Cái tốt đẹp nhất trong mọi cái là việc học. Tiền có thể bị mất, sức khỏe và sức mạnh có thể bị mất, nhưng những gì trong đầu bạn thì là của bạn mãi mãi.

Louis L’Amour

 
 
 
 
 
Tác giả: Raymond Khoury
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Last Templar
Dịch giả: Lê Trọng Nghĩa
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: phamhoai
Số chương: 90 - chưa đầy đủ
Phí download: 9 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2056 / 39
Cập nhật: 2017-05-22 09:44:48 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 19
uán cà phê tầng trệt bệnh viện gần như không có khách. Sau khi bưng cà phê ra bàn. Tess ngạc nhiên khi điều đầu tiên Reilly hỏi nàng là cô bé ở viện bảo tàng với nàng hôm đó có phải là con gái của nàng không.
“Vâng, là con gái tôi đấy,” Tess mỉm cười. “Tên cháu là Kim.”
“Trông cháu giống hệt cô.”
Ngay lập tức, Tess cảm thấy thất vọng. Dù chỉ nhìn thấy Reilly thoáng qua ở viện bảo tàng, và chỉ thực sự gặp anh vài phút trước đây, nhưng Tess cảm thấy Reilly có cái gì đó làm nàng thấy dễ chịu, thoải mái. Chúa ơi, chắc mình phải thực sự xem lại những cảm nhận của mình về cánh đàn ông quá. Tess thu người lại, chờ đợi sự khen ngợi theo thông lệ không thể tránh khỏi của một gã-trai-đang-giở-trò-tán-tỉnh. Nào là – Cô còn trẻ quá, cô đi với cháu mà tôi cứ tưởng như hai chị em, hay đại loại những lời như thế. Nhưng Reilly lại làm nàng ngạc nhiên khi hỏi, “khi sự việc xảy ra, cháu bé ở đâu?”
“Kim hả? Trước đó, mẹ tôi đưa cháu vào phòng vệ sinh. Lúc còn trong đó, mẹ tôi nghe tiếng ồn ào náo động bên ngoài nên bà quyết định hai bà cháu cứ ở yên tại chỗ.”
“Vậy là họ không chứng kiến cái đoạn tệ hại kia.”
Tess gật đầu, nàng lấy làm lạ về sự quan tâm của Reilly. “Cả hai đều không thấy gì cả.”
“Sau đó thì sao?”
“Tôi đi tìm họ và cố gắng làm sao để chúng tôi ở thật xa cho đến khi các xe cứu thương chạy đi hết,” Tess trả lời, vẫn không hiểu Reilly đang muốn hướng câu chuyện về đâu.
“Vậy là cháu bé không thấy những người bị thương hoặc...”
“Không, cháu chỉ thấy đống đổ nát trong Đại sảnh,”
Reilly gật đầu. “Tốt lắm. Nhưng rõ ràng là cháu biết chuyện gì đã xảy ra.”
“Cháu mới chín tuổi thôi, anh Reilly à. Giờ cháu đang là người bạn mới tốt nhất người ở trường, ai cũng muốn biết cảm giác ra sao khi có mặt ở đó.”
“Tôi có thể tưởng tượng được điều đó. Tuy vậy, cô nên trông chừng cháu. Cho dù cháu không tận mắt chứng kiến chuyện đó, nhưng những chuyện như thế có thể để lại hậu quả, nhất là đối với trẻ con. Có thể chỉ là những cơn ác mộng, nhưng cũng có thể nghiêm trọng hơn. Cô phải trông chừng cháu, thực đấy. Cô không bao giờ lường hết được mọi chuyện đâu.”
Tess hoàn toàn bất ngờ vì sự quan tâm của Reilly dành cho Kim. Nàng sửng sốt gật đầu, “Hẳn là thế rồi.”
Reilly ngồi dựa ra ghế. “Còn cô thì sao? Cô đã ở ngay giữa cái đống hỗn loạn đó.”
Tess cảm thấy tò mò. “Sao anh biết?”
“Các máy ghi hình bảo vệ an ninh của viện bảo tàng. Tôi thấy cô trong băng hình.” Reilly không biết liệu nói ra như vậy có vẻ sống sượng quá không. Anh hy vọng không đến nỗi như vậy, nhưng Reilly không thể đoán được gì qua nét mặt nàng. “Cô không sao chứ?”
“Vâng.” Tess thoáng nhớ lại cảnh tượng những tên kỵ sĩ đập phá viện bảo tàng và nổ súng bừa bãi, và tên kỵ sĩ thứ tư chộp lấy chiếc máy mã hóa chỉ cách nàng trong gang tấc, con ngựa của hắn thực sự phả hơi thở vào người nàng theo đúng nghĩa đen. Tess không thể nào quên, cảnh tượng đó, và nỗi sợ hãi mà nàng cảm nhận lúc đó hẳn cũng không dễ sớm phai nhạt. Tess cố giữ không để lộ điều đó ra. “Thật là kinh khủng nhưng... không hiểu vì sao chuyện có vẻ như không có thực, tôi cũng không biết nữa, có lẽ tôi đã chôn vùi nó xuống dưới cái mảng hư cấu trong kho ký ức của mình.”
“Vậy cũng tốt,” Reilly ngập ngừng. “Tôi xin lỗi vì đã tò mò, chẳng qua tôi đã gặp nhiều tình huống như vậy và sự thật là việc đối mặt với nó không phải lúc nào cũng dễ dàng.”
Tess nhìn Reilly, mặt rạng rỡ. “Tôi hiểu. Và tôi rất cảm ơn sự quan tâm của anh,” Tess nói, có phần ngạc nhiên khi nhận ra rằng nàng thường rất cảnh giác khi bất kỳ ai đó nói chuyện với nàng về Kim, con gái nàng nhưng lại hoàn toàn không phản đối gì người đàn ông này. Sự quan tâm của anh ta xem ra rất chân thành.
“Vậy,” Reilly nói. “Mấy chuyện về các Hiệp sĩ Đền Thánh là gì?”
Tess nhích đến gần Reilly hơn, vẻ ngạc nhiên. “Các anh chưa điều tra vụ việc dưới bất kỳ góc độ nào về dòng Đền Thánh hay sao?”
“Theo tôi biết thì không.”
Tess cụt hứng. “Anh thấy đấy, tôi đã biết là nó chẳng có ý nghĩa gì mà.”
“Cứ nói cho tôi biết cô đang nghĩ gì.”
“Anh biết gì về họ?”
“Không nhiều lắm,” Reilly thú nhận.
“Chà. Tin tốt là anh không phải một người mất trí.” Tess mỉm cười và cảm thấy ân hận ngay về lời bình đó, nhưng Reilly không để ý, Tess tiếp tục. “Thôi được. Xem nào... năm 1118. Cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất chấm dứt và vùng Đất Thánh lại trở về tay người Thiên Chúa giáo. Baldwin II là vua Jerusalem, mọi người trên khắp Châu Âu đều hân hoan mừng rỡ, và những đoàn người hành hương lũ lượt kéo tới xem thử những náo loạn ầm ĩ đó ra sao. Điều mà những người hành hương thường không ngờ tới là họ đang liều lĩnh đi vào vùng lãnh thổ nguy hiểm. Một khi đã “giải phóng” vùng Đất Thánh, những hiệp sĩ Thập tự chinh coi như mình thực hiện xong lời thề, họ trở về quê nhà ở châu Âu, manh theo những của cải cướp bóc được, và bỏ lại vùng đất nằm giữa sự vây bọc của các quốc gia Hồi giáo thù địch. Người Thổ và người Hồi giáo đã mất nhiều cùng lãnh thổ vào tay những đoàn quân Thiên Chúa giáo, bọn họ không bao giờ tha thứ và quên mối cừu hận đó, nên rất nhiều đoàn hành hương đến đó nhưng không bao giờ tới được Jerusalem. Những người hành hương bị tấn công, cướp bóc, và thường là bị sát hại. Những tên cướp Ả rập là mối đe dọa triền miên đối với các đoàn khách lữ hành, và trước hết chúng làm tiêu ma mục đích cuộc Thập tự chinh.”
Tess kể với Reilly là chỉ trong một vụ việc xảy ra trong năm đó, những tên cướp Ả rập Hồi giáo đã phục kích và giết hơn ba trăm người hành hương trên những con đường nguy hiểm giữa thành phố cảng Jaffa, nơi chúng đổ bộ lên vùng duyên hải Palestine, và thành phố thiêng Jerusalem. Không bao lâu sau, người ta phải bố trí một nhóm hiệp sĩ thường trực bên ngoài tường thành của thành phố. Đó là lúc các Hiệp sĩ Đền Thánh xuất hiện. Chín vị hiệp sĩ sùng đạo do Hughes de Payens dẫn đầu đã đến cung điện của Baldwin ở Jerusalem, nguyện phụng sự đức vua. Họ tuyên bố chấp nhận sống theo ba lời thề chính thức nguyện sống trinh bạch, nghèo khó và tuân phục, nhưng họ đã thêm một lời thề thứ tư: lời thề vĩnh viễn bảo vệ những người hành hương trong hành trình từ vùng bờ biển đến thành phố. Căn cứ theo tình hình lúc đó, các hiệp sĩ đã có mặt thật đúng lúc. Đất nước Thập tự chinh rất cần những chiến sĩ lão luyện.
Vua Baldwin hết sức cảm kích trước sự xả thân của các hiệp sĩ sùng đạo và cho họ trú ngụ ở khu phía Đông cung điện của mình, cạnh địa điểm mà có thời ngôi đền của vua Salomon tọa lạc. Người ta biết đến họ với danh hiệu Dòng tu của các hiệp sĩ Kitô khổ hạnh và của Đền Solomon – hay nói đơn giản hơn, các Hiệp sĩ Đền Thánh.
Tess nghiêng người. “Ý nghĩa quan trọng về mặt tôn giáo của địa điểm mà vua Baldwwin ban cho cái dòng tu đang phát triển đó chính là điểm mấu chốt của vấn đề,” nàng giải thích. Vua Solomon đã xây dựng ngôi đền đầu tiên vào năm 950 trước Công nguyên. Thân phụ của Solomon là vua David trước đó cho khởi công xây dựng công trình này theo mệnh lệnh của Thượng Đế, xây dựng một ngôi đền để cất giữ chiếc Hòm Pháp Điểm, một cái hòm Thánh tích lưu giữ những phiến đá có khắc các điều răn của Thượng đế ban cho Moses. Triều đại huy hoàng của Solomon chấm dứt khi nhà vua băng hà, cũng là lúc các quốc gia phía Đông tiến vào thu phục các vùng lãnh thổ của người Do Thái. Ngôi đền bị những người Chaldins xâm chiếm phá hủy vào năm 586 trước Công nguyên, họ bắt người Do Thái mang về Babylon làm nô lệ. Hơn năm trăm năm sau, ngôi đền được vua Herod xây dựng lại để cố thu phục lòng tin của các thần dân Do Thái, và để chứng tỏ với họ rằng nhà vua của họ, tuy là người gốc Ả rập, nhưng là một tín đồ ngoan đạo của tôn giáo mà ông đang thờ phụng. Ngôi đền là một thành tựu rực rỡ của nhà vua: uy nghi sừng sững giữa thung lũng Kidron, ngôi đền mới là một công trình kiến trúc công phu mà tráng lệ hơn hẳn ngôi đền trước kia. Nội tẩm ngôi đền, phía sau hai cánh cửa vàng đồ sộ, chứa Thánh Vật thiêng liêng hơn hết thảy mà chỉ có vị Giáo chủ tối cao của người Do Thái mới có quyền tiếp cận.
Sau cái chết của vua Herod, tinh thần phản kháng của người Do Thái nhen nhóm trở lại và vào năm 66 Công nguyên, những người nổi dậy đã giành lại được quyền kiểm soát lãnh thổ Palestine, Hoàng đế La Mã Vespasian cử con trai mình là Titus đi dẹp loạn. Sau sáu tháng kháng cự anh dũng, vào năm 70 Công nguyên, Jerusalem cuối cùng lại rơi vào tay các quân đoàn La Mã. Titus ra lệnh san bằng toàn bộ thành phố, toàn bộ dân cư cũng bị giết sạch. Thế là, “cái công trình huy hoàng lộng lẫy nhất mà người ta từng nhìn thấy hoặc nghe nói đến” như sử gia Josephus thời đó mô tả, đã một lần nữa sụp đổ.
Chưa đầy một trăm năm sau, cuộc nổi dậy thứ hai của người Do Thái cũng bị người La Mã nghiền nát. Lần này tất cả người Do Thái bị cấm léo hánh tới Jerusalem và những điện thờ thần Zeus và vị hoàng đế-thần-thánh Hadrian của La Mã được xây dựng trên Núi Đền. Sáu trăm năm sau, một ngôi đền thiêng khác được xây dựng tại vị trí này cùng với sự trỗi dậy của đạo Hồi và cuộc chinh phục Jerusalem của người Ả rập, địa điểm thiêng liêng nhất của Do Thái giáo đã được tái xác định là địa điểm mà con ngựa của đấng tiên tri Mohammed thăng thiên. Và thế là vào năm 691, Đền Vòm Đá được Quốc vương đạo Hồi Abd El-Malik xây dựng ngay trên vị trí này. Kể từ đó, Đền Vòm Đá là Thánh đường của đạo Hồi, ngoại trừ khoảng thời gian những người Thập tự chinh cai trị Jerusalem, ngôi đền đã bị cải tạo thành một nhà thờ Thiên Chúa giáo gọi là Templum Domini, tức Đền thờ Thiên Chúa, và một thánh đường Hồi giáo khác – đền Al-Aqsa cũng được xây dựng trong quần thể đó, đều biến thành sở chỉ huy của dòng Hiệp sĩ Đền Thánh đang đâm chồi nảy lộ
Lý tưởng hào hùng của chín vị hiệp sĩ dũng cảm bảo vệ những người hành hương yếu đuối đã nhanh chóng tác động vào trí tưởng tượng của người dân trên khắp châu Âu. Chẳng mấy chốc có nhiều người dành cho các Hiệp sĩ Đền Thánh một sự tôn kính đầy lãng mạn và tình nguyện gia nhập giáo đoàn như những tân binh. Giới quý tộc khắp châu Âu cũng hào phóng hỗ trợ, các loại quà cáp, tiền bạc và đất đai ào ạt đổ xô đến với họ. Sự kiện này càng có tác động lớn hơn khi Dòng tu được Giáo hoàng ban phước lành, một điều hiếm có, có ý nghĩa rất lớn vào thời bấy giờ khi mà tất cả các vua chúa, các quốc gia đều coi Tòa Thánh như một uy quyền tối cao trong thế giới Thiên Chúa giáo. Và như vậy, Dòng tu đó đã phát, ban đầu còn chậm, càng về sau càng lớn mạnh nhanh hơn. Họ được huấn luyện gắt gao như những chiến binh, và do những thành công liên tiếp trên chiến trường, các hoạt động của họ cành lúc càng lan rộng. Từ sứ mạng ban đầu là bảo vệ những người hành hương, dần dần họ được coi là các chiến binh bảo vệ vùng Đất Thánh.
Trong thời gian không đầy một trăm năm, Dòng tu Hiệp sĩ Đền Thánh đã trở thành một trong những tổ chức giàu có nhất và thế lực nhất ở châu Âu, chỉ đứng sau Giáo hoàng, họ sỡ hữu vô số đất đai ở Anh, Scotland, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo... Và với một mạng lưới lãnh thổ lâu đài thành quách rộng lớn như vậy, họ nhanh chóng trở thành những ông chủ ngân hàng quốc tế đầu tiên của thế giới, bố trí các cơ sở tín dụng cho các vị hoàng tộc bị phá sản trên khắp châu Âu, bảo vệ các quỹ hành hương, và trên thực tế đã phát minh khái niệm séc du lịch. Tiền tệ thời đó chỉ là vàng hay bạc và giá trị của chúng được tính một cách đơn giản dựa trên trọng lượng. Thay vì nhận lấy số vàng bạc mang theo người dễ bị cướp bóc, khách hành hương chỉ việc nạp tiền của mình vào nhà hay lâu đài của các Hiệp sĩ Đền Thánh tại bất kỳ nơi nào ở châu Âu và được nhận một tờ phiếu có ghi mã số. Khi đã đến nơi muốn đến, khách hành hương sẽ tới trụ sở của Hiệp sĩ Đền Thánh tại địa phương đó, đưa tờ phiếu kia ra, nó sẽ được giải mã bằng máy giải mã luôn được canh gác hết sức nghiêm ngặt, và nhận lại món tiền đã gửi.
Tess nhìn Reilly để biết chắc là anh đã nắm được những điều nàng vừa trình bày. “Từ cái thiện ý của một nhóm nhỏ gồm chín quý tộc muốn bảo vệ Đất Thánh khỏi sự quấy nhiễu của người Ả rập Hồi giáo, họ đã nhanh chóng hình thành một tổ chức bí mật thế lực nhất vào thời đó, cạnh tranh với Tòa Thánh Vatican về sự giàu có và tầm ảnh hưởng.”
“Rồi toàn bộ tổ chức đó đổ đốn ra chứ gì?” Reilly hỏi.
“Đúng vậy. Trên phạm vi lớn. Rốt cuộc vào thế kỷ mười ba các đạo quân Hồi giáo chiếm lại Đất Thánh và làm cho đoàn quân Thập tự chinh phải cuốn gói ra đi, lần này thì vĩnh viễn. Từ đó không còn Thập tự chinh nào nữa. Các Hiệp sĩ Đền Thánh là những người ra đi sau cùng, sau khi bị đánh bại tại Acre vào năm 1291. Khi trở về châu Âu, toàn bộ lý do tồn tại của họ không còn nữa. Không còn khách hành hương để hộ tống, chẳng còn Đất Thánh để bảo vệ. Không có tổ ấm để trở về, không có kẻ thù, và cũng chẳng còn chính nghĩa. Và họ cũng chẳng có nhiều bè bạn. Tất cả quyền lực và của cải đều rơi vào tay những kẻ cầm đầu, những chiến sĩ nghèo khổ của Chúa Kito không còn nghèo khổ nữa mà đã trở nên tham lam và kiêu ngạo. Và nhiều bậc đế vương, cụ thể là vua nước Pháp, đã nợ họ không ít tiền bạc.”
“Và họ sụp đổ đến tận bùn đen.”
“Sụp đổ và cháy rụi,” Tess gật đầu. “Theo đúng nghĩa,” Tess nhấp một ngụm cà phê và kể với Reilly về một chiến dịch, rỉ tai về các Hiệp sĩ Đền Thánh đã khởi sự vào thời đó như thế nào, và việc giữ bí mật theo nghi thức khi Dòng tu tiến hành nghi lễ kết nạp thành viên trong bao năm, chắc chắn đã trợ giúp đắc lực cho chiến dịch này. Chẳng bao lâu một loạt những cáo buộc dị giáo quá khích và ghê tởm nhắm vào họ.
“Rồi đã xảy ra chuyện gì?”
“Thứ Sáu ngày mười ba,” Tess nhăn mặt. “Nguồn gốc sự tích thứ Sáu ngày mười ba đấy.”
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa