Far more seemly were it for thee to have thy study full of books, than thy purse full of money.

John Lyly

 
 
 
 
 
Thể loại: Kinh Dị
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 157 - chưa đầy đủ
Phí download: 11 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2977 / 39
Cập nhật: 2020-11-28 08:54:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Pn4: Đao Đăng (Tứ)
ôi nhanh chóng mặc thêm quần áo, theo Bạch Dực và Lục tử rời khỏi phòng. Phía trước đã thấy Daiwa đang chạy đến, đâm thẳng vào Lục tử, cả hai người đều bị bật ra. Mắt Daiwa đỏ hoe, miệng nhắc đến thứ gì đó, liều mạng chạy ra ngoài. Tôi và Bạch Dực vội túm lấy, anh ta vốn có sức vóc, giờ đang nổi điên cứ như bò rừng trên TV, má phải của tôi cũng bị tay anh ta hung hãn đấm một cái.
Bạch Dực nhanh chóng vọt ra sau, khóa cổ tay. Bỗng nghe rắc một tiếng, Daiwa oai oái kêu đau loạn cả lên. Ngay khoảnh khắc anh ta đang chững lại vì đau, Bạch Dực liền đấm mạnh vào bụng anh ta một cú. Chỉ thấy hai tròng mắt của Daiwa giãn ra, tiếp theo cả người bị Bạch Dực túm lấy lôi ngay vào phòng.
Chỉ thấy đám đông vây quanh đang trợn mắt há mồm, tôi nhanh chóng kéo Lục Tử vào trong, tiện tay khóa cửa lại.
Lục Tử bị đâm cũng không nhẹ, mũi đã chảy máu. Cậu ta vừa mắng vừa xoa mũi, nói: "Mẹ nó, điên rồi, lớn tướng như thế chẳng hiểu sao lại phát cơn."
Bạch Dực và tôi trói Daiwa vào ghế như cột bánh chưng. Anh ta giẫy giụa gào thét loạn cả lên, xem ra anh ta cứ như vậy mãi, không chừng sẽ kéo cảnh sát đến đây mất. Quả nhiên lập tức nghe được tiếng gõ cửa. Tôi nhanh chóng mở ra, chủ nhà trọ nói: "Các người làm gì mà cửa sổ trên tường đều vỡ nát."
Tôi móc từ trong túi ra hơn trăm đồng nói: "Không việc gì đâu, lần đầu đến Tạng Bắc, lòng quá xúc động nên bạn tôi quá chén, say không kiềm được. Tiền cửa sổ chúng tôi sẽ bồi thường, cũng sẽ vỗ về anh ta."
Ông chủ liếc Daiwa một cái, sau đó kéo tôi ra lén lút hỏi: "Các cậu đều đã gặp Sowang rồi?"
Tôi vừa nghe ông nhắc đến Sowang liền ý thức được bệnh điên của Daiwa có liên quan đến hắn vội vàng mời ông chủ vào phòng. Nhưng dù thế nào ông ta cũng không chịu vào, chỉ đứng ngay cửa nói: "Tiền đó tôi không lấy, cửa sổ các cậu cũng không cần đền. Mau nhanh đi, tìm một Lạt Ma có pháp lực cao, nếu chậm trễ sẽ không cứu được cậu ta đâu."
Tôi thấy ông không chịu vào phòng, đành xoa xoa tay hỏi: "Xảy ra chuyện gì?"
Ông chủ nói: "Vợ thứ ba của Sowang cũng bị điên giống như cậu ta, giờ không biết ở đâu, đến muốn cứu cũng không có cơ hội. Tiền của Sowang không thể nhận, các cậu không biết sao?"
Tôi lúng túng hỏi: "Tại sao? Còn Sowang tại sao bỗng nhiên lại muốn là Đao Đăng?"
Ông chủ là người tốt, thấy tôi run rẩy liền dẫn tôi vào phòng đưa còn cho tôi một chén rượu nói: "Không biết, cha và anh hắn đều là Đao Đăng, chỉ là trước đây hắn không muốn làm, rồi đến Lhasa buôn bán."
Tôi hỏi: "Đã thế sao còn trở về?"
Ông chủ muốn nói lại thôi, ông nói: "Việc này tôi cũng không rõ lắm. Nơi này không ai dám nghe chuyện về Sowang. Người có hứng thú với quá khứ của hắn đều đã mất, có chết, có trốn. Nghe nói thật ra hắn cũng đã điên, vài lần còn muốn tự tử nhưng Lạt Ma trong chùa nói nếu hắn tự tử sẽ xuống địa ngục. Có lần tôi thấy hắn cầm một con dao đâm vào người mình, nhưng lại không tổn thương những chỗ trọng yếu, cứ ôm vết thương kêu ầm ĩ. Lần đó là tôi gọi giúp người ở sở y tế đến, nếu không chắc giờ cũng đã chết. Các cậu hỏi thăm chuyện của hắn thật ra đã trở thành đồn đãi của thị trấn này. Chúng tôi đều đoán được các cậu sẽ gặp phải chuyện như vậy."
Tôi cảm thấy lưng mình lại ngứa lên, có vài phần khó xử gãi gãi cổ. Tuy ở chung với Daiwa không lâu, nhưng dù sao người trở nên như thế cũng là trách nhiệm của chúng tôi. Tôi hỏi: "Lạt Ma cao tay đang ở đâu?"
Ông chủ cho tôi một địa chỉ, sau đó nói: "Tìm vị Lạt Ma này. Ngài ấy là Lạt Ma giỏi nhất nơi này, pháp lực cũng rất cao cường."
Tôi trở lại phòng, Daiwa có đôi chút khôi phục, nhưng dáng vẻ vẫn vô cùng kinh khủng. Mắt anh ta không thể nào tập trung được, lúc thấy tôi cứ nhìn chằm chằm ra sau lưng, bắt đầu nổi điên rồi tự nói: "Không Hành Mẫu[1], Dakini,...
con sai rồi, con có tội...."
Tôi quay đầu ra sau, nhưng chẳng thấy gì cả.
Bạch Dực hỏi Lục Tử: "Các cậu nhìn thấy gì? Có phải là đại bàng đầu trắng không?"
Lục tử bưng mũi nói: "Không, chẳng thấy gì hết. Tôi chỉ nghe được tiếng sáo, sau đó nghĩ rằng nên đi tìm các người. Vẫn chưa ra khỏi cửa thì tên này bắt đầu phát điên, miệng cứ nói gì đó, các người biết là gì không?"
Bạch Dực nói: "Anh ta gọi chính là một quỷ thần, có thể biết trước được cái chết của người khác. Giống như đại bàng trong thiên táng, đều là sứ giả của thần linh."
Lục tử lắc đầu nói: "Không thấy chim, đến cái lông còn không có."
Tôi đưa cho Bạch Dực tờ giấy nói: "Ông chủ nói chuyện này có liên quan đến chúng ta và Sowang. Sáng sớm nên đi tìm Lạt Ma này, đây cũng do chủ nhà trọ cho, trên đó viết đến tìm một người tên Damu Dorj. Bảo chúng ta nhờ ông ấy giúp."
Bạch Dực cầm lấy tờ giấy nói: "Ngày mai tôi và An Tung đi thử xem, Lục tử cậu ở lại trông chừng Daiwa."
Lục tử nói: "Lỡ anh ta giãy đứt dây thì sao? Các người đều đi hết, một mình tôi sao khống chế được, anh ta chạy mất thì sao?"
Tôi nghĩ một chút rồi nhìn Bạch Dực nói: "Như vậy đi, anh ở lại cùng Lục tử, em đi tìm Lạt Ma, thử xem có thể dẫn ông ấy đến nhà khách này không?"
Bạch Dực miễn cưỡng đồng ý, Lục tử cũng thở dài một hơi. Chúng tôi cố ngủ một chút. Hôm sau, tôi ăn vội vài thứ, uống ít thuốc phòng cảm sốt rồi lên đường.
Đi đường một mình khó nhọc hơn nhiều, địa chỉ ông chủ đưa cho, tôi cũng đã nghe qua. Chính là nơi khá nổi tiếng chùa Damu của Chaquxiang. Hiện nay, đây chính là chùa duy nhất còn lưu giữ bức tường xương khô. Đoạn đường này cũng có tiếng là không dễ đi, không ít người đã chết trên đó.
Tôi chuẩn bị lương khô, ông chủ rất hào phóng, tốt bụng cho tôi một cái bùa hộ mệnh, nói đem theo nó thì có thế đến ngọn núi đó an toàn. Tiếp theo tôi bắt ôtô nói tên ngôi chùa mình muốn đi.
Xe chạy rất chậm, tài xế là một người bản xứ tuổi trung niên, khi lái xe thì rất tập trung. Hành trình khá kinh dị, con đường nằm ngay sát sông Thanlwin, hơn hết chỉ có một lằn xe qua. Nếu không cẩn thận sẽ tan xương nát thịt. Vì thế đến chùa Damu thật sự rất liều mạng, sau này nếu được tôi sẽ không bao giờ mạo hiểm lần thứ hai nữa.
Mười mấy tiếng đồng hồ, ngay cả một ngụm nước tôi cũng không dám uống, thần kinh tập trung cao độ. Theo lý nếu xe cứ chòng chành như vậy tôi chắc chắn sẽ bị say xe, nhưng tinh thần đang căng thẳng tột độ thật không còn quan tâm đến nôn mửa. Vô cùng chăm chú nhìn thẳng vào cửa xe phía trước, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu ra ngoài tự mình cảm nhận vết tích của thời gian.
Cuối cùng xe cũng đến nơi, tài xế dừng lại, mọi người bắt đầu niệm kinh, cảm xúc vô cùng. Còn tôi ngay lúc này chỉ cảm thấy chân mỏi nhừ. Lúc xuống xe được người bạn tốt bụng xách giúp hành lý. Có vài đứa bé đang đùa giỡn trên
con đường nhỏ thông đến chùa Damu chúng tùy tiện cầm lấy tảng đá có lẽ là một đầu lâu rắc bột phấn khắp nơi, hoàn toàn không e sợ gì cả. Tôi bị dọa không biết nói gì với bọn chúng, nên vội tìm người giúp. Cố hỏi một đứa bé không quá "dọa nạt", nhưng chẳng biết năng lực biểu đạt Hán ngữ của tôi có kém quá không, sau cả buổi khoa tay múa chân, nó cũng chỉ nhìn tôi cười. Nụ cười rất tươi nhưng tôi lại càng bất đắc dĩ. Hết cách, tôi đành phải tự thân vận động, chùa Damu không lớn lắm, muốn tìm một Lạt Ma chắc cũng không khó mấy.
Tiếp theo, tôi cuối cùng cũng thấy được bức tường xương khô nổi tiếng. Thật không thể tưởng tượng nổi, cảm giác đầu tiên đập vào mắt là quái đản và kinh khủng. Nhưng khi nhìn lâu, phát hiện những bộ xương đang chen chúc kia đang gợi nên cảm giác mạnh mẽ về cái chết và sự sống. Ranh giới giữa sinh và tử thật quá mong manh. Tôi cảm thấy đây là nơi thánh khiết, cũng là nơi gieo vào hồn mình rất nhiều suy ngẫm. Cảm giác này không thể dùng ngôn từ để diễn tả, càng không hề khủng khiếp mà là một loại trầm tư sâu lắng.
Rốt cuộc tôi cũng tìm được một Lạt Ma. Ngài là một ông lão tuổi rất cao, mặc độc nhất chiếc cà sa đã phai màu, lộ ra một cánh tay trần, nếp nhăn trên mặt như được khắc bằng dao nhỏ, không ngừng đong đưa Mani trong tay. Ngài đang niệm kinh, nên tôi không quấy rối, chỉ đợi ngài chầm chậm mở mắt nhìn đến mình, lúc này tôi mới tiến lên. Ngài nói: "Tashi Delek[2], chàng thanh niên của ta, ánh mắt của con rất đặc biệt, rất kỳ quái, đã khai thiên nhãn nhưng trong đó lại ẩn chứa quá nhiều điều. Rất ít người như con đến đây."
Tôi sửng sốt một chút, vô thức che mắt phải lại, nhìn ngài cười thân thiện, nói: "Không có gì đặc biệt. Xin hỏi có thể tìm đại sư Damu Dorj ở đâu?"
Ngài nhìn tôi mỉm cười nói: "Là ta."
Tôi nói cho ngài biết mục đích mình đến, đem toàn bộ chuyện kể qua một lần.
Ngài nghe xong thì không nói gì, mà đặt tay lên vai tôi. Tôi nhận ra vai mình
không biết từ lúc nào bỗng bay lên một con đại bàng đầu trắng. Nhưng tại sao tôi chẳng hay biết gì cả. Đại bàng đầu trắng kia có vẻ mất hứng, kêu gào vài tiếng rồi bay đi.
Ngài nhìn tôi, ánh mắt vẫn vô cùng an tường như trước, hạ giọng nói: "Con dẫn đến ác quỷ của oán hận. Bất kể chuyện gì đều không thoát khỏi mắt và tâm của Bồ Tát, đất cát không thể che đậy tà niệm trong lòng, lưu giữ tội nghiệt sẽ dẫn đến khổ nạn. Sowang đã không tuân thủ ước định nên chuốc tội. Hắn đã nói cho người khác biết bí mật của mình. Hắn tìm các con, thế nên vận rủi của hắn cũng sẽ đến."
Tôi hỏi: "Ngài biết chuyện của Sowang?"
Ngài cầm một chiếc túi cạnh đó đưa cho tôi, nói: "Cầm đi con trai, có mấy thứ này là đủ rồi, sau đó dẫn bạn của con rời đi. Chuyện của Sowang đừng hỏi thêm gì nữa."
Tôi muốn nói gì đó, nhưng không thể nào tiếp tục được. Tôi thấy mắt của Damu Dorj đang lộ ra sự bi thương sầu khổ. Không biết ngài đang thương cảm đều gì, nhưng tôi có thể cảm nhận được đó là tâm tình bất đắc dĩ.
Tôi gật đầu nhận lấy thứ đó, ngài nói tiếp: "Đây là cầm điển, con có thể tìm đến đây, chứng tỏ Phật gia từ bi, không muốn các con tiếp tục chịu khổ. Con trai về đi."
Tôi thu dọn chào từ biệt ngài, dù sao cũng đã đạt được mục đích, cũng không nên dây vào phiền phức lớn hơn. Damu Dorj lại bắt đầu niệm kinh, âm thanh vô cùng trầm ấm hồn hậu, nghe như tiếng vọng của cao nguyên. Lúc này từ xa xa bay đến một mùi khói nồng đậm rất kỳ quái. Damu Dorj cho tôi biết có người đang tiến hành thiên táng, bọn họ đốt khói của gỗ dâu để mời sứ giả Đại Bàng đến hưởng dụng cống phẩm, đó là thịt của người vừa chết.
Quả nhiên có tiếng chim truyền từ xa đến, bầu trời chậm rãi tụ lại nhiều chấm đen. Ngay lúc tôi xoay người chuẩn bị đi, thì có một tiểu Lạt Ma từ ngoài chạy
đến, cậu ta hở hổn hển, nhìn tôi rồi hét to bằng Tạng ngữ. Damu Dorj bỗng giật mình, thật không ngờ có thể thấy một Lạt Ma như thế lại giật mình, ngài bi thương nói: "Nguy rồi, Sowang nguy rồi!"
Tôi không hiểu ý ngài. Ngài bảo tôi cùng lên đài thiên táng. Nơi đây đều là rlung rta[3], gió lớn thổi bay các lá phướng như vũ điệu điên cuồng của thần linh. Càng đến gần tôi càng ngửi được mùi máu tanh nồng đậm hơn. Kia thật sự không dễ chịu chút nào, trên cỏ còn vương cả vết máu.
Damu Dorj cầm Vajra[4], miệng đọc chú. Tôi theo ngài bước nhanh lên, gần như là chạy trên sườn núi nhỏ. Chúng tôi thấy Sowang đang quỳ trên đá, hắn nhìn lên trời gào thét, khắp thung lũng đều vang vọng tiếng kêu đầy phẫn nộ và tuyệt vọng. Bụng hắn đều là máu, tuy không biết bị thương ra sao nhưng nhìn chỗ máu nhiều quá mức kia cũng đủ giật mình. Một tay hắn ôm bụng, tay kia giơ lên trời như muốn nắm lấy thứ gì. Đại bàng đầu trắng đều quây lấy hắn. Đại bàng đầu trắng không ăn thịt người sống, chỉ dõi theo Sowang dầy đặc, thật giống một đám sứ giả giả đang hành hình tội nhân. Sowang vẫn chưa chết, hắn nhìn lên trời không ngừng gào thét, cuối cùng thì kêu không nổi nữa, ngã nhào xuống tảng đá.
Tôi không biết tại sao Sowang đến đây. Lẽ nào hắn đã điên thật rồi? Tôi cho rằng ưu thương là triệu chứng cuối cùng của căn bệnh, chỉ là tại sao lại phải tìm đến cái chết? Nhưng sau đó tôi lại nghĩ Sowang hoàn toàn không muốn chết, ngược lại hắn có một mâu thuẫn nội sinh rất sâu sắc. Tự bản thân hắn có ý chí sinh tồn cực mạnh, nhưng hành động và tư duy lại vô cùng muốn chết, muốn giải thoát.
Damu Dorj vội vàng đánh đuổi đại bàng đầu trắng quanh đó. Ngài vọt lên, cả người Sowang co quắp lại. Tôi và Damu Dorj đỡ hắn lên vai, toàn thân hắn đều là máu. Tôi cõng hắn xuống núi, cảm thấy tay hắn càng lúc càng lạnh, cùng cái mùi quái dị kia cũng càng nồng đậm hơn. Nhưng thật không ngờ hắn rất giống với một xác chết, không hề có hơi thở gì cả. Tôi quay ra sau, nói: "Cố lên."
Tôi không biết tại sao hắn lại như vậy, tại sao lại nổi điên tự sát. Người Tây Tạng rất kiêng tự sát, cho rằng nếu làm như vậy kiếp sau mình sẽ đầu thai thành súc sinh. Tôi thật không thể hiểu nổi hành động của hắn. Lúc nãy như đang kìm nén phẫn nộ thật lâu, rồi bạo phát toàn bộ lửa giận trong lòng. Toàn bộ không hề giống với ông lão tôi đã gặp đêm nọ. Mà mà đó là sự phẫn nộ của dã thú.
Xung quanh đều là thần điểu có linh tính. Chúng như hiểu được tất cả, nên chỉ vây lấy, một tiếng cũng hề kêu. Tôi cõng Sowang cùng nhau xuống núi, bị một đám đại bàng đầu trắng bắt kịp, gần như đã không thể hiểu nổi chuyện gì, càng không biết nên làm gì.
"Khặc khặc."
Tôi mơ hồ nghe được tiếng cười từ phía sau truyền đến. Tiếng cười đó chính là âm thanh tôi nghe được ở nhà Sowang đêm đó. Một loại âm thanh đầy chết chóc khó nói nên lời. Tôi liếm môi, nghĩ thầm theo sau mình chính là Damu Dorj.
Lại một giọng cười ngoan độc. Đột nhiên tôi phát hiện ngoài tiếng thở dốc của mình thì không hề có âm thanh của người khác. Tôi nhìn lại, phát hiện phía sau chẳng có ai, bốn bên là đồi núi trống không, ngoài càng lúc càng có nhiều đại bàng đầu trắng ra thì tại sao chẳng có ai theo cùng cả?
Tôi dừng lại, gọi Damu Dorj, nhưng không ai đáp lại, lưng tôi cõng thêm một người nên đang thở hổn hển. Trên cao nguyên vốn không thể tiêu phí quá nhiều sức lực, tôi chỉ cảm thấy mình càng lúc càng thiếu dưỡng khí, trời xanh dường như nhỏ dần lại tựa giọt nước. Tôi có ảo giác, nơi này chính là ranh giới giữa sinh và tử. Các tảng đá xung quanh đều được chất đầy kinh văn, những cờ phướng nơi xa xa kia vẫn điên cuồng lay động theo gió.
Tiếng gió thổi, bốn bên đều là tiếng gió thổi, hòa lẫn vào gió còn có tiếng sáo cổ quái. Mãi thật lâu sau tôi mới phát hiện ra âm thanh kia rõ ràng là đang phát ra từ Sowang ở phía sau. Số lượng đại bàng đầu trắng làm da đầu tôi có chút tê
dại. Ánh mắt của bọn chúng hoàn toàn bất thường, trong mắt chúng tôi không hề thấy được sự linh thiêng mà là một loại khát khao, chúng muốn ăn thịt tôi sao? Chúng đang nghĩ tôi là xác chết sao?
Không đúng! Tôi nhận ra ánh mắt chúng không hề hướng về tôi mà là phía sau lưng. Lý nào Sowang đã tắt thở, lý nào.... Tôi không tài nào nghĩ được nữa.
Tôi tất tả co chân chạy về phía trước, trong tay chẳng có thứ gì phòng thủ cả. Chim không tấn công trực tiếp, thậm chí còn không kêu, nhưng nếu xảy ra chuyện, tôi có thể chạy đến đâu được đây? Đến một chỗ tránh nạn còn không có. "Sowang" trên người tôi tỏa ra một mùi hôi không thể diễn tả. Tôi không biết đó là gì, đối với tôi tất cả đều quá xa lạ. Khắp người tôi đều là mùi đó, bọn chim kia có bị mùi này thu hút hay không?
Bỗng tôi nghe có người hét to: "Thả hắn xuống!"
Đầu tôi như bị giật mạnh một cái. Tuy rất thất đức, nhưng tôi đành chọn cách buông tay, sau đó chạy đi. Bỗng nghe bịch một tiếng, Sowang nặng nề ngã nhào xuống đất. Tôi nhìn lại, quả thật là Sowang, cả người vì quá đau đớn nên co quắp lại. Lòng tôi vô cùng xin lỗi, nghĩ thầm Sowang bị tôi quăng ngã như vậy chắc không chết đâu. Tôi lại vội vàng chạy đến muốn dìu hắn ta lên vai. Đột nhiên phát hiện hắn ấy thế lại mỉm cười. Hắn đang nhìn ra sau lưng tôi mỉm cười. Ánh mắt thật giống với đại bàng đầu trắng.
Hắn nói: "Anh đến giúp em, anh ơi. Em chịu không nổi nữa rồi, anh bỏ mặc thì em chết mất thôi."
Tôi đột nhiên phát hiện sau lưng mình vẫn còn thứ gì đang nằm sấp. Vai tôi lại bắt đầu đau, hình như có ai đang bấu lấy nó. Khắp lưng đều ngứa ngáy khó chịu. Sowang bị tôi xô ngã, nhưng phía sau vẫn còn thứ gì đó như trước.
Sowang nhìn ra sau tôi cười điên dại, tiếng cười vô cùng thê lương. Cột sống tôi bắt đầu đóng băng, tay run run phẩy phẩy phía sau, phát hiện tay mình đều là máu. Màu máu bầm đen đầy tanh tưởi.
Sowang bắt đầu cười to đầy điên dại, tôi vội hét lên: "Sau tôi là thứ gì thế?"
Sowang không trả lời tôi, chỉ cười to. Cười hết cả sức lực ngã nhào trên đất không ngừng co quắp. Tôi không thể chờ được liền cắn răng nắm lấy thứ đó ném mạnh ra. Khiến tôi hoảng sợ chính là thứ vừa văng ra là một bộ xương và cái đầu còn sót lại của xác chết. Cái đầu trắng hếu không có tóc, đưa ra gương mặt bị gió hong khô khốc, da như da trâu già. Cái miệng trên đầu không ngờ còn ngậm một cây sáo bằng xương. Âm thanh ma quỷ kia là từ cây sáo này truyền đến. Chỉ xương sống còn gắn với đầu, ở các khúc xương khác còn thấy được những mảnh thịt đỏ tươi.
Thi thể quỷ dị kia dường như còn sống. Nó chậm rãi đến gần Sowang, hắn ta đã không còn sức lực. Lúc này không trung đã tụ lại rất nhiều kền kền, che kín cả góc trời. Đầu lâu cứ lê về phía Sowang, xương sống dính theo sau nó. Sowang chỉ có thể giãy giụa vài cái, sau đó là chết ngất đi. Trên trời đại bàng đầu trọc liên tục vòng quanh phát ra tiếng như đang tập trung lại. Nó bắt đầu kêu to rối loạn, đập cánh liên tục.
Một mình tôi vốn chẳng thể cản nhiều chim như vậy. Dù làm cách nào chúng đều tụ lại quanh người tôi. Số lượng càng lúc càng nhiều, tôi gần như không nhìn thấy mặt đất, sức cùng lực kiệt càng không thể tìm đường chạy trốn.
Đột nhiên nghe được có người hét lên: "Đừng ăn, cậu ta chưa chết. Linh hồn của cậu ta vẫn còn đây, không được ăn."
Tôi thấy Bạch Dực cùng Damu Dorj chạy về phía mình. Không ngờ Bạch Dực lại đến đây, chẳng lẽ Lục tử đã xảy ra chuyện?
Damu Dorj một tay để trần cầm phục ma xử[5], tay kia kéo y phục của Sowang, lớn tiếng niệm chú.
-----------
[1] Nguyên văn tiếng Trung 空行母 (Không Hành Mẫu) Theo Baidu thì:
"Không Hành Mẫu, phiên âm tiếng Phạn là Đồ Cát Ni (荼吉尼 _Dakini) nghĩa là người đi lại giữa không trung. Không Hành Mẫu là một nữ thần, có sức mạnh lớn, có khả năng bay trên không trung nên có tên đó. Trong chuyện Phật giáo Mật Tông Tây Tạng, Không Hành Mẫu là nữ thần biểu thị cho trí tuệ và từ bi." Trong truyện nhân vật cho rối loạn nên vừa gọi tên cả bằng tiếng Trung lẫn tiếng Tạng.
[2] Là lời chào bằng tiếng Tây Tạng, có nghĩa là 'chào mừng', hoặc 'phúc lành cho bạn', 'may mắn cho bạn'
[3] Cờ đón gió của người Tạng.
[4] Nguyên văn tiếng Trung金刚杵(kim cương xử) hoặc Kim cương chử hay chày kim cương (tiếng Phạn: वज्र - vajra) là một trong những biểu tượng quan trọng của Phật giáo và Ấn Độ giáo. Đặc biệt, nó là biểu tượng của Kim cương thừa. Theo ngôn ngữ Tây Tạng thì nó có tên là dorje (Wylie: rdo-rje; ZWPY: dojê ), cũng là một cái tên nam giới ở Tây Tạng và Bhutan. Dorje cũng có nghĩa là một cái vương trượng nhỏ được các vị lạt-ma Tây Tạng cầm ở bên tay phải trong các buổi lễ tôn giáo.
Quỷ Thoại Liên Thiên Quỷ Thoại Liên Thiên - Tiểu Mộc Chi- Ngọc Trong Tâm Quỷ Thoại Liên Thiên