Chỉ có một thành công mà thôi, đó là sống cuộc sống của mình theo cách của chính mình.

Christopher Morley

 
 
 
 
 
Tác giả: Haruki Murakami
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: スプートニクの恋人 Supūtoniku no koibito - Sputnik Sweetheart
Dịch giả: Ngân Xuyên
Biên tập: Yen
Upload bìa: anthony Lai
Số chương: 17
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 8200 / 707
Cập nhật: 2015-10-06 23:38:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15
hiều Chủ nhật, điện thoại kêu. Chủ nhật thứ hai sau khi năm học mới bắt đầu vào tháng Chín. Tôi đang chuẩn bị bữa trưa muộn và phải tắt bếp gas rồi mới trả lời. Tiếng chuông gần như khẩn cấp - ít nhất cũng có vẻ như vậy. Tôi tin chắc là Miu gọi để báo tin về nơi ở của Sumire. Tuy nhiên, không phải Miu gọi mà là bạn gái tôi.
"Xảy ra chuyện rồi," chị nói ngay, không chào hỏi như thường lệ. "Anh đến đây ngay bây giờ được không?"
Chuyện có vẻ đáng sợ. Có phải chồng chị đã biết về quan hệ của chúng tôi? Tôi hít một hơi thở sâu. Nếu mọi người phát hiện ra tôi ngủ với mẹ của một học sinh thì chắc chắn tôi sẽ gặp rắc rối to. Tình huống xấu nhất là tôi sẽ mất việc. Tuy nhiên, tôi đã sẵn sàng chấp nhận chuyện đó. Tôi đã biết về các rủi ro rồi.
"Chị đang ở đâu?" Tôi hỏi.
"Ở siêu thị," chị nói.
o O o
Tôi bắt chuyến tàu đến Tachikawa, xuống nhà ga cạnh siêu thị lúc 2h30. Buổi chiều vẫn nóng như thiêu, mùa hè lại quay trở lại, nhưng tôi mặc áo sơ mi trắng, quần xám nhạt và đeo cà vạt theo yêu cầu của chị. "Anh mặc thế trông ra dáng thầy giáo hơn," chị nói, "và anh sẽ gây ấn tượng tốt hơn. Đôi khi nhìn anh cứ như một cậu học sinh," chị nói thêm.
Ở cửa ra vào của siêu thị, tôi hỏi một trợ lý trẻ đang đẩy xe hàng đường đến văn phòng an ninh. Anh ta cho tôi biết nó nằm ở bên kia đường, trên tầng ba nhà phụ, một ngôi nhà nhỏ ba tầng xấu xí đến thang máy cũng không có. Những vết nứt chạy dọc bức tường bê tong dường như đang nói, này, đừng có lo lắng về chúng tôi, dù sao đi nữa thì người ta cũng sắp kéo sập nơi này rồi. Tôi lao lên dãy cầu thang chật hẹp, cũ nát, tìm được cánh cửa đề chữ AN NINH và gõ nhẹ mấy tiếng. Một giọng đàn ông trầm đáp lại. Tôi mở cửa, nhìn thấy bạn gái mình và đứa con trai của chị đang ngồi trước bàn làm việc đối diện với một nhân viên an ninh trung niên mặc đồng phục. Chỉ có ba người bọn họ.
Căn phòng kích thước vừa phải, không quá lớn, không quá nhỏ. Dọc cửa sổ kê ba chiếc bàn, một chiếc tủ sắt dựa lưng vào bức tường đối diện. Trên tường có bảng phân công nhiệm vụ và trên giá sắt đặt ba chiếc mũ của nhân viên an ninh. Phía sau cánh cửa kính mờ ở cuối phòng hình như có một phòng nữa, có lẽ là nơi nghỉ ngơi cho nhân viên. Căn phòng chúng tôi đang có mặt hầu như hoàn toàn không trang trí. Không hoa, không tranh, thậm chí đến lịch cũng không. Chỉ có một chiếc đồng hồ tròn to treo trên tường. Một căn phòng hoàn toàn trống trải, giống như một góc thế giới cổ xưa nào đó đã bị thời gian quên lãng. Thêm vào đó, nơi này toát ra một thứ mùi kỳ lạ - mùi của khói thuốc lá, tài liệu lưu cữu và mồ hôi trộn lẫn vào nhau qua bao nhiêu năm.
Viên trưởng phòng an ninh là một người đàn ông mập mạp, tuổi ngoài năm mươi. Ông ta có đôi cánh tay lực lưỡng, cái đầu lớn phủ mái tóc muối tiêu thô dày được xịt thứ nước dưỡng tóc rẻ tiền, loại tốt nhất ông ta có thể mua với mức lương thấp của nhân viên an ninh. Cái gạt tàn trước mặt ông ta đầy ứ đầu mẩu thuốc lá Seven Star. Khi tôi bước vào phòng, ông ta gỡ chiếc kính gọng đen ra, lấy một mảnh vải lau lau rồi lại đeo vào. Có lẽ đấy là cách ông ta chào hỏi người mới đến. Khi bỏ kính ra, mắt ông ta lạnh như đá trên mặt trăng. Khi ông ta đeo kính trở lại thì sự lạnh lẽo không còn, thay vào đó là cái nhìn chằm chằm đầy vẻ dọa nạt.\ Nhưng có kính hay không thì cái nhìn của ông ta cũng không giúp cho người đối diện thấy thoải mái.
Căn phòng nóng nực ngột ngạt; cửa sổ mở rộng nhưng không có chút gió nào lọt vào. Chỉ có tiếng ồn ào từ đường phố bên ngoài. Một chiếc xe tải to phanh kít lại vì đèn đỏ, tiếng phanh gợi tôi nhớ tới tiếng saxophone teno của Ben Webster những năm gần đây. Mọi người trong phòng đều đẫm mồ hôi. Tôi tiến lại bàn, tự giới thiệu, và đưa cho nhân viên an ninh danh thiếp của mình. Ông ta cầm lấy không nói một lời, mím môi, chăm chăm nhìn nó một lúc, rồi đặt lên trên bàn và ngước nhìn tôi.
"Anh còn khá trẻ để làm thầy giáo đấy, đúng không," ông ta nói. "Anh dạy học được bao lâu rồi?"
Tôi giả vờ suy nghĩ một chút rồi đáp, "Ba năm."
"Hừm," ông ta nói. Và không nói bất kỳ điều gì khác. Nhưng sự im lặng đã nói một cách rất hùng hồn. Ông ta cầm tấm danh thiếp lên, đọc tên tôi lần nữa như thể đang kiểm tra lại điều gì đó.
"Tôi là Nakamura, phụ trách văn phòng an ninh ở đây," ông ta tự giới thiệu. Ông ta không đưa danh thiếp của mình. "Cứ tự nhiên kéo lấy ghế nhé. Xin lỗi vì nóng quá. Điều hòa nhiệt độ bị hỏng, và Chủ nhật thì sẽ chẳng có ai đến sửa cả. Họ không đủ tử tế đến mức mang cho tôi một cây quạt, nên tôi đành ngồi chịu đựng vậy. Anh cứ cởi áo ngoài ra nếu muốn. Chúng ta có thể phải ở đây một lúc, và chỉ nhìn anh cũng làm tôi phát ngốt rồi."
Tôi làm theo lời ông ta, kéo một chiếc ghế lại và cởi áo khoác ra. Chiếc áo sơ mi đẫm mồ hôi dính chặt vào da.
"Anh biết đấy, lúc nào tôi cũng ganh tị với cánh giáo viên." Nhân viên an ninh lên tiếng. Một nụ cười thoáng qua hiện trên khóe môi, tuy nhiên đôi mắt với ánh nhìn như của loài động vật ăn thịt ngoài biển cả vẫn dò xét tận nơi sâu kín con người tôi để tìm kiếm một động thái mơ hồ nhất. Lời lẽ ông ta khá lịch sự nhưng chỉ bề ngoài thôi. Từ giáo viên nghe như xúc phạm.
"Các anh có hơn một tháng hè nghỉ ngơi, chẳng phải làm đêm hay ngày Chủ nhật, lại luôn được mọi người quà cáp. Đời thế mới là đời. Đôi khi tôi ước chi mình học hành chăm chỉ hơn và chính mình cũng trở thành thầy giáo. Số phận nhảy vào can thiệp và tôi ở đây - một nhân viên an ninh siêu thị. Tôi biết, mình không đủ thông minh. Nhưng tôi đã bảo các con tôi lớn lên phải thành giáo viên. Tôi không quan tâm bất kỳ ai khác nói gì, giáo viên dễ dàng có được tất cả những gì họ cần."
Bạn gái tôi mặc chiếc áo ngắn tay màu xanh giản dị. Tóc chị búi gọn gàng trên đỉnh đầu và chị đeo đôi hoa tai nhỏ. Đôi dép trắng cao gót, túi xách trắng, và trong lòng là chiếc khăn mùi xoa nhỏ màu kem. Đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp lại nhau sau khi tôi từ Hy Lạp về.
Chị đưa cặp mắt sưng húp vì khóc hêt nhìn tôi lại nhìn ông bảo vệ. Rõ ràng chị đang vô cùng căng thẳng.
Chúng tôi trao đổi với nhau một ánh mắt vội vã, rôi tôi quay sang con chị. Tên nó là Shin'ichi Nimura, nhưng bọn bạn học đặt cho nó biệt danh Cà rốt. Với khuôn mặt dài, gầy gò và mớ tóc quăn bù xù, nó thật hợp với biệt danh đó. Tôi cũng thường gọi nó như vậy. Nó là đứa tre lặng lẽ, chỉ khi cần mới mở miệng. Nó học không tồi, ít khi quên làm bài tập và không đùn đẩy chuyện trực nhật lớp. Không bao giờ dính vào rắc rối. Nhưng nó thiếu tính chủ động, không bao giờ giơ tay phát biểu trong lớp. Bạn học của Cà rốt không ghét nó, nhưng nó cũng không được xếp vào loại được yêu mến. Mẹ nó không thích thế lắm, nhưng đứng từ quan điểm của mình thì tôi thấy nó là đứa ngoan.
"Chắc anh đã nghe mẹ thằng bé cho biết chuyện gì xảy ra," nhân viên an ninh nói.
"Vâng, tôi biết," tôi trả lời. "Nó bị bắt khi ăn cắp ở siêu thị."
"Đúng vậy," ông ta nói và lấy một hộp các tông ở dưới chân đặt lên bàn. Ông ta đẩy nó về phía tôi. Trong hộp có mấy cái dập ghim nhỏ còn nguyên vỏ. Tôi cầm lên một cái xem xét. Mảnh giấy đề giá 850 yên.
"Tám cái dập ghim. Đấy là tất cả?" Tôi hỏi.
"Phải. Tất cả đấy."
Tôi bỏ cái dập ghim trở lại hộp. "Như vậy tổng số tiền chỗ này là 6800 yên."
"Chính xác. 6800 yên. Chắc anh đang nghĩ, 'Ồ, được thôi, nó đã ăn cắp. Đó là phạm tội, chắc chắn, nhưng chỉ tám cái dập ghim thì có gì mà làm căng thế? Nó chỉ là học sinh thôi mà.' Tôi nói có đúng không?"
Tôi không đáp.
"Nghĩ thế cũng chẳng sao. Vì đó là sự thực. Còn có nhiều tội tệ hại hơn là việc lấy cắp tám cái dập ghim. Trước khi làm nhân viên an ninh, tôi đã từng là cảnh sát, vì thế tôi biết mình đang nói chuyện gì chứ."
Khi nói, ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi chịu đựng cái nhìn đó, cẩn thận không tỏ vẻ thách thức.
"Nếu đây là lần phạm tội đầu tiên của cậu ta thì cửa hàng chúng tôi cũng chẳng gây chuyện om sòm làm gì. Việc kinh doanh của chúng tôi là phải làm hài lòng khách hàng, và chúng tôi không muốn quá bận tâm đến một việc nhỏ nhặt như thế. Bình thường tôi sẽ dẫn đứa bé đến phòng này, răn đe cảnh cáo một chút. Vụ nào nghiêm trọng thì chúng tôi liên lạc với gia đình đề nghị họ trừng phạt con cái. Chúng tôi không báo cho nhà trường. Đó là chính sách của cửa hàng chúng tôi, giải quyết êm đẹp các vụ trẻ con ăn cắp.
Vấn đề là, đây không phải lần đầu tiên thằng bé này ăn cắp. Chỉ riêng ở cửa hàng chúng tôi nó đã làm ba vụ rồi. Ba vụ! Anh có tưởng tượng được không? Điều tệ hại là trong hai vụ đầu nó không chịu cho chúng tôi biết tên hay trường nó học. Tôi là người xử lý việc này nên tôi nhớ rõ. Nó không hề hé răng, mặc cho chúng tôi ra sức căn vặn. Theo cách nói của cảnh sát, đó là thủ đoạn lì. Không hối hận, ăn năn, cứ trơ ra như đá. Lần này nếu nó vẫn không chịu cho biết tên thì tôi sẽ giải nó sang cảnh sát, nhưng thậm chí điều này cũng chẳng khiến nó có phản ứng gì. Chẳng thể làm gì khác, nên tôi đã ép nó phải đưa thẻ xe buýt ra, nhờ đó tôi mới biết được tên nó."
Ông ta dừng lời, chờ cho tôi ngấm hết những điều vừa nói. Mắt ông ta vẫn chĩa vào tôi và tôi tiếp tục chịu đựng cái nhìn đó.
"Vấn đề khác là những thứ nó ăn cắp. Chẳng có gì khôn ngoan cả. Lần đầu nó lấy cắp mười lăm cái bút bi. Tổng số tiền là 9750 yên. Lần thứ hai tám cái compa, thành tiền là 8000 yên. Không cần phải nói cũng thấy, lần nào nó cũng lấy trộm một đống đồ cùng loại. Nó không dùng cho mình. Nó làm thế chỉ để tiêu khiển, hoặc định đem đến trường bán cho bạn bè."
Tôi thử hình dung cảnh Cà rốt đem những cái dập ghim ăn cắp ra bán cho bạn bè trong giờ ăn trưa ở trường nhưng không thể hình dung nổi.
"Tôi không hiểu," tôi nói. "Tại sao lại chỉ lấy cắp trong một cửa hàng thôi?" tôi nói. "Không phải nguy cơ bị tóm là rất cao sao, và hình phạt sẽ nặng hơn. Nếu muốn tránh bị tóm thì không phải theo lẽ thông thường anh sẽ thử ở các cửa hàng khác sao?"
"Đừng có hỏi tôi. Có lẽ nó cũng đã lấy cắp ở các cửa hàng khác. Hoặc cũng có thể tình cờ nó thích cửa hàng chúng tôi. Có thể nó không thích mặt nhân viên an ninh bình thường cho siêu thị, hơi đâu dính vào những chuyện rắc rối. Tiền người ta trả cho tôi không đủ để làm việc đó. Nếu anh thật sự muốn biết thì cứ tự mình hỏi nó đi. Tôi lôi nó về đây đã ba tiếng đồng hồ mà cấm thấy nó hó hé gì. Thật kỳ lạ. Cho nên tôi mới kéo anh đến đây. Tôi xin lỗi vì đã bắt anh đến vào ngày nghỉ...Nhưng ngay khi anh mới bước vào tôi đã băn khoăn một chuyện. Anh trông có vẻ rám nắng. Chuyện này chẳng liên quan gì đến công việc ở đây, nhưng có phải anh vừa đi nghỉ hè ở nơi nào đó đặc biệt?"
"Không, không có nơi đặc biệt nào cả."
Tuy vậy, người nhân viên bảo vệ vẫn nhìn tôi soi mói, như thể tôi là một phần quan trọng trong câu đố này.
Tôi lại cầm cái dập ghim lên quan sát kỹ. Chỉ là một cái dập ghim nhỏ bình thường thuộc loại văn phòng phẩm rẻ tiền có thể thấy ở bất cứ ngôi nhà hay công sở nào. Một đồ văn phòng phẩm rẻ tiền. Nhân viên an ninh ngậm một điếu Seven Star, châm thuốc bằng chiếc bật lửa Bic rồi nghiêng sang một bên nhả khói mù mịt.
Tôi quay sang đứa bé nhẹ nhàng hỏi: "Sao lại là dập ghim?"
Cà rốt nãy giờ đang nhìn xuống sàn nhà, giờ lặng lẽ ngẩng mặt lên nhìn tôi. Nhưng nó không nói gì. Lần đầu tiên tôi để ý thấy vẻ mặt nó thay đổi hoàn toàn: vẻ thẫn thờ kỳ lạ, mắt nhìn vào vô định. Nó như đang nhìn vào khoảng không.
"Ai bắt em làm thế?"
Vẫn không có câu trả lời. Thật khó đoán biết được nó có hiểu tôi nói gì không. Tôi bỏ cuộc.
Hỏi đứa bé bất kỳ điều gì vào lúc này đều không có kết quả. Cửa ra vào của nó đã đóng, cửa chính đã khép.
"Vậy đấy, thưa thầy, bây giờ chúng ta phải làm gì đây?" Nhân viên an ninh hỏi tôi. "Việc của tôi là rảo quanh cửa hàng, kiểm tra máy theo dõi, tóm bọn trộm cắp và giải chúng về căn phòng này. Còn sau đó thế nào lại là chuyện hoàn toàn khác. Đặc biệt khó xử lý khi nó là trẻ con. Theo anh chúng ta phải làm gì đây? Tôi chắc anh thông thạo về vấn đề này hơn chúng tôi. Chúng ta có nên giao vụ này lại cho cảnh sát không? Làm thế chắc chắn sẽ dễ dàng hơn cho tôi. Dù sao đi nữa thì bơi đứng chỉ làm chúng ta phí thời gian thôi."
Nói thực thì lúc này đầu óc tôi đang mải nghĩ chuyện khác. Cái phòng an ninh nhỏ bé buồn thảm của siêu thị này gợi tôi nhớ đến đồn cảnh sát trên hòn đảo Hy Lạp. Và ý nghĩ tức khắc hướng về Sumire. Về việc cô đã biến mất.
Tôi phải mất một lúc mới hiểu nhân viên an ninh đang cố nói gì với mình.
"Tôi sẽ báo cho bố nó biết." mẹ Cà rốt nói bằng giọng đều đều. "Và đảm bảo cho con tôi biết một cách dứt khoát rằng ăn cắp hàng trong siêu thị là một tội lỗi. Tôi hứa nó sẽ không làm phiền ông lần nào nữa."
"Thế nghĩa là chị không muốn đưa vụ này ra tòa. Chị đã nói thế hết lần này đến lần khác rồi," nhân viên an ninh nói giọng mệt mỏi. Ông gảy tàn thuốc vào chiếc gạt tàn. Ông ta lại quay sang tôi nói: " Nhưng với tôi thì ba lần phạm lỗi là đủ lắm rồi. Ai đó phải chấm dứt việc này chứ. Anh nghĩ sao về chuyện này?"
Tôi hít một hơi thở sâu, kéo tâm trí mình quay lại hiện thực. Quay lại với tám cái dập ghim và chiều Chủ nhật tháng Chín.
"Tôi chưa thể nói gì chừng nào chưa trò chuyện được với cậu ta," tôi đáp. "Nó à một đứa bé thông minh, và từ trước đến nay chưa có gì sai phạm. Tôi không biết vì sao nó lại làm một chuyện khờ dại như vậy nhưng tôi sẽ dành thời gian tìm hiểu ngọn ngành. Tôi thực sự xin lỗi vì tất cả rắc rối nó đã gây ra."
"Tôi thật không thể nào hiểu được," nhân viên an ninh nói, đôi lông mày cau lại sau cặp kính râm. "Cậu bé này – Shin’ichi Nimura hả? Học sinh của anh đúng không? Anh gặp nó hàng ngày, đúng không?"
"Đúng vậy."
"Nó học lớp bốn, thế nghĩa là nó đã ở trong lớp của anh một năm bốn tháng. Tôi nói đúng chứ?"
"Vâng, đúng vậy. Tôi dạy các trò này từ hồi lớp ba."
"Lớp anh có bao nhiêu học sinh?"
"Ba mươi lăm."
"Vậy thì anh có thể để mắt đến tất cả bọn chúng. Anh vừa bảo tôi anh chưa bao giờ thấy nó có biểu hiện sai phạm gì. Hoàn toàn không có biểu hiện gì?"
"Đúng vậy."
"Gượm đã - theo chỗ chúng tôi biết, trong vòng nửa năm cậu ta đã thực hiện ba vụ ăn cắp. Luôn luôn một mình. Chẳng ai bắt nó làm việc đó cả. Cũng không phải do sự thúc ép của hoàn cảnh. Nó cũng không làm vì tiền. Theo lời mẹ nó thì bao giờ trong túi nó cũng đầy tiền.
Như vậy nó ăn cắp chỉ để mà ăn cắp. Nói cách khác là thằng bé này có vấn đề. Và anh nói với tôi không hề có bất kỳ dấu hiệu nào sao?"
"Ở đây tôi đang nói với tư cách thầy giáo," tôi đáp, nhưng đặc biệt với trẻ em, thói quen lấy cắp đồ trong cửa hàng không phải là hành động phạm tội mà chỉ là hệ quả của sự mất cân bằng về tình cảm khó phát hiện. Có thể nếu quan tâm hơn thì tôi đã để ý thấy một điều gì đó. Đây quả là lỗi của tôi. Nhưng với những đứa trẻ bị rối loạn về mặt tình cảm thì không phải lúc nào cũng có biểu hiện ra bên ngoài. Nếu ông tách riêng hành động này ra khỏi những thứ khác và trừng phạt đứa trẻ thì vẫn không giải quyết được vấn đề cơ bản. Trừ khi ông tìm ra nguyên nhân cơ bản và chữa trị tận gốc, nếu không thì vấn đề đó về sau sẽ lại nổi lên dưới một hình thức khác. Thường thì khi thực hiện việc ăn cắp bọn trẻ muốn gửi đi một thông điệp, vì vậy nếu không phải là cách hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề thì việc dành thời gian chuyện trò với chúng cũng là điều quan trọng."
Nhân viên an ninh giụi điếu thuốc, hơi há miệng, nhìn tôi chằm chằm một hồi lâu như thể tôi là một con vật kỳ quái. Ngón tay ông ta đặt trên mặt bàn mập mạp khủng khiếp, giống như mười con vật lông lá màu đen. Càng nhìn chúng tôi càng thấy khó thở.
"Đấy là điều người ta dạy anh ở trường hả, có phải các anh gọi nó là kỹ năng sư phạm hay cái gì đại loại thế?"
"Không nhất thiết. Đó là kiến thức tâm lý học cơ bản. Ông có thể đọc thấy trong bất kỳ cuốn sách nào."
"Có thể đọc thấy trong bất kỳ cuốn sách nào," ông ta nhắc lại lời tôi bằng một giọng lờ phờ. Ông ta cầm chiếc khăn tay lên lau mồ hôi trên chiếc cổ dày."
"Sự mất cân bằng về tình cảm khó phát hiện - cái đó có nghĩ là gì vậy? Hồi còn làm cảnh sát, suốt từ sáng đến tối, ngày nào tôi cũng tiếp xúc với những người mất cân bằng về tình cảm, đúng vậy. Nhưng chẳng có gì là khó phát hiện cả. Thế gian đầy những kẻ như thế. Vô thiên. Nếu tôi giành thời gian nghe mọi thông điệp mà họ gửi đi thì tôi có đến mười bộ óc cũng không đủ."
Ông ta thở dài và đặt lại hộp dập ghim xuống dưới bàn.
"Phải, anh hoàn toàn đúng. Trẻ em là những tâm hồn trong sáng. Trừng phạt về mặt thể xác với chúng là không được. Mọi người đều bình đẳng. Không thể xét đoán con người bằng học vấn. Dành thời gian trò chuyện để tìm cách giải quyết vấn đề. Tôi không phản đối việc đó. Nhưng anh có nghĩ nhờ thế mà thế giới trở nên tốt hơn không? Không hề. Nó chỉ xấu đi thôi. Làm sao mọi người có thể bình đẳng với nhau được? Tôi chưa từng nghe thấy một điều như thế. Nghĩ mà xem - ngày nào ở cái nước Nhật này cũng có đến 110 triệu người chen chúc. Làm cho tất cả bọn họ bình đẳng. Họa có mà địa ngục."
"Nói những lời ngọt ngào thì dễ lắm. Mắt nhắm lại, vờ như không thấy những chuyện đang xảy ra, và tha hồ ba hoa. Giữ không khí yên ả, hát bài "Auld Lang Syne," trao bằng tốt nghiệp cho học sinh, và tất cả mọi người sống hạnh phúc mãi mãi về sau. Ăn cắp hàng hóa là thông điệp của trẻ em. Không cần biết những chuyện về sau. Cách này dễ quá, vậy tại sao không chứ? Nhưng ai sẽ dọn dẹp quang cảnh bừa bộn? Những người như tôi, thế đấy. Anh nghĩ chúng tôi làm việc đó vì ý thích à? Anh mang cái bộ mặt này - 6800-yên-thì-có-gì-chứ? Nhưng hãy nghĩ đến những người bị nó ăn cắp. Ở đây có hàng trăm con người làm việc và anh hãy tin là họ rất coi trọng việc sai lệch một hay hai yên. Khi họ đưa biên lai vào máy tính tiền mà thấy có chênh lệch 100 yên thì họ sẽ ngồi lại đến tận đêm khuya để kiểm tra lại tất cả. Anh có biểt ở siêu thị này các cô thu ngân nhận được bao nhiêu một giờ không? Sao anh không dạy điều đó cho học sinh của anh?"
Tôi không nói gì. Mẹ của Cà rốt im lặng, thằng bé cũng vậy. Nhân viên an ninh mệt lử sau khi nói và lại chìm vào im lặng. Ở phòng bên có tiếng điện thoại và ai đó đã nhấc máy lên ngay từ hồi chuông đầu tiên.
"Vật thì, chúng ta nên làm gì đây?"
"Treo ngược nó lên trần nhà cho đến khi nó biết nhận lỗi thì sao," tôi nói.
"Ý hay đấy! Vì anh biết cả hai chúng ta sẽ chẳng làm được gì cả."
"Rồi, vậy thì điều duy nhất chúng ta có thể làm là kiên nhẫn thảo luận vấn đề. Tôi không nghĩ ra được ý nào nữa."
Có người từ phòng bên gõ cửa bước vào. "Ông Nakamura, cho tôi mượn chìa khóa nhà kho được không." Ông Nakamura lục ngăn kéo bàn một lúc những không tìm thấy.
"Nó biến mất rồi," ông ta nói. "Lạ thật. Tôi luôn để nó ở đây mà."
"Chuyện rất quan trọng đấy, tôi cần chìa khóa ngay," người đàn ông kia nói. Nghe cách họ trao đổi với nhau thì thấy có vẻ như chiếc chìa khóa đó rất quan trọng và dường như ngay từ đầu nó đã không nằm ở đây. Họ xới tung tất cả các ngăn kéo bàn nhưng vẫn không tìm thấy.
Suốt thời gian đó ba chúng tôi vẫn ngồi yên lặng. Đôi lần mẹ Cà rốt đảo mắt sang phía tôi. Cà rốt vẫn ngồi vô cảm như trước, mắt cắm xuống đất. Đầu óc tôi ngổn ngang những ý nghĩ không đầu không cuối. Căn phòng vẫn nóng khủng khiếp.
Người đàn ông cần chìa khóa bỏ cuộc, cằn nhằn khi bỏ đi.
"Thôi, đủ rồi," ông Nakamura quay sang chúng tôi, nói bằng giọng sự vụ khô khan. "Cám ơn anh đã đến. Chúng ta kết thúc ở đây. Việc còn lại tùy anh và mẹ đứa bé giải quyết. Nhưng phải biết rằng nếu nó tái phạm thì không xong với tôi đâu. Tôi hy vọng anh hiểu điều đó. Tôi không muốn gặp bất cứ rắc rối nào. Nhưng tôi phải làm công việc của minh."
Mẹ cậu bé gật đầu, tôi cũng vậy. Cà rốt thì vẫn như không nghe thấy gì. Tôi đứng lên, hai mẹ con mệt mỏi cũng đứng lên theo.
"Một điều cuối cùng," nhân viên an ninh nói, vẫn ngồi yên. "Tôi biết thế này là khiếm nhã, nhưng dù sao tôi cũng vẫn cứ nói. Ngay lúc nhìn thấy anh tôi đã cảm thấy có điều gì đó bất an. Anh trẻ trung, cao ráo, dễ ưa, da rám nắng, nói năng mạch lạc. Mọi điều anh nói đều hoàn toàn có ý nghĩa. Tôi chắc phụ huynh học sinh rất quý anh. Tôi không biết nói sao, nhưng ngay lần đầu tiên nhìn thấy anh, ở anh đã có điều gì đó khiến tôi băn khoăn. Điều gì thì tôi cũng không cắt nghĩa được. Không phải chuyện riêng tư đâu, xin anh đừng bực mình. Chỉ là một cái gì đó khiến tôi lo lắng thôi. Nhưng tôi không hiểu nó là gì mà giày vò tôi như vậy?"
"Ông có phiền không nếu tôi đặt cho ông một câu hỏi riêng tư?"
"Cứ hỏi đi."
"Nếu mọi người không bình đẳng thì bản thân ông đứng ở đâu?"
Ông Nakamura hít một hơi thuốc lá, lắc đầu, rồi chầm chậm nhả khói ra, như thể đang bắt ai đó làm một việc gì. "Tôi không biết," ông đáp. "Nhưng anh đừng lo. Hai chúng ta trình độ khác nhau."
Bạn gái tôi đậu chiếc Toyota Celica màu đỏ trong bãi xe siêu thị. Tôi gọi chị sang bên cách xa đứa bé rồi bảoo chị về nhà một mình.
"Tôi cần nói chuyện riêng với nó một lúc, rồi sẽ đưa nó về nhà sau." Chị gật đầu. Chừng như chị còn muốn nói điều gì đó với tôi, những lại thôi, ngồi vào xe, lấy kính râm ra đeo và nổ máy.
Khi chị đã lái xe đi, tôi đưa Cà rốt vào một quán cà phê náo nhiệt tôi thấy ở gần đó. Tôi ngồi thư giãn trong phòng có điều hòa nhiệt độ, gọi cho mình một cốc trà đá và cho đứa bé một cốc kem. Tôi mở cúc áo trên, cởi cà vạt nhét vào túi quần. Cà rốt vẫn giữ thái độ im lìm. Vẻ mặt và ánh mắt nó không hề thay đổi kể từ khi chúng tôi ở phòng bảo vệ. Trông nó trống rỗng như đang lạc vào một chốn nào. Đôi tay nhỏ bé để ngay ngắn trên đầu gối, mắt nhìn xuống sàn, nó cố quay mặt đi. Tôi uống trà đá, nhưng Cà rốt không động đến cốc kem của nó. Kem đang từ từ tan ra trong đĩa, nhưng nó cũng chẳng có vẻ gì là chú ý. Chúng tôi ngồi đối diện nhau trong im lặng như một cặp vợ chồng đang cùng chia sẻ sự im lặng kỳ quặc. Cô phục vụ quán mỗi khi đến bàn chúng tôi dọn dẹp lại tỏ ra căng thẳng.
"Mọi chuyện cứ thế xảy ra," cuối cùng tôi lên tiêng. Tôi cố gắng phá vỡ sự im lặng. Lời lẽ cứ tự trong lòng trào ra, Cà rốt chậm chạp ngước đầu lên quay về phía tôi. Nó không nói gì. Tôi nhắm mắt, thở ra, ngừng một lát.
"Chuyện này thấy chưa kể với ai, đó là dịp hè này thầy đi đến Hy Lạp. Em có biết Hy Lạp ở đâu không? Chúng ta đã biết nước này qua băng video xem trong giờ học xã hội ở lớp, chắc em còn nhớ. Nó nằm ở miền Nam châu Âu, giáp Địa Trung Hải. Ở đó có nhiều hòn đảo và người ta trồng nhiều ôliu. Năm trăm năm trước công nguyên nền văn minh Hy Lạp đã phát triển rực rỡ. Athens là cái nôi của dân chủ, và Socrates đã phải uống thuốc độc chết. Đấy là nơi thầy đã đến. Một chỗ tuyệt đẹp. Nhưng thầy không đến đấy để nghỉ ngơi. Một người bạn của thầy bị mất tích trên một hòn đảo nhỏ ở Hy Lạp nên thầy đến để giúp tìm kiếm. Nhưng không tìm thấy gì cả. Bạn thầy đã lặng lẽ tan biến. Như một làn khói."
Cà rốt khẽ nhếch miệng, nhìn tôi. Vẻ mặt nó vẫn bất động, thiếu sinh khí, nhưng trong mắt như đã có ánh sáng. Tôi đã lay động được nó.
"Thầy thật sự thích người bạn này của mình. Rất, rất yêu. Với thầy, đó là người quan trọng hơn hết thảy mọi thứ trên đời. Vì vậy thầy đã bay sang hòn đảo Hy Lạp đó để tìm kiếm. Nhưng không ích lợi gì cả. Thầy không tìm thấy một manh mối nào. Từ khi mất đi người bạn đó, thầy không còn bạn nào nữa. Không một ai hết."
Tôi không với Cà rốt mà là nói với chính mình. Nghĩ to lên thành tiếng.
"Em có biết bây giờ thầy muốn làm gì nhất không? Trèo lên đỉnh một nơi thật cao như kim tự tháp. Nơi cao nhất thầy có thể tìm thấy. Nơi em có thể nhìn được xa nhất. Đứng trên đỉnh cao đó, ngắm nhìn xung quanh, tự mắt mình thấy toàn bộ phong cảnh, thấy những cái đã lìa khỏi thể giới. Thầy không biết nữa...Có thể là thầy thực sự không muốn thấy thế. Có thể thầy không muốn thấy thêm bất cứ cái gì nữa."
Cô phục vụ đi đến dọn đĩa kem đã tan ra của Cà rốt và để lại tờ biên lai.
o O o
"Từ hồi nhỏ thầy đã luôn thấy mình cô độc. Thầy có bố mẹ và chị gái nhưng thầy không hợp với họ. Thầy không thể nói chuyện được với bất kỳ ai trong gia đình. Cho nên thầy thường tưởng tượng mình là con nuôi. Vì một lý do nào đó, một người họ hàng xa nào đó đã bỏ lại thầy cho gia đình thầy. Hoặc cũng có thể bố mẹ thầy nhận thầy từ trại trẻ mồ côi. Bây giờ thì thầy nhận ra ý nghĩ đó ngu ngốc đến thế nào. Bố mẹ thầy không phải loại người có thể nhận trẻ mồ côi về nuôi dạy. Nhưng thầy vẫn không thể chấp nhận được thực tế là mình cùng huyết thống với họ. Nghĩ rằng họ hoàn toàn là những người xa lạ giúp thầy thấy nhẹ nhõm hơn.
Thầy hình dung ra một thị trấn ở nơi xa. Nơi đó có ngôi nhà gia đình thực sự của thầy sinh sống. Chỉ là một ngôi nhà nhỏ bình dị nhưng ấm áp và mến khách. Mọi người đều có thể hiểu nhau, có thể nói bất kỳ điều gì mình thích. Chiều chiều có thể nghe tiếng mẹ chuẩn bị bữa tối trong bếp, ngửi thấy mùi thơm ngon lành của thức ăn. Đấy mới đúng là nơi thầy thuộc về. Thầy luôn hình dung ra nơi đó trong tâm trí, và thầy là một phần trong bức tranh đó.
Trong cuộc sống thật, gia đình thầy nuôi một con chó và đó là người bạn duy nhất của thầy. Nó là giống chó lai, khá lanh lợi; dạy nó điều gì là nó nhớ ngay. Hàng ngày thầy dắt nó đi dạo, khi đến công viên, thầy sẽ ngồi lên ghế và nói đủ thứ trên đời. Thầy và nó rất hiểu nhau. Đấy là những giờ khắc hạnh phúc nhất của thầy hồi nhỏ. Khi thầy lên lớp năm thì con chó bị một chiếc xe tải cán chết ở gần nhà. Từ đấy bố mẹ thầy không cho thầy mua con khác nữa. Họ bảo giống cho bẩn thỉu, ầm ĩ, chỉ tổ làm quẩn chân, rách việc.
Sau khi mất con chó, thầy ở lì trong phòng đọc sách. Đối với thầy thế giới trong sách dường như sống động hơn bên ngoài nhiều. Thầy có thể nhìn thấy những điều thầy chưa bao giờ thấy trước đó. Sách và âm nhạc là những người bạn thân thiết của thầy. Ở trường thầy cũng có đôi ba người bạn, nhưng thầy chưa gặp được ai để có thể dốc bầu tâm sự. Với những người bạn ở trường thì thầy chỉ trò chuyện qua loa và cùng đá bóng vậy thôi. Khi có chuyện buồn phiền thầy chẳng tìm đến ai cả. Thầy chỉ tự mình suy nghĩ, tự mình quyết định, tự mình hành động. Không phải thầy không cảm thấy lẻ loi. Thầy nghĩ cuộc đời là vậy. Xét cho cùng, làm người là phải tự mình chống chọi với cuộc đời này.
Nhưng khi vào đại học thầy gặp người bạn vừa kể em nghe vậy là thầy phải thay đổi suy nghĩ. Thầy hiểu ra rằng thói quen lâu nay tự mình nghĩ ngợi mọi việc chỉ khiến mình thu mình lại, nhìn sự vật chỉ bằng con mắt của một người. Và thầy bắt đầu cảm thấy chỉ có một mình lẻ loi là điều cô độc khủng khiếp.
Cô độc là cảm giác như khi đứng ở cửa một con song lớn vào một chiều mưa nhìn dòng nước trôi ra biển. Em đã bao giờ làm thế chưa? Đứng ở cửa một con sông lớn và nhìn dòng nước trôi ra biển?"
Cà rốt không đáp.
"Thầy đã từng làm thế," tôi nói.
Cà rốt mở to mắt nhìn tôi.
"Thầy không thể nói vì sao lại cảm thấy cô độc đến vậy khi nhìn nước sông hòa vào nước biển. Nhưng nó thực sự là thế. Em cũng nên thử một lần xem."
Tôi cầm áo vét và biên lai tính tiền chậm rãi đứng lên. Tôi đặt một tay lên vai Cà rốt, nó cũng nhỏm dậy. Hai chúng tôi rời khỏi quán cà phê.
Từ quán cà phê về nhà đứa bé mất khoảng nửa giờ đi bộ. Chúng tôi cùng nhau đi, tôi không nói một lời nào.
Bên cạnh nhà là một con sông nhỏ với chiếc cầu bê tông bắc qua. Gọi là sông thì hơi quá, đó chỉ là một con mương được khơi rộng. Có lẽ khi quanh đây còn là đồng ruộng thì nó được dùng để tưới tiêu. Bây giờ nước đã đục ngầu, bốc mùi xà phòng giặt. Cỏ hè mọc giữa lòng sông, có một cuốn truyện tranh ai vứt xuống nổi lềnh phềnh trên mặt nước. Cà rốt đi đến giữa cầu, nghiêng mình qua thành cầu ngó xuống dưới. Tôi đứng cạnh nó cũng đưa mắt nhìn theo. Cả hai đứng thế hồi lâu. Có lẽ nó không muốn về nhà. Tôi có thể hiểu điều đó.
Cà rốt sục tay vào túi quần lôi ra một chiếc chìa khóa đưa cho tôi. Đó là một cái chìa bình thường có dán mảnh giấy đỏ to. Trên mảnh giấy đề KHO 3. Đấy là chiếc chìa khóa kho mà ông nhân viên an ninh Nakamura tìm kiếm hồi nãy. Chắn hẳn khi bị bỏ lại một mình trong phòng một lúc, Cà rốt thấy nó trong ngăn kéo bàn và đút ngay vào túi. Đầu óc cậu bé này bí ẩn hơn tôi tưởng. Nó quả là đứa trẻ lạ lùng.
Tôi cầm chiếc chìa để lên lòng bàn tay, cảm thấy sức nặng của bao người đã thấm vào nó. Trước mắt tôi nó hiện ra khốn khổ, bẩn thỉu, ti tiện. Ngẫm nghĩ giây lát, tôi thả chiếc chìa xuống sông. Một tiếng tõm vọng lên. Sông không sâu nhưng nước đục nên chiếc chìa khóa biến mất tăm. Tôi và Cà rốt đứng sát bên nhau nhìn xuống nước một lúc. Không biết vì sao nhưng nó làm tôi có cảm giác vui vẻ, cơ thể nhẹ bẫng.
"Quá muộn để lấy lại nó rồi," tôi nói với chính mình hơn là với cậu bé. "Thầy nghĩ là họ còn có một chiếc chìa khóa dự phòng ở đâu đó. Sau cùng thì đấy là kho hàng quý của họ mà."
Tôi chìa tay ra và Cà rốt nhẹ nhàng nắm lấy. Tôi cảm nhận được những ngón tay mảnh khảnh, nhỏ bé của nó trong tay mình. Một cảm giác tôi đã từng trải qua - không còn nhớ ở đâu - nhiều năm trước. Tôi siết chặt tay nó và hai thầy trò rảo bước về nhà.
Khi chúng tôi bước vào nhà thì mẹ nó đang ngồi đợi. Chị đã thay đồ, mặc áo khoác trắng không tay và váy xếp nếp. Cặp mắt chị sưng đỏ. Hẳn là chị đã khóc một mình sau khi về tới nhà. Chồng chị có một công ty bất động sản ở Tokyonên ngày nghỉ vẫn thường vắng nhà, hoặc là đi làm việc, hoặc là đi chơi gôn. Chị dẫn Cà rốt về phòng nó ở tầng một, sau đó đưa tôi vào bếp thay vì vào phòng khách, và chúng tôi ngồi vào bàn ăn. Có lẽ ở đây chị dễ nói chuyện hơn. Trong bếp có một tủ lạnh to màu xanh lế, một cái bàn tròn đặt ở giữa, và một cửa sổ sáng hướng về phía Đông.
"Nó trông khá hơn lúc trước một chút," chị nói khẽ. "Chứ khi vừa thấy nó ở phòng bảo vệ tôi thật không biết phải làm gì. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó như vậy cả. Cứ như nó đang ở một thế giới nào khác."
"Chị không cần phải lo lắng đâu. Chỉ cần có thời gian là nó sẽ trở lại bình thường. Tốt nhất bây giờ chị đừng nói gì với nó cả. Cứ để nó ở một mình."
"Anh và cháu làm gì khi tôi đi?"
"Hai chúng tôi nói chuyện."
"Chuyện gì vậy?"
"Chuyện vặt thôi. Chủ yếu là tôi nói. Không có gì quan trọng đâu."
"Anh uống chút nước lạnh nhé?"
Tôi lắc đầu.
"Tôi không biết nói chuyện với nó như thế nào nữa," chị nói. "Và cái cảm giác ấy càng lúc càng mạnh hơn."
"Không cần phải ép mình nói chuyện với nó. Trẻ em có thế giới riêng của chúng. Khi nào nó muốn nói chuyện, nó sẽ nói."
"Nhưng nó ít khi nói lắm."
Chúng tôi ngồi đối diện nhau hai bên bàn và cố tránh chạm vào người nhau trong khi nói chuyện. Cuộc nói chuyện này nghiêm túc đúng tinh thần thầy giáo gặp phụ huynh bàn việc của học sinh. Khi nói, bàn tay chị hết xoắn vào lại mở ra, có lúc nắm chặt lại. Tôi nghĩ về những điều mà đôi tay này của chị đã làm với tôi trên giường.
Tôi sẽ không báo cáo chuyện này với nhà trường, tôi bảo chị. Tôi đã trò chuyện thân mật với nó, và nếu có điều gì xảy ra thì tự tôi sẽ giải quyết. Chị đừng lo nghĩ quá. Con chị là một cậu bé ngoan ngoãn, thông minh, rồi thời gian sẽ giúp nó trưởng thành. Đây chỉ là một giai đoạn nó phải trải qua. Điều quan trọng nhất đối với chị là phải bình tĩnh. Tôi chậm rãi, nhẹ nhàng nhắc đi nhắc lại những điều vừa nói, cốt để chị nghe rõ. Hình như thế chị bớt lo được phần nào.
Chị nói chị sẽ lái xe chở tôi về căn hộ của mình ở Kunitachi.
"Anh có nghĩ con trai tôi cảm thấy điều gì không?" Chị hỏi khi xe dừng lại trước đèn giao thông. Tất nhiên, ý chị muốn nói tới quan hệ giữa hai chúng tôi.
Tôi lắc đầu. "Sao chị nói thế?"
"Khi ở nhà một mình chờ anh và nó về, tự nhiên tôi nghĩ vậy. Chẳng có bằng cớ gì cả. Nhưng nó là đứa rất nhạy cảm, nên tôi tin là nó nhận biết được vợ chồng tôi đang có vấn đề."
Tôi ngồi im. Chị cũng không nói gì thêm.
Chị cho xe đi vào bãi đậu ngay phía sau ngã ba nơi tòa nhà tôi ở tọa lạc. Chị kéo phanh tay và tắt máy. Động cơ im tiếng, máy điều hòa cũng tắt, một sự im lặng khó chịu bao trùm lên chiếc xe. Tôi biết chị muốn tôi ôm lấy chị ở đây ngay lúc này. Nghĩ tới tấm thân mềm mãi của chị dưới chiếc áo khoác miệng tôi trở nên khô khốc.
"Tôi nghĩ tốt hơn là chúng ta không nên gặp nhau nữa," tôi nói thẳng điều mình nghĩ.
Chị không nói gì. Tay vẫn để trên vôlăng, chị nhìn chằm chằm về hướng cái đồng hồ đo xăng. Gần như tất cả những biểu hiện trên khuôn mặt dần biến mất.
"Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này," tôi nói tiếp. "Tôi không nghĩ mình đúng là một phần nguyên nhân của vấn đề. Tôi không thể tìm ra cách giải quyết vấn đề nếu như tôi lại là một phần của vấn đề. Như thế tốt hơn cho mọi người."
"Mọi người ư?"
"Đặc biệt cho con trai chị."
"Cả cho anh nữa chứ?"
"Phải, tất nhiên rồi."
"Thế còn tôi thì sao? Nó có bao gồm cả tôi không?"
Có chứ, tôi muốn nói vậy. Nhưng tôi không thể thốt ra lời. Chị tháo chiếc kính Raybans màu xanh sẫm ra, sau lại đeo vào.
"Nói ra điều này thật chẳng dễ chút nào, nhưng nếu tôi không gặp anh nữa thì sẽ thật khó khăn với tôi," chị nói.
"Tôi cũng cảm thấy khó khăn. Tôi rất muốn mọi việc cứ diễn ra như hiện nay. Nhưng như thế không đúng."
Chị thở dài.
"Đúng nghĩa là gì? Anh thử nói xem. Tôi thật sự không biết đúng là gì. Tôi biết cái gì là sai. Nhưng đúng là thế nào?"
Tôi không có câu trả lời thỏa đáng.
Có vẻ như chị sắp khóc. Hay là sắp hét toáng lên. Nhưng rồi bằng cách nào đó chị kìm lại được. Các ngón tay chị bấu chặt vào vôlăng, mu bàn tay đỏ ửng cả lên.
"Hồi còn trẻ ai cũng thích nói chuyện với tôi," chị kể. "Nói đủ thứ. Những câu chuyện hấp dẫn có, vui vẻ có, lạ lùng có. Nhưng đến một lúc nhất định thì không ai nói gì với tôi nữa. Không một ai. Chồng không nói, con không nói, bạn bè không nói...Không ai cả. Như là trên thế gian này không còn gì đáng nói nữa. Đôi khi tôi cảm thấy cơ thể mình thành vô hình giống như anh có thể nhìn xuyên qua tôi."
Chị nhấc tay khỏi vôlăng và giơ ra trước mặt.
"Mặc dù không phải là anh sẽ hiểu những điều tôi cố nói."
Tôi cố tìm lời lẽ thích hợp để đáp lại nhưng không tìm ra.
"Cám ơn anh rất nhiều về mọi chuyện xảy ra ngày hôm nay," chị nói khi bình tĩnh lại. Giọng chị gần như đã bình thường, bình tĩnh trở lại. "Một mình tôi thì không thể xoay xở được. Thật khó khăn với tôi. May mà có anh đến giúp. Tôi rất biết ơn. Tôi nghĩ anh sẽ là một thầy giáo tuyệt với. Anh gần như đã trở thành như thế rồi."
Chị châm chọc gì mình chăng? - tôi thầm nghĩ. Có thể lắm. Không - nhất định không.
"Chưa đâu chị ạ," tôi nói. Chị khẽ nhếch mép cười. Cuộc nói chuyện của chúng tôi kết thúc ở đó.
Tôi mở cửa xe bước ra ngoài. Cái nắng của chiều hè đã dịu đi đáng kể. Nhưng tôi cảm thấy khó thở, và khi tôi đứng đó, đôi chân tôi thật xa lạ. Chiếc Celica nổ máy và chị đi khỏi đời tôi vĩnh viễn. Chị hạ kính xe xuống, vẫy nhẹ tay chào tôi, tôi đưa tay chào đáp lại.
Quay lên phòng mình tôi cởi chiếc áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi cho vào máy giặt, rồi đi tắm, gội đầu. Xong xuôi tôi vào bếp, làm nốt bữa ăn đang chuẩn bị dở dang và ngồi ăn. Sau đó tôi thả mình vào ghế bành giở cuốn sách vừa mới lấy ra đọc. Nhưng tôi không đọc quá được năm trang. Gấp sách lại giữa chừng, tôi nghĩ một lúc về Sumire. Về chiếc chìa khóa nhà kho tôi đã thả xuống dòng sông bẩn thỉu. Về đôi tay chị bạn nắm chặt vôlăng. Quả là một ngày dài, và nó cuối cùng đã kết thúc, chỉ để lại phía sau những ký ức hỗn độn. Tôi đã tắm rửa kỳ cọ hồi lâu mà mùi thuốc lá vẫn bám đầy cơ thể. Tay tôi vẫn còn cảm giác rõ ràng như thể tôi đã vắt hết sự sống ra khỏi một cái gì đó.
Tôi đã làm điều đúng chăng?
Tôi không nghĩ thế. Tôi chỉ làm cái cần thiết cho tôi mà thôi. Đó là sự khác biệt lớn. Mọi người ư? Chị ấy hỏi. Có tôi trong đấy không?
Thực ra lúc đó tôi không phải nghĩ về mọi người. Tôi chỉ nghĩ về Sumire. Không phải về tất cả những người ở đó hay tất cả chúng tôi ở đây.
Chỉ về Sumire, người không ở đâu cả.
Người Tình Sputnik Người Tình Sputnik - Haruki Murakami Người Tình Sputnik