If you have love in your life it can make up for a great many things you lack. If you don’t have it, no matter what else there is, it’s not enough.

Ann Landers

 
 
 
 
 
Tác giả: Raymond Khoury
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Last Templar
Dịch giả: Lê Trọng Nghĩa
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: phamhoai
Số chương: 90 - chưa đầy đủ
Phí download: 9 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2056 / 39
Cập nhật: 2017-05-22 09:44:48 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 68
ó phải đó là thứ mà anh nghĩ họ mang lên chiếc Falcon Temple?” Reilly hỏi, giọng mỉa mai. “Cứ cho rằng các sách phúc âm, như anh nói, là những tác phẩm bịa đặt? Cứ cho rằng Jesus không phải là một nhân vật thần thánh? Dù thực sự có thể là vậy,” Reilly phản bác, “tôi hình dung điều đó sẽ làm suy yếu đạo Cơ đốc đến mức nào, nhưng làm thế nào điều đó có thể giúp các Hiệp sĩ Đền Thánh hợp nhất ba tôn giáo – giả sử rằng đó là việc mà họ thực sự lên kế hoạch?
“Họ khởi đầu với một điều mà họ biết,” Vance tự tin bác lại, “tôn giáo nằm trong tay họ, cái tôn giáo mà họ đã tự mình chứng kiến những điều phóng đại khoa trương của nó. Một khi điều đó… bị vạch trần, tôi tưởng tượng là họ đã nỗ lực tạo lập liên minh với những kẻ tay trong thuộc các cộng đồng Hồi giáo và Do Thái, những cộng sự cùng hoạt động với họ để xúi giục mọi người đặt ra những nghi vấn tương tự về tín ngưỡng của mình và mở đường cho một quan điểm mới, thống nhất trên thế giới.”
“Bằng cách nhặt lại từng mảnh của những khối ảo tưởng đã tan vỡ?” Đó là một câu bình luận hơn là một câu hỏi từ phía Reilly.
Vance vẫn tỏ ra ngạc nhiên. “Về lâu dài, tôi nghĩ thế giới phải là nơi tốt đẹp hơn. Anh không nghĩ như vậy à?”
“Tôi rất nghi ngờ điều đó,” Reilly đáp lại. “Nhưng dù có như vậy, tôi không mong đợi kẻ nào coi rẻ mạng sống con người có thể hiểu được điều
“Ồ, xin miễn cho tôi cái khoản phẫn nộ chính đáng của anh và trưởng thành hơn, được chứ? Toàn bộ chuyện đó quá ư buồn cười,” Vance gằn giọng. “Chúng ta vẫn đang quanh quẩn trong vương quốc của những ý nghĩ kỳ quặc, dù là ở đây, ngày hôm nay, trong thế kỷ hai mốt. Chúng ta thực sự chẳng tiến bộ bao nhiêu so với những con người khốn khổ của thành Troy. Toàn bộ hành tinh bị giam cầm trong ảo tưởng khổng lồ. Cơ đốc, Do Thái, Hồi giáo… mọi người sẵn sàng chiến đấu đến chết để bảo vệ từng lời từng chữ trong những cuốn sách mà họ cho là thiêng liêng, nhưng chúng thực sự được xây dựng trên những gì? Phải chăng là những truyền thuyết và những truyện hoang đường từ hàng ngàn năm trước? Phải chăng là Abraham là người đàn ông, nếu anh tin vào Kinh Cựu Ước, sinh con ở tuổi một trăm và sống đến một trăm bảy mươi lăm tuổi? Liệu có nghĩ lý gì không khi cuộc sống con người vẫn cứ bị chi phối bởi đống kịch bản buồn cười và ngớ ngẩn kia?”
“Những cuộc thăm dò dư luận vẫn khăng khăng khẳng định là hầu hết các tín đồ Cơ đốc, người Do Thái và người Hồi giáo ngày nay đều không biết rằng tôn giáo của họ có chung nguồn gốc từ Abraham, tổ phụ của cả ba tôn giáo và là người sáng lập thuyết đơn thần,” Vance giải thích. “Điều mỉa mai là, theo cuốn Kinh Sáng Thế ký[51], Thượng đế đã phái Abraham thực hiện sứ mệnh hàn gắn sự chia rẽ giữa loài người. Thông điệp của Ngài là bất chấp ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, tất cả nhân loại đều thuộc về một gia đình nhân loại, trước một vị Thượng đế cai quản toàn bộ vũ trụ. Bằng cách nào đó, thông điệp cao thượng này đã bị bóp méo,” Vance tiếp tục nhạo báng, “chẳng khác gì một thứ trong đoạn phim Dallas[52] chán phèo. Vợ Abraham, Sarah, không thể sinh con, vì vậy ông ta lấy vợ hai, cô hầu gái Ả rập tên Hagar, người đã sinh cho ông cậu con trai được đặt tên là Ishmael. Mười ba năm sau, Sarah cuối cùng cũng đẻ được một cậu con trai, Isaac. Abraham qua đời, Sarah đuổi Hagar và Ishmael đi, và từ đó dòng giống Semite bị phân chia thành hai nhánh Ả rập và Do Thái.”
Vance lắc đầu, cười với chính mình. “Điều bực mình là cả ba tôn giáo đều tuyên xưng là họ tin vào cùng một Thượng đế, vị Thượng đế của Abraham. Mọi việc chỉ rối tung rối mù lên khi người ta bắt đầu tranh cãi nhau từng li từng tí xem lời của ai mới đại diện trung thực nhất cho ý nghĩ của Thượng đế. Tín ngưỡng Do Thái xây dựng đức tin từ vị tiên tri của họ, Moses, người có dòng dõi Do Thái bắt nguồn từ Isaac và Abraham. Vài trăm năm sau, Jesus – vị tiên tri người Do Thái – xuất hiện với một bộ đức tin mới, tức là cách giải thích của ông ta về tín ngưỡng của Abraham. Vài trăm năm sau nữa, lại thêm một người khác, Mohamed, xuất hiện và tuyên bố rằng ông ta mới là sứ giả đích thực của Thượng đế, chứ không phải hai tên lừa bịp trước kia, và hứa hẹn dẫn dắt con người trở về với sự khải huyền khai sáng của Abraham – lần này, bắt nguồn từ Ishmeal, anh hãy lưu ý điểm này và đạo Hồi ra đời. Chẳng có gì phải ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo thời ấy xem đạo Hồi là dị giáo của đạo Cơ đốc chứ không phải là một tôn giáo mới mẻ hay khác biệt. Và khi Mohamed chết, đạo Hồi lại chia thành hai phái chính – Shi’ite và Sunnites – vì một cuộc tranh giành quyền lực giữa những người kế vị ông ta.”
“Vì vậy mà chúng ta có những tín đồ Cơ đốc coi thường người Do Thái,” Vance lên giọng, “xem họ như là những kẻ đi theo sự khải huyền sơ khai và chưa hoàn chỉnh về các ước nguyện của Thượng đế, các tín đồ Hồi giáo cũng nhạo báng tín đồ Cơ đốc theo cách đó – mặc dù họ cũng tôn kính Jesus, nhưng chỉ như một sứ giả lỗi thời chứ không phải là con trai của Thượng đế. Thật là nực cười. Anh có biết là những người Hồi giáo mộ đạo cầu Abraham ban phước mười bảy lần mỗi ngày không? Hajj – cuộc hành hương về Mecca, bổn phận thiêng liêng của mỗi tín đồ Hồi giáo – hàng triệu tín đồ bất chấp cái nóng ngạt thở cũng như nguy cơ hiển nhiên là có thể chết vì chen lấn giẫm đạp lên nhau – anh biết tất cả việc này là vì cái gì không? Họ đến đó để tưởng niệm sự hiến tế Ishmeal, con trai của Abraham, dâng lên Thượng đế! Chỉ cần đến Hebron là anh sẽ nhận ra toàn bộ sự việc đã trở nên lố bịch như thế nào. Người Ả rập và người Do Thái vẫn tiếp tục giết chóc lẫn nhau trên cái mẩu đất bị tranh giành ác liệt nhất hành tinh, tất cả chỉ vì mẩu đất đó được cho là địa điểm có hầm mộ Abraham, một cái hang nhỏ có những khu vực quan sát riêng biệt, cách ly cho mỗi nhóm. Abraham – nếu như ông ta thực sự từng hiện hữu – chắc hẳn đang quay mòng mòng trong mộ khi nghĩ về đám hậu duệ bần tiện, nhỏ nhen, ầm ĩ đấu đá nhau trên đầu ông ta. Còn nói về các dòng họ bất thường…”
Vance thở dài. “Tôi biết, đổ tất cả những cuộc xung đột trong lịch sử của chúng ta cho chính trị và lòng tham của con người là điều rất dễ dàng.” hắn nói, “và lẽ dĩ nhiên chúng cũng có vai trò trong đó thật… nhưng sâu xa mà nói, tôn giáo luôn luôn là thứ nhiên liệu giữ cho lò lửa không khoan dung và thù hận bùng cháy. Và điều này kìm hãm không cho chúng ta vươn đến những điều tốt đẹp hơn, nhưng chủ yếu là, ngăn không cho chúng ta chấp nhận và đối mặt với sự thật về bản thân con người chúng ta, ngăn không cho chúng ta nắm lấy mọi điều mà khoa học đã và vẫn tiếp tục dạy cho chúng ta, ngăn không cho chúng ta dấn thân tự chịu trách nhiệm về những hành động của bản thân. Hàng ngàn năm trước, con người thời bộ lạc sơ khai luôn sợ hãi, họ cần đến tôn giáo để cố hiểu được những bí ẩn của cuộc sống và cái chết, để chấp nhận và đối mặt với sự thất thường của bệnh tật, thời tiết, những vụ mùa bấp bênh và thiên tai. Chúng ta không cần cái đó nữa. Chúng ta có thể cầm di động lên, nói chuyện với ai đó phía bên kia hành tinh. Chúng ta có thể đặt một chiếc xe điều khiển từ xa lên sao Hỏa. Chúng ta có thể tạo ra sự sống trong ống nghiệm. Và chúng ta còn làm được nhiều điều kỳ diệu hơn thế nữa. Đã đến lúc chúng ta thoát ra khỏi những thứín dị đoan cổ hủ và đối diện với con người thực sự của chúng ta, và chấp nhận rằng chúng ta đã trở thành cái mà con người của thời cách đây vài trăm năm từng xem là Thượng đế. Chúng ta cần nắm lấy những gì có thể và không nên trông cậy vào sức mạnh bí ẩn nào đó từ trên trời rơi xuống để xếp đặt mọi chuyện đâu vào đó cho chúng ta.”
“Cái quan điểm mà anh nhắc tới quá là hết sức thiển cận, phải vậy không?” Reilly giận dữ vặc lại. “Còn tất cả những điều tốt đẹp mà tôn giáo làm được thì sao? Những quy tắc đạo đức, các khuôn khổ luân thường đạo lý mà tôn giáo xây dựng lên thì sao? Nguồn an ủi mà tôn giáo mang lại, đó là chưa nói đến những công việc từ thiện như phân phát thức ăn cho người nghèo và chăm lo cho người kém may mắn. Lòng tin vào Chúa là tất cả những gì mà rất nhiều người ngoài kia có, và hàng ngàn người dựa vào tôn giáo để có được sức mạnh, giúp họ vượt qua những ngày tháng khó khăn. Nhưng anh không nhìn thấy bất kỳ điều gì trong những điều tốt đẹp đó, đúng vậy không nào? Anh chỉ bị ám ảnh bởi một sự kiện bi kịch, cái sự kiện đã hủy hoại cuộc sống của chính anh, cái sự kiện đã bóp méo quan điểm của anh về thế giới và tất cả những gì tốt đẹp trong đó.”
Vẻ mặt của Vance trở nên xa vắng và ma quái. “Tất cả những gì tôi nhìn thấy là nỗi đau đớn và sự chịu đựng không cần thiết mà nó gây ra, không phải chỉ với cá nhân tôi, mà với hàng triệu con người trong bao thế kỷ qua.” Sau một lúc, ánh mắt đăm đăm của Vance lại dừng lại ở Reilly, và giọng hắn đanh lại. “Đạo Cơ đốc đã phục vụ một mục tiêu vĩ đại khi bắt đầu hình thành. Nó đã cho con người niềm hy vọng, đã mang lại hệ thống hỗ trợ xã hội, đã giúp hạ bệ sự bạo ngược chuyên chế. Nó cũng đáp ứng những nhu cầu của cộng đồng. Nhưng ngày nay cái tôn giáo đó phục vụ cho những nhu cầu nào, ngoài việc ngăn cản nghiên cứu y học và biện minh cho các cuộc chiến tranh? Chúng ta cười nhạo khi nhìn vào những thứ Thượng đế ngớ ngẩn mà người Inca hoặc người Ai Cập thờ phụng. Liệu chúng ta có khá hơn chút nào không? Một ngàn năm nữa, người ta sẽ nghĩ gì khi nhìn lại chúng ta? Phải chăng chúng ta sẽ là đối tượng của sự nhạo báng ấy? Chúng ta vẫn đang nhảy múa theo giai điệu được tạo ra bởi những người nghĩ rằng sấm chớp và dấu hiệu giận dữ của Thượng đế. Và điều đó,” giọng Vance sôi lên, “tất cả mọi thứ đó cần phải thay đổi.”
Reilly quay sang Tess. Nàng không nói một lời nào trong suốt bài diễn thuyết của Vance. “Còn em thì sao? Em nghĩ gì? Em có đồng ý với tất cả những điều đó không?”
Gương mặt Tess buồn buồn. Nàng tránh ánh mắt Reilly, rõ ràng đang gắng tìm từ thích hợp. “Nhưng thực tế lịch sử đều ở đấy, Sean à. Và chúng ta đang đề cập đến những điều đã được ghi chép và chấp nhận rộng rãi.”
Tess tỏ vẻ ngần ngại trước khi nói tiếp. “ những sách Phúc âm ban đầu được viết ra để truyền bá một thông điệp tâm linh, nhưng chúng đã trở thành cái gì đó khác. Chúng đã được khoác lên một mục tiêu lớn hơn, mục tiêu chính trị. Jesus đã sống trong một xứ sở bị chiếm đóng, vào một thời đại đáng sợ. Đế quốc La Mã thời đó là thế giới của những điều bất công rõ rành rành. Quần chúng nhân dân thì vô cùng nghèo khổ, còn một số ít người thì giàu sang tột đỉnh. Đó là thời của đói khát, ốm đau và bệnh tật. Thật dễ dàng hình dung trong thế giới bất công và đầy bạo lực đó, thông điệp của đạo Cơ đốc đã được chào đón như thế nào. Cái tiền đề cơ bản của đạo Cơ đốc, về một Thượng đế nhân từ, dạy bảo con người hãy sống nhân ái với nhau, thậm chí ngay cả với những người không cùng một gia đình và cộng đồng vời mình, đúng là mang tính cách mạng. Nó đem lại cho những người cải đạo, bất chấp họ xuất thân từ đâu, một nền văn hóa thống nhất, ý thức về sự bình đẳng và tình họ hàng thân thuộc, mà không đòi hỏi người ta phải từ bỏ những ràng buộc với dân tộc mình. Nó mang lại cho họ phẩm giá và sự bình đẳng với những người bất chấp địa vị xã hội của họ như thế nào. Những kẻ đói khát biết nơi đâu họ có được miếng ăn cái uống, người đau ốm và già cả biết nơi đâu họ được chăm sóc. Nó mang đến cho mọi người tương lai vĩnh hằng thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và cô đơn. Nó mang lại quan niệm mới về lòng nhân đạo, thông điệp của lòng yêu thương, lòng bao dung và tình đoàn kết cho cái thế giới đầy rẫy sự tàn ác và bị kìm kẹp trong thứ văn hóa chết chóc.”
“Em không phải là một chuyên gia tầm cỡ về lĩnh vực này như anh ta,” Tess tiếp tục, nàng ra hiệu chỉ về Vance, “nhưng anh ta đúng. Bao giờ em cũng cảm thấy có vấn đề với ba cái thứ siêu nhiên kia, nào là sự thần thánh của Jesus, rồi cái ý tưởng ngài là Con trai Thượng đế, rồi việc sinh đẻ của Đức Mẹ Đồng trinh Mary. Sự thật khó chịu là chẳng điều nào trong đó xuất hiện cho đến tận hàng chục năm, thậm chí là hàng trăm năm sau ngày Jesus chịu khổ hình đóng đinh trên thập giá, và nó chỉ trở thành chính sách chính thức của Giáo hội tại Hội đồng Nicaca năm 325 Công nguyên. Nó giống như…” nàng ngập ngừng, “người ta cần cái gì đó đặc biệt, một cái lưỡi câu vĩ đại. Và trong thời kỳ mà sự siêu nhiên dị thường là cái được hầu hết mọi người chấp nhận, vậy thì cái gì có thể tốt hơn việc đưa ra giả thuyết rằng tôn giáo mà anh đang rao bán được đặt tên theo không phải một ông thợ mộc hèn kém mà là một nhân vật thần thánh, người có thể hứa hẹn với anh về cuộc sống vĩnh hằng ở thế giới bên kia?”
“Thôi nào, Tess,” Reilly giận dữ vặc lại, “em đang mô tả đạo Cơ đốc chẳng hơn gì một chiến dịch tuyên truyền bất cần đạo lý. Em có thực sự tin là nó có nhiều quyền năng như vậy, hoặc có thể tồn tại lâu dài như vậy nếu chỉ xây dựng trên sự dối trá lừa gạt không? Trong số tất cả những người thuyết giáo và những người thông thái đi khắp nơi rao giảng thời đó, Ngài là người duy nhất đã vận được mọi người hy sinh cả mạng sống để tuân theo những lời chỉ dạy của Ngài. Ngài là người duy nhất truyền được cảm hứng nhiều nhất cho những người xung quanh, không có bất kỳ ai khác gây được ảnh hưởng đến mọi người như Ngài, và họ đã ghi lại, nói lại những gì họ chứng kiến.”
“Nhưng quan điểm của tôi là,” Vance chen ngang, “không hề có ai như vậy cả. Chẳng gì có thể chứng minh điều đó một cách rõ ràng cả.”
“Hoặc bác bỏ nó,” Reilly vặc lại. “Hơn nữa, anh thực sự không xem xét cả hai mặt của vấn đề, đúng không nào?”
“Vậy thì, nếu Vatican quả thực khiếp sợ phát hiện của các Hiệp sĩ Đền Thánh được công khai,” giọng Vance chế giễu, “thì tôi cho rằng tôi có thể đoán ra những suy nghĩ của Vatican dựa trên cái gì. Và nếu chúng ta hoàn tất điều mà các Hiệp sĩ Đền Thánh dự định làm,” hắn quay sang Tess, mặt ngời lên vẻ nhiệt tình đáng sợ, “đó hẳn là bước cuối cùng trong điều gì đó đã được trù tính từ Thời khai sáng. Cách đây không lâu người ta vẫn còn tin rằng trái đất là trung tâm vũ trụ và mặt trời quay quanh chúng ta. Khi Galileo xuất hiện và chứng minh ngược lại, Giáo hội suýt nữa thì thiêu sống ông ta trên cọc. Chuyện tương tự cũng xảy ra với Darwin. Nghĩ mà xem. Ngày nay, lời nói của ai mới là chân lý ‘phúc âm’?”
Reilly im lặng cân nhắc những thông tin mới nghe được. Anh bực bội vì mọi điều anh đã nghe, dù anh nỗ lực cố gắng gạt bỏ chúng thế nào đi nữa, có vẻ như không chỉ hoàn toàn có thể xảy ra mà còn hợp lý một cách khó chịu. Rốt cuộc, có nhiều tôn giáo lớn cùng tranh đua thu phục tín đồ trên khắp hành tinh, tất cả đều tự tuyên xưng là tôn giáo đích thực, và chúng không thể đều đúng. Reilly cũng nhận ra với cảm giác tội lỗi rằng anh cũng rất sẵn sàng bài bác các tôn giáo khác như là những trò lừa mị tập thể… Tại sao cái tôn giáo mà anh tình cờ tin vào lại có chút khác biệt chứ?
“Từng cái một,” Vance cao giọng tuyên bố, ánh mắt hắn dán chặt vào Tess, “những trò dối trá này, những lời bịa đặt của những kẻ đầu tiên sáng lập Giáo hội, tất cả đang sụp đổ. Đây là cái cuối cùng phải sụp đổ, không còn gì nữa.”
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa