If we are peaceful, if we are happy, we can smile, and everyone in our family, our entire society, will benefit from our peace.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Thể loại: Trung Hoa
Dịch giả: Phong Đảo
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Hải Trần
Số chương: 32
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5422 / 135
Cập nhật: 2016-02-21 17:43:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 30: Hội Kiến Trường Xuân Chân Nhân Và Sự Phấn Đấu Sau Cùng
ao sáng đầy trời, lửa trại soi sáng khắp nơi. Trước gian lều của Gia Luật Sở Tài có một bầu không khí căn thẳng và ngột ngạt. Hốt Lan phi đôi mắt ứa lệ đang nói lên tâm sự của mình cho Gia Luật Sở Tài và Gia Luật A Hải nghe:
- Ông ấy còn đang theo dõi tin tức truy lùng Trát Lan Đinh. Trong khi đó tôi rất lo sợ sức khỏe của ông ấy không chịu đựng nổi trước sự bôn ba khó nhọc ngoài chiến trường! - Là một sủng phi của Thành Cát Tư Hãn, tất nhiên bà phải lo lắng tới sức khỏe của Đại Hãn.
- Còn có cách nào khác hơn được? - Gia Luật Sở Tài dang rộng hai cánh tay nói tiếp - ông ấy ngày đêm mong mỏi Trường Xuân Chân Nhân, nay Chân Nhân đã tới Tát Ma Nhĩ Can, thế mà ông ấy chưa chịu kéo quân trở về.
Bỗng có ánh đuốc của một người phi mã từ xa chạy tới trước cửa doanh trại. Người cầm đầu đám đông là Đóa Đãi từ trên lưng ngựa nhảy xuống, trao dây cương ngựa lại cho người tùy tùng, rồi đi thẳng vào đại trướng của Khả Hãn. Khi ông ta đi ngang trước mặt Gia Luật Sở Tài, liền thi lễ nói:
- Xin bái kiến Hốt Lan phi, bái kiến nhị vị tiên sinh!
Gia Luật Sở Tài hỏi:
- Này Đóa Đãi thiên hộ, ông từ đâu về đây vậy?
- Tôi từ Ấn Độ trở về để báo cáo tình hình quân sự với Khả Hãn.
Hốt Lan phi hỏi:
- Đã bắt được Trát Lan Đinh Toán Đoan chưa?
- Dạ, chưa!
Đóa Đãi đang muốn rời đi Gia Luật Sở Tài vỗ tay ra hiệu gọi lại:
- Đã có cách rồi! Này Đóa Đãi ông hãy cùng đi với tôi.
Đóa Đãi theo chân Gia Luật Sở Tài bước vào lều. Hốt Lan Phi ngơ ngác không hiểu Gia Luật Sở Tài có ý gì?
Đóa Đãi với y phục bám đầy bụi đường, đi thẳng vào hành cung tại Bát Lỗ Loan, báo cáo tình hình quân sự với Thành Cát Tư Hãn:
- Bọn chúng tôi vẫn không thể tìm được tung tích của Trát Lan Đinh. Địa phương đó hết sức nóng bức, nóng giống như chiếc lò lửa đốt phân bò vậy. Có hơn mười binh sĩ bị chết vì quá nóng. Cho nên Đóa Nhĩ Bá Hắc Thân Na nhan mới phái tôi trở về thỉnh thị ý kiến của Khả Hãn.
Thành Cát Tư Hãn đang do dự chưa có sự quyết định dứt khoát thì Đóa Đãi hạ thấp giọng nói:
- Thưa Khả Hãn!...
Thành Cát Tư Hãn biết Đóa Đãi còn có ý kiến gì định nói thêm, bèn hỏi:
- Sao?
Đóa Đãi dùng một giọng đầy bí mật:
- Có một sự kiện lạ, không biết tôi có nên nói ra chăng?
- Chuyện lạ gì? - Câu nói đó làm cho Thành Cát Tư Hãn phấn khởi, muốn biết.
Đóa Đãi lộ vẻ căng thẳng, kể lại:
- Trên đường trở về khi đi ngang qua Thiết Môn Quan, bỗng nhiên tôi nghe một tiếng gầm, vội vàng nhìn về hướng đó, thì... Ối chao!
Đám đông đều có vẻ háo kỳ hỏi:
- Thì sao nữa?
- Tôi thấy trên đỉnh núi có một con thú lạ mà từ trước tới nay tôi chưa bao giờ trông thấy.
- Hình dáng nó ra sao?
Đóa Đãi như moi lại trí nhớ, lên tiếng mô tả:
- Đầu nó giống con nai, đuôi nó giống đuôi ngựa, trên mình có vẫy ngũ sắc, trên đỉnh đầu có một chiếc sừng. Suốt đời tôi không biết sợ cái gì cả, bèn hướng dẫn mọi người tiến lên định bao vây nó, muốn bắt nó về đây cho Đại Hãn xem một con thú lạ.
Thành Cát Tư Hãn sốt ruột hỏi:
- Bắt được nó chưa?
- Thôi đừng nói nữa. Tôi mới vừa đưa cao thanh đao lên muốn chặt vào đùi nó, thì con quái thú đó liền đứng hai chân lên!
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Nó đứng như con người phải không?
- Nó còn biết nói cả tiếng người nữa.
- Cái gì? Nó nói cái gì? - Tất cả mọi người có mặt đều tỏ vẻ bán tín bán nghi.
Đóa Đãi bèn bắt chước giọng nói của nó:
- Bảo vua nhà ngươi mau kéo quân trở về!... - Dã Lặc Miệt đứng bên cạnh vừa cười vừa nói:
- Anh bịa đặt đó phải không?
Hốt Lan phi bổng nói lẩm nhẩm:
- Sao lạ thế! Tại sao lại có chuyện trùng hợp như vậy?
Thành Cát Tư Hãn hỏi Hốt Lan phi:
- Em nói sao?
Hốt Lan đáp:
- Đêm qua thiếp nằm mộng thấy giống hệt như sự kiện của Đóa Đãi vừa kể!
Đám đông không còn ai lên tiếng nói gì nữa.
Thành Cát Tư Hãn suy nghĩ một chốc, bèn quay sang hỏi Gia Luật Sở Tài:
- Này ông râu dài, ông là người tinh thông về bói toán cũng như những điều bí mật trong trời đất, vậy con thú đó gọi là con thú gì?
Gia Luật Sở Tài đáp:
- Theo như thầy tôi là Vạn Tùng Lão Nhân nói, thì con thú đó có tên gọi là Lục Đoan, một ngày có thể đi xa tám nghìn dặm, có thể nói được tiếng nói của các nước và nó là con thú tượng trưng cho sự chán ghét giết chóc, yêu thích hòa bình.
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Tại sao nó lại xuất hiện như vậy?
- Ý nghĩa của việc nó xuất hiện là hết sức rõ ràng: nó muốn báo cho ngài biết - Mọi người đều chú ý lắng nghe. Gia Luật Sở Tài nói tiếp thao thao - Đế vương là con cưng của trời. Để giúp cho tuổi thọ của các đế vương được lâu dài, trời xanh - Nói theo người Mông Cổ là "Trường sinh thiên" - Thường lấy những hiện tượng khác lạ để cảnh báo. Nhất là một người sinh ra trong tay lại cầm một cục máu đông như Đại Hãn, tất nhiên trời xanh bao giờ cũng chú ý theo dõi. Sự xuất hiện của nó là do trời phái nó xuống để cảnh báo Khả Hãn.
- Lời nói đó là có ý nghĩa gì?
Gia Luật sở Tài đáp:
- Muốn Khả Hãn sớm rút quân trở về.
Hốt Lan phi nói:
- Gần đây có rất nhiều tướng sĩ bị bệnh thương hàn phát ban mà chết, vậy phải chăng là một sự cảnh báo của trời?
Gia Luật Sở Tài nói:
- Rất có thể.
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Nếu vậy, theo ý kiến của ông, thì ta phải làm sao?
- Bệ hạ nên tức khắc phái người đến chỗ con thú xuất hiện để cúng tế, đồng thời, phải tức khắc xuống lệnh rút quân trở về nước để thuận theo lòng trời, bảo vệ nhân mạng, nhất là để giữ tuổi thọ của Khả Hãn được vạn thọ vô cương.
Cáp Tát Nhi không tin lời nói của Gia Luật Sở Tài:
- Lời nói đó có bằng chứng gì đáng tin? Này Hãn huynh, không nên tin như vậy. Hiện nay Trát Lan Đinh còn chưa bắt được, nếu bất ngờ rút quân trở về nước, thì chẳng phải nuôi cọp cho béo để sau này nó ăn thịt người ta đó sao?
Sát Hợp Đài cũng không tin, nói:
- Thưa Phụ Hãn, đứa con trai lớn của con là Mộc A Thốc Can không thể chết oan như vậy được, xin phụ hãn phái một đạo quân mạnh vượt qua sông ấn Độ để truy lùng Trát Lan Đinh!
Thành Cát Tư Hãn tức giận nói:
- Các ngươi mà biết cái gì? Năm rồi tại Tát Ma Nhĩ Can ông râu dài bảo ngày 15 tháng 10 có nguyệt thực, chẳng phải đúng như vậy sao? Tháng 6 năm trước tại Thiên Sơn bỗng tuyết đổ to, ông râu dài bảo đó là điềm báo trước chúng ta có thể đánh thắng kẻ địch, không phải đúng như thế sao? Rút quân ngay!
Đám đông không biết phải nói như thế nào, nên đồng thanh đáp:
- Thưa vâng!
Dã Lặc Miệt hỏi:
- Thưa Đại Hãn, em trai tôi Tốc Bất Đài và Giã Biệt đang mở cuộc viễn chinh Khâm Sát, e rằng không thể trở về kịp, vậy ngài có thể cho tôi ở lại để một mặt dẹp yên những cuộc nổi loạn, mặt khác chờ đợi họ được không?
- Không! Giã Biệt và Tốc Bất Đài viễn chinh vạn dặm. Ngay đến ta cũng không biết họ đang làm gì và cũng không biết lúc nào họ trở về và trở về bằng con đường nào, vậy nhà ngươi chờ sao được? Thôi đừng ai nói gì thêm nữa. Này, Gia Luật Sở Tài tiên sinh, phiền ông thay mặt tôi đến Thiết Môn Quan để cúng tế con thú lạ đó, rồi trở về sẽ rút quân!
Đám đông đều lui ra.
Sau khi trở về đến lều riêng của Gia Luật Sở Tài, Gia Luật A Hải chỉ vào Gia Luật Sở Tài tươi cười nói:
- Này, Sở Tài công, ông tài thật?
Gia Luật Sở Tài khoát tay nói:
- Tôi chỉ mới đi nước cờ thứ nhất thôi, nước cờ kế đó phải nhờ Trường Xuân Chân Nhân.
Ngày 22 tháng 8 năm 1222, Thành Cát Tư Hãn vừa đúng 60 tuổi. Quân Mông Cổ đang trên đường rút trở về nước. Cờ phướn tung bay theo gió, người ngựa đông nghẹt.
Gia Luật Bất Hoa cưỡi ngựa đến trước cỗ xe chở đại trướng của Thành Cát Tư Hãn. Nạp Nha A liền thúc ngựa chạy tới đón:
-Thưa tướng quân Gia Luật Bất Hoa!
Gia Luật Bất Hoa nói:
- Này, Nạp Nha A vạn hộ, xin ngài bẩm lại với Đại Hãn là Trường Xuân Chân Nhân đang đến đón Đại Hãn đấy!
Nạp Nha A vẫy tay nói với quân đội của mình:
- Hãy đứng cả lại! - Đoàn quân liền đứng yên. Nạp Nha A bước lên cỗ xe đại trướng của Thành Cát Tư Hãn.
Chẳng mấy chốc sau, Thành Cát Tư Hãn từ trên xe bước xuống, tức thì Gia Luật Sở Tài, Gia Luật Bất Hoa, Gia Luật A Hải cùng bước nhanh tới nghênh đón.
Cỗ xe có chở theo đại trướng từ phía đối diện đi lại, chính là cỗ xe của Trường Xuân Chân Nhân. Sau khi xe dừng lại, số đệ tử của Trường Xuân Chân Nhân từ trên xe bước xuống, cùng nhau đỡ Trường Xuân Chân Nhân xuống xe.
Thành Cát Tư Hãn bước nhanh tới mấy bước, lên tiếng hỏi:
- Có phải lão Thần Tiên đó không?
Khưu Xứ Cơ cúi đầu chào, đáp:
- Chả dám! Khưu Xứ Cơ con người của rừng núi, xin bái kiến Thành Cát Tư Hãn!
Thành Cát Tư Hãn vui vẻ nói:
- Xin mời Thần Tiên!
Khưu Xứ Cơ và Thành Cát Tư Hãn sánh vai nhau bước lên cỗ xe đại trướng đã tháo bỏ những con bò kéo.
Đóa Đãi nói với Dã Lặc Miệt:
- Ôi chao! Vị lão đạo này cũng làm ra vẻ quá!
Dã Lặc Miệt nói:
- Nếu tôi lớn bằng tuổi ông ta, mà còn khỏe mạnh được như ông ta thì hay quá!
Đóa Đãi hỏi:
- Có phương pháp hay nào để được như vậy?
Dã Lặc Miệt nói pha trò:
- Ít nhất phải làm như Khoát Nhi Xích, cưới cho đủ 30 bà vợ!
Đóa Đãi phá lên cười. Dã Lặc Miệt vội vàng véo anh ta một cái. Đóa Đãi liền im lặng.
Bên trong cỗ xe đại trướng, Thành Cát Tư Hãn ngồi đối diện với Khưu Xứ Cơ. Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Đối với trà sữa, rượu sữa của Mông Cổ, lão Thần Tiên dùng có quen chưa?
- Một người sơn dã như tôi, mỗi bữa ăn thường dùng thức ăn đạm bạc, thường uống trà thô, đối với việc ăn uống sang trọng thì không hề nghĩ tới.
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Nghe đồn Thần Tiên năm nay đã 300 tuổi rồi, phải không?
Khưu Xứ Cơ cười đáp:
- Đó là lời đồn không đúng sự thật. Bần đạo năm nay mới 73 tuổi thôi. Con người có ai lại sống được đến 300 tuổi chứ!
Thành Cát Tư Hãn nói một cách chân thành:
- Không phải như người ta thường nói, là có thuốc trường sinh bất lão đó sao?
Khưu Xứ Cơ lắc đầu, đáp:
- Đạo gia chia thành mấy phái. Trong đó có một phái Phương Sĩ thường cho rằng uống linh đơn thì có thể thành tiên, có thể hóa thành chim mà bay lên trời. Những chuyện đó là những chuyện dùng để gạt mình và gạt người khác. Thí dụ như Tần Thủy Hoàng, Hán Võ Đế đã tin loại tà đạo đó, làm hại sức dân, tốn hao tiền bạc, rốt cuộc lại hại chính mình. Vua tôi đời Đường cũng có rất nhiều người vì muốn tìm thuốc trường sinh mà bị ngộ độc chết vì thuốc!
Thành Cát Tư Hãn cười to nói:
- Muốn sống lâu mà lại bị yểu tử!
- Bần đạo từ trước tới nay không hề tin những tà thuật đó. Trong đời chỉ có phép dưỡng sinh, chứ không có thuốc trường sinh.
Thành Cát Tư Hãn thở dài, nói:
- Người đời ai ai cũng quyến luyến cảnh giàu sang, mong muốn được sống mãi mãi, đó cũng là thường tình - Vừa nói ông vừa cười - Thế nhưng, từ xưa cho tới nay không thấy ai có thể trường sinh bất lão - ông đưa ngón tay cái lên và khen tặng - Lão Thần Tiên là người thành thực, không dối gạt ai. Tốt! Đúng là một người có đạo đức cao - Nói tới đây ông bùi ngùi nói tiếp - Tôi không hề có quá nhiều hy vọng về việc trường sinh bất lão. Chỉ có điều là tôi cảm thấy mình còn có nhiều việc phải làm, nhưng lại thấy lực bất tòng tâm? Khi nhìn thấy xa thì lại không thể thấy gần; khi nhớ được điều xa thì lại quên mất điều gần. Vậy Thần Tiên có thuật giữ gìn sức khỏe nào tốt truyền dạy cho tôi, thì đó là điều tôi hết sức cần đến.
Khưu Xứ Cơ nói:
- Cái đó thì được.
Gia Luật Sở Tài nói chen vào:
- Chân nhân từ xa đến đây, chả lẽ có phép dường sinh tốt mà lại giữ cho riêng mình, không hiến dâng cho Khả Hãn?
Mọi người đều cười.
Đêm hôm ấy, bên trong đại trướng đặt trên xe của Thành Cát Tư Hãn, Thành Cát Tư Hãn đang ngồi trong một chiếc thùng gỗ để tắm.
Hốt Lan thắp lên ba cây nhang.
Quân cảnh vệ đưa đến món thịt cầm tay, Hốt Lan nói:
- Hãy dẹp món thịt đi, đổi lại là món ăn chay, vì Khả Hãn đang tắm rửa trai giới, để hỏi đạo với Thần Tiên.
Thành Cát Tư Hãn mặc một bộ y phục mới toanh, cùng ngồi sánh vai với Hốt Lan đang bồng một con mèo Ba Tư nhỏ, còn Khưu Xứ Cơ thì ngồi đối diện. Gia Luật Sở Tài, Gia Luật Bất Hoa, Gia Luật A Hải cũng có mặt.
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Vấn đề dưỡng sinh và vấn đề an dân chính là hai vấn đề lớn trong đời sống, vậy Thần Tiên có ý kiến gì hay, xin chỉ giáo cho, bản Hãn bằng lòng cố gắng thi hành.
Khưu Xứ Cơ nói:
- Cái ăn đối với người dân là quan trọng nhất (dân dĩ thực vi thiên). Ngũ cốc, rau cải, cá thịt, các loại thực phẩm từ sữa, đều là những thứ dùng để nuôi sống con người. Phật môn thi hành tám điều cấm kỵ, không ăn mặn. Cổ nhân thường nói người ăn thịt đều hèn hạ, hoặc nói ăn chay thông minh sáng suốt và có thể sống tới trăm tuổi. Sở Tài công xin đừng để ý đến - Thật ra không phải vậy. Đạo gia cho rằng người ở vùng U Yên (chỉ chung địa phương ở phía bắc tỉnh Hà Bắc và khu vực tỉnh Liêu Ninh ngày nay - ND) thì ăn lạnh; người ở vùng Thục Hán (khu vực Tứ Xuyên và một phần lớn Vân Nam ngày nay - ND) thì ăn nóng; vùng Giang Nam thì ăn cá, ăn gạo; vùng Trung Nguyên thì ăn ngũ cốc; vùng thảo nguyên thì ăn thịt uống sữa. Tất cả những loại thực phẩm đó đều có thể nuôi sống người dân. Nhưng, ăn sang mặc đẹp, suốt ngày no nê thì lại không có ích cho đời sống; ăn không cần quá no, ở không cần quá đầy đủ tiện nghi, thì sẽ không có hại gì cho đời sống. Do vậy, việc tiết chế sự ham muốn, chính là để bảo vệ cho sức khỏe, biết sống thích hợp theo hoàn cảnh thì mới đúng là cái phép dưỡng sinh.
Thành Cát Tư Hãn suy nghĩ một chốc, nói:
- Đúng thế! Năm anh em của chúng tôi thời còn thơ ấu chịu nhiều gian truân, từng ăn củ cỏ, trái rừng, từng ăn cá bắt dưới sông, từng ăn chuột bắt ngoài đồng, có gì ăn nấy, thế nhưng người nào cũng khỏe mạnh; còn bây giờ có một số con em của Na Nhan chỉ thích ăn những gì mình thích, chỉ thích mặc những loại vải mình ưa, thế mà người nào người nấy đều yếu đuối. Qua đó đủ thấy việc ăn uống để nuôi người, nhưng cũng có thể hại người.
Khưu Xứ Cơ nói:
- Đại Hãn nói rất đúng. Phép dưỡng sinh và phép an dân tuy khác nhau, nhưng trên nguyên tắc hai phép đó là giống nhau. Thuận theo qui luật của trời đất thì sống, trái với qui luật của trời đất thì chết; thuận theo lòng ham muốn của người dân thì yên, nghịch với lòng ham muốn của người dân thì loạn. Lẽ trời luôn hiếu sinh và ghét việc chém giết, việc cai trị nên trọng sự thanh tịnh và vô vi. Đó chính là danh ngôn chí lý của Hoàng Đế và Lão Tử.
Gia Luật Sở Tài và Gia Luật A Hải đưa mắt nhìn nhau.
Thành Cát Tư Hãn trầm ngâm một lúc, nói:
- Thưa Thần Tiên, cái phép an dân của ngài thì tôi không hiểu được Ngài bảo thuận theo lẽ trời, đúng lắm, tôi là người tin Trời. Nhưng "việc hiếu sinh ghét chém giết" thì thật khó. Tôi muốn để cho người đó sống, còn bao nhiêu người khác lại muốn cho người đó chết; tôi muốn yên ổn, nhưng người khác lại muốn loạn lạc. Cho nên tôi cho rằng phải lấy việc giết chóc để ngăn chặn sự giết chóc, phải lấy loạn để ngăn chặn việc loạn, thì mới có thể đứng vững chân giữa trời đất. Còn thanh tịnh vô vi thì làm sao có thể đạt đến tình trạng đại trị trong thiên hạ được?
Khưu Xứ Cơ bình tĩnh đáp:
- Ý nghĩ đó Đại Hãn không phải là ý nghĩ đầu tiên đâu. Trong thời chiến quốc, Hàn Phi chủ trương dùng hình pháp để trị tội những người phạm luật hình; Thương trong chủ trương lấy chiến tranh để ngăn chặn chiến tranh. Nước Tần tiến hành một cuộc chiến tranh để tranh đoạt kéo dài cả trăm năm, không thiếu tướng tài dũng sĩ, nhưng cuối cùng vẫn không tránh khỏi được sự thảm bại ở Cự Lộc không tránh khỏi bị thất thủ Hàm Dương. Tại sao vậy?
Thành Cát Tư Hãn ngẩn ngơ, Khưu Xứ Cơ nói tiếp:
- Tần Thủy hoàng đế lấy hình phạt làm biện pháp, lấy những con người như Triệu Cao, Lý Tư làm cây gậy. Nhưng cuối cùng vẫn không tránh khỏi cái họa nước mất nhà tan, cái họa sụp đổ tan tành. Qua đó đủ thấy việc dùng nghiêm hình và sát phạt là điều không thể tin cậy. Đó là tấm gương mà các triều đại ở Trung Nguyên đã để lại. Cho nên có người nói khi cai trị càng phiền phức chi li, thì thiên hạ càng loạn, pháp luật càng gắt gao thì kẻ gian xuất hiện càng nhiều, quân đội càng đông thì kẻ thù càng lắm. Nước Tần sở dĩ bị diệt vong là do biện pháp thống trị của họ quá ư tàn bạo, việc dùng hình phạt của họ quá nghiêm khắc, quá nặng nề.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Những việc mà ngài vừa nói tôi chưa từng nghe qua. Vậy, Thần Tiên có thể nói thẳng xem, tôi cần phải làm những gì?
Khưu Xứ Cơ tươi cười nói:
- Đại Hãn lấy việc sát phạt để giành thiên hạ, nhưng không thể lấy việc sát phạt để cai trị thiên hạ. Phải lấy luật hình để trừ cái ác, phải lấy giáo hóa để khuyến khích cái thiện. Đức và Hình phải được dùng song song, Ân và Uy phải được thi hành cùng một lúc, thì thiên hạ mới có thể được yên ổn lâu dài.
Thành Cát suy nghĩ và nói:
- Đức và Hình cùng dùng một lúc, Ân và Uy được dùng song song. Phải chăng Thần Tiên bảo tôi Hình và Uy dùng quá nhiều, còn Đức và Ân lại dùng quá ít chăng?
Khưu Xứ Cơ chỉ mỉm cười chứ không trả lời. Thành Cát Tư Hãn nói tiếp:
- Này ông Râu Dài, phải ghi chép tất cả lời nói của Thần Tiên lại, dùng hai loại văn tự Mông và Hán đối chiếu song song. Tôi phải cất giữ kỹ và phải nghiền ngẫm tới nơi tới chốn.
Gia Luật Sở Tài gật đầu cho là phải.
Khưu Xứ Cơ nói:
- Mười năm binh hỏa, vạn dặm can qua, nay kẻ thù đã bị tiêu diệt, thiên hạ đã được yên ổn, nên người sơn dã này mong muốn Đại Hãn sớm rút quân trở về, để cùng thần dân an hưởng thái bình.
Thành Cát Tư Hãn thở phào, nói:
- Đúng vậy! Tôi chinh chiến suốt cả đời người chính là muốn để cho con cháu và hậu thế được hưởng thái bình, yên ổn. Thưa Thần Tiên, chúng ta sẽ cùng rút trở về một lượt nhé?
Tháng 12 năm 1222. Đại quân của Thành Cát Tư Hãn rút trở về vùng thảo nguyên. Cuộc Tây chinh lần thứ nhất trên cơ bản đã được kết thúc. Chỉ có điều là cánh quân phía bắc của Giã Biệt và Tốc Bất Đài đã bị mất liên lạc. Trong thời điểm đó họ đã tiến vào lãnh thổ của Oát La Tư.
Ngày 28 tháng 12 năm 1222, Thành Cát Tư Hãn đang trên đường rút quân trở về phía Đông.
Khắp nơi nơi băng tuyết phủ dày, mây thấp gió mạnh, bỗng nhiên có tiếng sét đánh rất to. Quân Mông Cổ vội vàng xuống ngựa, quì trên mặt đất, ngước mặt lên bầu trời để khấn vái.
Thành Cát Tư Hãn đang ngồi trong đại trướng trên cỗ xe, muốn bước ra ngoài. Khưu Xứ Cơ hỏi:
- Đại Hãn định làm gì?
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Mùa đông mà có sét đánh chắc chắn là điềm dữ. Tôi muốn đi ra ngoài để xem có ai giặt y phục và phơi phóng không? Vì làm như vậy thì trời cao sẽ giận dữ.
Khưu Xứ Cơ tươi cười nói:
- Xin mời Đại Hãn hãy ngồi trở lại, việc sấm nổ, mưa đá rơi, động đất, nhật thực, gió bão, lũ lụt, sinh lão bệnh tử, hoa nở hoa tàn, v.v... đều có nguyên nhân sâu xa trong cõi minh minh, còn việc giặt giũ phơi phóng quần áo thì trời không bao giờ tức giận đâu!
Thành Cát Tư Hãn nói một cách thành thực:
- Ồ! Chính đạo Tát Mãn đã nói như vậy.
Khưu Xứ Cơ đáp:
- Người ở Trung Nguyên ngày ngày đều giặt giũ phơi phóng y phục, nhưng tại sao trời lại khoan dung họ mà tỏ ra khắc khe ở đây? Chỉ không cho phép người ở vùng thảo nguyên giặt giũ phơi phóng quần áo?
Thành Cát Tư Hãn suy nghĩ một chốc, nói:
- À! lời nói đó đúng lắm. Nếu nói như vậy thì điều khoản ngăn cấm phơi phóng giặt giũ quần áo trong bộ luật Đại Cát Tát Lệnh cần phải thay đổi. Đúng, cần phải thay đổi.
Khưu Xứ Cơ nói:
- Người sơn dã như tôi từng nghe, trong ba nghìn tội lỗi không có tội lỗi nào lớn hơn bất hiếu. Người thảo nguyên thường trọng người khỏe mạnh mà khinh người già nua. Một phần lớn thường bất hiếu với cha mẹ.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Thành Cát Tư Hãn tôi bao giờ cũng tôn trọng người già.
- Bần đạo từ lâu cũng từng biết chuyện đó. Bệ hạ có thể dùng uy đức ngày nay của mình để mở rộng việc răn dạy người trong nước, phải tuân thủ nguyên tắc vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con, bất cứ là việc gì đối với mọi người chỉ có lợi chứ không có hại.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Phải! Tôi nhất định sẽ dùng lời nói của Thần Tiên để Hồ thừa tướng viết vào bộ Đại Trát Tát Lệnh.
Trong khi Thành Cát Tư Hãn dẫn đoàn quân chủ lực của Mông Cổ trở về phía Đông, thì người con trai cả của ông là Truật Xích vẫn còn ở lại vùng đất phong của mình.
Trong các khe núi tại Ngọc Long Kiệt Xích cỏ non xanh rờn khắp mọi nơi, rừng cây sum suê khắp chốn. Truật Xích đuổi theo một con ngựa con khỏe mạnh trong bầy ngựa, rồi tung sợi dây có thòng lọng ra tròng vào cổ của nó.
Người thợ mộc xuất thân là thư sinh thúc ngựa chạy tới, nói:
- Tài quăng dây bắt ngựa của Vương gia ngày càng thành thạo rồi đó!
Truật Xích giật mình quay mặt lại hỏi:
- Là ngươi đấy hả? - Đôi mắt của Truật Xích nhìn về phía xa nói tiếp - Tôi rất nhớ nhà, đại quân đã trở về vùng thảo nguyên, trong khi tôi còn phải ở lại tại vùng đất mặt trời lặn này.
Người thư sinh không nói gì.
Truật Xích ngã người nằm ngửa trên bãi cỏ, đôi mắt lóng lánh ánh lệ nói:
- Tôi rất nhớ mẹ tôi. Tôi thật sự hết sức nhớ bà ấy? - Một lúc lâu Truật Xích lại nói tiếp - Ngươi có biết Phụ Hãn ta không ưa ta không?
Người thư sinh không trả lời.
Truật Xích không để ý tới anh ta, ngồi dậy nói tiếp:
- Ta nhớ lúc ta và các em trai của ta hãy còn rất nhỏ, Phụ Hãn có hỏi lý tưởng của mỗi người sau này thế nào, thì người em trai tốt của ta là Sát Hợp Đài bảo, khi nó lớn nó sẽ làm cho vợ con của kẻ thù phải rơi lệ, đàn ông phải cúi đầu; còn đứa em trai thứ ba của ta còn biết ăn nói hơn, nó bảo sau này sẽ tiếp tục phát huy sự nghiệp của phụ Hãn. Còn nhà ngươi biết ta trả lời ra sao không?
- Không biết, nhưng có thể là một câu trả lời kém nhất chăng?
Truật Xích cười, đáp:
- Kém quá đi chớ! Ta bảo ta thích chăn bò chăn ngựa, thích nhìn thấy ở vùng thung lũng này là một bầy ngựa có màu sắc này và ở một thung lũng khác lại có một bầy ngựa màu sắc khác! - Nói dứt lời thì ông ta phá lên cười, tiếng cười kéo dài đến sau cùng thì nó chuyển thành tiếng nấc, rồi nói tiếp:
- Càng tệ hơn nữa là hiện nay ta không muốn làm Vương gia, không muốn làm quốc vương, không muốn chỉ huy quân đội để đánh giặc, mà ta chỉ muốn trở về bên cạnh mẹ ta để chăn ngựa!
Truật Xích lại nằm xuống.
Người thư sinh nói qua giọng thâm tình:
- Tôi cũng nhớ mẹ tôi. Mẹ tôi sống ở Trung Đô một mình, không biết bây giờ bà còn sống hay không?
Ngày 8 tháng 2 năm 1223, Thành Cát Tư Hãn 61 tuổi và đang trên đường trở về phía Đông.
Thành Cát Tư Hãn, Nạp Nha A, Cáp Tát Nhi cùng truy đuổi theo một con nai rừng trong một cuộc săn bắn. Trong bụi rậm bỗng có một con heo rừng sợ hãi phóng ra, làm cho con chiến mã của Thành Cát Tư Hãn đứng thẳng lên bằng hai chân sau, khiến Thành Cát Tư Hãn suýt nữa bị té ngựa. Nạp Nha A và những người khác vội vàng chạy tới Cáp Tát Nhi bắn ra một mũi tên trúng con heo rừng, những người khác cũng giường cung bắn ra liên tiếp.
Thành Cát Tư Hãn so đầu ngựa đi chầm chậm với Khưu Xứ Cơ, từ trong rừng đi trở ra. Khưu Xứ Cơ nói:
- Vừa rồi thực là nguy hiểm, tuổi của Đại Hãn nay đã cao, không còn thích hợp cho việc đi săn bắn nữa. Vừa rồi Đại Hãn suýt nữa bị té ngựa, đó là một sự cảnh báo của trời; con heo rừng không dám làm hại Đại Hãn là vì có trời che chở cho ngài. Một khi trời đã cảnh báo thì Đại Hãn nhất định phải nghe theo, bằng không thì hối hận sẽ muộn đấy!
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Lời khuyên bảo của Thần Tiên tôi nhất định phải ghi nhớ. Tuy nhiên, việc cưỡi ngựa bắn cung là việc mà người Mông Cổ không thể xa rời được.
Khưu Xứ Cơ định thuyết phục thêm:
- Thưa Đại Hãn...
Thành Cát Tư Hãn tươi cười nói:
- Được rồi! Tôi cố gắng ít cưỡi ngựa hơn là được rồi!
Tháng 3 cùng năm, tại một ngã ba đường, Khưu Xứ Cơ và Thành Cát Tư Hãn cùng tách rời nhau để tiếp tục đi về hướng Đông.
Khưu Xứ Cơ, Gia Luật A Hải và Lý Trí Thường đi theo đoàn xe ngựa đã tách ra. Cứ đi một bước thì họ quay lại nhìn ba lần. Riêng Thành Cát Tư Hãn vẫn đứng yên tại ngã ba đường, cùng nhóm người của Gia Luật Sở Tài đưa tay lên vẫy ngỏ ý tiễn đưa.
Trong khi Thành Cát Tư Hãn tiếp tục đưa tay lên vẫy Khưu Xứ Cơ, thì đôi mắt ông đã lóng lánh ánh lệ. Ông nhìn thấy số người của Khưu Xứ Cơ kẻ lên xe người lên ngựa và tới khi không còn trông thấy được hình dáng của họ nữa ông mới buông tay trở xuống.
Gia Luật Sở Tài lên tiếng nhắc nhở:
- Thôi, chúng ta cũng đi thôi!
Thành Cát Tư Hãn bùi ngùi nói:
- Đi thôi! Đi thôi! Đây là người duy nhất mà suốt mười năm qua đã xem ta là bạn, cũng giống như những người bạn cùng chăn ngựa cùng chăn cừu với ta trước kia. Ông ấy đã sống cạnh ta hơn bảy tháng qua.
Gia Luật Sở Tài nói:
- Đó là điều hiếm có!
- Đúng là hiếm có. Hiếm có vì ông ấy đã dạy cho ta biết biện pháp cai trị quốc gia, giúp cho ta thấy được niềm hy vọng thống nhất đất nước; mà cũng hiếm có vì ông ấy đã làm cho niềm hy vọng trường sinh bất lão của ta hoàn toàn bị dập tắt! Ông ấy đã nói rõ cho ta biết là thời gian mà ta còn sống, không phải quá dài.
Thành Cát Tư Hãn quay lưng bước lên đại trướng được đặt trên cỗ xe, trong lòng chừng như vẫn còn suy nghĩ gì đó. Ông nói lẩm bẩm một mình:
- Phải rồi! Lời nói của Thần Tiên rất hữu lý, ấy là phải "hiếu sinh và ghét sự chém giết". Từ nay về sau tuy trong chiến tranh không thể tránh khỏi phải giết ngươi, nhưng phải tận khả năng không giết người quá nhiều như trước nữa, vì lòng dân là điều quan trọng đó!
Việc Thành Cát Tư Hãn tiếp kiến Trường Xuân Chân Nhân cũng giống như một khúc nhạc đệm chen vào giữa một bản nhạc lớn. Nhưng, những vấn đề mà họ thảo luận đều là những vấn đề trọng đại đối với cái sống và cái chết, cũng như đối với việc cai trị quốc gia. Đời người rất ngắn ngủi, cho nên lại càng phải quí trọng nó. Quốc gia khó cai trị, cho nên càng phải suy nghĩ tìm hiểu sâu xa. Thông qua việc tiếp xúc với Trường Xuân Chân Nhân, Thành Cát Tư Hãn nhận thức được việc tìm phép trường sinh chỉ là một việc làm vô ý nghĩa, nên từ đó ông càng phấn đấu nhiều hơn. Ông cũng nhận thức được sự chính xác trong nguyên tắc "Đức và Uy" phải được dùng cùng một lúc. Trước khi ông sắp sửa từ giã cõi đời, ông từng ra một tờ chiếu thư ngăn cấm việc sát phạt cướp bóc. Tư tưởng và chủ trương của ông có một ảnh hưởng rất to lớn đối với thế hệ con cháu về sau.
Trong khi Thành Cát Tư Hãn nhận được sự gợi mở từ Khưu Xứ Cơ, hiểu được mối quan hệ giữa chiến tranh và sát phạt, thì Giã Biệt và Tốc Bất Đài vẫn còn đang tiếp tục xua quân tiến lên. Cánh quân Tây lộ của Mông Cổ đã chọc thẳng vào vùng đất của người Oát La Tư, chạy dài từ lưu vực sông Dnepr cho tới bờ phía bắc của biển Caspian, đồng thời, đoàn quân đó cũng chọc thẳng tới vùng bán đảo Crimea. Cuối năm 1223, đoàn quân này mới từ lưu vực sông Volga men theo bờ biển phía bắc của biển Anh, kéo trở về phía Đông để gặp gỡ Thành Cát Tư Hãn.
Mùa thu năm 1223, trên đường rút về phía Đông, Thành Cát Tư Hãn đóng quân tại Thiên Trì.
Ba người mặc đồ tang từ xa đi đến cỗ xe đại trướng của Thành Cát Tư Hãn. Đang ngồi trong đại trướng, Thành Cát Tư Hãn thấy thế không khỏi giật mình, hỏi:
- Các người... Các người để tang cho ai vậy? - Thành Cát Tư Hãn lên tiếng hỏi Minh An và một người trẻ tuổi quì ở phía trước.
Người trẻ tuổi òa lên khóc, Minh An nói:
- Đây là con trai của Quốc vương Mộc Hoa Lê. Quốc vương Mộc Hoa Lê đã qua đời rồi!
Thành Cát Tư Hãn sững người. Gia Luật Sở Tài và Nạp Nha A lớn tiếng gọi:
- Bớ Đại Hãn! Bớ đại Hãn!
Thành Cát Tư Hãn từ từ đứng lên, lảo đảo mấy lược. Gia Luật Sở Tài và Nạp Nha A bước tới đỡ lấy ông. Gia Luật Sở Tài hỏi:
- Thưa Đại Hãn, ngài muốn làm gì?
Thành Cát Tư Hãn vẫy tay về phía người tuổi trẻ. Minh An hiểu ý, xô nhẹ người tuổi trẻ, nói:
- Đại Hãn gọi ngươi đó! - Người tuổi trẻ đứng lên bước tới trước.
Thành Cát Tư Hãn nắm lấy tay cậu ta, nói:
- Địch quốc chưa tiêu diệt xong mà đại tướng đã chết rồi, bộ trời cao không phù hộ ta nữa sao? Thành Cát Tư Hãn khóc.
Mọi người đều im lặng. Một lúc lâu sau, Thành Cát Tư Hãn lại hỏi:
- Nhà ngươi hãy nói cho ta biết, phụ thân nhà ngươi khỏe mạnh đến thế, so với ta lại nhỏ hơn mười mấy tuổi, vậy tại sao ông ta chết? Tại sao ông ta có thể chết được?
- Thưa đại Hãn! - Người tuổi trẻ khóc ngất đến nghẹn lời.
Minh An phải tâu thay:
- Thưa Đại Hãn, mấy năm gần đây Quốc vương Mộc Hoa Lê đã cùng các Vạn hộ người Hán lo sắp xếp quân đội và lo chấn chỉnh vùng Trung Nguyên, khiến cho các quận huyện ở phía bắc sông Hoàng Hà đều trở thành lãnh thổ của ta. Đầu năm nay, quân ta lại bao vây tấn công trọng trấn Phượng Tường của triều đình nhà Kim, trong khi sắp sửa hạ được thành này thì Tây Hạ đã tự ý rút quân, khiến việc tấn công bị thất bại. Quốc vương Mộc Hoa Lê vì quá phẫn uất nên đã sinh bệnh mà chết.
Thành Cát Tư Hãn vỗ mạnh bàn tay xuống bàn, nói:
- Lại do Tây Hạ bội ước!
Minh An nói:
- Chẳng những thế, vua Tây Hạ khi thấy Quốc vương Mộc Hoa Lê vừa bệnh chết và nhân lúc Đại Hãn còn bận việc Tây chinh, thì ông ta lại ký minh ước với nước Kim, bí mật liên lạc với các bộ lạc ở vùng thảo nguyên, định đương đầu với Đại Hãn!
Đôi mắt của Thành Cát Tư Hãn rực lên ánh lửa phẫn nộ, nói:
- Vua Tây Hạ! Nhà ngươi sẽ bị trừng phạt!
Mùa hè năm 1224, đoàn quân Tây chinh của Thành Cát Tư Hãn sau năm năm chinh phạt đã trở về đến đại bản doanh tại đồng cỏ Mông Cổ.
Thành Cát Tư Hãn và Hốt Lan phi tay bồng một con mèo Ba Tư từ trên xe đại trướng bước xuống. Bột Nhi Thiếp và Dã Toại phi cùng đông đảo những người khác ra trước doanh trại để nghênh đón. Các thành viên lưu thủ tại đại bản doanh đều nhảy múa ca hát. Họ đã dùng một nghi thức long trọng để đón tiếp người thân từ xa trở về.
Những người thân gặp mặt nhau đều hết sức vui vẻ, nhưng đồng thời đó đây cũng nổi lên những tiếng khóc buồn thảm. Những thân nhân, những sương phụ bị mất người thân, bị mất chồng và những đứa trẻ bị mất cha đều khóc hết sức đau đớn.
Bên trong chiếc lều riêng của Bột Nhi Thiếp, Thành Cát Tư Hãn và Bột Nhi Thiếp ngồi ở ghế giữa. Gia nhân của họ đứng bao quanh hai bên, người nào người nấy đôi mắt đều rươm rướm ánh lệ.
Thành Cát Tư Hãn nhìn qua từng Khuôn mặt của những người thân, hỏi:
- Khi mẫu thân qua đời phải chăng chỉ có một mình Hợp Đáp An ở bên cạnh?
Bột Nhi Thiếp nghẹn ngào đáp:
- Vâng! Nhưng, có điều là mẹ ra đi cũng không đau đớn lắm. Đó chính là cái phúc của mẹ!
Thành Cát Tư Hãn lại hỏi:
- Còn Hợp Đáp An đâu? Tôi cần phải hỏi trước khi mẹ ra đi đã trối lại những gì?
Bột Nhi Thiếp cúi mặt. Thành Cát Tư Hãn hỏi tiếp:
- Còn Hợp Đáp An đâu? Cô ta đâu rồi?
Bột Nhi Thiếp khóc. Thành Cát Tư Hãn giật mình, hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì? - Tam công chúa lên tiếng đáp:
- Trước đây ba tháng, người Tây Hạ ở phía bắc sa mạc có phái người tới đây liên hệ với bá tánh của chúng ta. Họ nhân dịp phụ Hãn còn trên đường Tây chinh chưa trở về, đã mở cuộc tấn công vào doanh trại lưu thủ của chúng ta. Hợp Đáp An cô cô đã bị họ sát hại?
Đôi mắt của Thành Cát Tư Hãn lóng lánh ánh lệ. Ông nghiến chặt hai hàm răng nói:
- Hãy truyền mạng lệnh của ta, bảo Truật Xích và Sát Hợp Đài Quốc vương hãy trở về đồng cỏ để ta triệu tập đại hội Khố Lý Đài, bàn bạc về việc tiêu diệt nước Tây Hạ!
Tại thành Hoa Thích Tử Mô, con trai của Cáp Tát Nhi là Thoát Hổ và anh chàng râu đen cụt mất một tay, bị bọn thân binh chận lại trước đại trướng của Truật Xích.
Con trai của Truật Xích là Bạt Đô từ trong trướng bước ra khỏi:
- Có phải Thoát Hổ thúc thúc đấy không?
Thoát Hổ đáp:
- Này Bạt Đô, Đại Hãn ra lệnh ta từ muôn dặm xa tới đây để nghe ngóng tìm hiểu xem tại sao cha ngươi là Truật Xích Vương gia được hối thúc ba lần mà vẫn không chịu trở về thảo nguyên để tham gia hội nghị Khố Lý Đài, bàn chuyện hai cánh quân Đông-Tây đánh kẹp nước Tây Hạ vậy? Nay bọn thị vệ của phụ thân ngươi lại chận ta không cho vào? Tại sao vậy? Truật Xích đại ca sau khi làm Quốc vương, còn khó gặp mặt hơn cả bác cả là Thành Cát Tư Hãn nữa sao?
Bạt Đô nói:
- Thưa Thoát Hổ thúc thúc, xin chú đừng giận, phụ thân tôi đã ngã bệnh gần một năm qua và mấy ngày gần đây bệnh tình càng xấu. Vậy xin lỗi thúc thúc nên ở lại tạm nghỉ ít hôm, chờ ngày nào tinh thần cha tôi khá hơn một tí, thì nhất định sẽ tiếp kiến thúc thúc đó mà!
- Bộ ta còn được cái vinh hạnh đó sao?
Bạt Đô nói:
- Thưa Thoát Hổ thúc thúc của tôi, mấy hôm nay phụ thân tôi luôn nói sảng và bao giờ cũng nhớ đến chuyện ở đồng cỏ cả. Nay chú tới đây mà ông ấy vẫn chưa thể hỏi thăm gì được với chú.
Thoát Hổ nói:
- Không cần đâu! Dứt lời bèn quay sang nói với anh Râu Đen - Thôi, chúng ta đi về!
Bạt Đô trông thấy họ bước ra khỏi cổng doanh trại, trong lòng hết sức lo âu.
Truật Xích đang nằm bên trong đại trướng của mình, sắc mặt tái mét, cất tiếng chậm chạp hỏi:
- Này Bạt Đô, hình như có ai tới phải không?
- Thưa, đó là con trai của Tam vương Cáp Tát Nhi tức Thoát Hổ thúc thúc.
Truật Xích nhắm hai mắt lại và hai giọt lệ ứa ra hai bên khóe mắt.
Bạt Đô xúc động gọi:
- Thưa phụ vương!
Truật Xích vẫn nhắm hai mắt, nói:
- Đó là do ông nội cảm thấy không an tâm nên mới phái họ tới đây để giám sát cha đó!
Bạt Đô giật mình, hỏi:
- Sao lại như thế được? Cha đâu có làm sai điều gì!
Truật Xích vẫn nhắm đôi mắt, lắc đầu nói:
- Trước khi ta chào đời, bà nội của con bị người Miệt Nhi Xích bắt sống đem về bộ lạc của họ. Đó chính là cái lỗi của cha. Cha còn có một người em trai tốt Sát Hợp Đài, cho nên cái lỗi của cha lại càng thêm nặng!
Bạt Đô lên tiếng khuyên:
- Thưa phụ vương, xin cha đừng nghĩ ngợi nhiều!
Truật Xích mở hai mắt, gượng cười nói:
- Lòng cha đã chết rồi, nhưng may mắn là bản thân cha vẫn chưa chết!
Bạt Đô vừa khóc vừa gọi:
- Phụ vương ơi!
Bên cạnh dòng sông Onon, Thành Cát Tư Hãn ngồi trong đại trướng đặt trên xe với sắc mặt giận dữ, nhìn quanh đội ngũ của các cánh quân đang từ bốn phương tám hướng tập trung về.
Gia Luật Sở Tài đứng bên cạnh khuyên:
- Thưa Đại Hãn, chỉ dựa vào báo cáo của Thoát Hổ vương tử thì vẫn chưa đầy đủ. Muốn kết luận tội danh của Truật Xích Vương gia còn phải có nhiều bằng chứng cụ thể hơn.
Thành Cát Tư Hãn giận dữ nói:
- Chờ đợi những bằng chứng cụ thể hơn nữa, thì Truật Xích đã thôn tính Hãn quốc của Sát Hợp Đài và trở thành Toán Đoan mới của Hoa Thích Tử Mô rồi còn gì?
Lúc bấy giờ Hốt Đô Hợp thúc ngựa chạy đến gần, báo cáo:
- Tôi, Hốt Đô Hợp, Vạn Hộ của các bộ lạc ở trong rừng, dẫn năm nghìn binh mã tới đây chờ lệnh!
- Ta biết rồi!
Thành Cát Tư Hãn trả lời xong thì Hốt Đô Hợp đi trở về đội ngũ. Lúc bấy giờ có mấy cụ già như Đáp Lý Đài, Truật Xích Đài, Trát Hợp Cảm Bất, Tỏa Nhi Hãn Thất Thích, Đức Tiết Thiền, Đáp Diệc Nhi Ngột Tôn, Tháp Tháp Thống A v.v... người nào người nấy đều run run vừa quì xuống. Thành Cát Tư Hãn bước tới trước mấy bước, nói:
- Các vị trưởng bối, các vị lão thành hãy mau đứng lên đi nào. Lần này đứa con bất hiếu của tôi là Truật Xích làm phản, vậy chính tôi xua quân chinh phạt nó là được rồi, đâu cần phải nhọc tới binh mã của các vị!
Đáp Lý Đài nói:
- Thưa Đại Hãn, tôi đến đây là để khuyên ngài đừng xuất chinh.
Truật Xích Đài nói:
- Tôi là người đã nghe tiếng khóc tu oa đầu tiên của thằng bé đó, tuy nó không được thông minh như những con sáo, nhưng cũng không đến đổi là phường ăn thịt thân nhân của mình như những con ngựa trời!
Tỏa Nhi Hãn Thất Thích nói:
- Xin Đại Hãn nể tình gia đình chúng tôi từng che giấu Đại Hãn giữa đống lông cừu, trốn thoát thanh đao sát nhân của Tháp Lý Hốt Đài. Xin ngài hãy nể tình của tôi!
Đức Tiết Thiền cũng nói:
- Ít nhất xin Đại Hãn hãy hoãn lại cuộc xuất chinh mười hôm nữa. Vì thời gian có thể giúp cho người ta bớt cơn giận dữ, mà khi bớt giận dữ thì người ta thường có những quyết định sáng suốt!
Thành Cát Tư Hãn cắt đứt những lời khuyên của các cụ già, nói:
- Các vị hãy chờ một chốc? Đây có phải các vị cùng kéo tới để xin xỏ giúp cho Truật Xích hay không? Có phải Bột Nhi Thiếp xúi bảo các vị làm như thế không? Hay là do Đức Tiết Thiền nhạc phụ của ta?
Đức Tiết Thiền đáp:
- Không phải cô ấy, vì cô ấy đã khóc đến bất tỉnh nhân sự rồi!
Thành Cát Tư Hãn lại hỏi:
- Cô ta đã đẻ ra một thằng con trai hư hỏng như vậy, đó cũng là đáng tội! Thế thì ai đây? Ai xúi bảo các cụ già tới đây xin xỏ, hãy bước ra!
- Thưa, tôi! - Tiếng một người đàn bà vang lên và từ phía sau cỗ xe chở đại trướng, Dã Toại phi bước ra, quì xuống nói:
- Thưa Đại Hãn!
Thành Cát Tư Hãn ngạc nhiên, hỏi:
- Dã Toại ư? Bà làm thế là có ý gì?
Dã Toại đáp:
- Lương tâm của tôi nói cho tôi biết là ngài làm như thế là sai rồi. Trong quyển Đại Cát Tát Lệnh, Đại Hãn từng có một điều khoản bắt buộc mọi người phải kính nể người già, cho nên tôi phải mời tất cả các vị lão thần tới đây để uốn nắn lại sự sai lầm của ngài!
Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Tôi sai lầm ở chỗ nào? Đó là tôi đã sai lầm trong việc sử dụng tình ân sủng của tôi đối với bà! Bà là một người con gái của bộ lạc Tháp Tháp Nhi?
Sát Hợp Đài nãy giờ đứng yên lặng một bên, bèn lên tiếng nói:
- Người Tháp Tháp Nhi và người Miệt Nhi Khất từ trước tới nay chẳng phải lúc nào cũng "trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa", dính chặt với nhau đó sao?
Thành Cát Tư Hãn giận dữ, nói:
- Này Sát Hợp Đài, chưa phải lúc ngươi nhục mạ mẫu phi của nhà ngươi!
Sát Hợp Đài lui ra sau. Thành Cát Tư Hãn quay sang Nạp Nha A nói:
- Này Nạp Nha A, hãy đem người con gái này giam lại, kẻo bà ta làm dao động tinh thần của quân đội sắp xuất chinh vào ngày mai!
Đà Lôi liền bước ra nói:
- Thưa Phụ Hãn! - Ông ta quì xuống đất nói tiếp - Bạt Đô vừa tới báo tang, đại ca đã bệnh chết rồi!
Thành Cát Tư Hãn đưa tay ra chụp lấy Đà Lôi, gục đầu xuống, trong khi không nói được một tiếng nào.
Mọi người đồng thanh gọi:
- Bớ Đại Hãn!
- Bớ Phụ Hãn!
- Bớ gia gia!
- Hãy mau đi mời Gia Luật Sở Tài tiên sinh tới!
Cuộc viễn chinh trong một bầu không khí nặng nề đã bắt đầu.
Một đám đông gồm Sát Hợp đài, Oa Khoát Đài, Đà Lôi, Thoát Hổ, Bạt Đô, Cổ Do Cách, Mạnh Khắc, Đô Oa (con của Sát Hợp Đài), Cáp Tát Nhi, Biệt Lặc Cổ Đài, Thiết Mộc Cách, Hồ Thừa Tướng, Bác Nhi Truật, Dã Lặc Miệt, Giã Miệt, Tốc Bất Đài, Gia Luật Sở Tài, Quách Bảo Ngọc, Gia Luật A Hải, Gia Luật Bất Hoa, v. v... với sắc mặt lạnh lùng, đang cưỡi ngựa đi ở phía trước cỗ xe bò chở đại trướng. Gió thổi cờ phướn giũ nghe phành phạch, trở thành một thứ âm thanh đơn điệu duy nhất.
Trong đại trướng đặt trên cỗ xe, Dã Toại phi đi theo cuộc viễn chinh đang ngồi hầu Thành Cát Tư Hãn. Những thức ăn nước uống để sẵn trên mặt bàn vẫn không hề được đụng tới.
Mùa thu năm 1225, Thành Cát Tư Hãn vừa bị mất đi người con trai lớn là Truật Xích, người con trai mà suýt nữa bị ông ra quân chinh phạt, thì nay ông lại mở một cuộc viễn chinh mới. Thành Cát Tư Hãn đã trút tất cả những sự bi thương tích chứa trong lòng lên đầu vua Tây Hạ. Ông không cho phép bất cứ ai ngăn chặn cuộc xuất chinh cuối cùng này của ông.
Dã Toại phi bước ra ngoài đại trướng, nói:
- Này tướng quân Nạp Nha A, Đại Hãn có lệnh, nhờ ông báo cho trung quân biết, là hạ trại ngay tại đây để Đại Hãn đi săn.
Nạp Nha A đáp:
- Thưa vâng!
Thật ra mọi người đã nghe được lệnh truyền, nên không cần Nạp Nha A tướng quân ra lệnh, họ đã dừng chân đứng cả lại. Thành Cát Tư Hãn bước ra khỏi đại trướng, đưa mắt nhìn vùng thảo nguyên mênh mông với ánh mắt tràn ngập sự buồn bã lo âu. Gia Luật Sở Tài bước tới nói:
- Thưa Đại Hãn, bộ ngài quên lời khuyên của Trường Xuân Chân Nhân vừa qua rồi chăng? Tuổi ngài đã cao, không còn thích hợp với việc đi săn bắn nữa!
Thành Cát Tư Hãn không trả lời, chỉ ra lệnh:
- Hãy dẫn con ngựa của ta tới đây!
Thành Cát Tư Hãn đang đuổi theo mấy con ngựa rừng. Các Vương, các hoàng tử, các tướng lãnh chia thành hai cánh để bao vây bầy ngựa. Thành Cát Tư Hãn vừa phấn khởi thúc ngựa chạy như bay vừa la to để động viên đám đông. Mồ hôi và những sự phiền muộn trong lòng nhờ đó mà toát ra hết.
Dã Toại Phi và Gia Luật Sở Tài cùng đứng trên xe chở đại trướng.
Họ đưa mắt theo dõi số người săn bắn đang phi ngựa đuổi theo con mồi. Cả hai đều có vẻ lo lắng. Gia Luật Sở Tài nói:
- Bà nên giúp đỡ tôi khuyên ông ấy, ngăn cản ông ấy!
Dã Toại phi đáp:
- Để cho ông ấy được hoạt động như vầy có lẽ tốt hơn, vì suốt mấy hôm qua ông ấy luôn luôn ngồi im lặng, một sự im lặng làm cho người chung quanh đều phải sợ.
Bỗng Gia Luật Sở Tài kêu rú lên:
- Kìa! Nguy quá!
Tại địa điểm săn bắn, có một bầy ngựa rừng bất ngờ cùng xông về phía Thành Cát Tư Hãn. Con ngựa của Thành Cát Tư Hãn đứng thẳng lên bằng hai chân sau và đã quật ngã Thành Cát Tư Hãn xuống đất.
Trong đại trướng, mọi người đều quan tâm theo dõi Gia Luật Sở Tài đang bắt mạch cho Thành Cát Tư Hãn vẫn còn đang hôn mê.
Thành Cát Tư Hãn bắt đầu nói sảng:
- Bột Nhi Thiếp ơi! Ta thật có lỗi với bà! Truật Xích là đứa con trai tốt của chúng ta! Dòng máu chảy trong người của nó chính là dòng máu của ta; nó là người có dũng khí, có năng lực như ta và cũng giống như ta nó thiếu hẳn sự chất phác và sự lương thiện. Ta đã trách lầm nó và cũng trách lầm bà nữa. Vậy xin các người chớ nên ghi nhớ điều đó mà ghét ta. Nay ta đã là một cụ già, không còn sống được bao lâu nữa rồi!
Sát Hợp Đài và Thoát Hổ đều cúi đầu và bước lui ra sau.
Thành Cát Tư Hãn lại nói:
- Ta không cho phép bất cứ ai bỏ đi! Hãy tìm cho ra một kẻ xấu đã loan truyền những điều không đúng sự thật. Ta phải băm nát thi thể của nó ra thành muôn đoạn!
Dã Toại phi nói khẽ với mọi người chung quanh.
- Xin các vị hãy rời đi.
Đêm đến, Dã Toại phi, Gia Luật Sở Tài và mấy thị nữ luôn túc trực bên cạnh để hầu hạ Thành Cát Tư Hãn. Giã Toại phi đút cho Thành Cát Tư Hãn uống một thang thuốc. Thành Cát Tư Hãn hỏi:
- Này ông râu dài, ông hãy nói thật đi! Tôi có sao không?
Gia Luật Sở Tài đáp:
- Nếu chịu an tâm tịnh dưỡng thì Đại Hãn sẽ bình phục như trước.
Thành Cát Tư Hãn ngượng cười, nói:
- Cũng lại an tâm, cũng lại tịnh dưỡng!
Dã Toại phi nói:
- Thưa Đại Hãn, ngày mai này nên rút quân trở về thảo nguyên nhé
- Hả?! - Thành Cát Tư Hãn lộ sắc không vui, nói tiếp - Bà đừng tưởng tôi đã ra lệnh nhốt bà một cách sai lầm qua việc Truật Xích, nên bà ỷ mình đúng mà không còn biết sợ ai!
Dã Toại phi cố ngăn dòng lệ, quỳ xuống nói:
- Nếu thế thì hãy dựa vào qui định của Đại Hãn, ngày mai này triệu tập đại hội Khố Lý Đài, để các Vương và các Na Nhan cùng chung quyết định vậy! - Thành Cát Tư Hãn định gắng sức ngồi lên, trong khi Dã Toại phi đang dập đầu đụng đất.
Gia Luật Sở Tài nói:
- Thưa Đại Hãn, xin đừng quên an tâm tịnh dưỡng!
Qua ngày hôm sau, hội nghị Khố Lý Đài tạm thời được cử hành tại đại trướng đặt trên xe. Thành Cát Tư Hãn nằm tựa lưng vào gối, còn Dã Toại phi thì ngồi bên cạnh ông nói với mọi người:
- Ngày hôm qua Đại Hãn đi săn bị té trọng thương, suốt đêm sốt cao không giảm, vậy việc quân ta nên tiến hay nên lui trở về, xin các vị cùng chung thương nghị.
Cáp Tát Nhi lên tiếng trước tiên:
- Tôi chủ trương tạm thời lui quân, bá tánh của Tây Hạ sống tại một địa phương có nhà cửa, có thành quách, vậy họ không thể nhổ lều dời đi như doanh trại của chúng ta ở vùng thảo nguyên. Chờ cho sức khỏe của Hãn huynh được bình phục, chúng ta sẽ cử binh đi thanh toán họ cũng không muộn!
Oa Khoát Đài nói:
- Tôi tán thành chủ trương của Nhị thúc phụ. Sức khỏe của phụ Hãn là vấn đề quan trọng hơn hết!
Nạp Nha A nói:
- Năm nay Đại Hãn đã 64 tuổi rồi, sau mấy năm Tây chinh, Đại Hãn đã chịu sương gió khổ nhọc nhiều rồi, vậy phải có một thời gian nghỉ ngơi mới được!
Dã Lặc Miệt nói:
- Chỉ vì nước Tây Hạ đó ư? Vậy thì không cần phải nhọc sức Đại Hãn thân chinh. Ngài hãy lui về thảo nguyên nghỉ ngơi, để tôi và Giã Biệt, Tốc Bất Đài, Bát Nhi Truật đi chinh phạt họ. Cuộc chinh phạt này chỉ đơn giản như thải dây bắt ngựa mà thôi. Vậy xin ngài nên trở về đồng cỏ Mông Cổ nghỉ ngơi là hơn!
Dã Toại phi nói:
- Thưa Đại Hãn, tất cả mọi người đều khuyên ngài nên rút quân trở về đó!
Thành Cát Tư Hãn cố chỏi tay ngồi dậy, nói:
- Không! Bắt đầu từ 44 năm trở về trước, hơn mấy chục trận đánh lớn nhỏ để chinh phục người Miệt Nhi Khất, chưa bao giờ ta rút quân khi chưa lập được chiến công. Vua Tây Hạ vốn tưởng ta không còn đủ sức mạnh để đánh họ, vậy nay ta giữa đường rút quân, họ sẽ cười chê ta là sợ họ?
Gia Luật Sở Tài nói:
- Người đại trượng phu không so đo hơn thua trong nhất thời!
Oa Khoát Đài quỳ xuống, nói:
- Thưa phụ Hãn!
Cáp Tát Nhi và những người khác cũng quỳ xuống, nói:
- Thưa Hãn huynh!
Những tướng lãnh có mặt cũng quỳ xuống:
- Thưa Đại Hãn!
Thành Cát Tư Hãn nghiến chặt hai hàm răng nói;
- Được! Được! Được! Các ngươi hãy đứng lên đi, dù có rút quân cũng không thể để cho Tây Hạ được dịp lên mặt! Ta có thể đóng quân tại đây, rồi phái sứ thần đến Tây Hạ buộc họ phải đầu hàng.
Vua Tây Hạ không chịu đưa tay đầu hàng như Thành Cát Tư Hãn mong muốn. Trái lại, ông ta nói với sứ thần của ông ta phái đi:
- Đối với người Mông Cổ hung dữ như cọp như sói đó, thì không thể có chuyện giảng hòa!
Thế là một cuộc chiến tranh kéo dài một năm rưởi, cuối cùng đã bùng nổ!
Tốc Bất Đài, Bột Lỗ chỉ huy đoàn quân Tây lộ vừa mới trở về tới nơi, ồ ạt tiến về hướng thành Sa Châu...
Dưới núi Hạ Lan, Thành Cát Tư Hãn tay cầm mã tấu đứng dưới lá cờ Thốc Hắc để chỉ huy toàn quân. Nạp Nha A, Bát Nhĩ Truật, Dã Lặc Miệt cùng xua quân chọc thẳng vào đại doanh của Tây Hạ...
Tháng sáu năm 1227, Thành Cát Tư Hãn đã 66 tuổi, đang cùng các tướng lãnh thuộc Trung quân trú đóng tại chân núi Hạ Lan.
Thành Cát Tư Hãn nằm dưới gốc một cây cổ thụ để hóng mát. Dã Toại phi cầm quạt quạt nhẹ cho ông. Khắp các nơi ở chung quanh đều có Khiếp Thiết Quân canh phòng. Nạp Nha A từ dưới chân núi phi ngựa chạy nhanh lên, vừa thở hào hển vừa báo cáo:
- Thưa Đại Hãn, vua Tây Hạ đã chịu đầu hàng rồi!
Thành Cát Tư Hãn đứng lên, lảo đảo mấy lược, Dã Toại phi vội vàng bước tới đỡ ông. Thành Cát Tư Hãn nói:
- Nhanh lên! Hãy trở lại tiền tuyến gọi Oa Khoát Đài, Đà Lôi đến núi Hạ Lan.
Thành Cát Tư Hãn đã đến huyện Thanh Thủy.
Một đêm nọ, tại gian phòng chính của quan phủ, Thành Cát Tư Hãn ngồi trên giường bệnh, còn Dã Toại phi đang dùng khăn tay chặm những giọt mồ hôi rướm ra trên trán ông.
Thành Cát Tư Hãn dùng một giọng nói bình thản, nói với Oa Khoát Đài, Đà Lôi, Cáp Sát Nhi, Biệt Lập Cổ Đài, Thiết Mộc Cách, Hồ thừa tướng về vấn đề sắp xếp mọi việc sau này. Gia Luật Sở Tài ngồi làm thư ký ghi chép.
Thành Cát Tư Hãn bình tĩnh nói:
- Ta biết trời cao sắp gọi ta trở về, vậy có mấy công việc ta cần phải giải quyết cho rõ ràng.
- Thưa phụ Hãn!
- Thưa Hãn huynh
- Thưa Đại Hãn!
Tất cả mọi người có mặt đều quỳ xuống. Thành Cát Tư Hãn đưa cánh tay yếu đuối lên khoát qua:
- Tất cả hãy đứng dậy, trước khi ta trút hơi thở cuối cùng, thì ta phải nói cho rõ mọi việc. Việc thứ nhất cũng như các cụ già thường kể, trước kia có hai con rắn, một con chỉ có một đầu và con kia lại có tới chín đầu khác nhau.
Một đêm nọ trời bổng trở rét, nước đóng thành băng, con rắn một đầu nhanh nhẹn chui vào hang nên đã bảo toàn được tính mệnh. Riêng con rắn nhiều đầu thì một đầu muốn đi về hướng đông, một đầu muốn đi về hướng tây, một đầu muốn đi về hướng nam, một đầu muốn đi về hướng bắc, nên rốt cục không thể chui vào một cái hang nào cả và nó đã bị lạnh cóng mà chết.
Nay ta để lại chỉ có một ngôi báu cho một đứa con trai và ta đã trao nó cho Oa Khoát Đài rồi. Vậy nước Đại Mông Cổ trong tương lai, phải dựa vào tài trí mưu lược và lòng dũng cảm của nó.
Nó là cái đầu của các ngươi. Vậy bây giờ tất cả các ngươi phải tỏ lòng phục tùng nó qua một bản văn tự rõ ràng!
Dã Toại phi lấy bút giấy để ra trước mắt mọi người. Đà Lôi liền viết thành một bản văn tự.
Thành Cát Tư Hãn thở mệt nhọc một lúc, rồi có vẻ tức giận nói:
- Sát Hợp Đài lưu thủ ở vùng thảo nguyên, tính tình của nó nóng nảy, vậy tốt nhất cứ để nó tự hành động theo ý của nó. Các ngươi phải nói lại cho nó biết là nó không được phép làm trái với lời trối của ta!
Mọi người đều đồng thanh khẽ đáp:
- Thưa vâng!
Giọng nói của Thành Cát Tư Hãn tỏ ra ôn hòa hơn:
- Hãy trải bản đồ ra đây cho ta.
Dã Toại phi trải bản đồ ra trước mặt mọi người. Thành Cát Tư Hãn nói:
- Chuyện thứ hai là phương lược để tiêu diệt nước Kim. Quân đội tinh nhuệ của nước Kim Sơn đang đóng giữ tại Đồng Quan và ở phía nam thì đóng giữ tại Liên Sơn, còn ở phía bắc họ dựa vào dòng sông Hoàng Hà là nơi dễ thủ khó đánh, để mà ngăn chặn ta. Giữa nước Tống và nước Kim là hai kẻ thù truyền kiếp, vậy ta phải áp dụng sách lược giữ sự hòa hiếu đối với nước xa để mở cuộc tấn công nước gần. Ta nên mượn đường của nước Tống để từ sau lưng đánh chiếm Đại Lương thì Đồng Quan tự nhiên sẽ bị tan rã. Chúng ta có thể cướp lại áo mão của tổ tiên ta là Yểm Ba Hài Hãn mà họ cất giữ tại đó mang về!
Thành Cát Tư Hãn ho một tràng dài. Gia Luật Sở Tài vội vàng trao cho ông ta một viên thuốc. Dã Toại phi bưng nước đến để Thành Cát Tư Hãn uống viên thuốc, nói:
- Xin ngài nghỉ ngơi một chút đã!
Thành Cát Tư Hãn đưa tay lên chùi hai giọt nước mắt rướm ra vì ho, nói:
- Không! Thời gian không còn nhiều nữa. Còn vấn đề thứ ba là phương lược để tiêu diệt Tây Hạ.
Oa Khoát Đài hỏi:
- Tây Hạ đã chịu đầu hàng rồi kia mà?
- Không! Bọn họ chỉ hứa là sẽ đầu hàng - Thành Cát Tư Hãn nói tiếp - Đừng bao giờ quên vua Tây Hạ là một người phản phúc vô thường. Bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ rút dần về phía bắc, vì ta lúc nào cũng muốn được chết trên quê hương đất tổ của mình. Nhưng, nếu trời cao bắt ta phải chết dọc đường, thì các ngươi cũng chớ nên phát tang, chớ nên để cho kẻ thù biết tin là ta đã chết. Chờ cho vua Tây Hạ theo đúng thời giờ qui định kéo tới đầu hàng, thì các ngươi chớ nên tha cho chúng trở về mà phải tiêu diệt toàn bộ chúng để trừ hậu họa!
Mọi người đều lên tiếng hứa:
- Thưa vâng!
Trên đường triệt thoái, đại quân của Mông Cổ đã chậm chạp di chuyển về hướng bắc. Đoàn quân đang tiếp tục đi thì cỗ xe đại trướng bỗng dừng lại. Sau đó, tất cả quân đội cũng dừng lại.
Trong đại trướng, số người đang lắng nghe di chúc như Gia Luật Sở Tài, Nạp Nha A đang ngồi bên cạnh Thành Cát Tư Hãn cùng cất tiếng gọi. Thành Cát Tư Hãn từ từ mở mắt ra, gượng cười nói:
- Ta vừa nằm mộng thấy phụ thân ta là Dã Tốc Cai, mẹ ta là Kha Ngạch Luân, em gái ta là Thiết Mộc Luân, em trai ta là Hợp Xích Ôn tất cả họ đều đón ta một cách thân mật. Ngoài ra, ta còn trông thấy Bác Nhi Hốt và Mộc Hoa Lê nữa. Phải rồi, ta thấy có cả cháu ta là Mộc A Thốc Can và thấy cả ngươi lão bộc không còn răng là Khoát A Hắc Thần - ông không cười nữa, nói tiếp - Chỉ có hai mẹ con Bột Nhi Thiếp, Truật Xích và người ca ca của Biệt Lặc Cổ Đài là Biệt Cách Thiếp Nhi trước đây đã bị ta và Cáp Tát Nhi bắn chết, là vẫn buồn bã không vui. Riêng Hợp Đáp An thì đứng cách ta rất xa, ta gọi nàng mà nàng không nghe thấy. Phải rồi, trong kiếp sống của ta đối với kẻ thù mà ta từng đánh họ, cũng như đối với việc làm đúng và những việc làm sai, ta đều không còn nhớ rõ nữa; đối với người thân, ta biết được là ta còn thiếu nợ về mặt tình cảm đối với bốn người nói trên. Vậy về sau dần dần rồi sẽ tính vậy!
Mọi người đều khóc.
Thành Cát Tư Hãn vẫy tay về phía Gia Luật Sở Tài. Gia Luật Sở Tài liền bước đến gần ông. Thành Cát Tư Hãn ra hiệu cho mọi người im tiếng khóc, nói:
- Này Oa Khoát Đài, Gia Luật Sở Tài là một người trị nước mà ta để lại cho ngươi, là một bậc nhân tài thuộc hàng lương đống!
Oa Khoát Đài vừa khóc vừa nói:
- Con đã nhớ rồi!
- À, thế là tốt, thế là tốt, tất cả đều là tốt! - Thành Cát Tư Hãn mỉm cười và nhắm mắt, cuối cùng ông cũng khép kín miệng lại.
Gia Luật Sở Tài đưa bàn tay lên để thử hơi thở của ông, nói:
- Bây giờ có thể tiếp tục đi rồi!
Đại quân từ từ di động. Mọi người chỉ chảy nước mắt chứ không còn nghe tiếng khóc. Thành Cát Tư Hãn nằm im lặng trên xe. Còn Dã Toại phi thì gục đầu lên người của Thành Cát Tư Hãn.
Ngày 25 tháng 8 năm 1227, Thành Cát Tư Hãn qua đời tại huyện Thanh Thủy dưới chân núi Hạ Lan, hưởng thọ 66 tuổi.
Sau khi ông chết, những người con trai và các tướng lãnh đều tuân theo lời trối của ông, chờ khi vua tôi Tây Hạ tới đầu hàng, liền tiêu diệt ngay Tây Hạ.
Tại vùng thảo nguyên nơi đầu nguồn ba con sông tiếng nhạc tang vang rền.
Thành Cát Tư Hãn nằm thẳng người trong cổ quan tài bằng cây sên. Tam Công Chúa, Dã Toại phi, Dã Tốc Can phi và Hốt Lan phi lần lượt đặt chung quanh người ông những dụng cụ thường dùng hằng ngày như đá đánh lửa, dao nhỏ, chén ăn cơm bằng vàng, cung tên.
Phân nửa phần trên của cổ quan tài đã khép lại. Cổ quan tài được quấn bằng ba sợi dây vàng.
Linh xa đã xuất phát, bám sát theo sau là bốn chục mỹ nữ tuẫn táng ăn mặc y phục xinh đẹp, vàng ngọc rực rỡ, các vương và các công chúa đều khóc trên đường đưa tang. Các tướng sĩ cùng hát những bài ca bi tráng như Xuất Chinh Ca và Tô Lỗ Đỉnh Ca.
Tại một chiếc hố sâu và to, được đặt cổ quan tài của Thành Cát Tư Hãn xuống chính giữa, ở chung quanh là một con ngựa quí và bốn chục mỹ nữ tuẫn táng. Đà Lôi rưới rượu xuống hố. Mọi người đều dập đầu lạy.
Một ngôi mộ rất to đắp bằng đất. Sau đó là hằng vạn con ngựa cùng ồ ạt chạy qua, giẫm lên nấm mộ đất. Hàng vạn con ngựa đó quay trở về giẫm lên nấm mộ đất một lần nữa. Nấm mộ đã hoàn toàn bằng phẳng như mặt đất chung quanh. Một con dao nhọn đâm chết một con lạc đà con trước mặt mẹ nó. Một cây tên được cấm xuống mặt đất có cỏ mọc.
Đó là một lễ tang rất đặc thù, mai táng một nhân vật đặc thù trong lịch sử thế giới. Ông không để lại một lăng tẩm và những chiếc đỉnh bằng đồng, mà chỉ có một khu vực rộng ba chục dặm được cấm vô số mũi tên bao quanh và được phái binh sĩ đông đảo ngày đêm đứng gác. Nơi đó trở thành một vùng đất cấm. Vào ngày 17 tháng 3 năm sau, người ta dẫn con lạc đà mẹ đến để đánh hơi mùi máu của con nó, xác định đó là nơi chôn cất của Thành Cát Tư Hãn. Người ta bắt đầu tiến hành nghi lễ cúng tế tại đó. Do thời gian đã trôi qua hơn bảy trăm năm, ngôi mộ không còn ai biết rõ vị trí của nó nữa. Nhưng, sự phấn đấu không ngừng, hùng tài đại lược của con người được xem là "vĩ nhân nghìn năm" từng xua hằng vạn quân đội đi chinh phục thế giới thì luôn luôn được dân tộc Trung Hoa và đông đảo các nước trên thế giới, quan tâm đến. Chính do sự phấn đấu không ngừng của ông, do sự liên tục chống trả của ông, mới giúp cho vùng thảo nguyên Mông cổ đang tồn tại không biết bao nhiêu là bộ lạc, thực hiện được sự thống nhất; mới có thể bước đầu kết thúc được cục diện cát cứ ở vùng phía bắc nước Trung Quốc, từ đó tạo điều kiện cơ bản cho Hốt Tất Liệt thống nhất được cả nước Trung Quốc lần thứ tư sau này.
Đối với việc đánh giá một cách khoa học công và tội nghìn năm của nhân vật vĩ đại này, đó là trách nhiệm của các nhà sử học. Riêng chúng tôi chỉ muốn giới thiệu đến đọc giả một Thành Cát Tư Hãn, một Con Cưng Của Trời bằng xương bằng thịt giống như mọi người, có đủ thất tình lục dục và bao gồm cả sự cao thượng lẫn sự tầm thường, sự anh minh lẫn sự sai sót, sự thành công lẫn sự đáng tiếc trong một con người!
Dịch xong tại TP Hồ Chí Minh
Ngày 16 tháng 1 năm 2002
Thành Cát Tư Hãn Thành Cát Tư Hãn - Du Trí Tiên & Chu Diệu Đình Thành Cát Tư Hãn