát nó bỏ tôi xuống - và cả Caul nữa. "Đừng có ăn thịt rồi đấy!" Hắn rít lên trèo trẹo qua loa. " Nó là của tao!"
Trong lúc tôi lấy ngón tay của Mẹ Bụi từ trong túi áo ra, con hồn rỗng thả tôi vào cặp hàm đanh há mở của nó, hai hàm răng của nó kẹp chặt tôi tại chỗ, bắt đầu bấm vào da thịt tôi, còn hàm con quái vật nhanh chóng mở rộng ra để nuốt tôi.
Đây sẽ là hành động cuối cùng của tôi. Khoảnh khắc cuối cùng của tôi. Tôi bóp vụn cái ngón tay trong bàn tay mình rồi rắc xuống chỗ mà tôi hi vọng là cổ họng của con hồn rỗng. Emma đang đánh nó, đốt nó - rồi sau đó, ngày trước khi con quái vật có thể khép hàm lại và cắn tôi đứt đôi bằng bộ răng của nó, nó bắt đầu thở dốc. Nó lảo đảo rời xa khỏi Emma, bị bỏng và nôn ọe, rút lui về phía cái lỗ dưới sàn nó bò lên trước đó. Quay trở lại hang ổ của mình, nơi nó sẽ có thoải mái thời gian như nó muốn để ngấu nghiến tôi.
tôi cố dừng nó lại, la hét (Bỏ tao ra) nhưng con quái vật cắn ngập răng xuống, cơn đau thật khủng khiếp tới mức tôi không thể nghĩ ngợi gì được - thế rồi nó và tôi đã ở đó, ở chỗ cái lỗ, trượt dần xuống. Cái miệng con quái vật bị tôi chiếm chỗ nhiều tới mức nó không thể bám được vào những thanh ngang trên vách tường, và nó đang rơi xuống, rơi và ậm ọe, và tôi nhờ cách nào đó vẫn còn sống.
Chúng tôi rơi xuống đáy, có tiếng xương gãy rõ to sau cú ngã khiến phổi của tôi và nó xẹp lép, đồng thời đẩy hết đám bụi gây mê tôi đã đẩy hết xuống thực quản nó bốc ngược lên không khí quanh chúng tôi. Khi đám bụi này rơi lả tả xuống như tuyết, tôi có thể cảm thấy hiệu quả của chúng, cảm giác đau của tôi tê dại đi, đầu óc tội mụ mị, và chắc hẳn đã bụi này cũng gây ra tác dụng tương tự với con hồn rỗng, vì giờ gần như nó không cắn vào người tôi nữa, hai hàm răng nó lỏng ra.
Trong lúc nó và tôi nằm đó thành một đống, đờ đẫn và tĩnh lặng, nhanh chóng đi vào giấc ngủ, tôi có thẻ nhìn thấy định hình trước mặt mình, qua tấm màn của những hạt bụi trắng đang bay lượn lờ đó, một đường hầm tối tăm ẩm ướt với xương cốt nằm chất đống. Thứ cuối cùng tôi thấy trước khi đám bụi đưa tôi vào giấc
ngủ là một bầy hồn rỗng, cúi xuống lòng khòng tò mò, đang lê bước tới gân.
Thư Viện Linh Hồn Thư Viện Linh Hồn - Ransom Riggs Thư Viện Linh Hồn