Tôi không thể cho bạn một công thức thành công, nhưng tôi có thể cho bạn một công thức cho sự thất bại, đó là: cố gắng làm vừa lòng mọi người.

Herbert Bayard Swope

 
 
 
 
 
Tác giả: Ransom Riggs
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 12 - chưa đầy đủ
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4781 / 181
Cập nhật: 2022-06-27 09:41:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
gay trước khi một con bò cái bị đập búa vào đầu trong một lò sát sinh hiện đại, nó bị thúc đi vào một mê cung ngoằn ngoèo. Những khúc cong hẹp và những góc ngoặt gấp khúc khiến cho con vật chỉ nhìn được một quãng ngắn phía trước, nhờ đó nó sẽ không thể nhận ra cho tới vài bước cuối cùng, nơi hành trình kết thúc, khi mê cung đột ngột hẹp lại và một cái vòng kim loại sập quanh cổ nó. Nhưng trong khi ba chúng tôi hối hả theo sau Sharon vào sâu trong trung tâm của Đồng Ma, tôi cảm thấy chắc chắn mình biết điều gì sắp tới, chỉ không biết là khi nào và như thế nào. Theo mỗi bước chân, từng ngã rẽ, chúng tôi như bị thắt chặt vào trong một cái nút mà tôi sợ chúng tôi sẽ chẳng bao giờ gỡ ra được.
Thứ không khí nồng nặc xú uế không thay đổi, lối thoát duy nhất của nó là một kẽ nứt lồi lõm hướng lên trời ở tít cao trên đầu chúng tôi. Những bức tường gồ ra nghiêng ngả nằm sát nhau tới mức có những chỗ chúng tôi phải xoay người lách vai đi, những chỗ co hẹp trở nên trơn nhẵn, đen bóng vì cọ xát với quần áo của những người đã đi trước đó. Ở đây chẳng có gì tự nhiên, không gì màu xanh, không gì mang lại sự sống ngoại trừ lũ sâu bọ trườn qua chạy lại và những bóng ma với ánh mắt vằn máu đang rình mò sau những khung cửa và những nắp cống trên đường, cũng là những kẻ hẳn sẽ nhảy xổ vào chúng tôi nếu không có người dẫn đường cao lớn khoác áo choàng đen kia. Chúng tôi đang đuổi theo Tử thần vào tận đáy sâu của Địa ngục.
Chúng tôi rẽ rồi lại rẽ. Lối đi nào cũng giống như lối đi trước. Không có biển báo, không có cột mốc. Hoặc là Sharon đang định hướng bằng một trí nhớ vô tiền khoáng hậu, hoặc ông ta đang hoàn toàn đi bừa, cố gắng đánh lạc hướng bất cứ tên cướp Rạch nào có thể truy đuổi chúng tôi.
"Ông có thực sự biết chúng ta đang đi đâu không vậy?" Emma hỏi ông ta.
"Tất nhiên là tôi biết." Sharon cáu bẳn, hùng hục rẽ ngoắt vào một góc quẹo mà không thèm nhìn lại sau. Rồi ông ta dừng bước, quay ngoắt lại và bước qua một khung cửa bị lún một nửa xuống dưới mức đường nền. Phía trong là một gian hầm ẩm ướt, chỉ cao mét rưỡi, được soi rọi bởi chút ánh sáng nhợt nhạt xám xịt. Chúng tôi cúi khom người chạy qua một hành lang dưới lòng đất, lờ đi những cái xương súc vật dưới chân, trần hầm cọ vào đầu chúng tôi, băng ngang qua những thứ tôi cố gắng không nhìn - một bóng người đang ngồi co ro trong góc, những người đang ngủ rùng mình ớn lạnh trên những ổ rơm thảm hại, một cậu bé rách rưới nằm trên sàn với một cái bát ăn xin đeo trên một cánh tay. Ở cuối, hành lang này mở rộng ra thành một căn phòng, và trong ánh sáng của vài ô cửa sổ cáu bẩn có hai người thợ giặt khốn khổ đang quỳ gối, vò đồ giặt trong một bể nước tanh ngòm của Rạch. Sau đó chúng tôi leo lên thêm nhiều bậc thang nữa rôi, ơn Chúa, chui ra một khoảng sân sau có tường bao, là sân chúng ở đằng sau của vài ngôi nhà. Trong một vài thực tế khác, nơi này rất có thể sẽ sở hữu một vạt cỏ vui mắt hay một vọng lâu nhỏ, nhưng đây là Đồng Ma, và cái sân này là một bãi rác và chuồng lợn. Từng đống rác đầy ruồi bay vù vũc bị ném ra từ các cửa sổ chồng chấp nhấp nhô ấp sát vào các bờ tường, và ở chính giữa, được cắm siêu vẹo xuống bùn, là một bãi nhốt rào gỗ, trong đó có một cậu bé gầy giơ xương đang canh một con lợn thậm chí còn gầy hơn nữa - chỉ có đúng một con. Cạnh một bức tường gạch bùn một người phụ nữ đang ngồi hút máu và đọc báo trong khi một cô gái trẻ đứng sau lưng bà ta, bắt chấy trên đầu bà này. Người phụ nữ và cô gái chẳng hề để ý khi chúng tôi đi ngang qua, Nhưng cậu bé thì giơ những cái răng của cây chĩa về phía chúng tôi. Khi đã rõ là chúng tôi chẳng có mưu đồ gì với con lợn của cậu ta, cậu ta mệt mỏi ngồi xổm xuống.
Emma dừng lại giữa sân để nhìn những hàng dây phơi quần áo tranh giữa các máng nước trên các nóc nhà. Cô lại chỉ tay vào những món quần áo bết máu đang mặc vốn khiến chúng tôi trông như những kẻ can dự vào một vụ giết người, và đề xuất chúng tôi nên thay đồ. Sharon đáp là ở đây người ta chẳng lạ gì những kẻ sát nhân, và giục cô đi tiếp, những cô nán lại, cự nự rằng một gã xác sống ở dưới tàu điện ngầm đã nhìn thấy những món quần áo bết máu của chúng tôi và gọi bộ đàm báo cho đồng bọn; chỗ quần áo làm chúng tôi quá dễ bị nhận ra giữa đám đông. Quả thực, tôi nghĩ chủ yếu là vì cô cảm thấy không thoải mái khi mặc cái áo giờ đây đã cứng đơ vì máuTôi nghĩ chủ yếu là vì cô cảm thấy không thoải mái khi mặc cái áo giờ đây đã cứng đơ vì máu của một người khác. Tôi cũng thế - và nếu tìm lại được các bạn mình, tôi hẳn không muốn họ thấy chúng tôi trong bộ dạng này.
Sharon miễn cưỡng đồng ý. Lúc trước ông ta đã dẫn chúng tôi về phía một hàng rào ở rìa khoảng sân, nhưng lúc này lại vòng lại và đưa chúng tôi vào một trong ngôi nhà. chúng tôi leo lên hai, ba, rồi bốn đợt cầu thang, cho tới khi đến Addison cũng phải thở phì phò, rồi theo sau Sharon qua một cánh cửa mở vào một căn phòng nhỏ bẩn thỉu. Một vết toác trên trần đã làm mưa giội vào và làm chiếu nghỉ cầu cầu thang oằn lên quăn queo như những gợn sóng nước trong một cái ao. Những vết mốc đen chạy ngoằn ngoèo trên các bức tường. Trên cái bán cây cảnh một cửa sổ ám khói, hai người phụ nữ và một cô gái đang mồ hôi nhễ nhại sau những chiếc máy khâu đạp chân.
"Chúng tôi cần ít quần áo." Sharon nói với mấy người phụ nữ bằng giọng nam trầm oang oang làm những bức tường mỏng manh rung lên.
Khuôn mặt xanh xao của họ ngước lên nhìn. Một trăm mấy người phụ nữ nhặt lấy một cây kim khâu và cầm lên như một món vũ khí. "Làm ơn." Cô ta nói.
Sharon đưa tay lên kéo mũ trùm đầu của ông ta ra sau một chút, chỉ để mấy người thợ may có thể thấy mặt ông ta. Họ há hốc miệng, rên lên rồi gục xuống mặt bàn, ngất xỉu.
"Có cần phải làm thế không?" Tôi hỏi.
" Không hẳn." Sharon nói, kéo mũ trùm lại như cũ. " Nhưng làm thế nhanh hơn."
Mấy người thợ may đang may những chiếc áo sơ mi và váy đơn giản từ những mảnh vải đầu thừa đuôi thẹo. Những mảnh vải xơ tướp họ dùng làm nguyên liệu làm chất đống quanh sàn, còn thành phẩm, với nhiều đường may và nếp đã cứu hơn cả con quái vật của Frankenstein, được treo thành một hàng bên ngoài cửa sổ. Trong khi Emma kéo chúng vào, tôi quét mắt nhìn quanh căn phòng. Nơi này rõ ràng không chỉ là chỗ làm việc: những người phụ nữ cũng sống ở đây. Có một cái giường được đóng chắc phá từ gỗ tạp bỏ đi. Tôi ghé mắt nhìn vào một cái nồi hầm sứt mẻ treo trong bếp lò và thấy một món súp chống đối đang nấu dở, với da cá và những lá bắp cải héo. Những nỗ lực trang trí nửa vời của họ - một cành hoa khô, một cái móng ngựa được đóng đinh trên mặt lò sưởi, một bức chân dung Nữ hoàng Victoria được đóng khung - trông còn thảm hơn là không có gì trang trí.
Có thể thấy rõ sự tuyệt vọng ở đây đè nặng mọi thứ, kể cả không khí. Tôi chưa bao giờ phải đối diện với nỗi thống khổ rành rành thế này. Có thể nào lại có những người đặc biệt thực sự sống một cuộc đời tàn tạ như thế? Trong lúc Sharon ôm một chồng một áo sơ mi lôi vào qua cửa sổ, tôi hỏi ông ta. Ông ta có vẻ gần như bị xúc phạm bởi ý nghĩ này. "Những người đặc biệt không bao giờ cho phép mình bị hạ thấp đến vậy. Đây chỉ là những cư dân bình thường của khu ổ chuột, bị mắc kẹt trong sự lặp lại vô tận của ngày tạo nên Vòng Thời Gian này. Những người bình thường cư trú ở các khu rìa bẩn thỉu của Đồng Ma - nhưng trung tâm của nơi này thuộc về chúng tôi."
Họ là những người bình thường. Không chỉ thế, mà là những người bình thường bị kẹp trong Vòng Thời Gian, giống như những người ở Cairnholm mà những đứa trẻ tàn nhẫn hơn vẫn hành hạ trong những lần chơi tấn công làng. Cũng là một phần của bối cảnh như biển hay các vách đá, tôi tự nhủ. Nhưng chẳng hiểu sao, khi nhìn vào khuôn mặt bơ phờ của người phụ nữ nằm vùi trong giẻ rách, tôi vẫn không cảm thấy bớt khổ sở hơn chút nào về việc lấy cắp của họ.
"Tớ tin chắc chúng ta sẽ không nhận ra những người đặc biệt khi chúng ta thấy họ." Emma nói, chọn đồ trong một đống áo bẩn.
"Luôn là vậy." Addison nói. "Tế nhị chưa bao giờ là điểm mạnh của những sinh vật đặc biệt như chúng ta."
Tôi chui ra khỏi chiếc áo sơ mi đẫm máu của mình, đổi nó lấy giải pháp thay thế ít bẩn thỉu nhất tôi có thể tìm thấy, thứ áo bạn hẳn sẽ được phát cho trong một trại tù: không có cổ áo và kẻ sọc, hai ống tay áo không dài bằng nhau, được may lại từ thứ vải còn cứng hơn giấy ráp. Nhưng nó vừa với tôi, và kèm thêm một chiếc áo khoác đen đơn giản tôi tìm thấy vắt trên lưng tựa của một cái ghế, giờ trong tôi giống như một người có thể tin được là xuất xứ từ nơi này.
Chúng tôi quay lưng lại trong khi Emma thay sang một chiếc váy nom như bao tải rủ xuống lùng thùng quanh đôi bàn chân cô. "Mặc cái này thì không chạy được." Cô cằn nhằn. Cầm lấy một cây kéo từ trên bàn của mấy người thợ may, cô bắt đầu chỉnh sửa nó với tất cả chị tìm ẩn cùng một danh đồ tể, cách và xé cho tới khi đã cắt rời phần chân váy bên dưới tới ngang đầu gối.
"Rồi." Cô chiêm ngưỡng thành quả thủ công của mình trong một tấm gương. "Hơi tả tơi một chút, nhưng..."
Không hề nghĩ, tôi nói. "Horace có thể làm cho cậu một cái khá hơn. " Chẳng hiểu sao, tôi đã quên rằng các bạn tôi không phải đơn giản là đang đợi chúng tôi trong căn phòng bên cạnh. " Ý tớ là... Nếu chúng ta gặp lại họ..."
"Đừng." Emma nói. Trong khoảnh khắc, trông cô thật buồn, hoàn toàn đắm mình trong ý nghĩ đó - thế rồi cô quay đi, để cái kéo xuống, rồi quả quyết bước về phía cửa ra vào. Khi ngoảnh lại nhìn chúng tôi, vẻ mặt cô đã trở nên cứng rắn. "Đi nào. Chúng ta lãng phí thời gian ở đây đủ rồi."
Cô có thứ phản anh đáng kinh ngạc biến nỗi buồn thành giận dữ và giận dữ thành hành động, đồng nghĩa với việc không có gì có thể khiến cố ủ rũ lâu. Thế rồi Addison và tôi - và Sharon, người tôi dám ngờ cho tới tận lúc này vẫn chưa hoàn toàn hình dung ra tông ta đang làm ăn với ai - theo cô ra khỏi căn phòng và xuống cầu thang.
* * *
Toàn bộ Đồng Ma - hay ít nhất là khu trung tâm đặc biệt của nó - chỉ có mười hay hai mươi khối nhà vuông vắn. Sau khi đi từ chỗ căn phòng xưởng may xuống, chúng tôi cạy hờ một tấm ván khỏi một bức chắn và lách người chui vào một lối đi ngột ngạt. Nó dẫn tới một lối đi khác đỡ ngột ngạt hơn chút ít, rồi nói đi này lại dẫn tới một lối đi rộng hơn chút nữa, rồi từ đó lại tới một lối đi đủ rộng để Emma và tôi có thể sánh vai cùng bước đi. Chúng cứ thế rộng dần ra, như những động mạch giãn ra sau một cơn đau tim, cho tới khi chúng tôi tới một nơi xứng đáng được gọi là đường phố, ở giữa là lòng đường lát gạch đỏ và hai bên lề mà vỉa hè lát đá.
"Lùi lại." Emma thì thầm. Chúng tôi thu mình nép vào một góc tường và hé mắt nhìn và quan sát như những người lính biệt kích, đầu kề sát nhau.
"Các vị nghĩ mình đang làm gì hả?" Sharon nói. Ông ta vẫn đang ở trên phố và có vẻ lo lắng về chuyện bị chúng tôi gây phiền phức hơn là bị giết.
"Tìm hiểu những điểm có thể bị phục kích và đường tẩu thoát." Emma nói.
"Không ai phục kích ai cả." Sharon đáp. "Đám cướp chỉ hoạt động ở những vùng vắng vẻ không người. Chúng sẽ không truy đuổi chúng ta ở đây - đây là Phố Mập Mờ."
Quả thực có một tấm biển tên phố như vậy - tấm biển đầu tiên tôi thấy tại Đồng Ma. Phố Mập Mờ, tấm biển viết tay bằng kiểu chữ rối rắm. Không hoan nghênh cướp bóc.
"Không hoan nghênh?" Tôi nói. " Thế còn giết người thì sao? Bị trừng mắt nhìn à?"
" Tôi tin là việc giết người ' được khoan dung trong chừng mực nhất định'."
"Liệu có gì là bất hợp pháp ở đây không?" Addison hỏi.
"Hình phạt cho việc trà muộn sách cho thư viện khá khắc nghiệt. Chậm một ngày phạt mười roi, mà đấy mới là sách bìa mềm thôi."
"Có cái thư viện nào sao?"
"Hai. Mặc dù một thư viện không cho mượn sách vì tất cả các cuốn sách đều bọc bằng da người và rất giá trị."
Chúng tôi thập thò ló ra từ sau bức tường và đưa mắt nhìn quanh, ít nhiều bối rối. Ở khu vực đồng không mông quạnh, tôi đã lường trước đường trước cái chết dễ dàng tập ở mỗi bước đi, nhưng Phố Mập Mờ, xét toàn bộ vẻ bề ngoài, có vẻ là một ốc đảo bình yên trật tự. Dọc hai bên con phố là những cửa hàng nhỏ ngăn nắp, và những cửa hàng này có biển hiệu, khung kính trưng bày và tầng trên là các căn hộ. Không có một mái nhà bị thủng hay một tấm cửa kính bị vỡ nào trong tầm mắt. Cũng có người đi lại trên phố, và họ nhận nha thả bước một mình hoặc theo từng đôi, thỉnh thoảng dừng để rẽ vào cửa hàng hay nhìn vào một khung kính trưng bày. Trang phục của họ không phải là giẻ rách. Khuôn mặt họ sạch sẽ. Có thể không phải mọi thứ ở đây đều mới tinh và sáng long lanh, nhưng bề mặt dãi dầu sương gió và những mảnh sơn bong tróc đem đến cho nơi này có vẻ như tất cả đều được làm bằng tay, với các rìa cạnh sờn mòn trông cổ kính là lạ, thậm chí là duyên dáng. Mẹ tôi, nếu bà có dịp trông thấy Phố Mập Mờ ở một trong những cuốn tạp chí lữ hành vẫn thường được lật qua nhưng chẳng bao giờ được đọc làm đầy trên bàn cà phê nhà tôi, hẳn đã suýt xoa tấm tắc về sự dễ thương của nó rồi phàn nàn về chuyện bà và bố tôi chưa bao giờ thực hiện một kỳ nghỉ được thụ tại châu Âu - Ôi, Frank, mình đi đi.
Emma dường như lộ rõ vẻ thất vọng. "Tôi đã trông đợi từ chỉ ảm đạm hơn nhiều."
" Tớ cũng thế." Tôi nói. " những sao huyệt của bọn sát nhân và các đấu trường đẫm máu đâu rồi?"
"Tôi không biết các vị nghĩ cư dân quanh đây làm thứ nghề gì." Sharon nói. "Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói tới sào huyệt của bọn sát nhân nào cả. Còn về đấu trường đẫm máu, thì chỉ có một thôi - Đấu trường Derek, dưới phố Ri Rỉ. Derek là một tay tử tế. Nợ tôi năm bảng..."
"Còn lũ xác sống thì sao?" Emma hỏi. "Còn những người bạn bị bắt cóc của chúng tôi?"
"Hạ giọng xuống khẽ thôi." Sharon suỵt. "Ngay khi tôi nói xong việc của tôi, chúng ta sẽ tìm một người có thể giúp các vị. Từ giờ tới lúc đó, đừng có nhắc lại mấy lời này với bất cứ ai."
Emma nhìn thẳng vào mặt Sharon. "Vậy đừng để tôi nhắc lại điều này. Mặc dù chúng tôi đánh giá cao sự giúp đỡ và hiểu biết của ông, nhưng tính mạng các bạn của chúng tôi đã bị ấn định một kỳ hạn. Tôi sẽ không nói lảnh nói tránh, lãng phí thời gian chỉ để tránh làm vài kẻ nào đó xù lông lên."
Sharon nhìn xuống cô, im lặng một hồi. Rồi ông ta nói. "Tất cả chúng ta đều có một kỳ hạn. Nếu tôi là cô, tôi sẽ không vội vàng đến thế để tìm xem nó là gì đâu."
* * *
Chúng tôi lên đường đi tìm luật sư của Sharon. Chẳng mấy chốc ông ta đã trở nên thất vọng. " Tôi dám thề là văn phòng của ông ta ở trên phố này." Ông ta nói trong khi quay gót lại. "Tuy nhiên đã nhiều năm không gặp ông ta. Có lẽ ông ta đã chuyển đi."
Sharon quyết định đi tìm một mình và bảo chúng tôi ở yên một chỗ. "Tôi sẽ quay lại sau vài phút. Đừng nói chuyện với ai hết."
Ông ta sải bước rời đi, bỏ chúng tôi lại. Chúng tôi lúng túng co cụm lại trên vỉa hè, không dám chắc mình phải làm gì. Người ta nhìn chằm chằm khi đi ngang qua chúng tôi.
" Thực ra ông ta đã xỏ mũi chúng ta phải không?" Emma nói. "Ông ta làm cho nơi này nghe như thể là hang ổ của tội phạm, Nhưng với từ trong đó cũng chẳng khác gì bất cứ Vòng Thời Gian nào khác. Trên thực tế, những người sống ở đây trông còn bình thường hơn bất cứ người đặc biệt nào tớ từng thấy. Cứ như thế họ bị hút hết những tính cách và trưng ra khỏi mình vậy. Nói thẳng là nhạt nhẽo."
"Cô chắc đang đùa." Addison nói. " Tôi chưa bao giờ thấy nơi nào xấu xa hay kinh tởm hơn."
Cả hai chúng tôi cùng nhìn nó đầy ngạc nhiên.
" Thế là sao?" Emma nói. " Ở đây chỉ toàn những cửa hàng nhỏ."
"Phải. Nhưng cứ xem bọn họ bán cái gì."
Cho tới lúc này chúng tôi mới để ý. Ngay sau lưng chúng tôi là một khung kính trưng bày, và đứng bên trong là một người đàn ông mặc tươm tất với đôi mắt phiền muộn và bộ râu dài thượt. Khi thấy mình đã thu hút được sự chú ý của chúng tôi, ông ta khẽ gật đầu, giờ một cái đồng hồ bỏ túi lên, rồi ấn vào một cái nút bên cạnh sườn nó. Khoảnh khắc ông ta bấm cái nút, người đàn ông cứng đơ lại, và hình ảnh ông ta dường như nhòe đi. Vài giây sau, ông ta dịch chuyển mà không hề cử động - biến mất rồi lại xuất hiện trở lại tức thì ở góc đối diện của khung kính trưng bày.
"Ái chà." Tôi thốt lên. "Quả là một trò ảo thuật!"
Ông ta làm lại lần thứ hai, dịch chuyển tức thời trở lại góc ban đầu. Trong khi tôi đứng đờ ra như bị thôi miên, Emma và Addison đi tiếp tới khung kính của cửa hàng kế tiếp. Tôi gia nhập với họ và thấy một màn trình diễn tương tự, chỉ có điều đứng sau khung kính là một người phụ nữ mặc váy đen, một chuỗi hạt cườm dài buông lủng lẳng xuống từ một bàn tay.
Khi thấy chúng tôi đang nhìn, người phụ nữ liền nhắm mắt lại và duỗi dài hai cánh tay ra như một con người mộng du. Bà ta bắt đầu chậm rãi lần các hạt cườm qua các ngón tay, lần từng hạt một. Đôi mắt tôi bị hút vào những hạt cườm tới mức tôi phải mất vài giây mới nhận ra điều đang xảy ra với khuôn mặt người phụ nữ: nó đang thay đổi, rất kín đáo, theo mỗi hạt cườm bà ta lần qua. Đến một hạt, tôi thấy làn da xanh tái của bà ta ửng hồng lên. Đến hạt tiếp theo, đôi môi bà ta mỏng bớt. Rồi tóc bà ta đỏ thêm, dù rất nhẹ. Hiệu ứng cộng gộp lại sau khi vài chục hạt cườm đã được lần qua là khuôn mặt người phụ nữ trở nên hoàn toàn khác, biến hóa từ một bà lão tóc đen với khuôn mặt tròn trịa thì một phụ nữ trẻ tóc đỏ với cái mũi sắc sảo. Quá trình này khiến người ta vừa bị mê hoặc vừa thấy bất an.
Khi màn trình diễn kết thúc, tôi quay sang Addison. "Tôi không hiểu." Tôi nói. " Họ đang bán cái gì vậy?"
Trước khi con chó kịp trả lời, một cậu bé chưa đến mười ba tuổi hối hả lách tới chỗ chúng tôi và ấn một cặp thẻ vào bàn tay tôi. "Một được hai, chỉ hôm nay thôi!" Cậu ta bi bô. "Đề nghị hợp lý thì không bị từ chối!"
Tôi xoay hai tấm thẻ trên tay lại. Một tấm có ảnh người đàn ông với cái đồng hồ bấm giờ, vào mặt sau ghi J. Edward Bragg, người hai vị trí. Tấm thẻ kia là ảnh chụp người phụ nữ cầm chuỗi hạt cườm đang nhập thần, và có ghi G. Funke, người phụ nữ với nghìn khuôn mặt.
"Đi đi, chúng tôi không mua." Emma nói, cậu nhóc quắc mắt lên với cô rồi hối hả bỏ đi.
"Giờ cậu đã thấy họ buôn bán gì chưa?" Addison hỏi.
Tôi đưa mắt về phía cuối phố. Hình như trong tất cả khung kính trưng bày của các cửa hàng dọc theo Phố Mập Mờ đều có những người giống người đàn ông cầm đồng hồ bấm giờ vào người phụ nữ mang chuỗi hạt - những người đặc biệt sẵn sàng thể hiện một màn biểu diễn, chỉ cần bạn liếc mắt về phía họ.
Tôi đánh bạn đoán thử. " Họ đang bán... chính bản thân mình."
" Như một bóng đèn mờ tịt sáng bừng lên ấy nhỉ." Addison nói.
" Nhưng như thế là xấu à?" Tôi nói, cố đoán lần nữa.
"Phải." Addison gắt. "Chuyện này là trái luật trong thế giới đặc biệt, và vì những lý do chính đáng."
"Năng lực đặc biệt của mỗi người là một món quà thiêng liêng." Emma nói. "Đem nó ra bán làm mất giá trị của điều đặc biệt ở chúng ta."
Nghe như thể cô đang máy móc nhắc lại những lời vô vị đã được nhồi nhét ngay từ khi còn nhỏ.
"Hừm." Tôi nói. "Được thôi
"Cậu vẫn chưa bị thuyết phục." Addison nói.
" Tôi không nghĩ chuyện đó có thể gây hại gì. Nếu tôi cần sự phục vụ của một người vô hình, và người vô hình đó lại cần tiền, tahi sao chúng ta không nên trao đổi?"
"Nhưng cậu có ý thức đạo đức mạnh, và điều đó khiến cậu khác biệt với chín mươi chín phần trăm nhân loại." Emma nói. "Sẽ thế nào nếu một kẻ xấu - hay thậm chí là một kẻ vô đạo đức - muốn mua sự phục vụ của một người đặc biệt vô hình?"
"Người đặc biệt vô hình nên từ chối."
" Nhưng chuyện này không phải luôn trắng đen rõ ràng như thế." Emma nói. " và bán mình sẽ làm xói mòn quy chuẩn đạo đức của anh. Chẳng mấy chốc, anh sẽ lún sâu vào phía sai lầm của vùng sáng đó mà không hề biết, làm những điều anh sẽ không bao giờ làm nếu không phải thì được trả tiền. Và nếu ai đó đâm vào cánh đố tuyệt vọng, họ có thể bán mình cho bất cứ ai, không cần biết ý định của người kia là gì."
"Cho một gã xác sống chẳng hạn." Addison nói thêm, giọng nhấn mạnh.
"Ừ, phải, sẽ thì tồi tệ quá." Tôi nói. "Nhưng không có thực sự nghĩ một người đặc biệt có thể làm thế không?"
"Đừng có ngớ ngẩn!" Addison nói. "Nhìn vào tình trạng của nơi này xem. Nhiều khả năng nó là Vòng Thời Gian duy nhất ở châu Âu chưa bị đám xác sống tàn phá! Và theo cậu vì sao thế? Vì tôi tin chắc sẽ vô cùng đắc dụng khi có tả một cộng đồng những kẻ phản bội và do thám hoàn toàn sẵn sàng đợi làm theo yêu cầu của chúng."
"Có lẽ ông nên nhỏ giọng xuống." Tôi nói.
"Có lý lắm." Emma nói. "Hẳn chúng đã tung những kẻ do thám là người đặc biệt xâm nhập vào các Vòng Thời Gian của chúng ta. Nếu không, làm sao chúng lại biết được nhiều đến thế? Các lối vào Vòng, hệ thống phòng ngự, những điểm yếu... chỉ có thể là do sự giúp đỡ của những kẻ ở nơi này." Cô ném một cái nhìn phẫn nộ ra xung quanh, vẻ mặt người vừa uống phải sữa bị vón cục.
"Đề nghị hợp lý thì không bị từ chối, quả vậy." Addison gằn giọng. "Những kẻ phản bội, tất cả chúng. Đáng bị treo cổ!"
" Có chuyện gì thế? Ngày hôm nay tệ lắm à?"
Chúng tôi quay lại thì thấy một phụ nữ đứng sau lưng. (Cô ta đứng đó bao lâu rồi? Cô ta đã nghe thấy những gì?) Người phụ nữ ăn diện theo phong cách công sở thập niên 1950 - váy ngắn tới đầu gối và đôi giày đen đế chừng ba phân - và đang uể oải phì phèo một điếu thuốc lá. Mái tóc cô ta được cuộn lại búi cao trên đầu, còn khẩu âm thì bèn bẹt và đặc chất Mỹ như vùng đồng bằng Trung Tây vậy.
"Tôi là Loraine." Cô ta nói. "Còn các em là người mới đến thành phố nhỉ?"
" Chúng tôi đang đợi một người." Emma nói. "Chúng tôi... đang đi nghỉ."
"Đừng nói thêm gì nữa." Lorraine nói. " Tôi cũng đang đi nghỉ. Đã đi nghỉ trong năm mươi năm vừa qua." Cô ta bật cười, phô ra những chiếc răng bị dính son môi. "Nếu tôi có thể giúp các em bất cứ điều gì thì cứ cho tôi biết. Lorraine đưa ra những lựa chọn tốt nhất trên Phố Mập Mờ, và thực tế là đúng thế đấy."
"Không, xin cảm ơn." Tôi nói.
"Đừng lo, chàng trai yêu quý. Họ không cắn đâu."
" Chúng tôi không có hứng."
Lorraine nhún vai. " Tôi chỉ muốn tỏ ra thân thiện thôi. Chỉ là vì các em nom có vẻ hơi không quen đường."
Cô ta bắt đầu rời đi, không có một điều cô ta vừa nói đã thu hút sự quan tâm của Emma.
"Lựa chọn cái gì cơ?"
Lorraine quay lại và bừng nở một nụ cười ngọt xớt. "Những người già, những đứa trẻ. Đủ loại tài năng. Một vài khách hàng của tôi chỉ muốn một màn trình diễn, và thế cũng tốt, nhưng những người khác lại có yêu cầu riêng biệt. Chúng tôi đảm bảo vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi."
"Cậu đây đã nói không rồi, cảm ơn cô." Addison cộc cằn nói, và đang chực đuổi người phụ nữ đi thì Emma bước tới trước con chó và nói. " Tôi muốn xem."
"Cậu muốn gì cơ?" Tôi nói.
" Tớ muốn xem." Emma nói, giọng đã có chút bực dọc. "Cho tôi xem đi."
"Chỉ những yêu cầu nghiêm túc thôi." Lorraine nói.
"Ồ, tôi rất nghiêm túc."
Tôi không biết Emma định làm gì, nhưng tôi có đủ niềm tin vào cô để chấp nhận làm theo.
"Có chuyện gì với bọn họ vậy?" Lorraine nói, đưa ánh mắt dò hỏi về phía Addison và tôi. " Họ luôn cọc cằn thế sao?"
"Phải. Nhưng họ không có vấn đề gì đâu."
Lorraine nheo mắt nhìn chúng tôi như thể đang hình dung xem đã sẽ phải làm gì để tống khứ chúng tôi bằng vũ lực khỏi chỗ cô ta nếu cần.
" Cậu có thể làm gì nào?" Cô ta nói với tôi. "Gì cũng được?"
Emma hắng giọng, rồi đưa mắt nhìn tôi chăm chăm. Tôi biết ngay điều cô muốn nhắn nhủ: Nói dối!
"Tôi cần nâng được bút chì và các đồ vật bay lên." Tôi nói. " Nhưng giờ tôi thậm chí không thể giữ chúng đứng thẳng lên được. Tôi nghĩ tôi... bị mất năng lực, hay gì đó."
"Bhững người giỏi nhất vẫn thường bị vậy." Cô ta nhìn sang Addison. "Còn anh bạn?"
Addison đảo mắt chán nản. "Tôi là một con chó biết nói, được chưa?"
"Và đó là tất cả những gì anh bạn làm được hả, nói?"
"Đôi khi có vẻ là thế." Tôi không đừng được lên tiếng.
" Tôi không biết mình cảm thấy bị ai trong hay vị xúc phạm nhiều hơn đây." Addison nói.
Lorraine bập hơi thuốc lá cuối rồi ném điếu thuốc đi. "Được rồi, mấy cưng. Theo tôi."
Cô ta bắt đầu rời đi. Chúng tôi nán lại đằng sau một lát và thì thầm bàn bạc.
"Thế còn Sharon thì sao?" Tôi nói. "Ông ấy bảo chúng ta đợi ở đây."
"Chuyện này chỉ mất một phút thôi." Emma nói. "Và tớ có linh cảm là cô ta biết rõ hơn Sharon nơi lũ xác sống đang ẩn nấp."
"Và cô nghĩ cô ta sẽ cứ thế tự động cung cấp những thông tin đó à?" Addison hỏi.
"Để xem." Emma nói, đoạn quay đi theo Lorraine.
* * *
Chỗ của Lorraine không có cửa sổ hay bất cứ biển hiệu nào, chỉ có một cửa ra vào trống trơn với một cái chuông bạc và một sợi xích để kéo. Lorraine rung chuông. Chúng tôi đợi trong khi một loạt then cài được kéo mở ra ở bên trong, rồi cánh cửa hé ra một chút. Một con mắt lóe lên nhìn chúng tôi trong bóng tối.
"Thịt tươi à?" Một giọng đàn ông cất lên.
"Khách hàng." Lorraine đáp. "Cho chúng tôi vào."
Con mắt biến mất và cánh cửa mở hẳn ra. Chúng tôi bước vào một tiền sảnh kiểu cách, người gác cổng đứng đó để chờ giám sát chúng tôi vào. Ông ta mặc một chiếc áo khoác nặng trịch có cổ cao và đội mũ phớt mềm vành rộng, cái mũ được kéo sụp xuống thấp tới mức tất cả những gì chúng tôi có thể thấy trên khuôn mặt ông ta là đôi mắt nhỏ tí và chóp mũi. Ông ta đứng chắn đường, nhìn chằm chằm xuống chúng tôi.
"Thế nào?" Lorraine nói.
Người đàn ông dường như cho rằng chúng tôi không phải là một mối đe dọa. "Được." Ông ta nói, bước sang bên. Ông ta đóng và khóa cửa lại sau lưng chúng tôi, rồi đi theo sau trong khi Lorraine dẫn chúng tôi đi xuống một hành lang dài.
Chúng tôi đi vào một căn phòng khách nhỏ chập chờn trong ánh đèn dầu. Đó là một nơi nhếch nhác nhưng lại có ngụy tạo vẻ vương giả: các bức tường được trang trí bằng những hình hoa văn uốn lượn mạ vàng và những tấm rèm nhung, phần trần vòm vẽ hình các vị thần Hy Lạp với làn da rám nắng mặc áo tunic, lối vào phòng có những cây cột đá cẩm thạch trang trí hai bên.
Lorraine gật đầu với người gác cửa. "Cảm ơn, Carlos."
Carlos lướt đi ra cuối phòng. Lorraine bước tới một bức tường che rèm rồi kéo một sợi dây, và tấm mềm trượt sang bên để lộ một tấm kính rộng chắc chắn. Chúng tôi bước tới nhìn, và qua tấm kính đó thấy một căn phòng khác. Nó rất rộng với căn phòng chúng tôi đang đứng, nhưng nhỏ hơn, và trong đó có những người đang ngồi thơ thẩn trên ghế tựa hay sofa, một số đầu sách, trong khi những người khác ngủ.
Tôi đếm được tám người. Một vài người lớn tuổi hơn, tóc ở thái dương đã hoa râm. Hai người, một cậu bé và một cô bé còn chưa tới mười tuổi. Tôi nhận ra tất cả họ đều là tù nhân.
Addison định hỏi gì đó, nhưng Lorraine nóng lòng ra hiệu. "Có gì hỏi để sau, làm ơn." Cô ta bước tới chỗ tấm kính, cầm lên một cái ống được nối xuyên qua bức tường bên dưới tấm kính, rồi nói vào một đầu ống. "Số mười ba."
Ở bên kia tấm kính, cậu bé nhỏ tuổi nhất đứng dậy kéo lê chân tới trước. Tay chân cậu ta đều bị xích, và cậu ta là người đặc biệt duy nhất mặc đồ trông giống hệt tù nhân: quần áo và mũ kẻ sọc, đèo câu số mười ba rõ rành rành. Cho dù không thể quá mười tuổi, lông tóc cậu ta lại như một người đàn ông trưởng thành: chòm râu rậm hình tam giác và đôi lông mày như những con sâu ngài rừng, đôi mắt bên dưới lạnh lùng và dò xét.
" Tại sao cậu ấy lại bị xích như thế?" Tôi hỏi. "Cậu ta nguy hiểm sao?"
"Cậu sẽ thấy." Lorraine nói.
Cậu bé nhắm mắt lại. Có vẻ như cậu ta đang tập trung. Một lát sau, tóc bắt đầu thò ra từ rìa mũ cậu ta đội, bò lan xuống trán. Chòm râu dê của cậu ta cũng dài ra, xoắn kết thành một khối, rồi dựng đứng lên và lắc lư như một con rắn bị thôi miên.
"Thề có những con diệc của trời." Addison nói. "Thật lạ lùng quá sức."
"Giờ hãy theo dõi thật kỹ." Lorraine nói và cười hết cỡ.
Số mười ba giơ hai bàn tay bị còng của cậu ta lên. Đầu chót nhọn của chòm râu d đang bị thôi miên của cậu ta nhắm tới chỗ ổ khóa còng, rồi vặn vẹo chui vào đó. Cậu bé mở mắt ra và nhìn chằm chằm vô cảm về phía trước. Sau chừng mười giây, chòm rau gì vặn xoắc cứng lại và bắt đầu rung lên, tạo ra một nốt nhạc cao đến nỗi chúng tôi có thể nghe thấy qua lớp kính.
Ổ khóa mở ra và còng xích rơi khỏi tay cậu bé.
Cậu ta hơi cúi người xuống. Tôi cố kìm nén sự thôi thúc muốn vỗ tay hoan hô.
"Cậu ta có thể mở bất cứ ổ khóa nào trên thế giới." Lorraine nói với chủ tự hào kín đáo.
Cậu bé quay về với cái ghế và tờ tạp chí của mình.
Lorraine đưa bàn tay bịt lên cái ống. "Cậu ta là có một không hai, và những người còn lại cũng thế. Một là người đọc ý nghĩ, rất lão luyện. Một người khác có thể với qua những bức tường cao tới tận vai cô ấy. Thoáng nghe gì chưa thấy nhưng nó rất hữu dụng đấy, tin tôi đi. Cô bé ở đây có thể bay Nếu được cung cấp đủ sô đa nho."
"Có đúng thế không?" Addison cộc lốc hỏi.
"Cô bé sẽ rất vui được trình diễn." Lorraine đáp, và nói vào cái ống để gọi cô bé ra trước khung kính.
"Không cần." Emma nói qua hai hàm răng nghiến chặt.
"Đó là việc của họ." Lorraine nói. "Số năm, tới trước."
Cô bé bước tới một cái bàn đầy chai, chọn một chai đựng đầy thứ chất lỏng màu đỏ tím, và uống một hơi dài. Khi đã uống cạn, cô bé đặt chai xuống, nấc một cái thật kiểu cách, rồi đi tới đứng cạnh một cái ghế có lưng dựa. Một lát sau, cô gái lại nấc và hai bàn chân cô bắt đầu nhắc lên khỏi sàn, xoay lên trên trong khi đầu cô bé vẫn giữ thẳng như cũ.
Đến lần nấc thứ ba, hai bàn chân cô bé đã lớn lên chín mươi độ và cô nằm thẳng nhưng trong không khí, với điểm tựa duy nhất là đỉnh lưng ghế phía dưới cổ.
Tôi nghĩ Lorraine trông đợi phản ứng mạnh hơn từ chúng tôi, song - cho dù bị gây ấn tượng - chúng tôi vẫn quan sát trong im lặng. "Một đám cứng cựa." Cô ta nói và cho cô bé quay về chỗ.
"Bây giờ." Lorraine nói, treo cái ống liên lạc nên rồi quay lại đối diện với chúng tôi. "Nếu không ai trong họ là lựa chọn phù hợp của các vị, tôi có thỏa thuận cho thuê với các chuồng nuôi khác. Lựa chọn của các vị Không chỉ bị giới hạn ở những gì các vị thấy ở đây."
"Các chuồng nuôi." Emma nói. Giọng cô bình thản, nhưng tôi có thể đoan chắc ruột gan cô đang sôi lên. "Vậy cô thừa nhận mình đối xử với họ như với con vật."
Lorraine quan sát Emma một hồi. Đôi mắt cô ta lướt tới người đàn ông mặc áo khoác đang đứng canh đằng sau. "Tất nhiên là không." Cô ta nói. " Đây là những tài sản có hiệu năng cao. Họ được ăn uống đầy đủ, được nghỉ ngơi tốt, được huấn luyện để làm việc dưới áp lực, và sạch sẽ như tuyết vừa rơi xuống. Phần lớn chưa bao giờ động tới dù chỉ một giọt mật thần thánh - vào trong phòng làm việc của chúng tôi có giấy tờ chứng minh cho điều đó. Không thì các vị chỉ cần hỏi họ là biết. Số mười ba và số sáu!" Cô ta lớn tiếng gọi vào cái ông nói. "Tới nói cho những người này biết các người thích ở đây như thế nào nào."
Cậu bé và một cô gái đứng dậy để bước tới khung kính. Cậu bé cầm lấy ông nói. "Chúng tôi rất thích ở đây." Cậu ta nói như một người máy. "Mẹ đối xử với chúng tôi tốt lắm."
Cậu bé đưa ống cho cô gái. "Chúng tôi thích làm việc của mình. Chúng tôi..." Cô này ngừng lại, cố nhớ ra những gì đã học mà quên mất. "Chúng tôi thích làm việc của mình." Cô gái ấp úng.
Lorraine bực dọc cho cả hai người lui về. "Và các vị thấy rồi đấy. Bây giờ, Tôi có thể để các vị thử đánh giá thêm một hay hai người nữa, nhưng nhiều hơn thế thì tôi sẽ cần một hình thức ứng trước nào đó."
" Tôi muốn xem những tờ giấy đó." Emma nói, liếc mắt lại nhìn người đàn ông mặc áo khoác. "Những giấy tờ trong phòng làm việc của cô." Hai bàn tay cô, đang siết chặt lại hai bên sườn, đỏ dần lên. Tôi có thể thấy chúng tôi cần rồi đi trước khi mọi thứ trở nên tồi tệ. Cho dù người phụ nữ kia có thông tin gì, thứ đó cũng không đáng để đánh nhau, Còn về chuyện giải cứu tất cả những đứa trẻ
kia... vậy đấy, nghe có vẻ vô tâm, nhưng chúng tôi có những đứa trẻ của riêng mình cần giải cứu trước đã."
" Thực ra thì chuyện đó không cần thiết." Tôi nói, rồi ghé sát lại Emma và thì thầm. "Chúng ta sẽ trở lại để giúp họ. Chúng ta có việc phải ưu tiên."
"Các giấy tờ." Emma nói, tảng lờ tôi.
" Không vấn đề gì." Lorraine đáp. "Vào phòng tôi và cùng trao đổi thẳng thắn nào."
Thế rồi Emma rời đi và không có cách nào ngăn cản lại mà không gây nghi ngờ.
Phòng làm việc của Lorraine gồm một cái bàn làm việc và một cái ghế kê chật ních trong một buồng nhỏ. Cô ta vừa kịp đóng cửa ra vào lại sau lưng chúng tôi là Emma xông tới dộng cô ta ép sát vào cửa. Lorraine bật rủa và la lối gọi Carlos nhưng rồi im bặt khi Emma giờ lên trước mặt cô ta một bàn tay đỏ rực nóng dẫy như dây ruột gà có một cái lò. Trên áo Lorraine, chỗ Emma đưa tay đẩy, hai dấu bàn tay đen kịt đang bốc khói.
Có tiếng đấm lên cửa và tiếng gầm gừ vọng vào từ phía bên kia.
"Bảo hắn là cô ổn cả." Emma nói, giọng cô thật khẽ và tắc lẹm.
" Tôi ổn cả." Lorraine nói, giọng cứng đờ.
Cánh cửa lại rung lên sau lưng cô ta.
"Nói lại với hắn."
Lorraine, lần này với giọng thuyết phục hơn: " Biến đi! Tôi đang bận công chuyện!"
Thêm một tiếng gầm gừ, rồi tiếng bước chân xa dần.
"Các người đang cực kỳ ngu ngốc đấy." Lorraine nói. "Chưa bao giờ có ai ăn cắp của tôi mà sống nổi đâu."
"Chúng tôi không muốn tiền." Emma nói. "Cô sẽ trả lời một số câu hỏi."
"Về cái gì?"
"Những người ngoài kia. Cô nghĩ là cô sở hữu họ sao?"
Trán Lorraine cau lại. "Chuyện quái gì đây?"
"Những người đó. Những đứa trẻ đó. Cô đã mua họ - cô nghĩ là cô sở hữu họ sao?"
" Tôi chưa bao giờ mua bất cứ ai cả."
"Cô đã mua ho và giờ cô đang bán họ. Cô là một kẻ buôn bán nô lệ."
" Mọi thứ không diễn ra như thế. Bọn họ tự nguyện đến với tôi. Tôi là đại diện cho họ."
"Cô là kẻ cò mồi cho họ." Emma gắt lên.
"Không có tôi thì họ chết đói rồi. Hoặc đã bị bắt đi."
"Bị ai bắt đi?"
"Cô biết là ai mà."
" Tôi muốn nghe cô nói ra điều đ"
Người phụ nữ phá lên cười.
"Đó không phải là một ý kiến hay đâu."
"Thật ư?" Tôi vừa nói vừa bước tới một bước. " Sao lại không?"
"Tai vách mạch rừng, và chúng không thích bị nói đến."
"Tôi đã giết xác sống." Tôi nói. "Tôi không sợ chúng."
" Vậy thì cậu là một thằng ngốc."
"Tôi cắn cô ta nhé?" Addison nói. " Tôi thực sự thích thế. Chỉ một cái thôi."
"Chuyện gì xảy ra khi chúng bắt người?" Tôi hỏi, tảng lờ nó.
"Không ai biết cả." Người phụ nữ nói. "Tôi đã cố gắng tìm hiểu, nhưng..."
" Tôi dám cược là cô đã rất cố gắng." Emma nói.
"Thỉnh thoảng chúng tới đây." Lorraine nói. "Để mua hàng."
"Mua hàng." Addison nói. "Thật là một cách nói hay ho."
"Để dùng người của tôi." Người phụ nữ nhìn quanh. Giọng nói của cô ta hạ xuống chỉ còn là tiếng thì thầm. "Tôi ghét chuyện đó. Các vị không bao giờ biết chúng sẽ muốn bao nhiêu hai trong bao lâu. Nhưng cần giao cho chúng thứ chúng yêu cầu. Tôi đã phàn nàn, nhưng... người ta không được phàn nàn."
"Dám cược là cô chẳng hề phàn nàn về những gì chúng trả." Emma khinh bỉ nói.
"Chừng đó khó có thể coi là đủ cho những gì chúng bắt tôi trải qua. Tôi cố giấu những đứa trẻ đi khi tôi nghe thấy chúng đang tới. Chúng mang những đứa trẻ quay lại trong tình trạng điên cuồng hung hãn, trí nhớ bị xóa sạch. Tôi hỏi. "Các em đi đâu vậy? Người ta bắt các em làm gì?" Nhưng những đứa trẻ chả nhớ mảy may." Cô ta lắc đầu. "Nhưng chúng lại bị những cơn ác mộng. Những cơn ác mộng khủng khiếp. Thật khó mang chúng ra bán sau đó."
"Tôi đáng lẽ phải bán cô." Emma nói, tái nhợt, run bần bật. "Cho dù chắc sẽ chẳng có ai chả lấy nửa xu."
Tôi đút tay nắm tay vào túi để ngăn mình vung nắm đấm về phía Lorraine. Còn có nhiều thứ cần moi từ cô ta. " Thế còn những người đặc biệt bị chúng bắt về từ các Vòng Thời Gian khác thì sao?" Tôi hỏi.
"Chúng đưa hỏi đi qua bằng xe tải. Trước đây chỉ họa hoằn mới có. Nhưng gần đây thì liên tục."
" Hôm nay có chiếc xe tải nào mới đi qua không?" Tôi hỏi.
"Chừng vài giờ trước." Cô ta nói. "Chúng bố trí lính gác mang súng khắp nơi, chặn cả phố. Làm một màn rõ làm ruộng."
"Thường thì chúng không làm thế sao?"
"Không thường xuyên. Hẳn là chúng cảm thấy an toàn tại đây. Lần chuyển hàng này chắc phải quan trọng lắm."
Chính là họ. Tôi nghĩ. Một cơn phấn khích lan khắp người tôi - nhưng lập tức bị dập tắt bởi những lời Addison ném về phía Lorraine. " Tôi tin chắc là chúng cảm thấy tuyệt đối an toàn tại đây." Nó gầm gừ nhe răng ra. "Giữa những kẻ phản bội từ đầu đến chân đến này kia mà."
Tôi tóm lấy vòng cổ của nó và giữ nó lại. "Bình tĩnh!"
Addison lồng lên chống lại tôi, và trong một thoáng Tôi đã nghĩ nó có thể đớp vào bàn tay tôi, nhưng rồi nó dịu xuống.
" Chúng tôi làm những gì phải làm để sống sót." Lorraine nói.
"Cả chúng tôi cũng thế." Emma nói. "Bây giờ nói cho chúng tôi biết những chiếc xe tải đó chạy đi đâu, và nếu cô nói dối, hay những gì cô nói hóa ra là một cái bẫy, tôi sẽ quay lại và đun chảy hai lỗ mũi của cô cho tắt tịt lại." Cô dâu một ngón tay cháy rực ra ngay trước chóp mũi Lorraine. "Đồng ý chứ?"
Tôi gần như có thể hình dung ra cảnh Emma làm chuyện đó. Cô đang chạm vào một cái giếng sâu của lòng căm thù, thứ tôi chưa bao giờ thấy cô bộc lộ hoàn toàn ra trước đây, và cho dù rất hữu ích cho những tình huống như lúc này, nó cũng có phần đáng sợ. Tôi không thích phải nghĩ tới những gì không dám làm khi có động cơ chính đáng.
" Bọn họ đi tới lãnh địa của họ Đồng Ma." Lorraine nous, quay mặt tránh khỏi ngón tay bỏng rực của Emma. "Bên kia cầu."
"Cầu nào?" Emma hỏi, gí ngón tay lại gần hơn.
"Ở đầu trên Phố Khói. Tuy nhiên, đừng mất công tìm cách vượt qua cầu, trừ phi các vị thích cuối cùng đầu mình ngụ trên một cái cọc."
Tôi đoán đó là tất cả những gì chúng tôi có thể moi được từ Lorraine. Giờ chúng tôi cần phải nghĩ xem nên làm gì với cô ta. Addison muốn cắn cô ta. Emma muốn dùng muốn tay sáng trắng vạch một chữ N trên trán cô ta, đánh dấu cô ta cả đời là một kẻ buôn nô lệ. Tôi thuyết phục họ từ bỏ ý định làm cả hai việc đó, thay vì thế chúng tôi bịt miệng cô ta lại bằng một vài dây kéo rèm và trói cô ta vào một chân bàn làm việc. Chúng tôi sắp sửa bỏ cô ta lại như thế thì tôi chợt nghĩ, còn một điều cuối cùng tôi muốn biết.
" Chuyện gì đã xảy ra với họ, những người đặc biệt mà chúng bắt cóc ấy?"
"Ừmm!"
Tôi gỡ nùi bịt miệng cho cô ta.
"Không ai thoát ra được để kể lại." Cô ta nói. "Nhưng có những tin đồn."
"Đồn thế nào?"
"Có thứ gì đó còn kinh khủng hơn cả cái chết." Cô ta dành cho chúng tôi một nụ cười thớ lợ. " Tôi đoán là các vị sẽ phải tìm ra thôi, phải không nào?"
* * *
Ngay sau khi chúng tôi mở cửa phòng làm việc, người đàn ông mặc áo khoác lao qua phòng khách xông lại chỗ chúng tôi, bàn tay cầm thứ gì đó nặng trịnh vung lên. Nhưng y chưa kịp tới chỗ chúng tôi, một tiếng cảnh báo ú ớ vọng ra từ phòng làm việc khiến y dừng lại, đổi hướng chạy xem tình hình của Lorraine. khi y lao qua ngưỡng cửa vào trong, Emma đóng sầm cửa lại sau lưng y rồi nung chảy tay cầm thành một khối méo mó vô dụng.
Việc này cho chúng tôi thêm một hay hai phút.
Addison và tôi lao về phía lối ra. Đến nửa đường, tôi nhận ra Emma đã không bám theo. Cô đang đập thình thịch nên tấm kính chắn khu vực giam mấy người đặc biệt.
" Chúng tôi có thể giúp các bạn thoát thân! Hãy chỉ cho tôi cửa ở đâu!"
họ lờ đờ quay lại nhìn chằm chằm, uể oải nhúc nhắc trên ghế hay trường kỷ của mình.
"Ném thứ gì đó để đập vỡ kính đi!" Emma nói. "Nhanh lên!"
Không ai động đậy. Họ có vẻ bối rối. Có lẽ họ không tin việc giải cứu thực sự khả thi - hoặc có lẽ họ không muốn được giải cứu.
"Emma, chúng ta không thể đợi được." Tôi nói, nắm lấy cánh tay của cô.
Cô không chịu bỏ cuộc. "Làm ơn!" Cô hét lớn qua ống nói. "Ít nhất hãy để những đứa trẻ ra!"
Những tiếng la hét khản cổ vọng ra từ bên trong phòng làm việc. Cánh cửa rung lên trên bàn lề. Tuyệt vọng, Emma dùng nắm tay đấm thình hình lên tấm kính.
"Có chuyện gì với họ vậy?"
Những cái nhìn chằm chặp kế tiếp nhau. Cậu bé và cô bé bắt đầu khóc
Addison lấy răng ngậm lấy gấu váy Emma. "Chúng ta phải đi!"
Emma buông ống nói xuống và cay đắng quay đi.
Chúng tôi chạy tới, hất mở tung cửa rồi ào ra ngoài vỉa hè. Một màn tối dày đặc màu vàng đã tràn vào, trùm kín một lớp sương mờ lên mọi vật và che kín một bên đường phố khỏi phía bên kia. Trong khí hối hả chạy tới cuối khối nhà, chúng tôi có thể nghe thấy Lorraine đang tru tréo đằng sau lưng mình mà không thể thấy cô ta; chúng tôi rẽ vào một góc phố rồi một góc khác cho tới khi chúng tôi có vẻ đã cắt đuôi được cô ta. Trên một con phố vắng tanh, chúng tôi dừng lại trước mặt tiền của một cửa hàng được trên ván kín để thở lấy hơi.
"Cái đó gọi là hiệu ứng Stockholm." Tôi nói. "Khi người ta bắt đầu có cảm tình với những kẻ bắt giữ họ."
" Tôi nghĩ chỉ đơn giản là họ sợ." Addison nói. "Họ có thể chạy đi đâu chứ? Toàn bộ nơi này là một nhà tù."
" Cả hai người đều nhầm." Emma nói. "Họ bị đánh thuốc."
"Nghe cậu nói có vẻ rất chắc chắn." Tôi nói.
Cô gạt những sợi tóc đã rơi xõa xuống trán ra sao. "Khi tôi còn làm việc ở gánh xiếc sau khi chạy trốn khỏi nhà, một người phụ nữ đã tiếp cận thứ sau một lần trình diễn nuốt lửa của tớ. Bà ta nói biết tớ là ai - và biết những người khác cũng giống như tớ - và tớ có thể kiếm nhiều tiền hơn nhiều nếu tớ làm việc cho bà ta." Emma nhìn chăm chăm ra phố, hai má cô đỏ ửng sau cuộc chạy gấp. "Tớ đã nói với bà ta là tớ không muốn đi. Bà ta vẫn cứ nài nỉ. Cuối cùng, khi rời đi, bà ta rất tức giận. Tối đó, tớ thức dậy ở đằng sau một thùng xe ngựa, miệng bị bịt, hai bàn tay bị trói. Tớ không thể nhúc nhích, không thể suy nghĩ tỉnh táo. Chính cô Peregrine đã cứu tớ. Nếu cô ấy không tìm thấy tớ đi bọn chúng dừng lại để đóng móng ngựa ngày hôm sau." Emma hất hàm ra sau lưng chúng tôi, chúng tôi vừa từ đó chạy tới - " Có lẽ tôi cũng đã thành ra như họ."
"Cậu chưa bao giờ kể với tớ chuyện đó." Tôi khẽ nói.
"Đó không phải là chuyện tớ thích nói đến."
" Tôi rất tiếc vì chuyện đó đã xảy ra với cô." Addison nói. "Người phụ nữ ở chỗ đó - có phải cô ta là người đã bắt cóc cô không?"
Emma ngẫm nghĩ giây lát.
" Chuyện đó đã xảy ra quá lâu rồi. Tôi đã quên phần tồi tệ nhất của nó, kể cả khuôn mặt kẻ bắt cóc tôi. Nhưng tôi biết người này. Nếu hai người để tôi một mình với người phụ nữ đó, tôi không chắc tôi có thể ngăn mình lấy mạng cô ta hay không."
"Tất cả chúng ta đều có những con quỷ cần trừ diệt." Tôi nói.
Tôi tựa người vào một khung cửa được che ván kín, cơn mệt mỏi kiệt quệ đột nhiên bao trùm khắp người. Chúng tôi chưa được ngủ bao lâu rồi? Đã bao nhiêu giờ tôi qua kể từ khi Caul lộ diện? Cứ như đã nhiều ngày trôi qua, Mặc dù không thể quá mười hay mười hai giờ. Mỗi khoảnh khắc kể từ lúc đó là một cuộc chiến, một cơn ác mộng của vật lộn và kinh hoàng không hồi kết. Tôi có thể cảm thấy cơ thể mình đau nhức đến sắp gục ngã. Hoảng sợ là điều duy nhất giữ cho tôi đứng thẳng, và khi nó bắt đầu mờ nhạt đi, tôi cũng muốn lả đi theo.
Chỉ trong một phần nhỏ nhất của một giây, tôi cho phép mắt mình nhắm lại. Thậm chí trong khoảng gián đoạn ngắn ngủi trong bóng tối ấy, những nỗi kinh hoàng cung chờ đợi tôi. Một bóng ma của cái chết vĩnh cửu bò rạp xuống ăn thi thể ông nội tôi, mắt nó nhểu ra từng giọt dầu. Cũng chính đôi mắt đó bị cắt lưỡi kéo làm vườn cắm ngập vào, trắn trối chìm dần xuống một nấm mồ lầy lội. Mặt nó méo mó trong đau đớn, nó ngã lộn ngược xuống một khe vực, chìm nghỉm, gào thét. Tôi đã giết con quỷ của mình rồi, song chiến thắng chỉ là thoáng qua, những con quỷ khác đã nhanh chóng xuất hiện để thay thế nó.
Tôi vụt mở mắt khi nghe thấy tiếng bước chân sau lưng mình, ở phía bên kia của khung cửa bị che ván. Tôi bật tránh ra và quay lại. cho dù cửa hàng có vẻ bỏ hoang, nhưng đang có ai đó ở bên trong, và những người đó đang đi ra.
Thế rồi nó đấy: sự hoảng hốt. Tôi lại bừng tỉnh, hai người kia cũng đã nghe thấy tiếng động. Hành động theo bản năng tập thể, chúng tôi thụp xuống nấp sau một đống củi gần đó. Qua các súc củi, tôi ghé mắt nhìn về phía mặt tiền cửa hàng, đọc tấm biển đã mờ treo phía trên cửa ra vào.
Munday, Dyson và Strype, luật sư. Bị người ta căm ghét và kinh sợ từ năm 1666.
Một cái then trượt trên chốt cái và cánh cửa ra vào từ từ mở ra. Một cái mũ trùm đầu đen quen thuộc xuất hiện: Sharon. Ông ta nhìn quanh, cho rằng xung quanh đều an toàn, ông ta lách ra và khóa cửa lại sau lưng mình. Trong khi ông ta hối hả đi về phía Phố Mập Mờ, chúng tôi thì thầm bàn nhau xem liệu có nên bám theo hay không. Liệu chúng tôi có cần ông ta nữa không? Có thể tin ông ta được không? Có thể và có thể. Ông ta đã làm gì bên trong mặt tiền của hàng đóng kín mít đó? Có phải đó là luật sư ông ta nói cần đi gặp hay không? Tại sao phải lén lút vậy?
Quá nhiều câu hỏi, quá nhiều điều không chắc chắn về ông ta. Chúng tôi quyết định chúng tôi có thể tự xoay xở được. Chúng tôi vẫn nấp yên và theo dõi khi ông ta mờ dần trong đám màn tối rồi biến mất.
* * *
Chúng tôi lên đường đi tìm Phố Khói và cây cầu của lũ xác sống. Không muốn mạo hiểm bước vào một cuộc chạm trán không lường trước nữa, chúng tôi quyết định tìm kiếm mà không hỏi đường. Chuyện này trở nên dễ hơn khi chúng tôi đã khám phá ra những tấm biển trên phố của Đồng Ma, thường được ẩn giấu ở những nơi ít gây chú ý nhất - đằng sau các băng ghế công cộng ở ngang tầm đầu gối, treo toòng teng từ đỉnh cột đèn xuống, khắc lên những tấm đá lót đường đã mòn dưới chân - nhưng ngay cả với sự trợ giúp của chúng, chúng tôi vẫn rẽ nhầm hướng nhiều ngang với số lần rẽ đúng. Có vẻ như Đồng Ma đã được thiết kế để khiến cho những ai bị mắc kẹt bên trong nó hóa điên. Có những con phố kết thúc bằng bữa tường lù lù chắn ngang đường để rồi lại bắt đầu ở một nơi khác. Có những con phố uốn ngoặt gấp tới mức gần như thành hình xoáy trôn ốc. Có những con phố không tên - hai hay ba phố. Không con phố nào ngăn nắp hay được giữ gìn tư thế như Phố Mập Mờ, nơi rõ ràng đã có một nỗ lực đặc biệt nhằm tạo ra một môi trường thoải mái cho những người khác trên thị trường mua bán người đặc biệt - Giờ đây sau khi tôi đã thấy qua cửa hàng của Lorraine và nghe được câu chuyện của Emma, ý tưởng đó khiến tôi cảm thấy lợm giọng.
Trong lúc chúng tôi lang thang, tôi bắt đầu nắm bắt được bố cục có một không hai của Đồng Ma, nhận ra các khối nhà bằng các đặc điểm của chúng nhiều hơn bằng tên. Mỗi con phố đều có đặc trưng riêng, những cửa hàng nằm dọc phố tập trung lại theo chủng loại. Phố Sầu Thảm có hai nhà đòn, một hiệu gọi hồn và một cửa hàng mộc chỉ chuyên về "gỗ quan tài tái sử dụng", một đội những người khóc mướn chuyên nghiệp vốn là một nhóm tứ ca nhà thờ vào các dịp cuối tuần, và một kế toán thuế. Phố Ri Rỉ lại vui mắt lạ lùng, với những chậu hoa treo xuống từ các bậu cửa sổ và những ngôi nhà sơn màu sáng; thậm chí cả lò sát sinh tọa lạc cũng có màu xanh mời gọi của trứng chim cổ đỏ, và tôi phải cưỡng lại cái thôi thúc kỳ quặc là vào trong yêu cầu một chuyến tham quan. Phố Dừa Cạn, ngược lại, là một nơi bẩn thỉu kinh khủng. Có một đường cống thoát lộ thiên chạy dọc tâm phố, một cộng đồng ruồi đông nghịt hung hãn, và hai bên vỉa hè chất đống rau củ thối ủng, tài sản của một ông hàng rau củ bán đại hạ giá, biển hiệu của ông ta tuyên bố ông ta có thể làm những món hàng này tuơi trở lại chỉ bằng một cái hôn.
Đại Lộ Còm Nhom chỉ dài có mười lăm mét và chỉ có một ngành kinh doanh: hai người đàn ông bán đồ ăn vặt đựng trong một cái sọt đặt trên xe trượt. Những đứa trẻ xúm xít đông nghịt xung quanh, ồn ào xin ăn, và Addison chạy tới ngửi hít quanh chân chúng tìm mảnh rơi mảnh vãi.tôi đang định gọi với theo nó thì một trong mấy người đàn ông la to. "Thịt mèo! Thịt mèo luộc đây!" Con chó lại cum cúp trại trở lại, đuôi cụp vào giữa hai chân sau, rên rỉ. " Tôi sẽ không bao giờ ăn nữa, không bao giờ, không bao giờ nữa..."
Chúng tôi tới gần Phố Khói từ Mờ Ảo Thượng. Chúng tôi càng lại gần thì càng thấy khối nhà này có vẻ tàn tạ, với các mặt tiền cửa hàng bị bỏ hoang, các vỉa hè trống trơn, mặt đường đen kịt vì những luồng tro thổi quanh chân chúng tôi, như thể chính con phố nhiễm phải một sự chết chóc nào đó đang từ từ lan tràn. Đến cuối, con phố ngoặt gấp sang phải, và ở ngay trước chỗ ngoặt là một ngôi nhà gỗ cũ kỹ với một người đàn ông cũng già cả không kém canh chừng ngoài hiên. Ông ta quét tro đi bằng một cây chổi rơm lởm chởm, nhưng tro tích lại thành đống nhanh đến mức không ta khó có thể trông mong hót đi được.
Tôi hỏi ông lão vì sao lại mất công như vậy. Ông lão đột ngột ngước lên nhìn, ôm khư khư cái chổi vào ngược như sợ tôi cướp mất. Đôi bàn chân trần của ông da đen xì, bồ hóng bám lên tới tận đầu gối hai ống quần. Ai đó cần phải làm thế." Ông lão nói. "Không thể để nơi này tụt xuống địa ngục được."
Trong khi chúng tôi đi qua, ông lão quả quyết quay lại với công việc của mình, cho dù đôi bàn tay bị viêm khớp của ông gần như không thể cầm khít cán chổi được. có điều gì đó gần như uy nghi ở ông lão, tôi thầm nghĩ; một sự ngoan cường khiến tôi ngưỡng mộ. Ông lão là một đấu thủ nhà nghề từ chối rời bỏ vị trí của mình. Người canh gác cuối cùng ở nơi tận cùng thế giới.
Rẽ theo con đường, chúng tôi tới một khu vực có những tòa nhà băng dần lớp vỏ ngoài theo bước chân chúng tôi: thoạt tiên lớp sơn bị cháy xém đi, rồi cùng với đó các khung cửa sổ ám đen lại và vỡ tung; tiếp theo, các mái nhà thủng toác và các bức tường sụp xuống, và cuối cùng, khi chúng tôi đi tới chỗ tiếp giáp với Phố Khói, chỉ còn lại khung xương của các ngôi nhà - một đống hỗn độn những xà rầm gỗ cháy đen và nghiêng ngả, những vạt than hồng sáng lên dưới tro như những trái tim nhỏ bé đập nhịp cuối cùng. Chúng tôi đứng nhìn quanh, sững sờ như bị sét đánh. Khói sặc mùi lưu huỳnh bốc lên từ những rãnh nứt sâu xẻ toạc vỉa hè. Những cái cây bị lửa táp trụy hiện ra lờ mờ như những con bù nhìn đuổi chim phía trên đống đổ nát. Từng cuộn tro bị cuốn bay xuống phố, nhiều nơi dày tới mấy chục phân. trước nay tôi không ngờ có ngày mình lại ở một nơi giống địa ngục đến thế này.
"Vậy ra đây là cửa ngõ dẫn vào chỗ của đám xác sống." Addison nói. "Thật hợp biết bao."
"Thật khó tin là thật." Tôi vừa nói vừa mở khuy áo khoác. Hơi nóng như trong nhà tắm hơi hừng hực khắp xung quanh, luồn vào qua những cái lỗ trên giày của tôi. "Sharon đã nói chuyện gì xảy ra ở đây nhỉ"
"Lửa cháy ngầm dưới lòng đất." Emma nói. "Chúng có thể cháy trong nhiều năm. Có tiếng là khó dập tắt."
Có một âm thanh giống như một lon Soda khổng lồ vừa được bật mở vang lên, và một cột lửa cao màu cam phụt lên từ một khe nứt trên vỉa hè cách chúng tôi chưa đầy ba mét. Chúng tôi giật mình nhảy dựng lên và sau đó phải cố trấn tĩnh lại.
"Đừng nấn ná ở đây nhiều hơn dù chỉ một phút so với những gì cần thiết." Emma nói. "Đường nào bây giờ?"
Chỉ có thể chọn rẽ trái hay rẽ phải. Chúng tôi biết một đầu Phố Khói kết thúc ở Rạch, còn đầu kia ở chỗ cây cầu của đám xác sống, nhưng chúng tôi không biết đầu nào ở phía nào, và giữa khói, sương mù và những cuộn tro bị gió thổi tung lên, chúng tôi không thể nhìn xa về cả hai hướng. Chọn ngẫu nhiên có thể đồng nghĩa với một cuộc quay lại nguy hiểm cộng thêm lãng phí thời gian.
Chúng tôi sắp tuyệt vọng đến nơi thì nghe thấy một giai điệu thì thầm vọng lại qua lớp sương mù. Chúng tôi liền rời khỏi đường đến nấp vào một bộ khung cháy đen của một ngôi nhà. Khi những người đang hát lại gần, giọng hát của họ trở nên to hơn, chúng tôi có thể nghe rõ lời bài hát kỳ lạ của họ:
Buổi tối trước khi tên trộm bị treo cổ
Người hành hình tìm tới
Anh ta nói, ta tới trước khi ngươi chết
Để giải thích một lời cảnh báo
Ta sẽ siết cổ ngươi và tống ngươi xuống địa ngục
Và chặt cánh tay người và làm ngươi đau đớn
Và lột da ngươi tiễn ngươi xuốnguốnguống...
Đến đây, tất cả họ cùng ngừng lại lấy hơi, rồi kết thúc bằng: "Dưới ba thước đất!"
Từ lâu trước khi đám người này ló ra khỏi sương mù, tôi đã biết đó là giọng của những ai. Những người này xuất hiện trong bộ áo liền quần màu đen, đi ủng đen cứng cáp, những cái túi đựng đồ nghề đung đưa thật vui vẻ bên sườn. Ngay cả sau một ngày vất vả làm việc những người thợ dựng giá treo cổ bất khuất vẫn lấy hết gân sức ca hát.
"Xin Chúa ban phước cho linh hồn lạc điệu của họ." Emma vừa nói vừa khẽ bật cười.
Trước đó, chúng tôi đã thấy họ đang làm việc ở đầu chạy ra Rạch của Phố Khói, vì thế có vẻ là hợp lý khi suy đoán rằng họ từ đó tới - nghĩa là họ đang đi về phía cây cầu. Chúng tôi đợi đám người đi qua sau đó biến mất trở lại vào màn sương mù rồi mới đánh bạo quay trở lại đường để bám theo.
Chúng tôi lê bước qua những đống tro làm ám đen mọi thứ - gấu quần tôi, đôi giày và mắt cá chân để trần của Emma và cả bốn chân của Addison. Ở đâu đó đằng xa, những người dựng giá treo cổ lại bắt đầu một bài hát khác, giọng họ vang vọng thật kì dị trong khung cảnh bị cháy rụi xung quanh. Quanh chúng tôi chẳng còn gì ngoài đổ nát. Thỉnh thoảng, chúng tôi nghe thấy một tiếng vù, theo sau lập tức là một cột lửa phun lên từ lòng đất. không có cột lửa nào phụt lên xác chúng tôi như cột đầu tiên. Chúng tôi thật may - bị nướng ở đây thì khó lòng mà sống sót.
Không biết từ đâu, một cơn gió thổi bùng lên, làm tro và tàn tban chảy dở bốc lên trời thành một cơn cuồng phong đen kịt. Chúng tôi quay tránh đi và che mặt lại để cố thở. Tôi kéo cổ áo sơ mi nên che miệng, nhưng chẳng ích gì nhiều và tôi bắt đầu ho. Emma ôm Addison vào vòng tay, nhưng sau đó cô bắt đầu ho sặc. Tôi lột áo khoác ra và trùm lên đầu họ. Những tiếng ho của Emma lắng xuống, và tôi nghe giọng Addison nghèn nghẹn nói từ dưới lớp vải. "Cảm ơn!"
Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là co cụm lại đó phải đợi cho tới khi cơn bão tro lắng xuống. Tôi đang nhắm tịt mắt thì nghe thấy thứ gì đó di chuyển gần bên, và ghé mắt nhìn qua các kẽ ngón tay, tôi thấy một thứ mà ngay cả ở đây, giữa tất cả những điều tôi đã chứng kiến ở Đồng Ma, vẫn khiến tôi sững sờ: một người đàn ông đang dạo bước thoải mái hết mức có thể, bịt một cái khăn tay lên miệng, nhưng ngoài ra không có vẻ gì là bị ảnh hưởng. Ông ta không gặp vấn đề nào trong việc đi giữa bóng tối vì những tia sáng trắng cực mạnh đang chiếu ra từ hai hốc mắt của ông ta.
"Buổi tối tốt lành!" Ông ta lên tiếng, chiếu hai tia sáng soi đường của mình về phía tôi và chạm tay lên thành mũ.
Tôi cũng đáp lại nhưng miệng tôi đầy ắp tro, rồi đến lượt mắt tôi cũng thế, và khi tôi mở được mắt ra trở lại, ông ta đã đi rồi.
Khi gió bắt đầu lặng xuống, chúng tôi ho, khạc tro ra và dụi mắt cho tới khi có thể nhìn và nói bình thường trở lại. Emma đặt Addison xuống đất. " Nếu chúng ta không cẩn thận, Vòng Thời Gian này sẽ giết chúng ta trước khi đám xác sống làm điều đó." Nó nói. Emma trả lại áo khoác cho tôi và ôm chặt lấy tôi cho tới khi không khí quanh đãng trở lại. Cô có kiểu quàng hai cánh tay quanh người tôi và tựa đầu vào hõm ngực tôi đến giữa hai chúng tôi không còn khoảng trống nào, và tôi cực kì muốn hôn cô, ngay cả là tại đây, khi bị bồ hóng ám từ đầu tới chân.
Addison hắng giọng. "Tôi không thích chen ngang chút nào, nhưng chúng ta thật sự cần phải lên đường."
Chúng tôi buông nhau ra, có phần hơi xấu hổ, và tiếp tục bước đi. Chẳng mấy chốc, những thân hình mờ mờ đã xuất hiện trong làn sương mù phía trước. Họ đang xúm lại trên đường, len qua những căn lán chen cứng hai bên đường. Chúng tôi do dự, băn khoăn không biết họ là ai, nhưng không còn con đường nào khác ngoài đi lên phía trước.
"Ngẩng đầu lên, lưng thẳng."
Emma nói. "Cố làm ra vẻ đáng sợ."
Chúng tôi ghé sát lại vào nhau vá đi vào giữa đám người. Đó là những người có ánh mắt ám muội và bộ dạng man rợ. Cả người dính đầy bồ hóng. Mặc những món đồ vứt đi nhặt nhạnh được. Tôi quắc mắt, cố hết sức để tỏ vẻ là một người nguy hiểm. Đám người dạt đi như những con chó bị ăn gậy.
Đây kiểu như một khu ổ chuột. Những túp lều lụp xụp được làm từ những tấm kim loại phế liệu không bị cháy, các mái nhà bàng thiếc được dằn bằng đá và gốc cây, cửa lều là những tấm vải bạt lay phần phật, nếu coi chúng có cửa. Một vệt sự sống hoại sinh đã hình thành từ đống tro tàn của một nền văn minh bị cháy rụi; gần như chưa định hình hẳn.
Lũ gà chạy trên phố. Một người đàn ông quỳ gối bên một cái hố bốc khói trên mặt đường, rán trứng bằng hơi nóng rừng rực của nó.
" Đừng lại quá gần." Addison thì thầm. "Họ có vẻ bệnh tật."
Tôi cũng nghĩ vậy. Có thể thấy điều đó qua dáng đi thất thểu, ánh mắt đờ đẫn vô hồn của họ. ài người đeo những chiếc mặt nạ thô sơ hay chùm những cái túi nên đầu, chỉ để hở a những khe hẹp cho đôi mắt, như thế để che giấu khuôn mặt bị bệnh tật tàn phá, hay để làm chậm quá trình lây truyền một căn bệnh.
" Họ là ai vậy?" Tôi hỏi.
"Không biết." Emma nói. "Và tớ cũng đang định hỏi."
"Tôi đoán là họ không được chào đón ở bất cứ nơi nào khác." Addison nói. "Những kẻ không ai muốn đụng vào, những kẻ lây truyền bệnh dịch, những tên tội phạm mà tội trạng bị coi là không thể tha thứ ngay cả ở Đồng Ma. Những kẻ thoát khỏi thòng lọng tụ tập ở đây, ở dưới đáy tận cùng, ở tận ngoài rìa của xã hội người đặc biệt. Phải lưu vong khỏi những kẻ bị xua đuổi trong những kẻ bị xua đuổi."
" Nếu đây là rìa." Emma nói. "Thì lũ xác sống không còn ở xa đây nữa."
"Chúng ta có chắc những người này là người đặc biệt không?" Tôi hỏi. Có vẻ ở họ chẳng có gì đặc biệt, ngoài sự khốn cùng. Có thể đó là sự tự hào, nhưng tôi không tin một cộng đồng người đặc biệt, dù xuống cấp đến thế nào, lại cho phép mình sống trong điều kiện dơ dáy kiểu Trung cổ thế này.
"Không biết, không quan tâm." Emma nói. "Cứ đi thôi."
Chúng tôi cúi đầu xuống, hướng mắt ra trước, giả bộ không quan tâm với hi vọng những người này cũng phản ứng tương tự. Phần lớn họ tránh xa, nhưng một vài người bám theo chúng tôi, xin xỏ.
"Gì cũng được, gì cũng được. Một ống nhỏ giọt, một cái lọ." Một người nói, đồng thời chỉ vào mắt mình.
"Làm ơn." một người khác khẩn nài. "Đã nhiều ngày chúng tôi chẳng có gì."
Gò má họ rỗ lỗ chỗ và chi chít sẹo như thể họ đã khóc ra những giọt nước mắt a xít. Tôi gần như không thể nhìn vào mặt họ.
"Cho dù các người muốn gì, chúng tôi cũng không có đâu." Emma vừa nói vừa xua họ đi.
Những kẻ ăn xin lùi lại đứng trên đường, nhìn chúng tôi với ánh mắt tối sầm. ột người nữa gọi tới bằng giọng cao, run rẩy. "Đằng kia! Cậu nhóc kia!"
"Mặc kệ ông ta đi!" Emma lầm bầm.
Tôi hé mắt nhìn ông ta nhưng không quay đầu lại. Ông xã đang ngồi xổm dựa vào một bức tường, quần áo rách tươm, giơ bàn tay run rẩy chỉ về phía tôi.
"Cậu là cậu ta? Cậu nhóc kia! Cậu là cậu ta, phải không?" ông ta đeo một miếng che mắt ngoài cặp mắt kính và lật nó lên để nhìn tôi chòng chọc. "Phảiii rồiii?"
Ông ta huýt sáo khe khẽ, rồi trưng ra một nụ cười nhe toàn lợi đen sì. "Chúng đang đợiii cậu đấy?"
"Ai?"
Tôi không thể kìm được nữa. Tôi bước tới trước mặt ông ta. Emma bồn chồn thở dài.
Nụ cười của người hành khất cành nhếch rộng ra hơn, điên rồ hơn. "Các bà mẹ đất và những người tháo nút. Những gã thủ thư đáng nguyền rủa và những người vẽ bản đồ đáng được ban phước! Bất cứ ai cũng là tất cả mọi người!" ông ta giơ hai cánh tay lên và cúi chào cung kính một cách giễu cợt khiến tôi chợt thấy lòng mình và sợ hãi. "Đợi lâuuu lắmmm rồi!"
"Đợi cái gì cơ?"
"Thôi nào." Emma nói. "Ông ta rõ ràng chỉ là một kẻ tâm thần thôi."
"Màn trình diễn lớn, màn trình diễn lớn." Người hành khất nói, gặp ông già lên bổng xuống trầm như một người giao hàng ở lễ hội. "Thứ to nhất, tốt nhất, hơn nhất và cuối cùng! Gần như đâyyy rồi..."
Một cơn ớn lạnh kỳ dị bò lan đi trong tôi. " Tôi không biết ông, và chắc chắn là ông không thể biết tôi là ai, quỷ quái thật." Tôi quay người bước đi.
" Tất nhiên là ta biết." Tôi nghe ông ta nói. "Cậu là cậu nhóc nói chuyện với đám hồn rỗng."
Tôi cứng đờ người như bị đóng băng. Emma và Addison há hốc miệng nhìn tôi.
Tôi chạy trở lại, tới trước mặt ông ta. "Ông là ai?" tôi lớn tiếng quát vào mặt ông ta. " Ai bảo ông thế?"
Nhưng ông ta chỉ cười, cười mãi, và tôi không thể hỏi được gì thêm từ ông ta.
* * *
Chúng tôi lát người rời đi đúng lúc một đám đông bắt đầu xúm lại
"Đừng có nhìn lại sau." Addison cảnh báo.
"Quên ông ta đi." Emma nói. " Ông ta là một kẻ điên."
Tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều biết không phải ông ta chỉ bị điên - nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi biết. Chúng tôi rảo bước trong sự im lặng bồn chồn, đầu ong ong những câu hỏi không có câu trả lời. Không ai nhắc tới những lời tuyên bố kỳ lạ của người hành khất, tôi cảm kích vì điều này. Tôi không hiểu nổi chúng có nghĩa là gì, đồng thời cũng quá kiệt sức để suy đoán, và tôi có thể đoan chắc từ bước chân lê đi khó nhọc của Emna cũng như Addison là họ cũng đã mệt phờ rồi. Chúng tôi cũng không nói về chuyện đó. Sự kiệt sức là kẻ thù mới của chúng tôi, và nhắc đến nó sẽ chỉ càng truyền thêm sức mạnh cho nó.
Chúng tôi căng mắt là tìm kiếm xem có bất cứ dấu hiệu nào về cây cầu của đám xác sống khi con đường phía trước dốc xuôi xuống một quầng sương mù mờ đục. Tôi chợt nghĩ rất có thể Lorraine đã nói dối chúng tôi. Rất có thể chẳng có cây cầu nào cả. Rất có thể cô ta đẩy chúng tôi tới chốn địa ngục này với hi vọng cư dân của nó sẽ ăn tươi nuốt sống chúng tôi. Nếu chúng tôi mang cô ta đi cùng, rất có thể chúng tôi đã ép được cô ta phải...
"Nó kia kìa!" Addison reo lên, đoạn lao như một mũi tên hướng thẳng tới trước.
Chúng tôi căng mắt cố nhìn xem nó đã thấy gì - dù phải mang kính, mắt Addison vẫn tinh tường hơn chúng tôi - và sau chừng hơn chục bước chân nữa, chúng tôi có thể nhận ra, chỉ lờ mờ, là con đường thu hẹp lại, rồi uốn cong ắt qua thứ gì đó giống như một khe nứt.
"Cây cầu!" Emma reo lên.
Chúng tôi vùng chạy, sự kiệt sức tạm thời bị quên biến, bàn chân chúng tôi hất nên từng cuộn bụi đen xì. Một phút sau, khi chúng tôi dừng bước thở lấy hơi, tầm nhìn đã rõ. Một dải sương màu xanh lục treo lơ lửng bên trên khe nứt. Lờ mờ đằng xa là một bức tường dài bằng đá trắng, và xa hơn nữa là một tòa tháp cao sáng màu, đỉnh tháp mất hút giữa những đám mây thấp.
Vậy ra đó là nó: pháo đài của đám xác sống. Nơi đó có một vẻ trơ trụi khiến người ta bất an, như một khuôn mặt với các đường nét bị lau nhẵn nhụi vậy. Cả vị trí của nó cũng có vẻ gì đó không ổn - cấu trúc trắng tinh đồ sộ với những đường nét sạch sẽ tinh tươm của nó tương phản kỳ lạ với cảnh tàn tạ cháy rụi của Phố Khói, như một khu trung tâm mua sắm ngoại ô hiện đại bị đặt vào giữa chiến trường Agincourt vậy. Nguyên nhìn nó thôi tôi cũng cảm thấy kinh sợ và quả quyết, như thể tôi có thể cảm thấy mọi hợp phần tạp nham cấu thành cuộc sống ngớ ngẩn và rời rã của tôi cùng dồn lại hướng tới một điểm duy nhất, không thể thấy bằng mắt, nằm sau lưng bức tường đó. Đó là nơi nó tọa lạc: điều tôi được trông đợi phải làm - hoặc chết trong lúc cố làm. Món nợ tôi cần phải trả. Điều mà vì nó tất cả những niềm vui và nỗi kinh hoàng trong cuộc đời tôi cho tới giờ chỉ là một khúc dạo đầu. Nếu mọi thứ diễn ra đều có lý do, vì lý do của tôi đang nằm bên kia.
Bên cạnh tôi, Emma đang bật cười. Tôi đưa mắt nhìn cô ngỡ ngàng và cô nghiêm chỉnh lại.
"Đó là nơi họ bị giam cầm sao?" Cô hỏi, đồng thời cũng để giải thích cho thái độ của mình.
"Có vẻ là thế." Addison nói. "Cô thấy chuyện này tức cười sao?"
"Gần cả đời mình tôi đã căm ghét và sợ bọn xác sống. Trong suốt tất cả những năm ấy, tôi không thể đoan chắc với ông đã bao nhiêu lần tôi hình dung ra khoảnh khắc mà chúng ta rốt cuộc cũng tìm ra hang ổ của chúng. Tôi đã trông đợi ít nhất đó cũng là một lâu đài ghê rợn. Những bức tường rỉ máu. Một cái hồ ngập dầu sôi sùng sục. Nhưng không."
" Vậy là cậu thất vọng?" Tôi hỏi.
"Đúng thế, một chút." Cô chỉ về pháo đài với vẻ phẫn nộ. " Chẳng lẽ kia là thứ hay ho nhất chúng có thể làm sao?"
"Tôi cũng thất vọng." Addison nói. "Tôi vốn hi vọng ít nhất chúng ta cũng có bên mình một đạo quân. Nhưng từ bộ dạng của nơi này, có lẽ chúng ta sẽ không cần tới một đại quân."
"Tôi ngờ lắm." Tôi nói. "Bất cứ điều gì cũng có thể đang chờ đợi chúng ta ở đằng sau bức tường đó."
" Vậy chúng ta sẽ sẵn sàng cho bất cứ điều gì." Emna nói. "Chúng có thể ném vào chúng ta thứ gì mà chúng ta còn chưa từng đối diện đây? Chúng ta đã sống sót qua bom đạn, những cuộc tấn công của hồn rỗng... điều quan trọng, đó là cuối cùng chúng ta đã ở đây, và sau bấy nhiêu năm chúng rình rập phục kích chúng ta, cuối cùng chúng ta cũng tìm được đến chỗ chúng để chiến."
"Tớ chắc là chúng đang run rẩy trong những đôi ủng của chúng đấy." Tôi nói.
"Tớ sẽ tìm Caul." Emma nói tiếp. "Tớ sẽ tìm ra hắn và khiến hắn phải khóc của mẹ. Tớ sẽ làm hẳn phải cầu xin tha cho mạng sống vô nghĩa của hắn, rồi tớ sẽ siết chặt cả hai bàn tay quanh cổ hắn rồi bóp chặt cho tới khi đầu hắn tan chảy ra..."
"Chúng ta đừng nên đi trước thực tế." Tôi nói. "Tớ tin các có rất nhiều thứ đứng chắn giữa chúng ta và hắn. Sẽ có xác sống ở khắp nơi. Và nhiều khả năng cả những tên lính canh có vũ trang nữa."
"Có thể còn có cả hồn rỗng." Addison nói.
"Chắc chắn sẽ có hồn rỗng." Emma nói. Cô có vẻ thoáng phấn khích trước ý nghĩ này.
"Trở lại thực tế." Tôi nói. "Tớ không nghĩ chúng ta nên công kích vào cổng pháo đài khi chưa biết rõ hơn về những gì đang chờ đợi chúng ta bên trong. Rất có thể chúng ta chỉ có một cơ hội ở đây thôi, và tớ không muốn ném nó đi."
"Được." Emma nói. " Vậy cậu đề xuất sao nào?"
"Chúng ta tìm cách nào đó lén đưa Addison vào trong. Ông ấy sẽ ít có nguy cơ bị phát hiện ra nhất, đủ nhỏ để có thể ẩn nấp hầu như ở bất cứ đâu, và lại có cái mũi thính nhất. Ông ấy có thể trinh sát, rồi lại lén rút trở ra và cho chúng ta biết về những gì tìm thấy bên trong. Nghĩa là nếu ông ấy làm được."
" Thế nếu tôi không trở lại thì sao?" Addison hỏi.
"Thì chúng tôi sẽ đi theo ông." Tôi nói.
Con chó dành một khoảnh khắc để ngẫm nghĩ - nhưng cũng chỉ một khoảnh khắc. " Tôi chấp nhận, một điều kiện."
"Nói đi." tôi nói.
"Trong những câu chuyện được kể về chúng ta sau khi chúng ta chiến thắng, tôi muốn được biết đến là Addison Gan Dạ."
"Sẽ là như thế." Emma nói.
"Hãy nhất trí là Cực Kỳ Gan Dạ." Addison nói. "Và tuấn tú."
"Nhất trí." Tôi nói.
"Hay lắm." Addison nói. " Vậy thì bắt đầu thôi. Gần như tất cả những người chúng ta quan tâm đến trên đời này đều đang ở bên kia cây cầu đó. Mỗi phút tôi còn ở bên này là một phút bị lãng phí."
Chúng tôi sẽ tháp tùng Addison đến tận chỗ cây cầu, rồi đợi gần đó chờ nó quay lại. Chúng tôi chạy chầm chậm xuống đồi, cuộc hành trình diễn ra dễ dàng, khu ổ chuột xung quanh chúng tôi ngày càng trở nên dày đặc khi chúng tôi tiến đến. Khoảng cách giữa những túp nều thu ngắn lại cho tới khi không còn chút khoảng trống nào, tất cả lờ mơ trôi qua thành một khối liền mạch toàn kim loại hoen gỉ. thế rồi đột ngột những túp lều và mái vẩy chấm dứt, và trong khoảng một trăm mét, Phố Khói trở lại là cảnh hoang tàn của những bức tường vỡ vụn và những khung gỗ cháy đen - một kiểu như vùng đệm, có lẽ do đám xác sống áp đặt. Cuối cùng, chúng tôi tới chỗ cây cầu, ở đầu cầu xúm xít một nhóm người, tổng cộng chừng vài chục. Trong khi chúng tôi vẫn còn ở quá xa để nhận ra tình trạng quần áo của họ, Addison nói. "Nhìn xem, một đội quân cắm trại bao vây pháo đài kìa! Tôi đã biết chúng ta sẽ không phải là người duy nhất chiến đấu..."
Tuy nhiên, khi nhìn kĩ ở khoảng cách gần hơn, những người này thật khó có thể coi là binh lính. Hừm, một tiếng thất vọng, chút hy vọng tươi sáng của Addison tắt ngúm.
"Không phải họ đang bao vây." Tôi nói. "Họ chỉ đang... ngồi đó thôi."
Đây là những cư dân khu ổ chuột thảm hại nhất chúng tôi từng thấy qua, họ lảo đảo trong tro, dàn ra trong các tư thế đờ đẫn bất động tới mức trong một khoảnh khắc tôi nhầm tưởng rằng thậm chí cả những người đang ngồi thẳng cũng đã chết. Tóc và cơ thể hội đen kịt với tro và mỡ, khuôn mặt hoặc bị tàn phá khủng khiếp bởi những vết rỗ và sẹo tới mức tôi tự hỏi liệu có phải là những người bị bệnh hủi. Trong lúc chúng tôi lách qua người họ, vài người yếu ớt ngước nhìn lên, nhưng nếu họ có đang chờ cái gì, thì đó cũng không phải là chúng tôi, và đầu họ lại gục xuống. Người duy nhất đứng là một cậu bé đội chiếc mũ màu săn có miếng che tai đang luồn lách giữa đám người là gạch để móc túi họ. Những người bị cậu nhóc đánh thức đập mạnh vào cậu ta nhưng chẳng buồn đuổi theo. Dù sao trên người họ cũng chẳng có thứ gì đáng để lấy cắp.
Chúng tôi sắp đi qua thì một người lên tiếng. "Các người sẽ chết!"
Emma dừng bước và quay lại, vẻ ngờ vực. "Cái gì hả?"
"Các người sẽ chết!"
Người đàn ông vừa nói ngồi uể oải trên một tấm bìa cứng, đôi mắt vàng ệch nhìn hé qua một mớ tóc đen rậm rì. "Không ai được đi qua cây cầu của bọn họ trái phép."
" Dù thế nào chúng tôi cũng định qua cầu đấy. Vì vậy nếu ông biết điều gì chúng tôi cần biết thì nói luôn đi."
Người đang ngồi cố nén cười. Những người còn lại im lặng.
Emma lướt nhìn qua họ. "Không ai trong các vị định giúp chúng tôi sao?"
Một người bắt đầu lên tiếng. "Hãy cẩn thận với..." Nhưng anh ta vừa cất lời thì một người đàn ông khác đã suỵt anh ta im.
"Cứ để bọn họ đi, và sau vài ngày nữa chúng ta sẽ có chất sống của họ!"
Một tràng rên rỉ khao khát đến khổ sở vang lên từ đám dân ổ chuột.
"Ôi, tôi sẵn sàng đổi lấy tất cả lấy một lọ thứ đó." Một người phụ nữ dưới chân tôi nói.
"Chỉ cần một giọt, một giọt thôi!" Một người đàn ông ngân nga, lắc lư hông. "Một giọt chất sống của họ."
"Dừng lại, sẽ bị cực hình đấy!" Một người khác thì thào. "Ngay cả nhắc tới nó cũng không được!"
"Các người cút cả xuống địa ngục đi!" Emma hét lên. "Đưa ông qua cầu nào, Addison Gan Dạ!"
Và chúng tôi quay đi với vẻ ghê tởm.
* * *
Cây cầu hẹp, uốn vòm cong ở giữa, và được xây từ đá cẩm thạch tinh khiết tới mức thậm chí cả tro từ con phố dường như cũng thận trọng không rơi xuống nó. Addison dừng chúng tôi lại ở ngay rìa cầu. "Đợi đã, có cái gì đó ở đây." Nó nói, và chúng tôi đứng bên bồn chồn trong khi con chó nhắm mắt lại hít hít không khí như một nhà chiêm tinh xem một quả cầu pha lê.
"Chúng ta cần qua cầu ngay bây giờ - ở đây chúng ta như bị phơi ra ấy." Emma thì thầm, nhưng Addison đã thả hồn ở tận đâu đâu; bên cạnh đó, thực sự không có vẻ gì là chúng tôi đang gặp nguy hiểm cho lắm. Trên cầu không có ai, và cũng không có ai canh gác cái cổng có thanh chắn ở bên kia cầu. Trên đỉnh bức tường dài màu trắng, nơi ta có thể trông đợi nhìn thấy lính canh được bố trí với súng trường và ống nhòm, cũng vắng tanh một cách tương tự. Ngoài bức tường, Hệ thống phòng ngự duy nhất của pháo đài dường như là cái khe uốn vòng quanh nó như một con hào, dưới đáy khe cuộn trào một dòng sông sôi sục phả lên thứ hơi màu xanh lục sắc mùi lưu huỳnh đang bao quanh chúng tôi. Cây cầu là lối qua duy nhất tôi có thể thấy.
"Vẫn thất vọng chứ?" Tôi hỏi Emma.
"Nói thẳng ra là bị xúc phạm." Cô đáp. "Cứ như thể chúng thậm chí còn không tìm cách ngăn chúng ta xâm nhập."
"Phải, và điều đó làm tớ lo lắng."
Addison há hốc miệng ra và đôi mắt nó bừng mở.
"Gì vậy?" Emma nín thở hỏi.
"Chỉ là một dấu vết rất mơ hồ thôi, nhưng tôi có thể nhận ra mùi của Balenciaga Wren ở bất cứ đâu."
" Còn những người khác?"
Addison lại ngửi. "Có nhiều người đặc biệt khác ở cùng chỗ bà ấy. Tôi không thể nói chính xác là ai hay bao nhiêu người. Dấu vết trở nên khá lộn xộn. Nhiều người đặc biệt đã qua lối này gần đây - ý tôi không phải là đám kia." Nó nói, đưa mắt khó chịu về phía đám người ngồi chồm hỗm đằng sau chúng tôi. "Chất đặc biệt của bọn họ yếu, gần như không tồn tại."
" Vậy thì người đàn bà chúng ta thẩm vấn đã nói thật" Tôi nói. " Đây là nơi đám xác sống đưa tù nhân của chúng tôi. Các bạn chúng ta ở đây."
Kể từ khi họ bị bắt đi, một cảm giác thất vọng ngột ngạt khủng khiếp vẫn luôn siết chặt lấy quanh tim tôi, nhưng giờ đây vòng đai của nó đã nới lỏng ra một chút. Lần đầu tiên sau nhiều tiếng đồng hồ, chúng tôi có trong tay nhiều hơn chứ không chỉ đơn thuần là hi vọng và phỏng đoán. Chúng tôi đã lần theo các bạn mình qua nhiều vùng đất thủ địch tới tận cửa nhà lũ xác sống. Bản thân chuyện này là một chiến thắng nhỏ, bà nó làm tôi cảm thấy, dù chỉ trong một khoảnh khắc, dường như mọi thứ đều có thể.
"Vậy thì còn lạ hơn khi không ai canh giữ nơi này."
Emma trầm tư nói. " Tớ không thích chuyện này chút nào."
"Cả tớ cũng không." Tôi nói.
"Nhưng tớ không thấy lối qua sông nào khác."
"Tôi vẫn có thể đi qua nó mà." Addison nói, nghe có vẻ không được cực kỳ gan dạ.
Chưa đầy một phút là có thể chạy băng qua cầu, tôi đoán, nhưng sao phải chạy? Bởi vì, tôi nghĩ, một câu trong truyện của Tolkien hiện lên trong đầu tôi, người ta không thể cứ thế rảo bước vào Mordor.
Chúng tôi bắt đầu hối hả băng qua cầu, những tiếng rì rầm và tiếng cười bịt miệng bám theo sau. Tôi liếc nhìn lại đám người đang ngồi. Tin chắc chúng tôi sắp gặp phải một kết cục ghê rợn, họ đang nhấp nhổm di chuyển, xoay sở tìm một góc nhìn tốt. Tất cả những gì họ cần là bắp rang bơ. Tôi những muốn quay trở lại và ném cả đám đó xuống dòng sông sôi sục.
Sau vài ngày nữa chúng ta sẽ có chất sống của họ. Tôi không biết cái đó nghe là gì và hi vọng mình sẽ không bao giờ biết.
Cây cầu trở lên dốc hơn. Một cơn hoảng hốt xâm chiếm đang làm tim tôi đập nhanh gấp đôi. Tôi cảm thấy chắc chắn thứ gì đó sắp sửa nhào xuống và chúng tôi sẽ không có nơi nào để chạy. Tôi có cảm giác mình là một con chuột đang lao đầu vào một cái bẫy.
Chúng tôi thì thầm nhắc lại kế hoạch của mình đưa Addison qua cổng sau đó lui trở lại khu ổ chuột tìm một nơi kín đáo để đợi. Nếu sau ba giờ con chó không quay trở lại, Emma và tôi sẽ tìm đường vào pháo đài.
Chúng tôi đang chạy tới đỉnh vòm cong của cây cầu, yôi có thể thấy một phần nhỏ có phần cầu chạy xuôi xuống phía bên kia, vốn cho đến giờ vẫn bị che khuất. Thế rồi những cây cột đèn la lên:
"Dừng lại!"
"Ai dưới kia!"
"Không ai được qua!"
Chúng tôi dừng lại, há hốc miệng nhìn chúng, sững sờ nhận ra chúng không phải là những cây cột đèn mà là những cái đầu khô quắt bị cắm trên những cây giáo dài.
Trông chúng thật ghê rợn, da chảy xệ xuống, xám ngoét, lưỡi thè ra, và dù không còn được gắn liền với cổ họng, ba trong số những cái đầu đã cất tiếng nói với chúng tôi. Có tất cả tám cái đầu, được dựng lên thành từng cặp ở hai bên cầu.
Duy chỉ Addison là không có vẻ ngạc nhiên. "Đừng nói với tôi là cô cậu chưa bao giờ thấy một cái đầu cầu đấy nhé."
"Đừng đi xa hơn nữa!" Cái đầu ở bên trái chúng tôi nói. "Cái chết gần như chắc chắn chờ đợi những ai qua cầu trái phép!"
"Có lẽ ông nên nói là cái chết chắc chắn." Cái đầu bên phải chúng tôi nói. "Gần như nghe nhạt nhẽo quá."
"Chúng tôi được phép." Tôi nói, bịa ra một lời nói dối. "Tôi là một xác sống, và tôi đang giải hai tù nhân đặc biệt này tới cho Caul."
"Không ai nói với chúng tôi cả." Cái đầu bên trái nói với vẻ khó chịu.
"Ông trông bọn họ có giống tù nhân không, Richard?" cái đầu bên phải hỏi.
"Tôi không thể nói với ông được." Cái đầu bên trái đáp. "Lũ quạ móc mắt tôi từ hàng tuần nay rồi."
"Cả ông cũng bị rồi sao?" Cái đầu bên phải hỏi. "Tiếc thật."
"Anh chàng này nghe chẳng giống tay xác sống nào tôi biết cả." Cái đầu bên trái nói. "Tên cậu là gì hả, cậu trẻ?"
"Smith." Tôi nói.
"Hà! Chúng tôi không có tay Smith nào cả!" Cái đầu bên phải nói.
" Tôi vừa mới gia nhập."
"Khéo lắm. Không, tôi không nghĩ chúng tôi sẽ cho cậu qua."
" Vậy ai sẽ ngăn chúng tôi đây?" Tôi nói.
"Đương nhiên không phải là chúng tôi." Cái đầu bên trái nói. "Chúng tôi chỉ ở đây để cảnh báo thôi."
"Và để đưa tin." Cái đầu bên phải nói. "Ông có biết là tôi đã lấy bằng về nghiên cứu bảo tàng không? Tôi chưa bao giờ muốn trở thành một cái đầu cầu..."
"Chẳng ai muốn trở thành một cái đầu cầu cả." cái đầu bên trái gắt. "Không đứa trẻ nào lớn lên lại mơ trở thành một cái đầu cầu chết tiệt, cả ngày cảnh báo những người khác và bị lũ quạ móc mất mắt. Nhưng đời không phải lúc nào cũng rải hoa hồng dưới chân ta, phải không nào?"
"Đi thôi." Emma thì thầm. "Tất cả những gì họ có thể làm là nói huyên thuyên với chúng ta thôi."
Chúng tôi tảng lờ mấy cái đầu rồi tiếp tục đi lên cầu, mỗi cái đầu đến lượt mình lại cảnh cáo chúng tôi khi chúng tôi đi ngang qua.
"Không được bước xa hơn nữa!" Cái đầu thứ tư la lên.
" Thích chết thì cứ tiếp tục!" Cái đầu thứ năm rên rẩm.
" Tôi không nghĩ là bọn họ lắng nghe." Cái đầu thứ sáu nói.
"Ồ, được lắm!" cái đầu thứ bảy dửng dưng nói. "Đừng có nói là chúng tôi đã không cảnh báo các người."
Cái đầu thứ tám chỉ thè cái lưỡi dày xanh lè của nó về phía chúng tôi. Rồi chúng tôi đk qua chỗ chúng, qua đỉnh cây cầu, rồi cây cầu đột ngột kết thúc - một khoảng trống toang hoác rộng sáu mét ở chỗ đáng lẽ phải là những tảng đá, và thiếu chút nữa tôi đã bước chân xuống đó. Emma giữ lấy tôi trong khi tôi lảo đảo lùi lại, hai cánh tay chới với.
"Chúng đã không hoàn tất cây cầu khốn kiếp này." tôi nói, hai má đỏ ửng lên vì kích động và bối rối. Tôi có thể nghe thấy mấy cái đầu cười nhạo mình, và cả sau chúng, đám người đang ngồi cũng vậy.
Nếu chúng tôi chạy, rất có thể chúng tôi đã không dừng lại kịp lúc và lao luôn qua rìa.
"Cậu không sao chứ?" Emma hỏi tôi.
"Tớ ổn cả." tôi nói. "Nhưng chúng ta thì không. Giờ chúng ta làm cách nào để đưa Addison qua được đây?"
"Chuyện này thật đáng bực mình." Addison nói, đi đi lại lại sát bờ rìa. "Chúng ta chắc không nhảy được đâu nhỉ?"
"Không có cơ hội." Tôi nói. " Khoảng cách quá xa, cho dù có chạy lấy đà đi nữa. Kể cả có nhảy sào."
"Hừm." Emma nói. Cô ngoái lại nhìn đằng sau chúng tôi.
"Cậu vừa cho tớ một ý tưởng. Tớ sẽ quay lại ngay."
Addison và tôi dõi theo trong lúc cô đi xuôi trở lại cây cầu. Tới chỗ cái đầu đầu tiên cô gặp, cô dừng lại, đưa hai tay nắm chặt quanh cây giáo đang cắm nó, và nhổ lên.
Cây giáo được rút lên thật dễ dàng. Trong khi cái đầu lớn tiếng phản đối, cô để nó xuống đất, đặt một bàn chân lên mặt nó, rồi đạp cho nó một cú ra trò. Cây giáo tuột ra khỏi cái đầu, còn cái đầu thì lông lốc lăn xuống cầu, gầm rít phẫn nộ. Emma đắc thắng quay trở lại, giúp cây sáo ở sát bờ rìa lỗ hổng, để nó xuống bắt ngang qua khe hở nghe một tiếng choang thật to.
Emma nhìn nó và cau mày. "À, quả là không phải cầu London." Dài sáu mét mà chiều rộng chỉ hai phần rưỡi và hơi võng xuống ở giữa, trồng cây sáo như một thứ để nghệ sĩ xiếc nhào lộn dùng để đi thăng bằng.
"Lấy thêm vài cái nữa nào." Tôi đề xuất.
Chúng tôi chạy tới chạy lui, nhỏ những cây giáo lên rồi bắc chúng qua khe hở. Những cái đầu khạc nhổ, tuôn ra những lời đe dọa rỗng tuếch. Khi cái đầu cuối cùng đã bị nhổ bật ra và lăn đi, chúng tôi cũng hoàn thành một cây cầu kim loại nhỏ, rộng chừng ba mươi phân, trơn tuột vì chất nhầy rỉ ra từ những cái đầu, lập cập theo những cơn gió cuốn đầy tro bụi.
"Vì nước Anh!" Addison nói, và nó ngần ngừ đặt chân lên những cây giáo.
"Vì cô Peregrine." Tôi nói, rồi theo sau nó.
"Vì tình yêu các loài chim, đi thôi." Emma nói, và cô bước tới ngay sau tôi.
Addison chật vật dẫn chúng tôi xuống cầu. Những bàn chân nhỏ thó của nó liên tục trượt qua trượt lại giữa các cây giáo làm chúng xoay tròn như những trục máy, khiến dạ dày tôi cồn cào từng cơn. Tôi cố tập trung để tâm vào việc tìm chỗ đặt chân cho mình mà không nhìn quá ra ngoài xuống khe vực, song chuyện đó là không thể; dòng sông sôi sùng sục cu lấy mắt tôi như một khối nam châm, và tôi chợt nhận ra mình đang tự hỏi liệu chúng tôi có ở đủ cao để nguyên cú ngã cũng đủ giết chết cho rồi, hay tôi sẽ còn sống sót đủ lâu để cảm nhận được mình bị nấu chín tới chết. Trong khi đó, Addison đã từ bỏ việc thử bước đi, mà thay vì thế nằm dán xuống rồi nhích chân lên theo các cây giáo như một chú ốc sên vậy. Theo cách này, chúng tôi tiến lên, nhích từng chút từng chút một, cho tới khi vừa quá nửa đường - tới lúc đó những cơn cồn cào trở nên sắc lẻm và nhường chỗ cho thứ khác: một cơn quặn thắt trong bụng mà giờ tôi đã hiểu quá rõ.
Hồn rỗng. Tôi cố nói to thành tiếng nhưng miệng tôi khô rang; đến khi tôi đã nuốt được nước bọt để nói ra; cảm giác đó đã mạnh lên mười lần.
"Một may mắn kinh khủng làm sao." Addison nói. " Nó ở đằng trước hay đằng sau chúng ta vậy?"
Tôi không thể trả lời ngay lập tức và buộc phải hướng về phía gây ra cảm giác đó đó xung quanh một hồi để định vị nó.
"Jacob! Đằng trước hay đằng sau?" Emma hét vào tai tôi.
Đằng trước. Cái la bàn trong bụng tôi đoán chắc, nhưng như thế thật vô nghĩa: toàn bộ phần gốc xuống của cây cầu, tới tận chỗ cái cổng giờ đã nằm trọn trong tầm mắt, và toàn bộ quãng đường này đều vắng tanh. Chẳng có cái gì ở đó cả.
"Tớ không biết!" Tôi nói.
"Vậy thì đi tiếp đi!" Emma đáp.
Chúng tôi đang ở gần điểm kết thúc khoảng trống hơn là điểm nó bắt đầu; chúng tôi sẽ rời khỏi những cây giáo nhanh hơn nếu tiếp tục tiến lên trước. Tôi nén cơn sợ, cúi người xuống bê Addison lên rồi bắt đầu chạy, trượt chân lảo đảo trên những cây giáo không lấy gì làm vững chãi. Con hồn rỗng theo cảm nhận đang ở gần tới mức đủ để có thể sờ được, và giờ tôi có thể nghe thấy nó đang gầm gừ về phía chúng tôi từ một nơi nào đó không thấy được ở phía trước. Đôi mắt tôi lần theo âm thanh từ một điểm ở đằng trước nhưng nằm phía dưới chân chúng tôi - ở phía gầm cầu, nơi có vài khoảng trống cao và hẹp được khoét vào trong đá.
Dưới đó. Cây cầu này rỗng ruột, và một con hồn rỗng đang ẩn bên trong cây cầu. Cho dù thân thể của nó không bao giờ chui qua được những lỗ hổng trên đá, những cái lưỡi của nó vẫn dễ dàng chui qua được.
Tôi vừa qua được mấy cây giáo và đặt chân lên nền cầu vững chắc thì nghe thấy Emma kêu thét lên. Tôi thả Addison xuống quay lại và thấy cô sau lưng tôi, bị một cái lưỡi của con hồn rỗng quấn quanh eo và nhấc bổng lên không.
Cô lớn tiếng gọi tên tôi, còn tôi gọi tên cô. Cái lưỡi quằn cô lên xuống, lắc cô. Cô lại hét lên. Không có âm thanh nào khủng khiếp hơn thế.
Một cái lưỡi khác của con quái vật quét qua bên dưới những cây giáo, và cây cầu tạm của chúng tôi bay bổng lên, vỡ tung tóe và rơi lả tả như những que diêm xuống khe vực bên dưới. Rồi cái lưỡi thứ hai này tìm tới Addison, trong khi cái lưỡi thứ ba đáng thẳng vào ngực tôi.
Tôi ngã vật ra đất, lồng ngực không còn chút không khí. Trong khi tôi vật lộn để lấy hơi, cái lưỡi trườn tới quấn quanh eo tôi, nhấc bổng tôi lên không. Cái lưỡi còn lại quấn quanh hai chân sau Addison. Chỉ trong khoảnh khắc, cả ba chúng tôi đều bị treo ngược lủng lẳng
Máu dồn xuống đầu tôi, làm hai mắt tôi tối sầm. Tôi có thể nghe thấy Addison sủa và đớp vào cái lưỡi.
"Đừng, nó sẽ thả rơi ông đấy!" tôi hét lên, nhưng nó vẫn tiếp tục.
Emma cũng bất lực; nếu cô đốt cháy cái lưỡi đang quấn quanh eo mình, con hồn rỗng sẽ thả rơi cô xuống.
"Nói với nó đi, Jacob!" Cô hét lớn. "Bảo nó dừng lại!"
Tôi vặn người lại để nhìn thấy những khoảng hở hẹp qua đó những cái lưỡi của con quái vật đã thò ra. Những cái răng của nó đang cà sàn sạt lên những tấm đá. Cặp mắt đen của nó long lên thèm khát. Chúng tôi bị treo lơ lửng như một chùm quả trên một dòng rượu vang đen quánh, chính là khe vực đã gào rú bên dưới.
Tôi cố nói thứ ngôn ngữ của nó. "THẢ CHÚNG TAO XUỐNG." Tôi hét lên - nhưng những gì phát ra lại là tiếng Anh.
"Lại." Addison nói.
Tôi nhắm mắt lại và hình dung ra con hồn rỗng đang làm như tôi yêu cầu, rồi lại thử lại.
"Đặt chúng tao xuống cầu!"
Lại tiếng anh. Đây không phải là con hồn rỗng tôi đã biết, kẻ đã cùng tôi liên lạc hàng giờ liền trong khi nó đang đông cứng trong băng. Đây là một con hồn rỗng khác, một kẻ xa lạ, và mối liên hệ của tôi với nó còn mong manh, yếu ớt. Dường như nó cảm thấy tôi đang loay hoay tìm một chìa khóa dẫn vào bộ óc mình, vì nó đột nhiên nhấc bổng chúng tôi lên, như thể lấy đà để ném chúng tôi xuống khe vực. Tôi cần phải kết nối, bằng một cách nào đó, ngay lập tức...
"Dừng lại!" Tôi hét lớn, cổ họng tôi nỏng rát - và lầm này vang ra là những âm thanh gầm gừ rin rít của tiếng hồn rỗng.
Chúng tôi chững lại trên lưng chừng trời. Trong khoảnh khắc chúng tôi chỉ lơ lửng ở đó, đu đưa như các món đồ phơi trong gió. Những lời tôi nói đã có hiệu quả nhưng chưa đủ. Tôi mới chỉ làm nó bối rối.
"Không thở được!" Emma rên rỉ. Cái lưỡi quấn quanh cô đang siết lại quá chặt, và khuôn mặt cô chuyển sang đỏ tía.
"Đặt chúng tao xuống cầu." Tôi nói, những lời này cào rát họng tôi khi chúng chui ra - lại là tiếng hồn rỗng! Mỗi câu tiếng hồn rỗng chui ra cũng giống như tôi phun ra cái đinh kẹp.
Con hồn rỗng lắc lư vẻ lưỡng lự. Trong một khoảnh khắc lạc quan, tôi nghĩ rất có thể nó thực sự làm như tôi yêu cầu. Thế rồi nó vung tôi lên cao rồi quật xuống nhanh và mạch hết sức như người ta giũ một cái khăn tắm vậy.
Mọi thứ nhòe đi, rồi phút chốc trở lên đen kịt. Khi tôi tỉnh lại, lưỡi tôi tê dại và tôi cảm thấy vị máu.
"Bảo nó thả chúng ta xuống!"
Addison đang la lối. Nhưng giờ thì tôi cần nhưng không thể nói được nữa.
"An... ố..." tôi ú ớ. Tôi ho, khạc ra một bụm máu. "Ả... ọn... ao... uốn... " tôi nói bằng thứ tiếng Anh méo mó. "Ả... ọn... ao..."
Tôi dừng lại, tái định hướng cho bộ óc.
"Đặt chúng tao xuống cầu." tôi nói bằng thứ tiếng hồn rỗng đầy quả quyết.
Tôi nhắc lại thêm ba lần, hi vọng thông điệp có thể chui vào một nếp nhăn nào đó trong bộ óc bò sát của con hồn rỗng.
Con quái vật đột nhiên rống lên một tiếng ghê rợn đầy thất vọng, lôi tôi tới chỗ khe hở của cây cầu nơi nó bị nhốt, và lại rống lên lần nữa, những vệt nước bọt đen xì bắn lên mặt tôi. Rồi nói nhấc cả ba chúng tôi lên và ném trả chúng tôi về nơi chúng tôi từ đó tới.
Chúng tôi lộn nhào trên không trong một thời gian có vẻ quá lâu - lúc này chúng tôi đang rơi xuống, tôi dám chắc điều đó, rơi theo hình vòng cung xuống số mệnh của mình - thế rồi vai tôi chạm vào nền đá cứng của cây cầu, và chúng tôi cùng trượt rồi lăn xuống hết sườn dốc tới tận chân cầu.
* * *
Thật kỳ diệu, chúng tôi vẫn còn sống - bầm dập nhưng tỉnh táo, tứ chi vẫn dính vào thân người. Chúng tôi đã lăn nhào xuống cây cầu cẩm thạch nhẵn nhụi, hất văng tứ tung đống đầu người ở chân cầu khi chúng tôi đang xuống tới đó rồi dừng lại. Những cái đầu lúc này đang ở khắp xung quanh, giễu cờ chúng tôi trong khi chúng tôi trấn tĩnh lại.
" Chào mừng trở lại!" cái đầu ở gần nhất nói với tôi. "Chúng tôi rất khoái mà la hét vì khiếp đảm của các người. Các người có lá phổi mới mạnh làm sao!"
" Tại sao các người không nói với chúng tôi là có một con hồn rỗng ẩn bên trong cây cầu khốn kiếp này?" tôi vừa nói vừa loay hoay ngồi dậy. Đau đớn bao trùm khắp người tôi, từ hai bàn tay bị kéo trợt da, hai đầu gối trầy xước đến một bên vai rần rật nhiều khả năng bị trật khớp.
"Thế thì còn gì vui chứ? Ngạc nhiên hay ho hơn nhiều."
"Lắm Lưỡi hẳn có tình cảm gì đó với các người." một cái đầu khác nói. "Hắn đã nhai hết hai chân của vị khách cuối cùng trước các người."
" Thế đã là gì." một cái đầu đeo khuyên tai to tướng bóng loáng như cướp biển nói. "Có lần tôi đã thấy hắn cuốn một sợi thừng quanh một người đặc biệt, hạ anh ta nhúng xuống sông năm phút, rồi kéo lên và ăn thịt anh ta."
"Món người đặc biệt trụng sơ." cái đầu thứ ba nói với vẻ ấn tượng. "Tay Lắm Lưỡi của chúng ta là một kẻ sành ăn."
Chưa hoàn toàn sẵn sàng để đứng dậy, tôi nhích người đi vài bước tới chỗ Emma và Addison. Trong khi cô đang ngồi xoa đầu, con chó thử dồn trọng lượng của nó nên một chân bị thương.
" Cậu ổn chứ?" Tôi hỏi.
"Đầu tớ bị va đập kha khá." Emma đáp, nhăn mặt trong khi tôi vạch tóc cô ra để xem xét một vết máu.
Addison giơ một chân rủ thõng lên. "Tôi sợ là nó bị gãy mất rồi. Tôi tưởng cậu có thể yêu cầu con quái vật đó bỏ chúng ta xuống một cách nhẹ nhàng chứ."
"Vui thật đấy." tôi nói. "Nghĩ tới chuyện đó mới thấy, tại sao tôi không chỉ đơn giản bảo nó giết tất cả lũ xác sống và cứu luôn các bạn chúng ta ra nhỉ?"
"Quả thực tế cũng đã nghĩ tới điều tương tự." Emma nói.
"Tớ đang đùa đấy."
"À, tớ thì không." Cô nói. Tôi áp cổ tay áo sơ mi của mình vào vết thương của cô. Cô thở hắt ra và đẩy bàn tay tôi đi. " Chuyện gì đã xảy ra ở đó vậy?"
"Tớ nghĩ con hỗn rỗng đã hiểu tớ, nhưng tớ không thể khiến nó tuân lệnh. Tớ không có mối liên hệ với con hồn rỗng nó giống như mối liên hệ tớ có - từng có - với con kia."
Con quái vật ấy đã chết, bị đè bẹp dưới một cây cầu và nhiều khả năng đã chết đuối, và giờ tôi có chút nuối tiếc về điều đó.
"Làm thế nào cậu kết nối được với con thứ nhất?" Addison hỏi.
Tôi nhanh chóng kể vắn tắt lại được tôi tìm thấy nó bị đông cứng trong băng tới tận tròng mắt như thế nào, và sau một đêm trải qua một hình thức liên hệ lạ lùng, đặt bàn tay lên đỉnh đầu nó, có vẻ tôi đã thâm nhập được vào một phần tối quan trọng nào đó trong hệ thần kinh của nó.
"Nếu cậu không có chút liên hệ nào với con hồng rỗng dưới cầu," Addison nói. " tại sao nó lại tha mạng cho chúng ta?"
"Biết đâu tôi đã làm nó bối rối?"
"Cậu cần tiến bộ hơn trong chuyện này." Emma nói thẳng thừng. "Chúng ta cần đưa Addison qua."
"Tiến bộ hơn ư? Tớ cần làm gì đây, đi học chắc? Con quái vật đó sẽ giết chúng ta vào lần tới chúng ta lại gần nó. Chúng ta cần phải tìm một đường qua khác."
"Jacob, không có đường nào khác cả." Emma vén một mái tóc lòa xòa xuống mắt lên và nhìn chăm chăm vào mắt tôi. "Cậu chính là cách vượt qua."
Tôi đang sắp sửa tuôn ra một tràng bác bỏ thì cảm thấy một cơn đau nhói sau lưng và kêu thét đứng bật dậy. Một cái đầu đã cắn vào mông tôi.
"Này!" tôi hét lên, xoa xoa chỗ bị cắn.
"Cắm lại chúng ta nên những cây giáo mà các người đã tìm thấy chúng ta, đồ phá hoại!" cái đầu nói.
Tôi đá nó mạnh hết sức, và cái đầu văng ra xa, tới đám người đang ngồi. Tất cả những cái đầu khác bắt đầu la hét, nguyền rủa chúng tôi, lăn qua lăn lại một cách quái gở bằng hàm. Tôi rủa lại và hất tro nên những khuôn mặt chết chóc ghê rợn của chúng ta tới khi tất cả chúng đều ho sặc. Thế rồi một thứ gì đó nhỏ, tròn bay tới đập bẹp vào lưng tôi, ươn ướt.
Một quả táo thối. Tôi quay ngoắt lại đối diện với đám người đang ngồi. "Ai ném?"
Bọn họ bật cười như những kẻ nghiện cần sa, tiếng cười trầm trầm, cùng cục.
"Các người từ đâu tới thì quay lại chỗ đó đi." một kẻ trong đám ré lên.
Tôi bắt đầu nghĩ đó không phải một ý tưởng tồi.
"Sao bọn họ dám chứ?" Addison gầm gừ.
"Quên đi." tôi nói với nó, cơn tức giận của tôi đã lắng xuống. "Chúng ta cứ..."
"Sao các người dám!" Addison tái mặt, đứng thẳng mình dậy trên hai chân sau, quát đám người kia. " Các người không phải là người đặc biệt sao hả? Các người không biết xấu hổ à? Chúng tôi đang cố giúp các người đấy!"
"Cho chúng tôi một lọ không thì đi đi, rồi bị nhồi rơm!"
Addison run lên vì phẫn nộ. " Chúng tôi đang cố giúp các người." Nó nhắc lại. " Còn các người thì ngồi đây - các người ngồi đây! - trong khi đồng bào của chúng ta đang bị sát hại, các Vòng Thời Gian của chúng ta bị hủy hoại tan tành, ngồi ngủ gật trước cổng nhà kẻ thù! Đáng lẽ các người phải xông tới đó!" con chó trỏ cái chân bị thương của nó về phía đám người. "Các người là một lũ phản bội, Và tôi xin thề đến một ngày kia cũng sẽ chống mắt lên xem các người bị lôi ra trước Hội đồng Chủ Vòng và bị trừng phạt!"
"Rồi, rồi, đừng có lãng phí hết sức lực của ông vào bọn họ." Emma nói, lảo đảo đứng dậy. Thế rồi một cây bắp cải thối đập vào vai cô và rơi bẹt xuống đất.
Cô mất luôn bình tĩnh.
"Được lắm, sẽ có kẻ bị cháy tan mặt ra!" Cô hét lên, vùng vẫy một bàn tay cháy rực về phía đám người ngồi.
Trong lúc Addison tung làm bài diễn văn của mình, một nhóm người đã thì thầm có ý đồ gì đó, và đến lúc này bọn họ bước tới, cầm trong tay những món binh khí cùn. Một cành cây vát nhỏ. Một đoạn ống tuýp. Tình hình xấu đi nhanh chóng.
"Chúng tao chán mấy bọn mày rồi." một người đàn ông người bầm tím nói với giọng lè nhè. "Chúng tao sẽ sống chúng mày xuống sông."
" Tôi thích thấy cảnh đó lắm." Emma nói.
"Tớ thì không." tôi nói. "Tớ nghĩ chúng ta nên đi."
Bọn họ có sáu người, chúng tôi chỉ có ba, và ở trong tình trạng thảm hại: Addison bị què chân, máu đang chảy xuống trên mặt Emma, còn tôi, với bên vai bị thương của mình, khó lòng nhức mỏi cánh tay phải lên. Trong lúc đó, đám cưới kia đang tản ra và xáp lại gần. Nọn họ định dồn chúng tôi xuống lỗ hổng.
Emma nhìn lại cây cầu rồi nhìn sang tôi. "Đi nào. Tớ biết cậu có thể đưa chúng ta qua cầu. Thử lại lần nữa nào."
"Tớ không thể, Emma. Tớ không thể. Tớ sẽ không để mình phí công vô ích đâu."
Và tôi không làm thế. Tôi không có trong mình khả năng kiểm soát con hồn rộng đó - hay ít nhất là chưa có - và tôi biết vậy.
"Nếu cậu ấy nói không thể làm được, thì tôi cũng không có ý định hồ nghi lời cậu ấy đâu." Addison nói. "Chúng ta phải tìm ra một cách khác cho việc này."
Emma dỗi. "Kiểu như thế nào?" Cô nhìn Addison. "Ông có chạy được không?" Cô nhìn tôi. " Cậu có thể chiến đấu không?"
Câu trả lời cho cả hay là không. Tôi hiểu ý cô: các lựa chọn của chúng tôi đang nhanh chóng bị thu hẹp.
"Vào những lúc thế này." Addison nói đầy trịnh trọng. "Giống loài tôi không chiến đấu. Chúng tôi hùng biện." Đối diện với mấy người kia, nó cất giọng vang vang. "Hỡi những người anh em đặc biệt, hãy tỏ ra biết lí lẽ nào.
Cho phép tôi nói vài lời!"
Bọn họ chẳng để ý đến nó. Trong khi đám này tiếp tục khép kín gần các đường tháo lui của chúng tôi, chúng tôi lùi dần về phía cây cầu, Emma tạo ra quả cầu lửa lớn nhất cô có thể còn Addison lải nhải về chuyện các loài động vật trong rừng đã sống hòa thuận với nhau ra sao, vậy thì tại sao chúng ta lại không thể? "Hãy thử nhìn vào một con nhím bình thường, và hàng xóm của nó, còn opot có tuí... chúng có lãng phí sức lực vào việc ném nhau xuống vực thẳm hay không khi chúng đối diện với một kẻ thù chung, mùa đông? Không!"
" Nó hoàn toàn hóa rồ rồi." Emma nói. " Ông ngưng lải nhải và cắn một trong bọn chúng đi!"
Tôi nhìn quanh tìm thứ gì đó có thể dùng để chiến đấu. Những vật thể cứng trong tầm tay chỉ có mấy cái đầu. Tôi cầm một cái lên bằng nhúm tóc sót lại của nó.
"Có cách nào khác qua sông không?" tôi hét vào mặt nó. "Nói nhanh, không ta sẽ ném mi xuống sông!"
"Cút xuống địa ngục đi!" Nó gắt lên, rồi nhe răng ra để đớp tôi.
Tôi ném nó về phía đám người - một cách vụng về bằng cánh tay trái của mình. Cái đầu rơi xuống quá gần. tôi quay người nhìn quanh tìm một cái đầu khác, nhấc nó lên, và nhắc lại câu hỏi của mình.
"Tất nhiên là có." cái đầu dè bỉu. "Ở đằng sau một cái xe thùng! Cho dù nếu ta là ngươi, ta sẽ thử vận may với con hồn rỗng trên cầu..."
"Một cái xe thùng là gì hả? Nói cho ta biết không ta ném cả mi đi ngay bây giờ!"
"Ngươi sắp bị một cái xe như thế bắn đấy." cái đầu nói, và rồi ba phát súng vang lên ngoài xa - pằng, pằng, pằng, chậm rãi và đều đặn, như một lời cảnh báo. Ngay lập tức, đám người đang xông lại chúng tôi cùng dừng bước, và tất cả bọn họ đều quay người nhìn xuống con đường.
Nửa như bị kéo lê qua một đám mây tro cuộn lên xoáy vòng, thứ gì đó to lớn hình khối hộp đang ầm ầm tiến về phía chúng tôi. Sau đó vang lên tiếng gầm gừ của một động cơ đang cài số thấp, và từ trong lớp màn đen xuất hiện một chiếc xe tải. Đó là một chiếc xe tải quân sự hiện đại, khắp nơi toàn đinh tán và thép gia cường, lốp xe cao bằng nửa một người trưởng thành. Thùng xe là một khối kín mít không cửa sổ, và hai gã xác sống mặc áo khoác dày trang bị súng máy đứng gác ở bậc lên xuống hai bên.
Ngay khi cái xe xuất hiện, đám người vẫn ngồi rơi vào một trạng thái cuồng loạn, cười phá lên và thở hổn hển vì vui sướng, vung vẩy cánh tay, vỗ tay như những kẻ đắm tàu còn sống sót đang vậy thu hút sự chú ý của một chiếc máy bay bay qua - và cũng vì thế, chúng tôi bị lãng quên. Một cơ hội vàng đã mở ra cho chúng tôi, và chúng tôi không định bỏ qua nó. Tôi quẳng cái đầu sang một bên, kẹp Addison vào cánh tay trái, rồi trườn ra khỏi đường theo sau Emma. Chúng tôi đã có thể tiếp tục đi - rời khỏi Phố Khói, rút lui về nơi nào đó tại Đồng Ma an toàn hơn - nhưng ở đây, kẻ thù của chúng tôi đã xuất hiện bằng da bằng thịt, và bất cứ chuyện gì đang hãy sắp sửa diễn ra rõ ràng cũng đều quan trọng. chúng tôi dừng lại không xa rìa đường mấy, chỉ ẩn sau một lùm cây cháy đen, và quan sát.
Chiếc xe tải chạy chậm lại và đám đông bu lại quanh nó, quỳ phục xuống cầu xin - xin lọ, nước tiên và mật thần thánh và chỉ nếm một chút, chỉ một xíu thôi, xin ngài. Cái bộ dạng khúm núm tôn thờ lũ đồ tể này của họ thật ghê tởm, họ bấu lấy quần áo, giày của mấy tên lính để rồi được đáp lại bằng những cú đá từ mũi giày bọc thép. Tôi nghĩ chắc chắn lũ xác sống thể nào cũng bắt đầu nổ súng, hay rồ máy nghiền nát những kẻ đủ ngu ngốc để đứng chắn giữa chúng và cây cầu. Nhưng thay vì thế, chiếc xe tải dừng lại, đám xác sống bắt đầu lớn tiếng quát ra lệnh. Xếp thành hàng, ngay chỗ này, giữ trật tự nếu không các người sẽ chẳng được gì hết! Đám đông dồn vào thành hàng như những kẻ khốn cùng và bánh mì phát chẩn, háo hức bồn chồn ngóng đợi thử hỏi sắp nhận được.
Không hề báo trước, Addison bắt đầu vùng vẫy đòi tôi đặt xuống. Tôi hỏi nói có chuyện gì, nhưng con chó chỉ ư ử và vùng vẫy mạnh hơn, với vẻ tuyệt vọng trên khuôn mặt như thể nó vừa bắt được một luồng hơi quan trọng. Emma véo nó, làm nóng bừng tỉnh ra đủ lâu để nói. "Là bà ấy, là bà ấy... đó là cô Wren." Và tôi hiểu ra xe thùng là một cách nói ám chỉ xe chở tù nhân, và món hàng đằng sau thùng chiếc xe đồ sộ của đám xác sống chắc chắn là những con người.
Thế rồi Addison cắn tôi. Tôi kêu thét lên và buông nó ra, và trong khoảnh khắc nó đã lao vụt đi. Emma bật rủa còn tôi nói. "Addison, đừng!" song chỉ vô ích; con chó đang làm theo bản năng, theo phản xạ không thể kìm nén của một con chó trung thành tìm cách bảo vệ chủ nhân. Tôi nhào xuống để chụp lấy nó nhưng vồ trượt - trong tình trạng chỉ còn ba chân lành lặn nó vẫn là một sinh vật nhanh lạ lùng - rồi Emma kéo tôi lên, và chúng tôi rời khỏi chỗ ẩn nấp lao ra đường, cùng đuổi theo con chó.
Có một khoảnh khắc, một khoảnh khắc thoáng qua, tôi chợt nghĩ chúng tôi có thể bắt kịp con chó, còn bọn lính đang bị quấy rầy quá độ, đám đông thì quá mê mải bận tâm thứ khác để nhận ra chúng tôi. Và điều đó rất có thể đã diễn ra nếu không vì sự thay đổi chợt đến với Emma lúc băng qua được nửa đường, khi cô thấy những cánh cửa đằng sau chiếc xe tải. Những cánh cửa với những cái khóa có thể bị nung chảy ra. Những cánh cửa có thể mở tung. Chắc hẳn cô đã nghĩ thế - tôi có thể đọc được những lời này từ về mặt rạng lên hi vọng của cô - và cô đi ngang qua Addison mà không buồn với tay tóm lấy con chó rồi leo lên thanh chắn va đập của chiếc xe tải.
Những tiếng quát từ đám lính vang lên. Tôi chộp lấy Addison song nó lách khỏi, chui vào dưới chiếc xe tải. Emma đang bắt đầu hun chảy tay cầm có một cánh cửa thì tên lính canh thứ nhất vung súng lên như một cây gậy đánh bóng chày. Cây súng quật trúng sườn cô, làm cô ngã vật ra đất. Tôi lao tới chỗ hắn, sẵn sàng làm bất cứ điều gì bằng cánh tay lành của mình, nhưng hai chân tôi đã bị đạp mạnh, thế là tôi đổ vật xuống bên vai bị đau, một cơn buốt như trời giáng lan đi khắp trong người tôi.
Nghe thấy tiếng la hét của tay lính canh, tôi ngước nhìn lên, thấy hắn không còn vũ khí và đang vung vẩy một bàn tay bị thương, thế rồi hắn dịch xa ra chui vào vùng vẫy điên cuồng giữa một đám thân người đang ào ào như nổi sóng. Đám người rách rưới bu lấy hắn, không chỉ cầu xin mà đòi hỏi, đe đọa, điên cuồng - và lúc này, ở đâu đó, một người trong bọn họ đã có trong tay vũ khí của hắn. Trông có vẻ hoảng hốt, hắn giơ cả hai bàn tay lên cao quá đầu vẫy gả xác sống còn lại để kêu gọi lôi tao ra khỏi đây!
Tôi loay hoay vùng đứng dậy và chạy tới chỗ Emma. tên lính canh của lại nhào vào đám đông, bắn súng chỉ thiên cho tới khi hắn có thể lôi cả đồng loại ra và trở lại xe. Ngay khi đặt chân lên bậc lên xuống, chúng liền vỗ mạnh vào thành xe và động cơ nổ vang. Tôi tới được chỗ
Emma đúng lúc chiếc xe chuyển bánh chạy tới cây cầu, những cái lốp khổng lồ của nó hất tung cuội sỏi và tro lên.
Tôi vỗ lên cánh tay cô để trấn an bản thân là cô vẫn còn nguyên vẹn. "Cậu đang chảy máu." Tôi nói. "Rất nhiều." một cách diễn đạt thực tế thật vụng về nhưng là những lời rành rọt nhất tôi có thể nói để bộc lộ cảm giác khổ sở khi nhìn cô bị thương - tập tễnh, một vết rách dài trên da đầu ứa máu, máu thấm cả tóc cô.
"Addison đâu?" Cô hỏi. Nhưng trước khi câu "Tớ không biết" kịp rời khỏi môi tôi, cô đã cắt ngang - "Chúng ta cần đi theo nó. Đây có thể là cơ hội duy nhất của chúng ta!"
Chúng tôi ngước nhìn lên đúng lúc chiếc xe tải tới cây cầu và thấy gã lính canh bắn gục hai kẻ rách rưới đuổi theo xe. Trong khi họ ngã vật ra quằn quại trên đất, tôi biết cô đã lầm: không thể đuổi theo cái xe tải, không thể băng qua cây cầu. Đó là chuyện vô vọng - và giờ đám người rách rưới cũng hiểu điều đó. Khi đồng bọn của họ ngã xuống, tôi có thể cảm thấy nỗi tuyệt vọng của họ chuyển thành cuồng nộ, và dường như chỉ một khoảnh khắc, cơn cuồng nộ đó quay sang nhắm vào chúng tôi.
Chúng tôi cố bỏ chạy nhưng nhận ra mình bị chặn từ mọi phía. Đám đông đang gào thét rằng chúng tôi là "lũ phá hoại", rằng "giờ họ đã tóm được chúng tôi", và chúng tôi đang phải chết. Những cú đòn bắt đầu tới tấp giáng như mưa xuống chúng tôi - những cái tát, cú đấm, những bàn tay giật tóc xé áo chúng tôi. ôi cố che chở cho Emma nhưng cuối cùng lại thành ra cô ấy che chở cho tôi, ít nhất trong vài khoảnh khắc, bằng cách vung hai bàn tay ra xung quanh, đốt cháy bất cứ thứ gì cô có thể. Ngay cả ngọn lửa của cô cũng không đủ để xua bọn họ rời ra khỏi chúng tôi, những cú đánh vung ra tới tấp đến cho tới khi chúng tôi quỵ gối xuống, rồi lăn ra co quắp dưới đất, hai cánh tay che chắn cho khuôn mặt, cơn đau dồn dập tới từ mọi hướng.
Tôi gần như chắc chắn mình sắp chết, hay đang mơ, vì vào khoảnh khắc đó tôi nghe thấy tiếng hát - một màn điệp khúc ầm ĩ, hào hứng của "Hãy nghe tiếng búa chan chát đập! Hãy nghe tiếng những cái đinh lún ngập!" - nhưng mỗi một câu hát lại vang lên kèm những tiếng thịch nặng nề và tiếng hét to: "(Thịch!) Làm sao khi dựng một giá treo cổ, (Bịch!) trị lành mọi đau khổ.
Sau vài câu hát và vài tiếng thịch nữa, những cú đánh thôi không còn trút xuống, đám đông lùi ra xa, cảnh giác và gầm gừ. Tôi nhìn thấy lờ mờ, qua lớp máu và đất các che phủ, năm người thợ dựng giá treo cổ vạm vỡ, hông mang thắt lưng treo các món công cụ, búa giơ cao trên tay. Họ đi xuyên qua đám đông, và lúc này họ bao quanh chúng tôi, nhìn xuống đầy hoài nghi như thể chúng tôi là một loài cá lạ nào đó họ không trông đợi đánh được trong lưới của mình.
"Là chúng phải không?" Tôi nghe một người trong họ nói. "Trông chúng không được tốt lắm, anh họ ạ."
"Tất nhiên là trúng rồi!" một người khác nói, giọng ông ta như một chiếc còi báo hiệu cho tàu đi trong sương mù, trầm và quen thuộc.
"Là Sharon!" Emma reo lên.
Tôi có thể nhúc nhích bàn tay đủ để gạt hết máu khỏi một bên mắt. Ông ta đứng đó, cả thân hình cao lớn hơn hai mét khoác áo choàng đen. Tôi cảm thấy mình đang bật cười, hay cố làm thế; tôi chưa bao giờ mừng rỡ đến thế khi gặp một người xấu xí đến vậy. Ông ta đang moi thứ gì đó trong túi ra - những cái lọ thủy tinh nhỏ - và giơ chúng lên cao quá đầu, quát lớn. "TAO CÓ THỨ CHÚNG MÀY MUỐN Ở ĐÂY, LŨ KHỈ BỆNH HOẠN! LẠI LẤY CHÚNG VÀ ĐỂ CHO NHỮNG ĐỨA TRẺ NÀY YÊN!"
Ông ta quay người và ném những cái lọ xuống đường. Đám đông ùa theo chúng, reo hò la hét,sẵn sàng xé xác nhau ra để đoạt được chúng. Và rồi chỉ còn lại những người thợ dựng giá treo cổ, hơi xộc xệch sau cuộc loạn đả những không hề xây xước gì, cài lại cái búa của họ vào thắt lưng. Sharon, sải bước về chúng tôi, chìa một bàn tay trắng như tuyết ra, đang nói. "Cô cậu nghĩ gì mà lang
thang như thế hả? Tôi lo phát ốm đấy!"
"Phải đấy!" Một trong mấy người thợ nói. "Ông ấy không giữ nổi bình tĩnh nữa. Buộc chúng tôi đi khắp nơi tìm mấy người."
Tôi cố ngồi dậy nhưng không thể. Sharon đứng ngay trên chúng tôi, nhìn xuống như thể ông ta đang xem những con thú hoang bị xe tông phải vậy.
"Cô cậu ổn cả chứ? Có đi được không? Cái lũ bị Chúa đày đọa đáng nguyền rủa kia đã làm gì cô cậu vậy?" Giọng nói của ông ta nửa như của một ông thượng sỹ huấn luyện tân binh đang cáu bẳn nửa như của một ông bố đầy quan tâm.
"Jacob bị đau." Tôi nghe Emma nói, giọng cô rời rạc. "Cả cậu cũng thế." tôi có nói nhưng không thể điều khiển được lưỡi mình. Có vẻ cô nói đúng: đầu tôi nặng trịch như đá, tầm nhìn chẳng khác gì một tín hiệu vệ tinh chập chờn, lúc có lúc mất. Tôi được đôi cánh tay của Sharon nhấc lên, mang đi - ông ta khỏe hơn nhiều so với vẻ bề ngoài của mình - và một ý nghĩ lóe lên, tôi cố nói thành tiếng.
Addison đâu?
Tôi chỉ có thể ú ớ, nhưng bằng cách nào đó ông ta hiểu tôi, và quay đầu tôi về phía cây cầu, ông ta nói. "Kia!"
Đằng xa, chiếc xe tải như đang lơ lửng trên không. Liệu có phải bộ óc do bị chấn động của tôi gặp ảo giác chăng?
Không. Giờ tôi có thể thấy: chiếc xe tải đang được những cái lưỡi của con hồn rỗng nhất qua khoảng trống.
Nhưng Addison đâu?
"Kìa." Sharon nhắc lại. "Bên dưới."
Hai cái chân sau và một thân hình nhỏ nhỏ màu nâu đu đưa thòng xuống từ bên dưới chiếc xe tải. Addison đã bám vào chỗ nào đó dưới gầm thùng xe bằng bộ răng của nó và đi cùng chiếc xe tải, con chó quái quỷ ranh mãnh. Và trong khi những cái lưỡi đặt chiếc xe tải xuống bên kia cây cầu, tôi thầm nghĩ. Chúc lên đường may mắn, anh bạn cún bé nhỏ gan dạ. Có lẽ anh là hi vọng lớn nhất chúng ta có.
Rồi tôi lịm dần, lịm dần, thế giới chuyển sang đêm tối.
Thư Viện Linh Hồn Thư Viện Linh Hồn - Ransom Riggs Thư Viện Linh Hồn