There is a wonder in reading Braille that the sighted will never know: to touch words and have them touch you back.

Jim Fiebig

 
 
 
 
 
Tác giả: Raymond Khoury
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Last Templar
Dịch giả: Lê Trọng Nghĩa
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: phamhoai
Số chương: 90 - chưa đầy đủ
Phí download: 9 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2056 / 39
Cập nhật: 2017-05-22 09:44:48 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 81
ess cứ chạy qua chạy lại giữa phòng nàng và phòng Reilly suốt cả ngày hôm đó, lo lắng nhìn vào và lần nào cũng thấy Eleni ở đó. Bà y tá luôn dịu dàng đưa nàng trở lại giường, và bằng thứ tiếng Anh sai bét nhè, luôn miệng an ủi Tess là Reilly sẽ khỏe trở lại thôi.
Tess đã kể lại với ông bác sĩ và bà vợ câu chuyện khác đi một chút về những biến cố đã đưa đẩy Reilly và nàng đến hòn đảo này, loại bỏ bất kỳ chi tiết nào nhắc đến lý do họ lênh đênh ngoài đó hoặc con tàu vũ trang Thổ Nhĩ Kỳ đã nã súng vào họ. Tess cẩn thận đề cập đến việc còn có những người khác trên chiếc thuyền lặn, đề phòng khi có ai đó được tìm thấy, dù sống hay chết, nhưng Mavromaras buồn bã báo cho nàng biết là dù có vài mảnh vụn, được cho là của chiếc thuyền lặn, trôi dạt vào đảo, nhưng ông ta không nghe nói có người nào khác sống sót, hoặc là tìm thấy những thi thể nào.
Tess đã điện thoại về Arizona, gọi thẳng về nhà dì nàng để gặp Kim và mẹ nàng, bà Eileen, cả hai đều lo lắng vì đã nhiều ngày không có tin tức của nàng. Nỗi ngạc nhiên của họ có thể cảm nhận rất rõ ràng dù đường dây điện thoại bị vọng âm, kêu lạo xạo, khi nghe Tess nói là đang ở trên một hòn đảo nhỏ xíu của Hy Lạp. Tess thận trọng không nói tên hòn đảo, và sau đó nàng tự hỏi vì sao nàng lại phải làm vậy trước khi nhận ra rằng nàng chưa sẵn sàng đối mặt với thế giới bên ngoài và những câu hỏi của nó. Sau khi gác máy, Tess nghĩ nàng đã làm một việc hợp lý nhằm xoa dịu những lo lắng của mẹ nàng và con gái về sự an toàn của mình, Tess nói với họ là chỉ đang tìm kiếmm việc tình cờ trong khu vực này và sẽ sớm liên lạc với họ.
Lúc chạng vạng, hai phụ nữ địa phương xuất hiện tại nhà vị bác sĩ và được dẫn vào phòng Tess. Dù cả hai chỉ lõm bõm được vài câu tiếng Anh, nhưng rốt cuộc Tess cũng hiểu được họ là vợ của những ngư dân đã tìm thấy nàng trên bờ biển. Họ mang đến cho nàng vài bộ quần áo; hai cái quần vải, một cái váy ngủ, hai áo choàng trắng, một áo len đan tay dày dặn mà Tess thích thú mặc vào ngay. Hai người cũng mang đến một cái nồi bằng đất sét chứa đầy món giouvetsi vẫn còn nóng hổi, bà Eleni giải thích đó là món thịt cừu hầm với mì ống. Tess cắm đầu cắm cổ vào món ăn với vẻ biết ơn, và ngạc nhiên khi thấy mình ngốn được cả một đĩa to tướng và cảm thấy món ăn mới này hoàn toàn hợp khẩu vị nàng.
Được một lát, sau khi tắm rửa bằng nước nóng Tess cảm thấy hoàn toàn thoải mái, Mavromaras đã thay băng ở cánh tay cho nàng, vết bầm thâm tím do sợi dây thừng gây ra hiện rõ mồn một trước mắt nàng như thể nó sẽ đồng hành với nàng suốt đời. Rồi sau đó, bất chấp sự phản đối nhẹ nhàng của các vị chủ nhà, Tess ngồi bên cạnh giường Reilly suốt thời gian còn lại đêm đó, mặc dù nàng cảm thấy rất khó nói chuyện với anh theo cái cách mà nàng biết là những người khác vẫn làm đối với người thân đang bị hôn mê của họ. Tess băn khoăn không biết điều này có thực sự giúp được anh hay không, và nàng cũng không chắc là sau những chuyện đã xảy ra, giọng nói của nàng có còn là giọng nói mà Reilly muốn nghe nhất. Tess tự trách bản thân vì những gì cả hai đã trải qua, và mặc dù có quá nhiều chuyện muốn kể lại với Reilly, nhưng nàng chỉ muốn kể khi anh ở trong tình trạng có thể phản ứng lại những gì nàng nói, dù tán thưởng hay không. Tess không muốn ép anh phải nghe nàng lúc anh trong trường hợp tốt nhất, là người nghe bất đắc dĩ, và trường hợp xấu nhất là chẳng nghe thấy gì cả.
Gần nửa đêm, rốt cuộc không thể chống cự lại sự mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần, Tess trở về phòng mình. Nàng ngủ thiếp đi một cách dễ dàng, đầu rúc vào giữa hai chiếc gối bốc mùi ẩm mốc.
Sáng hôm sau, Tess cảm thấy khá khỏe, đủ để mạo hiểm ra khỏi nhà và dạo quanh cho bớt cảm giác tê cứng. Gió vẫn còn thổi mạnh dù mưa đã ngớt, và nàng cảm thấy một cuộc đi dạo ngắn sẽ rất tốt cho mình.
Tess mặc quần áo và nhìn vào phòng Reilly. Eleni đã ở đó nhưng thường lệ, đang nhẹ nhàng xoa bóp hai chân cho anh. Sau đó, Mavromaras xuất hiện để kiểm tra tình hình. Tình trạng của Reilly ổn định, ông ta nói với Tess, nhưng không có tiến triển nào nào đáng kể. Ông bác sĩ giải thích là trong những tình trạng như thế này, sự tiến triển cũng không diễn ra từ từ. Thông thường, sự bình phục thuờng xảy ra rất bất chợt. Reilly sẽ bất tỉnh một khoảng thời gian, và nếu hết bị hôn mê, đơn giản là anh ấy sẽ tỉnh lại, chẳng có bất kỳ triệu chứng tâm sinh lý nào báo trước.
Mavromaras phải đi khám cho một bệnh nhân khác ở bên kia đảo, ông bác sĩ bảo sẽ trở về trong vòng vài giờ đồng hồ. Tess đề nghị tiễn ông ta ra xe.
“Dịch vụ cứu thương hàng không ở Rodos đã gọi tôi sáng nay,” ông ta nói với Tess lúc cả hai bước ra khỏi nhà. “Họ sẽ bay được vào ngày mai.”
Mặc dù trước đây nàng nóng lòng muốn đưa Sean vào một bệnh viện đúng nghĩa, nhưng giờ nàng không còn chắc là mình muốn vậy nữa. “Tôi đã suy nghĩ về những gì ông nói. Ông có thực sự nghĩ là chúng ta cần đưa anh ấy đến đó?”
Nụ cười nhân hậu thoáng hiện trên mặt vị bác sĩ, ông ta trả lời, “Thành thật mà nói, tuỳ nơi cô thôi. Đó là một bệnh viện rất tốt và tôi cũng quen với người phụ trách ở đó, họ sẽ chăm sóc anh ấy cẩn thận, tôi có thể cam đoan với cô như vậy.” Vẻ hoang mang chắc hẳn hiện rõ trên mặt Tess, vì ông ta lại nói tiếp. “Bây giờ chúng ta chưa cần quyết định vội. Hãy chờ xem tình trạng anh ấy sáng nay như thế nào đã, lúc đó chúng ta sẽ quyết định.”
Họ băng qua đường, vòng ra tránh hai vũng nước to tướng, đến bên một chiếc Peugeor cũ kỹ, hơi gỉ sét. Mavromaras mở cửa xe, Tess để ý thấy cửa xe không khoá.
Tess đảo mắt nhìn lên nhìn xuống suốt con phố hẹp. Ngay cả trong lúc trời mây u ám như thế này, thị trấn trông vẫn rất hấp dẫn. Những dãy nhà gọn ghẽ, kiến trúc nửa cổ nửa tân sơn các màu ấm và nhạt nối tiếp nhau, chễm chệ dọc sườn núi dốc đứng xuống tận bến cảng nhỏ bên dưới. Nhiều nhà có đầu hồi hình tam giác, mái ngói đỏ với một phong cách đồng nhất tinh tế, dễ chịu. Nước chảy tràn ngập các rãnh nước hai bên đường, đổ xuống những bậc dốc đứng chia cắt ngọn núi thành nhiều tầng bậc khác nhau. Ở bên trên, bầu trời thâm tím dường như vẫn sẵn sàng một cuộc tấn công ác liệt khác.
“Cơn bão khủng khiếp thật,” Tess nhận xét.
Mavromaras nhìn lên những đám mây, gật đầu. “Khủng khiếp hơn bất cứ cơn bão nào mà người ra còn nhớ được, thậm chí là những người già nhất trong thị trấn. Và đặc biệt là vào thời điểm này trong năm..."
Tess hình dung lại cơn bão đã đánh đắm con tàu Falcon Temple những năm xa xưa đó, rồi gần như tự nói với chính mình, nàng thì thầm, "Một hành động của Thượng đế.”
Ông bác sĩ nhướn mày, vẻ tò mò ngạc nhiên trước lời bình luận. “Có thể. Nhưng nếu cô muốn suy nghĩ theo chiều hướng đó, hãy nghĩ về nó như là một phép lạ thì hơn.”
“Một phép lạ?”
“Tất nhiên. Một phép lạ mà cô và bạn cô bị dạt vào hòn đảo của chúng tôi. Ngoài kia là biển cả bao la. Chỉ cần nhích lên phía Bắc một chút nữa, cô sẽ dạt vào bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ, và trong khu vực đó, chỉ toàn đá và hoàn toàn không có người ở. Tất cả các thị trấn đều nằm ở phía bên kia bán đảo. Nếu xa hơn một chút về phía Nam, cô sẽ trệch khỏi hòn đảo này và lọt vào biển Egé rồi …” Ông ta lại nhướn hàng lông mày, gật gù ra vẻ hiểu biết, bỏ lửng câu nói lại cho nàng tự hoàn thành rồi nhún vai, quẳng túi thuốc vào ghế sau. “Tôi đi đây. Chiều tôi sẽ về.”
Tess không muốn ông bác sĩ bỏ đi ngay lúc đó. Sự hiện diện của ông ta có điều gì đó mang lại cảm giác yên tâm hơn. “Tôi không làm được gì giúp anh ấy sao?”
“Anh bạn cô đang được chăm sóc tốt. Vợ tôi là một y tá tuyệt vời và dù ở đây chẳng có gì giống như những bệnh viện mà cô vốn quen thuộc ở Mỹ, nhưng cứ tin tôi khi tôi bảo với cô là tôi có rất nhiều kinh nghiệm xử lý tất cả các chấn thương. Ngay cả trên những hòn đảo nhỏ như thế này, người ta vẫn bị thương.” Ông ta dừng lại, suy nghĩ một lúc về điều đó trong khi quan sát nàng, rồi nói tiếp, “Cô đã nói chuyện với anh ấy chưa?”
Tess sửng sốt vì câu hỏi, “Nói chuyện với anh ấy?”
“Cô nên làm như vậy. Nói chuyện với anh ấy. Khơi gợi lại những ký ức, truyền cho anh ấy sức mạnh.” Giọng ông bác sĩ gần như giọng của một người cha, rồi ông ta mỉm cười, khẽ lắc đầu. “Hẳn cô nghĩ là cô đã gặp phải một ông lang vườn nào đấy. Nhưng tôi cam đoan với cô không phải vậy. Nhiều công trình nghiên cứu của các bác sĩ nổi tiếng đều ủng hộ ý tưởng đó. Đơn giản là vì anh ấy bị hôn mê không có nghĩa là anh ấy không nghe được. Nó chỉ có nghĩa là anh ấy… chưa thể phản ứng lại.” Ông ta lại dừng lại, đôi mắt ngời lên vẻ hy vọng và sự thông cảm. “Nói chuyện với anh ấy… và nguyện cầu điều tốt lành nhất.”
Tess buột ra một tiếng cười khúc khích rồi nhìn lảng đi đầy buồn bã. “Tôi lại không giỏi làm việc đó lắm.”
Mavromaras không có vẻ như bị thuyết phục. “Bằng cách của riêng mình, dù cô không nhận ra nhưng thực sự cô đang cầu nguyện. Cô cầu nguyện cho anh ấy bằng cách mong ước anh ấy bình phục. Đã có rất nhiều lời nguyện cầu được nói ra vì anh ấy.” Ông bác sĩ chỉ tay về bên kia đường hướng về phía một nhà thờ nhỏ, một số đi ra một số lại đi vào. “Nhiều người trên hòn đảo này kiếm sống nhờ biển cả. Trong cái đêm cơn bão nổi lên, có bốn chiếc thuyền đánh cá đang ở ngoài khơi. Gia đình họ đã cầu nguyện Chúa và Tổng Thiên Thần Michael, thần hộ mạng của những người đi biển, cầu xin họ được trở về bình an và những lời cầu nguyện đó đã được đáp lại. Tất cả cuối cùng đã trở với chúng tôi bình yên vô sự. Bây giờ, đang có thêm nhiều lời cầu nguyện, những lời cầu nguyện cảm tạ. Và những lời nguyện cầu cho bạn cô bình phục.”
“Tất cả mọi người đều cầu nguyện cho sự hồi phục của anh ấy sao?”
Ông bác sĩ gật đầu. “Vâng, tất cả chúng tôi”.
“Nhưng thậm chí ông còn không quen biết anh ấy.”
“Đâu có sao. Biển cả đã đưa anh ấy đến đây với chúng tôi, và bổn phận của chúng tôi là chăm sóc anh ấy khỏe mạnh trở lại để anh ấy có thể tiếp tục cuộc sống của mình.” Ông ta leo vào xe. “Giờ tôi thực sự phải đi rồi.” Và với cái vẫy tay khẽ và cái nháy mắt đầy chia sẻ, ông bác sĩ lái xe đi, băng qua những vũng nước mưa lầy bùn và khuất dạng dưới chân núi.
Tess đứng lặng yên một lúc lâu, nhìn theo ông bác sĩ. Nàng quay lại căn nhà rồi lưỡng lự dừng lại. Tess không thể nhớ ra lần sau cùng mình ở trong một nhà nguyện hoặc nhà thờ hoặc tòa nhà tôn giáo nào đó là khi nào, ngoại trừ vì công việc và dĩ nhiên, ngoại trừ cả quãng thời gian ngắn ngủi trong tàn tích còn lại của ngôi nhà thờ bị cháy rụi ở Manhattan. Lội lõm bõm qua con đường sũng nước, băng qua khoảng sân nhỏ rải sỏi, Tess đẩy cánh cửa và bước vào.
Một nửa nhà nguyện kín chỗ, với những con người đang nghiêm trang cầu nguyện, họ ngồi tụm lại với nhau, trên những chiếc ghế dài cũ kỹ và bị mài mòn trơn nhẵn qua bao năm tháng sử dụng. Tess đứng ở phía sau, nhìn quanh quan sát. Căn nhà nguyện rất đơn sơ, bức tường quét vôi trắng treo đầy những bức bích họa thế kỷ mười tám, lung linh dưới ánh sáng của những ngọn nến. Rào quanh nhà nguyện, nàng chú ý đến một hốc tường có các bức tượng Thánh Gabriel và Michael làm bằng bạc có nạm những đá quý. Bị cuốn đi trong những ánh nến lung linh và tiếng rì rầm cầu nguyện, một cảm giác kỳ lạ tràn ngập trong lòng nàng. Bất chợt, Tess cảm thấy muốn cầu nguyện. Nhưng rồi nàng cũng cảm thấy không thoải mái vì ý tưởng đó và cố rũ bỏ cảm giác bất an khỏi bản thân, tự nhủ rằng cầu nguyện như vậy là đạo đức giả.
Lúc quay người rời khỏi nhà nguyện, Tess chợt nhìn thấy hai người đàn bà đã mang quần áo và thức ăn đến cho nàng hôm trước. Họ cùng đi với hai người đàn ông. Cả hai ùa đến khi thấy nàng, họ huyên thuyên đủ thứ chuyện hết sức tự nhiên và tỏ ra vui mừng vì Tess đã hồi phục.
Hai phụ nữ cứ liên tục lặp đi lặp lại cùng một câu, “Dona to Theo,” dù không hiểu họ đang nói gì nhưng Tess vẫn cười với họ và gật đầu, cảm động về sự quan tâm lo lắng chân thành của họ. Tess biết hai người đàn ông kia là chồng họ, cũng là những người ngư dân đã thoát khỏi sự cuồng nộ của cơn bão. Hai người đàn ông cũng chào hỏi nàng rất niềm. Một trong hai người phụ nữ chỉ vào một bó nến nhỏ trong hốc tường phía sau nhà nguyện và nói cái gì đó mà thoạt tiên Tess chưa hiểu, nhưng rồi nàng cũng đoán ra. Cô ta đang kể với Tess là cả hai đã thắp những ngọn nến để cầu nguyện cho Reilly.
Tess cảm ơn họ rồi liếc xuống gian giữa của nhà nguyện, nhìn vào những người dân thị trấn đang ngồi đó cùng nhau cầu nguyện trong ánh nến mờ dần. Nàng đứng đó lặng yên một lúc lâu, rồi quay về nhà ông bác sĩ.
Suốt thời gian còn lại của buổi sáng, Tess ngồi bên cạnh giường Reilly, và sau đoạn đầu khá ngần ngại, Tess nhận ra nàng có thể trò chuyện với anh. Nàng tránh không đề cập đến những biến cố gần đây, và vì biết quá ít về cuộc đời Reilly, Tess quyết định sẽ nói về quá khứ của mình, kể với Reilly câu chuyện về những cuộc thám hiểm của nàng tại các hiện trường khảo cổ, những thành công và nỗi xấu hổ của nàng, những chuyện linh tinh về Kim, bất cứ điều gì thoáng hiện ra trong tâm trí nàng.
Khoảng gần trưa, Eleni bước vào phòng và mời nàng xuống ăn trưa. Quả là đúng lúc, bởi Tess cũng vừa hết chuyện để nói và bị đẩy vào tình thế vô cùng hiểm nghèo là buộc phải thực sự đối mặt và nói về những gì mà Reilly và nàng đã cùng nhau trải qua. Tess vẫn cảm thấy không thoải mái với cái ý nghĩ phải thảo luận những điều quan trọng với Reilly khi anh ấy vẫn còn mê man bất tỉnh.
Mavromaras trở về, Tess nói với ông ta là nàng đã suy nghĩ về ý định chuyển Reilly đến Rhodes, và giờ nàng muốn giữ Reilly ở lại đây, miễn là ông bác sĩ và bà vợ vẫn vui vẻ cho họ ở lại. Quyết định của Tess có vẻ làm hai vợ chồng bác sĩ hài lòng, nàng cảm thấy an lòng khi nghe họ cả quyết là nàng và Reilly có thể ở lại cho đến khi nào phải đưa ra quyết định trọng đại dựa trên tình trạng sức khỏe của anh.
Thời gian còn lại của ngày hôm đó và phần lớn thời gian sáng hôm sau, Tess vẫn ở bên cạnh giường Reilly, và sau bữa trưa, nàng cảm thấy cần hít thở một ít không khí ngoài trời. Nhận thấy cơn bão đã dịu đi khá nhiều, Tess quyết định mạo hiểm đi xa hơn một chút.
Lúc này, gió chỉ còn thổi hơi mạnh một chút và cuối cùng thì cơn mưa dai dẳng cũng đã chấm dứt. Mặc dù những đám mây đen còn vần vũ trên bầu trời hòn đảo, Tess vẫn cho rằng mình khá thích thị trấn này. Nó không hề bị hủy hoại chút nào vì sự hiện đại hóa mà vẫn giữ được nét quyến rũ của thời quá khứ hoang sơ. Tess tìm thấy những ngõ hẻm nhỏ hẹp và những ngôi nhà đẹp như tranh nằm trong yên ả, nụ cười của những người xa lạ bất chợt đi ngang qua vô cùng thân thiện. Mavromaras kể với Tess là Symi đã phải trải qua những giai đoạn khó khăn sau Thế Chiến II, phần lớn dân cư khă bỏ đi sau khi hòn đảo bị ném bom bởi cả phe Đồng Minh lẫn phe Trục Berlin-Rome-Tokyo, vốn là những lực lượng thay phiên nhau chiếm hòn đảo này. May thay, số phận hòn đảo đã có những bước cải thiện đáng kể trong những năm gần đây. Giờ đây, hòn đảo đã thịnh vượng trở lại khi người Hy Lạp và người ngoại quốc bắt đầu chú ý đến sự hấp dẫn của nó và mua sạch những ngôi nhà cổ rồi hết lòng mang chúng về với quá khứ vinh quang trước đây.
Tess leo lên những bậc cấp bằng đá của khu vực Kali Strata[65], ngang qua viện bảo tàng cũ và bước đến những tàn tích còn lại của một lâu đài do các Hiệp sĩ dòng Thánh John xây dựng từ đầu thế kỷ mười lăm ngay trên nền một pháo đài cũ, và mới bị nổ tung trong thời kỳ được trưng dụng làm kho vũ khí tạm thời của Đức Quốc xã hồi chiến tranh. Tess đi vơ vẩn trong cái hiện trường cổ xưa đó, dừng lại trước tấm bảng tưởng niệm, Filibert de Niallac, Đại thủ lĩnh người Pháp của Đoàn Hiệp sĩ. Vẫn là những hiệp sĩ, ngay cả trong cái góc nhỏ bé bị quên lãng này của thế giới. Tess trầm ngâm suy nghĩ khi nhớ lại những Hiệp sĩ Đền Thánh rồi đăm đăm nhìn ra quang cảnh hùng vĩ trên bến cảng và mặt biển ngoài xa đầy những con sóng bạc đầu. Tess ngắm nhìn cảnh vật trong lúc đàn én bay lượn trên các rặng cây bên những cối xay gió và thấy một chiếc thuyền đánh cá đơn độc lướt ra khỏi bến cảng còn đang say ngủ. Khoảng không gian xanh trải rộng bao quanh hòn đảo khơi gợi lên trong lòng Tess một cảm giác bất an. Cố quên đi nỗi lo lắng, Tess cảm thấy bị thôi thúc muốn nhìn thấy lại bãi biển, nơi người ta đã tìm thấy nàng và Reilly.
Đi về quảng trường chính, Tess gặp một người lái xe cũng chạy về hướng tu viện Panormitis, phía bên kia khu dân cư nhỏ bé ở Marathounda. Sau một quãng đường ngắn, gập ghềnh, anh ta thả nàng xuống ngay lối vào thị trấn. Lúc rảo bước giữa những dãy nhà, Tess va vào hai ngư dân đã tìm thấy nàng và Reilly. Mặt họ tươi hẳn lên khi trông thấy Tess và khẩn khoản mời nàng cùng đi uống cà phê với họ ở một quán rượu địa phương, Tess vui vẻ nhận lời.
Dù cuộc nói chuyện rất khó khăn do rào cản ngôn ngữ giữa họ, nhưng Tess vẫn hiểu được là người ta đã tìm thấy thêm nhiều mảnh vụn của chiếc tàu lặn. Hai người dẫn nàng đến một bãi rác nhỏ ngay phía sau quán rượu, chỉ cho nàng thấy những mẩu gỗ và nhựa thủy tinh nhặt được trên các bãi biển hai bên bờ vịnh. Hình ảnh cơn bão và vụ đắm tàu lại hiện lên trong tâm trí Tess, nàng cảm thấy đau buồn khi nghĩ đến những người đã mất mạng trên chiếc Savarona mà thi thể không bao giờ tìm lại được.
Tess cảm ơn hai người đàn ông và chẳng bao lâu sau nàng đã bước trên bãi biển hoang vắng và lộng gió. Làn gió nhẹ mang theo hương vị tươi nguyên của mặt biển dậy sóng, nàng cảm thấy dễ chịu khi mặt trời lẩn khuất sau những đám mây và chiếu những tia nắng yếu ớt qua lớp mây sau một quãng thời gian dài vắng bóng. Tess chầm chậm bước dọc theo mép nước, lê chân trong lớp cát biển, những hình ảnh mơ hồ của buổi sáng định mệnh kia ngập tràn tâm trí.
Ở đầu kia bãi biển, vượt qua khỏi tầm nhìn của khu dân cư nhỏ bé ngay cửa vịnh, Tess tìm đến một bãi đá đen nhô lên ngay mép nước. Nàng trèo lên, tìm một tảng đá bằng phẳng, rồi ngồi xuống, hai tay bó gối, đăm đăm nhìn ra mặt biển phẳng lặng. Cách một khoảng xa, một tảng đá lớn nhô lên khỏi mặt nước, những con sóng bạc đầu trào lên xung quanh. Trông có vẻ gì đó đầy hăm dọa, như một mối hiểm nguy khác mà nàng và Reilly đã thoát khỏi. Tess bắt đầu nhận ra tiếng kêu của những con mòng biển và khi nhìn lên, nàng thấy hai con trong đàn đang tinh nghịch lao xuống, giành nhau một con cá chết.
Bất chợt, Tess nhận ra những giọt nước mắt đang lăn dài trên má. Không phải thổn thức hay thậm trí là khóc, thực sự vậy. Chỉ là những giọt nước mặt tự nhiên trào ra không duyên cớ. Và cũng bất chợt, mắt nàng đột nhiên ráo hoảnh không còn một giọt. Tess cảm thấy mình đang run rẩy, nhưng không phải vì lạnh. Một cái gì đó nguyên sơ hơn, trỗi dậy từ trong sâu thẳm đáy lòng nàng. Cảm thấy cần phải rũ bỏ tâm trạng nặng nề kia đi, Tess đứng dậy, tiếp tục chuyến đi dạo, leo qua những tảng đá và tìm thấy một lối nhỏ chạy ngoằn ngoèo dọc theo bờ biển.
Theo con đường kia, vượt qua ba con rạch nhỏ đầy đá, Tess đến một cái vịnh khác, xa hơn, ở đầu mũi phía Nam hòn đảo. Hình như không có con đường nào dẫn xuống đó. Một dải cát hình trăng lưỡi liềm vẫn còn trinh nguyên chưa có dấu chân người chạy vòng từ chỗ nàng đứng cho đến một mũi đất khác nhô ra tạo thành một mũi nhọn cao lởm chởm cát đá.
Tess nhìn xuống bãi biển trong ánh sáng nhá nhem của buổi hoàng hôn, một khối hình dáng kỳ lạ thu hút sự chú ý của nàng. Nó nằm ở đầu bên kia vịnh, ngay chỗ rìa bãi đá. Nheo mắt, Tess cố điều chỉnh thị giác để nhìn rõ vật đó, và Tess thấy hơi thở mình bỗng dồn dập, cổ họng bỗng khô khốc. Tim nàng như đánh trống trong lồng ngực.
Không thể nào, Tess nghĩ. Không thể nào.
Và rồi Tess chạy dọc theo bãi cát cho đến khi, cái vật kia chi cách vài bước chân và nàng dừng lại, hổn hển thở, tâm trí quay cuồng trước sự thật hiển hiện trước mắt.
Đó là cái hình chạm con chim ưng ở đầu mũi tàu, quấn đủ loại dây nhợ nhằng nhịt, những chiếc phao nâng màu da cam, đã xì hết một nửa, nằm xung quanh.
Nó trông vẫn nguyên vẹn.
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa