You will know that forgiveness has begun when you recall those who hurt you and feel the power to wish them well.

Lewis B. Smedes

 
 
 
 
 
Tác giả: Steve Berry
Thể loại: Phiêu Lưu
Biên tập: Lê Huy Vũ
Số chương: 73 - chưa đầy đủ
Phí download: 8 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3432 / 63
Cập nhật: 2020-08-09 21:39:10 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 35
h TỐI
MỘT CẢM GIÁC SỢ HÃI CHẠY LƯỚT QUA NGƯỜI MALONE khi anh luồn lách qua những gian phòng trống. Theo tour hướng dẫn tham quan cung điện được nửa đường, họ tách ra khỏi đám người và Claridon dẫn họ lên tầng trên. Trên đó họ đợi trong một cái tháp, sau một cánh cửa đóng, cho đến tám giờ ba mươi phút, khi phần lớn đèn bên trong tòa nhà đã tắt và không còn nghe thấy tiếng người đi lại nữa. Có vẻ như là Claridon biết rất rõ phải làm như thế nào, và rất vui vẻ vì cách thức hoạt động của nhân viên bên trong vẫn giống như năm năm trước.
Mê cung của những sảnh rải rác, những lối đi dài, và những căn phòng không người giờ đây chỉ được chiếu sáng bởi những ngọn đèn đơn lẻ yếu ớt. Malone chỉ có thể tưởng tượng đã có thời chúng được trang hoàng như thế nào, những bức tường rực rỡ với những bức tranh lớn nhiều màu sắc và những tấm thảm, mỗi nơi lại đầy các nhân vật hoặc đứng về phía các giáo hoàng hoặc chống đối lại. Những đoàn người được Khan gửi đến, hoàng đế Constantinople, thậm chí đích thân Petrarch và Saint Catherine của xứ Siena, người đàn bà đã thuyết phục được vị giáo hoàng cuối cùng ở Ayignon cho chuyển tòa thánh về Rome, tất cả đều đã từng tới đây. Lịch sử bám rễ thật sâu ở đây, nhưng giờ đây chỉ còn lại những vòng tường thành.
Bên ngoài, cơn bão cuối cùng đã tới và mua đập xuống mái nhà dữ dội, sấm rền vang làm những cánh cửa sổ rung lên.
“Đã có thời cung điện này vĩ đại ngang với Vatican”, Claridon thầm thì. “Giờ thì mất hết rồi. Bị phá hủy bởi sự ngu dốt và lòng tham”.
Malone không đồng ý. “Những gì vẫn hay được gọi là ngu dốt và tham lam lại chính là những thứ làm cho nó được xây dựng lên”.
“A, thưa ông Malone, anh là sinh viên lịch sử à?”
“Tôi có đọc”.
“Thế thì để tôi chỉ cho anh cái này”.
Claridon dẫn họ đi qua những cánh cửa mở vào những căn phòng nhiều đồ đạc hơn, cái nào cũng có tủ hốc tường. Họ dừng lại trong một căn phòng hình vuông theo dạng hang núi tên là Grand Tinel, căn phòng có những bức tường gỗ vuông khối và cái trần mái vòm.
“Đây là sảnh mà các giáo hoàng tổ chức tiệc tùng và có thể chứa được hàng trăm người”, Claridon nói, giọng nói của ông vọng lại từ tứ phía. “Clement VI đã cho treo các họa tiết màu xanh lên trần, điểm xuyết những ngôi sao vàng, để tạo ra cảm giác về một bầu trời. Những bức tranh tường treo đầy các bức tường. Tất cả những cái đó đều bị phá hủy trong trận cháy năm 1413”.
“Và không bao giờ được thay thế?” Stephanie hỏi.
“Các giáo hoàng Ayignon rời khỏi đây vào khoảng thời gian đó, cho nên cung điện này không còn nhiều ý nghĩa nữa”. Claridon đi về phía góc nhà phía xa. “Giáo hoàng có thể ăn một mình, ở chỗ này, ngồi trên một cái ngai, dưới một bức trướng nhung và lông chồn màu sẫm. Khách ngồi trên những cái ghế dài bằng gỗ xếp dọc theo tường kia, các hồng y bên phía Đông, những người khác ở phía Tây. Những cái bàn tạo thành hình chữ c và đồ ăn được phục vụ bắt đầu từ trung tâm. Tất cả đều hết sức chuẩn tắc”.
“Rất giống chính cái cung điện này”, Malone nói. “Như thể chúng ta đang bước đi qua một thành phố bị phá hủy, linh hồn của những ngôi nhà đã bị bom thổi bay đi mất. Một thế giới chỉ còn thuộc về chính nó”.
“Như vậy là rất chuẩn đấy. Các vua Pháp muốn giáo hoàng tách biệt khỏi tất cả mọi người. Chỉ có họ quản lý những gì giáo hoàng nghĩ và làm, vì vậy không nhất thiết các giáo hoàng phải ở những nơi quá rộng rãi. Trong số tất cả các giáo hoàng đó không hề có ai từng đến thăm Vatican, vì người Ý rất có khả năng sẽ giết họ nếu nhìn thấy. Vì vậy bảy người từng làm giáo hoàng ở đây tự xây cho mình pháo dài và không hỏi han gì đến ngai vàng nước Pháp. Họ sống được là nhờ có vua Pháp, và đành hài lòng với nơi này - Nhà tù Ayignon của họ, đó chính là cái tên thời đó của cung điện này đấy”.
Trong phòng bên cạnh, không gian hẹp lại. Phòng Parement được làm như thể giáo hoàng và các hồng y thường gặp nhau một cách bí mật ở đây.
“Đây cũng chính là nơi Bông hông Vàng được trưng bày đấy”, Claridon nói. “Một cử chỉ vô cùng cao ngạo đối với các giáo hoàng Ayignon. Vào ngày Chủ nhật thứ Tư, giáo hoàng có thể vinh danh một người nào đó, thường là một vị lãnh chúa, bằng việc việc trưng bày một bông hồng vàng”.
“Ông không tán thành điều đó à?”, Stephanie hỏi.
“Christ không cần đến những bông hồng vàng. Tại sao các giáo hoàng lại cần chúng? Toàn bộ nơi này chỉ phản ánh nhiều sự báng bổ hơn mà thôi. Clement VI mua lại thành phố từ tay Nữ hoàng Joanna của Naples. Một phần giá phải trả bà ta đã nhận được thông qua việc đồng mưu sát hại chồng bà ta. Trong một trăm năm những kẻ tội phạm, phiếu lưu, làm bạc giả, và khố rách áo ôm, tất tật đều trốn tránh pháp luật để đến đây, vinh danh giáo hoàng”.
Đi qua một phòng khác, họ bước vào phòng có tên Stag Room. Claridon bật một loạt đèn lân quang lên. Malone đứng dựa vào tường liếc nhìn về phía sau, vào căn phòng nối với phòng Grand Tinel. Một cái bóng lướt qua trên tường, vừa kịp để anh nhận ra là họ không chỉ có một mình ở đây. Anh cũng biết đó là ai người phụ nữ cao, hấp dẫn, dáng vẻ thể thao, da màu như Claridon đã nói trước đó trong xe. Người phụ nữ đã theo chân họ vào cung điện.
"Đây là nơi cung điện mới và cung điện cũ giao nhau” Claridon vẫn đang nói. “Đằng sau chúng ta là cung điện cũ, còn cung điện mới là bên kia cánh cửa này. Đây là nơi Clement VI làm việc.
Malone đã đọc trong một quyển sách lưu niệm về Clement, một người thích tranh và thơ, thích nghe nhạc, thú vật hiếm, và tình ái vụng trộm. Ông ta thường được trích dẫn một câu nói. Các giáo hoàng trước không biết làm giáo hoàng nghĩa là thế nào, vì vậy ông ta đã biến pháo đài cũ của dòng Benedict thành một cung diện đầy vẻ phóng dật. Một ví dụ hoàn hảo về những gì mà Clement ưa thích giờ đây đang bao quanh anh: những bức tranh treo trên những bức tường không cửa sổ. Những cánh đồng, bụi cây, suối, tất cả đều ở dưới một bầu trời xanh. Những người đàn ông đang đánh cá. Những con chó giống Anh. Một nhà quý tộc trẻ tuổi cùng con chim ưng của mình. Một đứa trẻ trèo trên cây, cỏ, chim, người tắm. Màu xanh lá cây và nâu là chủ đạo, nhưng cũng có một bộ quần áo màu da cam, một con cá xanh, và quả trên một cái cây màu sẫm.
“Clement đã cho vẽ các bức tranh này vào năm 1344. Chúng được tìm thấy dưới lớp vôi trắng mà những người lính quét lên tường khi nơi này trở thành trại lính vào thế kỷ mười chín. Căn phòng này giải thích nhiều điều về các giáo hoàng Ayignon, đặc biệt là Clement VI. Một số người từng gọi ông ta là Clement Tuyệt vời. Ông ta không hề có chút lối sống tôn giáo nào. Sám hối, rút lại lệnh rút phép thông công, tha thứ các tội lỗi, thậm chỉ rút ngắn thời gian chịu nạn dưới địa ngục cho cả người sống và người chết - tất tật ông ta đều mang ra bán hết. Các bạn có nhận ra có cái gì đó thiếu không?”
Malone nhìn lại vào các bức tranh. Những cảnh mô tả săn bắn rõ ràng là không giống mấy - trông như thể các nhân vật đang làm cái gì đó hết sức buồn cười - với lối vẽ không chuẩn mực, nhưng anh không thấy có gì đặc biệt.
Rồi điều đó đập mạnh vào anh.
“Chúa đâu rồi?”
“Nhìn giỏi đấy, thưa ông”. Hai tay Claridon đang ra. “Không nơi đâu trong khắp cung điện của Clement này người ta tìm được một biểu tượng tôn giáo nào hết đâu. Sự thiếu vắng đó cho thấy rất nhiều điều. Đây là phòng ngủ của một vị vua, chứ không phải của một giáo hoàng, và đó cũng chính là cách mà các ông chủ Ayignon này vẫn thường nghĩ về mình. Đó chính là những kẻ đã tiêu diệt các Hiệp sĩ Đền thờ. Bắt đầu vào năm 1307 với Clement V, đồng mưu của Philip Công bằng, và kết thúc với Gregory XI vào năm 1378, những con người tha hóa đó đã giẫm đạp lên Dòng, Lars văn luôn tin, và tôi cũng đồng ý, rằng căn phòng này chứng tỏ những người đó thật sự là có giá trị”! “Ông nghĩ rằng các Hiệp sĩ Đền thờ vẫn tồn tại à?”, Stephanie hỏi.
“Phải. Họ ở gần đây thôi. Tôi đã gặp họ rồi. Chính xác thế nào thì tôi không biết, nhưng tôi biết là họ ở ngay gần đây thôi”,
Malone không thể cả quyết được câu nói đó là một tuyên bố đáng tin hay chỉ là một giả thuyết của một người đàn ông nhìn thấy âm mưu hiện diện ở mọi nơi. Tất cả những gì anh biết là người phụ nữ kia vẫn theo chân họ, và đó là một người đủ giỏi giang để bắn một viên đạn ngay phía trên đầu anh, ghim vào một cái cây, từ khoảng cách năm mươi yard, trong đêm tối, và với tốc độ gió bốn mươi dặm một giờ. Cô ta cũng có thể là người đã cứu anh ở Copenhagen. Và cô ta có thật.
“Tiếp tục đi nào”, Malone nói. Claridon tắt đèn. “Đi theo tôi”.
Họ đi qua hết cung điện cũ để sang cánh phía Bắc và trung tâm hội nghị. Một tấm biển đề trung tâm đó mới được thành phố làm gần đây, như một cách để tăng thêm tiền cho công cuộc khôi phục công trình. Sảnh Họp trước đây, Phòng Ngân khố, và Vòng cung Lớn đã được lắp ghế, một bục phát biểu, và các thiết bị nghe nhìn. Đi thêm một đoạn nữa, họ đi qua trước các bức tượng những vị giáo hoàng Ayignon.
Cuối cùng Claridon dừng lại ở một cánh cửa bằng gỗ và dò thử nắm đấm. Nó không khóa. “Tốt. Họ vẫn không khóa cửa vào ban đêm”.
“Tại sao?”, Malone hỏi.
“Trong này không có gì quý giá ngoài thông tin đâu, và kẻ trộm thì không mấy quan tâm đến cái đó”.
Họ bước vào một căn phòng tối đen.
“Đây từng là nhà thờ nhỏ của Benedict XII, vị Giáo hoàng đã thiết kế và xây dựng gần như toàn bộ cung điện. Cuối thế kỷ mười chín, phòng này và căn phòng phía trên được chuyển thành trung tâm lưu trữ của quận. Cung điện cũng để đồ lưu trữ của mình ở đây”.
Ánh sáng luồn vào từ ngoài sảnh chiếu sáng một căn phòng hình tháp đầy giá, hết hàng này đến hàng khác. Thêm nhiều giá nữa ở các bức tường bên ngoài, hết cái này chồng lên cái kia với một lối đi vòng quanh. Phía sau các giá là những cửa sổ vòm, sáng lóe lên trong những ánh chớp.
“Bốn cây số giá sách”, Claridon nói. “Không biết bao nhiếu là thông tin”.
“Nhưng ông biết phải tìm ở đâu rồi chứ?”, Malone hỏi.
“Hy vọng là như thế.”.
Claridon đi thẳng đến lối đi chính giữa. Malone và Stephanie đợi cho đến khi một ngọn đèn được bật lên từ phía trong cách đó năm mươi feet.
“Lại đây đi”, Claridon gọi.
Malone đóng cửa lại và tự hỏi không biết người phụ nữ có khả năng đi vào mà không ai biết hay không. Anh đi về phía ánh đèn và họ tìm thấy Claridon đang đứng gần một cái bàn đọc sách.
“Thật là may mắn cho lịch sử”, Claridon nói, “toàn bộ các mẫu vật của cung điện đều được kiểm kê trước đó, vào thế kỷ mười tám. Rồi, vào cuối thế kỷ mười chín, bắt đầu có ảnh và tranh ghi lại những gì còn sót lại từ sau Cách mạng. Lars và tôi đều rất quen với cách tổ chức, sắp xếp thông tin ở đây”.
“Và ông không hề đến đây xem sau khi Mark chết, vì ông nghĩ rằng các Hiệp sĩ Đền thờ sẽ giết ông?”, Malone hỏi.
“Tôi nhận ra rằng, thưa ông, anh không mấy tin vào chuyện đó. Nhưng tôi đảm bảo là anh sai rồi. Những thứ tài liệu này đã nằm đây hàng thế kỷ, cho nên tôi nghĩ chúng hoàn toàn có thể nằm yên ở đây thêm một thời gian nữa. Sống được có vẻ như là quan trọng hơn”.
“Thế tại sao bây giờ ông lại ở đây?”, Stephanie hỏi.
“Đã nhiều thời gian trôi qua”. Claridon tiến lại gần cái bàn. “Xung quanh chúng ta là các bản kiểm kê cung điện. Tôi sẽ phải mất vài phút để tìm. Tại sao các bạn không ngồi xuống và để tôi xem liệu có thể tìm được những gì mà chúng ta đang cần không”. Ông rút từ trong túi ra một cái đèn pin nhỏ. “Ngay từ lúc ở trại điên, tôi đã nghĩ chúng ta sẽ cần đến nó”.
Malone kéo một cái ghế ra, và Stephanie làm theo. Claridon biến mất vào bóng tối. Họ ngồi xuống và anh có thể nghe thấy tiếng sột soạt, ánh đèn nhảy nhót ở vòm trần phía trên.
“Đó chính là việc mà chồng tôi cũng đã làm”, bà thì thầm. “Trốn vào trong một cung điện, tìm kiếm những điều vô nghĩa lý.”.
Anh nhận ra vẻ bực tức trong giọng nói của bà.
“Trong khi mà cuộc hôn nhân của chúng tôi đổ vỡ tan tành. Trong khi tôi làm việc hai mươi giờ mỗi ngày. Còn ông ấy thì làm việc đó".
Một tiếng sấm vang rền nổ.
“Điều đó với ông ấy là quan trọng”, Malone nói, cũng với giọng rất nhỏ. “Và cũng có thể có điều gì đó ở trong tất cả những chuyện này”.
“Như là cái gì mới được chứ, Cotton? Kho báu à? Nếu Saunière khám phá được những thứ đồ châu báu đó trong hầm mộ thì ok.
Vận may có thể mỉm cười với bất kỳ ai. Nhưng còn có gì khác nữa đâu. Bigou, Saunière, Lars, Mark, Claridon. Họ đều là một lũ mơ ngủ”.
“Đã nhiều lần những người mơ ngủ làm thay đổi thế giới đấy”
“Đây là một cuộc săn con ngỗng không có thật”.
Claridon quay trở lại từ bóng tối và đặt một tập tài liệu phủ bụi lên mặt bàn. Nước đã làm ố nhiều chỗ bên ngoài. Bên trong là một tập ảnh và hình vẽ bút chì dày ba inch. “Nằm cách chỗ mà Mark từng nói khoảng vài feet. Nhờ trời mà mấy ông già trông coi chỗ này không mấy khi dịch chuyển vị trí”.
“Làm thế nào mà Mark tìm ra nó?”, Stephanie hỏi.
“Có thể là cậu ấy đã phải lần theo các dấu vết trong suốt nhiều cuối tuần. Cậu ấy không cả quyết bằng bố, nhưng cậu ấy thường xuyên đến ngôi nhà ở Rennes và tôi cùng cậu ấy đã nói chuyện về cuộc tìm kiếm, ở đại học Toulouse, cậu ấy tìm được một thông tin gì đó về kho lưu trữ Ayignon. Cậu ấy đã gắn kết các đầu mối lại với nhau và ở đây chúng ta đã có câu trả lời”.
Malone rải những gì có ở bên trong lên mặt bàn. “Chúng ta tìm cái gì đây?”
“Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bức tranh. Chỉ có thể hy vọng là chúng ta sẽ tìm ra nó thôi”.
Họ bắt đầu xem các bức hình.
“Đây rồi", Claridon nói, giọng đầy vẻ phấn khích.
Malone chú mục vào một trong những bức in litô, một bức vẽ đen trắng đã lâu đời, các mép xơ xác. Trên đó có ghi một dòng chữ chạy dài DON MIGUEL DE MANARA - ĐỌC QUY ĐỊNH CỦA LÒNG NHÂN TỪ.
Bức tranh vẽ hình một ông già, râu rậm với một hàng ria mỏng, ngồi ở một cái bàn, mặc đồ giáo sĩ. Một biểu tượng phức tạp gắn trên một ống tay áo, đoạn từ khuỷu lên đến vai. Tay trái ông ta chạm vào một quyển sách mở về phía trên và tay phải đang ra, để ngửa, đang chỉ qua một cái bàn trang trí cầu kỳ đến chỗ một người đàn ông bé nhỏ mặc đồ tu đang ngồi trên một cái ghế thấp, với những ngón tay để trên môi ra dấu im lặng. Một quyển sách mở trong lòng người đàn ông nhỏ bé. Sàn nhà, chạy từ bên này sang bên kia, là một khoảng rộng lát đá ô vuông, giống như một bàn cờ, và cái ghế thấp của người đàn ông bé nhỏ có viết dòng chữ:
ACABOCE A
DE 1687
“Điều đáng ngạc nhiên nhất”, Claridon nói. “Nhìn đây này”.
Malone nhìn theo ngón tay của Claridon và xem xét phần trên cùng bên trái của bức tranh, nơi, trong bóng tối phía sau người đàn ông bé nhỏ, có một cái bàn và một giá sách. Trên đó đặt một cái sọ người.
“Điều này có nghĩa là gì?”, Malone hỏi Claridon.
“Caridad có nghĩa là ‘lòng nhân từ,’ và cũng có thể có nghĩa là tình yêu. Bộ quần áo màu đen mà người đàn ông ngồi ở bàn mặc là trang phục của các Hiệp sĩ Đền thờ Calatraya, một giáo đoàn Tây Ban Nha thờ phụng Jesus Christ. Tôi có thể nói được điều đó nhờ hình vẽ trên tay áo. Còn Acaboce có nghĩa là ‘hoàn thành.’ A° có thể là một dẫn chiếu đến alpha và omega, chữ cái đầu tiên và cuối cùng trong bảng chữ cái Hy Lạp - khởi đầu và kết thúc. Còn cái sọ người? Tôi không biết chút nào cả”.
Malone nhớ lại điều Bigou được cho là đã viết trong sổ sách giáo khu Rennes ngay trước khi rời Pháp sang Tây Ban Nha. Hãy đọc các Quy định của Lòng nhân từ. “Phải đọc các quy định nào cơ?”
Claridon xem xét bức tranh trong ánh đèn pin. “Có cái gì đó về người đàn ông bé nhỏ ngồi trên ghế này. Nhìn giày của ông ta đi. Hai chân ông ta đặt thẳng lên những ô vuông màu đen trên sàn, vắt chéo nhau”.
“Sàn nhà giống như một bàn cờ.”.
“Và có con tượng đi chéo, giống như những cái chân kia gợi ý”
“Như vậy người đàn ông bé nhỏ kia là một con tượng à?” Stephanie hỏi.
“Không”, Malono nói, hiểu ra. “Trong cờ kiểu Pháp con tượng là con tốt".
“Anh học chơi cờ à?, Claridon hỏi, “Tôi đã từng chơi một chút";
Claridon đặt ngón tay lên trên người đàn ông ngồi ghế. “Đây là một con tốt vậy, cái có vẻ như là có một bí mật nào đó liên quan đến alpha và oraega”.
Malone đã hiểu. “Chúa đã từng được gọi như vậy”.
“Đúng. Và khi anh cho thêm acaboco vào, anh sẽ có ‘đầy đủ alpha và omega.’ Sự hoàn hảo của Christ”.
“Nhưng điều đó thì có nghĩa gì?”, Stephanie hỏi.
“Thưa bà, cho phép tôi xem quyển sách của Stoblein được chứ?”
Bà tìm quyển sách và đưa cho Claridon. “Chúng ta xem xét lại tấm bia mộ nhé. Cái này và bức tranh có liên quan với nhau. Hãy nhớ là cả hai dấu hiệu đó đều do tu viện trưởng Bigou để lại”. Ông đặt quyển sách xuống bàn.
“Các bạn cần phải biết lịch sử thì mới hiểu được tấm bia mộ. Gia đình d’Hautpoul bắt nguồn từ thế kỷ mười hai ở Pháp. Marie lấy Frangois d'Hautpoul, lãnh chúa cuối cùng, vào năm 1732. Một trong các tổ tiên của nhà d'Hautpoul đã viết một bản di chúc vào năm 1644, trong đó ông ta viết lại toàn bộ mọi chuyện và để nó ở một văn phòng chưởng khế ở Espéraza. Tuy nhiên, khi vị tổ tiên đó chết đi, người ta không tìm được bản di chúc đó. Rồi, hơn một trăm năm sau khi ông ta chết, bản di chúc đã mất đột nhiên xuất hiện trở lại. Khi Frangois d'Hautpoul đến lấy nó, ông ta được chưởng khế nói là Tôi sẽ không khôn ngoan nếu lấy di một tài liệu quan trọng đến vậy. Frangois chết vào năm 1753, và vào năm 1780 bản di chúc cuối cùng được đưa lại cho vợ góa của ông ta, Marie. Tại sao? Không ai biết cả. Có thể là vì khi đó bà ấy là người cuối cùng còn lại của nhà d'Hautpoul. Bà ấy chết vào năm sau đó và người ta nói rằng bà ấy để chuyển lại bản di chúc đó, cùng với tất cả những thông tin mà nó chứa đựng, cho tu viện trưởng Bigou, như một phần của bí mật gia đình”.
“Và đó là những gì Saunière tìm thấy trong khu hầm mộ? Cùng với những đồng tiền vàng và đồ châu báu?”
Claridon gật đầu. “Nhưng hầm mộ bị giấu đi. Vì thế Lars tin rằng cái mộ giả của Marie ở nghĩa trang mới có đầu mối thực sự. Hẳn Bigou đã cảm thấy rằng bí mật mà mình biết quá lớn để có thể nói lại cho ai đó. Ông ta đã rời khỏi đất nước, không bao giờ quay trở lại, và để lại một mật mã để chỉ đường. Trên xe, khi lần đầu tiên bà cho tôi xem hình vẽ tấm bia mộ đó, tôi đã nghĩ đến nhiều điều”. Ông lấy một tờ giấy trắng và một cái bút nằm trên bàn. “Giờ đây tôi đã biết cái đó có rất nhiều thông tin”.
Malone nghiên cứu các chữ và biểu tượng ghi trên bia mộ.
HÌNH VẼ
Hòn đá nằm bên tay phải mộ Marie và không có dòng chữ nào ở trên như vẫn thường thấy ở các ngôi mộ. Mặt trái của nó viết bằng tiếng Latinh”. Claridon viết ET IN PAX lên giấy. “Cái này có nghĩa là ‘và trong yên lành,’ nhưng lại có vấn đề. Pax là danh từ ở dạng danh cách của hòa bình và về ngữ pháp là sai nếu đặt sau giới từ in. Cột bên tay phải viết bằng tiếng Hy Lạp và sai hoàn toàn ngữ pháp. Nhưng tôi đã nghĩ về tất cả những điều đó, và cuối cùng đã tìm ra lời giải. Toàn bộ đều đã được viết bằng tiếng Latin nhưng lại dùng bảng chữ cái Hy Lạp. Khi chuyển sang tiếng Latinh, ta sẽ có E, T, I, N, và A đúng theo thứ tự. Nhưng P, R, X là K và...”
Claridon cúi người xuống tờ giấy, và viết ra toàn bộ bản dịch của mình.
“Và ở Arcadia I”, Malone nói, sau khi dịch nhẩm tiếng Latinh trong đầu. “Không có nghĩa gì cả”.
“Chính xác”, Claridon nói. “Cái đó có thể dẫn người ta đến kết luận rằng những từ này lại che giấu cái gì đó khác".
Malone hiểu ra. “Trao đổi vị trí các chữ à?”
“Cái đó rất phổ biến vào thời Bigou. Dù sao cũng khó có chuyện Bigou để lại một thông điệp dễ giải mã”.
“Còn những từ ở trung tâm thì sao?”
Claridon viết ra trên tờ giấy.
REDDIS RÉGIS CÉLLIS ARCIS
“Reddis nghĩa là ‘trả lại, thu về lại cái gì đó trước đó đã bị lấy đi'. Nhưng trong tiếng Latinh nó cũng có nghĩa là ‘Rennes’. Regis xuất phát từ rex, nghĩa là ‘vua.” Cella muốn nói đến một căn phòng đá. Arcis xuất phát từ arx - một pháo đài, thành lũy. Có thể suy ra nhiều nghĩa từ mỗi từ, nhưng ghép lại thì chúng không có nghĩa. Rồi còn có mũi tên nổi p-s ở phía trên với proe-cum ở phía dưới. Tôi không hiểu p-s có nghĩa là gì. Proe-cum thì có nghĩa là ‘cầu nguyện đến’”.
“Biểu tượng ở dưới cùng có nghĩa là gì?” Stephanie hỏi. “Trông giống như một con bạch tuộc”.
Claridon lắc đầu. “Một con nhện, thưa bà. Nhưng tôi không hiểu được nghĩa của nó”.
“Còn tấm bia còn lại?”, Malone hỏi.
“Tấm bia còn lại nằm ngay trên ngôi mộ và là cái dễ nhìn
thấy hơn cả. Hãy nhớ là Bigou phục vụ Marie d’Hautpoul trong nhiều năm. Ông ta đặc biệt trung thành với bà ấy và bỏ ra hai năm để làm tấm bia này, thế nhưng gần như dòng nào cũng có lỗi. Thợ khắc thời đó rất hay làm sai, nhưng liệu có thể nhiều đến mức đó không? Không thể có chuyện tu viện trưởng cho phép chúng còn lại ở đó được”.
“Như vậy các lỗi sai cũng thuộc về thông điệp à?”, Malone hỏi..
“Có vẻ là như vậy. Nhìn đây này. Tên bà ấy bị viết sai. Bà ấy không phải là Marie de Negre d'Arles, họ khi lấy chồng là d’Haupoul. Bà ấy là Marie de Negri d'Ables d’Hautpoul. Nhiều từ khác cũng bị cắt ngắn lại. Các chữ lại lên xuống không lý do nữa. Nhưng nhìn vào năm này”.
Malone nhìn vào con số bằng chữ số La Mã.
MDCOLXXXI
“Cứ cho đó là năm bà ấy mất, năm 1681. Nhưng tự dưng lại có chữ o, mà trong hệ thống chữ số La Mã không có chữ này. Vả lại, Marie mất vào năm 1781 chứ không phải 1681. Liệu chữ O có phải là bằng chứng cho thấy Bigou biết rằng ngày tháng đó là sai không? Và tuổi của bà ấy cũng sai luôn. Khi chết đi bà ấy sáu mươi tám, chứ không phải sáu mươi bảy, như đã viết”.
Malone chỉ bức vẽ nhỏ bên tấm bia bên phải và những chữ số La Mã ở góc dưới, LIXLIXL. “Năm mươi. Chín. Năm mươi. Chín. Năm mươi”.
“Điều đặc biệt nhất đây”, Claridon nói.
Malone liếc nhìn lại sau, vào bức in litô. “Tôi không thấy bức tranh đó có ở đâu cả.”.
“Đó là một câu đố mà, thưa ngài. Một câu đố không có lời giải đáp”.
“Nhưng câu trả lời là cái mà tôi muốn biết”, một giọng đàn ông sâu thăm thẳm vọng ra từ bóng tối.
Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ - Steve Berry Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ