Sự khác biệt giữa cơ hội và khó khăn là gì? Là thái độ của chúng ta! Trong mỗi cơ hội có khó khăn, và trong mỗi khó khăn đều có cơ hội.

J. Sidlow Baxter

 
 
 
 
 
Tác giả: Walter R. Brooks
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Số chương: 16
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 924 / 10
Cập nhật: 2017-05-09 22:20:55 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 16
reddy đã quyết định sẽ không làm gì trong việc trả súng và hoàn lại tất cả rau củ bị ăn trộm cho đến sáng hôm sau. Đến lúc ấy chú sẽ mang mọi thứ vào sân chuồng trại cùng với mấy tên tù, và ông Bean ăn sáng xong bước ra sẽ thấy; ông sẽ nhận ra rằng rằng bọn chuột cống chính là kẻ trộm, và rằng Freddy cùng những con vật khác đã tóm được bọn kia. Bằng cách đó sẽ không đẩy ông vào thế khó xử phải nói bất cứ điều gì.
Nhưng đồng thời Freddy lại không muốn bị ai nhìn thấy luẩn quẩn quanh khu chuồng trại. Thế là trong chuyến cuối cùng áp giải bọn tội phạm, chú chỉ đi tới ao vịt và ở đó đợi Peter, Charles và hai con mèo để cùng bọn này quay lại bảo vệ ngôi nhà Grimby.
Freddy khá hài lòng với bản thân. Chú đã tìm ra bọn trộm và lấy lại số tài sản bị mất cắp. Đó là một vụ án khó, nhưng chú đã giải được. “Mình nghĩ rằng trong cuốn sách abc của mình, H sẽ là heo,” chú tự nhủ, và bắt đầu nghĩ ra vài câu, tất cả các từ đều bắt đầu bằng H. Heo hào hiệp hào hùng. Heo hào hoa hảo hán... “Ước gì có thể dùng những mẫu tự khác,” chú nghĩ. “Có vẻ như không thể nhồi hết mọi thứ mình muốn vào trong một chữ.” Thế là chú bắt đầu sáng tác mấy câu thơ:
Không thể tìm ra toàn New York
Thám tử nào hay cỡ Freddy
Luôn luôn bình tĩnh, chuẩn bị trước
Quyết không chỉ có thịt với bì.
Giữa muôn súc vật: chàng khôn nhất
Giữa bầy heo cỏ: một đỉnh cao
Lần theo dấu vết: hàng nghệ sĩ
Đuổi theo tội phạm: cấp ngôi sao.
Freddy trước đó vẫn tưởng chỉ có mình mình bên ao vịt, nên làm xong mấy câu thơ là ngâm ngay thật to. Nhưng chú đã quá đà khi một tràng cười chế giễu cắt ngang, và một giọng trầm trầm cất lên, “Tôi cho rằng chẳng có ai nói những điều đó về cậu đâu, heo à, cậu phải tự nói với mình thôi.”
Freddy ngó lên. Trời gần tối, nhưng trong vòm cây phủ bóng xuống ao, chú có thể thấy cái bóng của một con chim lớn, và chú biết đó là lão cú Whibley. “Ồ, là... là ông,” chú nói với một tiếng cười ngượng ngập. “Chà, tôi chỉ là... kiểu... ông biết đấy... sắp xếp lại những thứ nảy ra trong đầu ấy mà.”
Lão Whibley không nói gì.
“Mà thế thì sao nào?” Freddy hỏi sau một phút. “Chẳng hại gì, đúng không?”
“Hoàn toàn không,” con cú nói. “Ai nói hại gì đâu.”
“Thế, tôi cho rằng ông... kiểu kiểu, ừm, ông nghĩ rằng tôi...” Freddy dừng lại, và lão Whibley không nói gì hết.
“Ôi trời ơi,” Freddy òa ra, “nếu ông cứ ngồi đó nghĩ rằng tôi tự đắc và kiêu ngạo, sao ông không nói luôn thế đi?”
“Sao tôi phải nói?” con cú nói. “Cậu biết. Tôi biết. Ai cũng biết mà. Ích gì phải ngồi ì ra mà lặp lại những điều ai cũng biết cả rồi.”
“Chà,” con heo nói, giọng hồ nghi, “có lẽ tôi có hơi huênh hoang. Nhưng bài thơ ấy, ông hiểu đấy... chỉ là một kiểu đùa ấy mà. Tôi đùa với bản thân tôi ấy mà.”
“Hừ... hừm,” lão Whibley ngáp.
“Chứ ông không nghĩ tôi là một thám tử giỏi sao?” Freddy hỏi.
“Cũng được,” con cú nói. “Mà này, nếu cậu đã thỏa mãn thế, tôi là ai mà càm ràm chứ?”
“Trời ạ,” Freddy nói. “Phải nói là moi được cái gì từ ông khó thật đấy. Tôi cứ tưởng nếu hỏi đến thì ông cũng đưa ra được ý kiến nào chứ.”
“Nãy giờ cậu có hỏi ý kiến tôi đâu,” con cú nói. “Cậu chỉ cố ép cho tôi nói cậu tuyệt làm sao, xuất chúng làm sao. Tôi không nghĩ cậu vĩ đại đến thế. Càng không khi cậu ngồi đó mà hát những bài hát ca ngợi chính mình, việc thì mới xong có một nửa.”
“Tôi không hiểu sao ông có thể nói thế,” Freddy nói. “Chính chúng tôi đã tóm được lũ trộm và lấy lại hết những thứ bị trộm.”
“Cậu vẫn chưa bắt được tên trộm đầu sỏ Simon. Và tôi nghe dường như anh còn khoe khoang sẽ tóm Mặt Mịt như thế nào rồi ghim da hắn vào cửa chuồng súc vật ra sao. Tôi mới vừa đi qua khu chuồng trại một phút trước, và chẳng thấy bộ da nào ở đó cả.”
Freddy có một điểm dễ thương: khi chú sai, chú sẵn sàng nhận mình sai. Ít nhất là chú sẵn sàng nhận sau một lúc. Thường thì chú phải cãi cái đã.
Nhưng lúc này chẳng có gì để cãi. “Được,” chú nói, “được... có lẽ ông đúng. Tôi cho rằng tôi đã quá hài lòng vì lấy về lại được mọi thứ, đặc biệt là khẩu súng, đến nỗi gần như quên mất phần việc còn lại.” Chú nghĩ một phút. “Vâng, ông nói đúng. Công việc của tôi chưa hoàn tất. Tôi nói thì to lắm, phải không? Chà, đó là tùy tôi thôi. Tôi nghĩ là tôi sẽ không đợi cho đến phần còn lại của cuộc phục kích. Tôi sẽ tự vào rừng, và nếu có thể tìm ra Mặt Mịt, tôi sẽ cùng sống mái với hắn.”
Chú đợi một phút, rồi vì lão Whibley không nói gì, chú ngước lên cây. Nhưng con cú không còn đó nữa.
“Thế đấy, mình sẽ bị nguyền rủa cho coi!” Freddy nói. “Lão ấy đáng lẽ cũng nên khen mình một tí về chuyện ấy chứ. Rốt cuộc, mình đang liều mạng cơ mà.” Chú lưỡng lự mất một phút. Chú không nghe thấy động tĩnh gì chứng tỏ các bạn mình đang đến. “Mình cho rằng lão cú đó vẫn còn quanh đây, theo dõi, đâu đó... mình nghĩ mình phải đi thôi.” Và chú khởi hành, lừ đừ băng qua rừng.
Đi trong đêm thật khó, và khi tới được con đường, Freddy ngồi xuống nghỉ. “Cha!” chú nói to. “Chắc mình phải nghỉ cả phút.” Chú nói điều này vì chú nghĩ lão Whibley dám đang theo dõi chú, và chú không muốn con cú nghĩ chú sợ. Nhưng chẳng có âm thanh nào vọng tới từ những hàng cây cao hai bên đường, và sau khi nghỉ ngơi gọi là một phút nhưng dài bằng mấy trăm giây, chú đứng dậy và nói lớn giọng cứng cỏi, “Chà, giờ thì tới Mặt Mịt!”
Chú đứng đúng ngay cái chỗ hôm nọ Jinx và chú đang đứng thì cái bóng trắng kinh hoàng kia từ trên cây ụp xuống hai đứa, và ngay lúc cất bước sang đường, tiến vào bóng đêm của Rừng Lớn, chú liếc nhanh sợ hãi, rồi kêu éc một tiếng thất thanh. Bởi một lần nữa, dập dờn trên đầu chú, một bóng hình trắng to vật, phải cỡ bà Wiggins với bà Wurzburger và bà Wogus cuộn làm một, với một cái sừng to trên đầu lúc lắc một cách đe dọa.
Về sau này Freddy bảo tiếng éc của chú lúc đó là một tiếng éc thách thức, và chú cũng nói rằng lúc ấy chú không lùi bước, sẵn sàng ra tay hay là chết, thiết tha muốn được sống mái cùng con quái vật suốt bao năm đã khủng bố miền quê. Tôi thì nghĩ lý do thực sự khiến chú không chạy là do chú quá sợ. Chú muốn tẩu khỏi chỗ đó càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên hai chân chú hoặc là không hiểu điều chú muốn, hoặc bản thân chúng quá sợ đến nỗi không nhấc chú lên nổi, bởi lúc ấy chúng khụy xuống dưới chú, và cái sinh vật trắng nhởn to lớn kia lượn xuống, bao trùm lấy chú.
Đến giờ tôi không nghĩ là Freddy ngất thật, nhưng dứt khoát là mất vài giây chú mới nhận ra rằng mình đang vật lộn để thoát khỏi một cái dường như là một đùm vải nặng. Chú đá chú cào trong hoảng sợ, và cuối cùng vật lộn lao ra được ngoài trời, thế rồi quay lại xem cái mà nãy giờ mình vật lộn là cái gì. Đó là một tấm khăn trải giường - chỉ là một trong những tấm trải giường đã ăn cắp từ dây phơi quần áo của bà Bean. Ở mỗi góc thắt nút lại của tấm trải là một hòn đá, và ở một đầu thắt ấy cột với phần vạt sau một chiếc áo sơ mi mặc Chủ nhật của ông Bean.
“Ôi trời ơi!” con heo kêu lên. “Mặt Mịt! Mặt Mịt đấy! Chúng mang cái đó lên ngọn cây rồi thả xuống lềnh bềnh trên đầu chúng ta như cái dù. Còn cái áo là cái đầu, với hai tay áo là hai cái sừng. Chà, ai mà nghĩ ra cái trò bịp bợm này chứ!”
Thế rồi, chú chợt nhận thấy, nãy giờ có một tiếng ré hãi hùng vang lên trong cái lùm cây mà lúc nãy Mặt Mịt đã ụp xuống chú. Và chú ngước lên, thấy lão Whibley đang bay vút lên trên rồi lặng im đậu trên một cành cây ngay trên đầu chú. Hình như có thứ gì đó trong cái mỏ mạnh mẽ của lão - thứ gì đó kêu lóe chóe và vùng vẫy giẫy giụa, cố thoát ra một cách vô vọng. Thấy Freddy nhìn, lão cú chuyển con vật đang quằn quại kia sang một bàn chân đầy vuốt và nói, “Định đi theo cậu để xem cậu xoay sở ra sao. Chà, cậu tóm được Mặt Mịt của cậu rồi đấy.”
“Ông bắt được ai thế kia?” Freddy hỏi. “Ngó giống Simon.”
“Chắc vậy,” lão Whibley nói. “Chẳng nghĩa lý gì với tôi. Chuột cống thì con nào cũng như con nấy, tôi chỉ cần biết thế. Chẳng con nào ngon lành gì. Thấy hắn thả tấm trải kia từ trên cây xuống là tôi tóm thôi.”
“Ý ông là lão ở trên cây? Tôi chưa từng nghe chuột cống trèo cây đấy.”
"Ông bắt được ai thế kia?" Freddy hỏi.
“Chúng không trèo được cây trơn. Nhưng cây vân sam này bao nhiêu là cành con thì quá dễ. Cậu muốn hắn không?”
“Tôi muốn hỏi hắn vài câu,” Freddy nói.
“Tao sẽ không trả lời,” Simon the thé. “Tao sẽ không nói một lời. Và mày cứ đợi đi, Mặt Mịt mà nghe được chuyện này... mày cứ đợi đi...”
“Ồ, thôi cái tên Mặt Mịt của lão đi,” Freddy cắt ngang. “Chưa từng có Mặt Mịt nào, lão biết cũng như ta biết ấy.”
Một cành con gẫy rắc, và một lúc sau gấu Peter với hai con mèo và Charles hiện ra trên đường.
“Ồ, cậu đây rồi, Freddy,” Jinx nói. “Bọn này tìm cậu. Cái quái gì thế này?” Và nó bước về phía tấm khăn trải giường.
“Ha!” Freddy kêu lên. “Anh biết đó là cái gì không? Đó là bộ da Mặt Mịt, da nó thế đấy. Và tôi sẽ lấy nó xuống, ghim vào cửa khu chuồng trại, như tôi đã nói là tôi sẽ làm.”
“Tối thế này tôi chẳng thấy được gì mấy,” gấu Peter nói, “nhưng tôi thấy nó giống một tấm khăn trải giường cũ.”
Thế là Freddy giải thích. “Đó là mánh của lũ chuột cống,” chú nói. “Bằng cách nào đó chúng leo được lên cây, và khi nào muốn Mặt Mịt xuất hiện, chúng thả cái khăn xuống, và những cục đá này buộc ở góc sẽ làm cái khăn bồng bềnh như một tấm dù.”
“Hay, giờ cậu mới biết hả!” Jinx nói. “Cậu biết không, Freddy, lần đó, trước khi nó rơi xuống tụi mình, tôi đã nghĩ có cái gì đó kỳ kỳ. Đấy là lý do vì sao tôi đã không sợ như cậu sợ...”
“Không sợ á, mèo?” lão Whibley cắt ngang. “Nghe đây, tôi lượn trên đầm lầy đêm đó, và tôi nghe anh rất rõ, tít kia kìa. Tôi chưa từng nghe con mèo nào sợ hơn anh chàng này.”
Jinx lom lom ngó lên những nhành cây trên đầu. “Ồ, ông đấy à, Whibley? Không thấy ông. Chà, dĩ nhiên tôi có hét. Tôi bị... chà, bị giật mình. Nhưng sợ ấy hả! Xì! Hy vọng tôi không dễ dàng sợ thế đâu.”
“Anh từ bỏ niềm hy vọng đó ngay đi là vừa,” con cú đáp. “Tôi chưa từng gặp con mèo nào dễ dọa thế. Còn nhớ cái đêm có con chuột nhắt nhảy vào người anh trong cái chuồng bò ở Withespoon không? Khi ấy anh đã phóng hai dặm tuốt...”
“Làm ơn, làm ơn,” Jinx cắt ngang. “Đừng có nhắc chuyện ngày xưa nữa. Túm lại, nếu đây thực sự là Mặt Mịt thì tin này sẽ ghê gớm lắm đây...”
“Hồi tôi ở châu Phi,” Minx nói, “có một con voi học bay. Nó học bay từ một con đà điểu, và...”
“Đà điểu không bay được,” Jinx nói. “Làm sao con voi lại đi học bay từ một con không biết bay chứ?”
“Con đà điểu này bay được,” Minx nói. “Vì nó từng học bay với một chim ưng. Và thế là con voi học cách bay, và...”
“Nghe đây chị Hai,” Jinx mất kiên nhẫn cắt ngang, “quên cái vụ con voi bạn chị đi có được không? Chúng ta đang muốn tìm hiểu về Mặt Mịt.”
“Nhưng chị muốn nói chú nghe về hắn đây,” Minx khăng khăng. “Tên hắn là...”
“Chắc lun, là Murphy, đúng không?” Freddy bất thình lình đến sát bên Minx và nói bằng thứ giọng Ái Nhĩ Lan nặng kinh mà trước kia chú từng dùng để ngăn cô mèo kể chuyện. “Thực thế và tui nhớ tay này rõ lắm.”
“Không, không phải,” Minx giận dữ đáp. “Và nếu cậu mà còn làm thế lần nữa, tôi sẽ không kể cậu nghe về hắn đâu.”
“Dĩ nhin rồi, vì tui bít rõ về hắn rồi, vịc gì cô phải kể?” Freddy nói. Và Minx bỏ đi, quật đuôi giận dữ.
“Lúc anh đến là tôi đang cố bắt lão Simon nói ra một vài điều...” Freddy nói. “Nhưng có vẻ lão không muốn. Anh làm cho lão nói được không? Anh biết đấy, bằng cách thọt lét lão như lần trước anh làm ấy?”
“Được chứ, giao lão cho tôi, Whibley,” con mèo nói. “Cậu biết mà, tôi chỉ thích thọt lét con chuột cống này thôi. Lão sẽ phát ra những tiếng ngộ phết. Giống kiểu ông Mackintosh ở Centerboro lúc ông ấy chơi kèn túi ấy. Lại đây, chuột; biết đâu tao chẳng làm phát ra được một giai điệu hay hơn lần trước thì sao.”
Con cú thả con chuột cống xuống đất, và con mèo phóng lên vồ. “Sẽ là điệu gì đây, Simon nhỉ?” nó nói. “Cái gì có tính ái quốc nhé?”
“Tao sẽ khai,” con chuột sưng sỉa nói. “Nếu mày không thọt lét tao. Tao không chịu nổi trò ấy.”
Thế là mấy con kia tụ lại xung quanh, và Simon kể chúng nghe khi bị đuổi khỏi trang trại, lão và gia đình lão đã lang thang khắp nơi ra sao, đã có một cuộc đời du mục như thế nào, rồi ăn cắp thực phẩm của nông dân dọc con đường, ngủ trong những căn nhà và khu chuồng bỏ hoang... Nhưng đó là một cuộc sống nguy hiểm, do không con vật nào tin tưởng chuột cống, lại chó với mèo thấy chúng đâu là săn đó. Thế là chúng nghĩ tới một nơi nào đó chúng có thể an cư an toàn, và Simon nghĩ tới căn nhà Grimby. Dĩ nhiên chúng đều có nghe qua về Mặt Mịt, và một vài con trong đám cũng sợ ra phết, nhưng Simon từng nhiều lần buộc phải lánh trong Rừng Lớn khi bị bầy chó của ông Bean đuổi, và lão chẳng thấy có con quái vật nào như thế. Lão không tin vào Mặt Mịt. “Chúng ta sẽ quay lại,” khi đó lão đã nói, “và khám phá Rừng Lớn. Nếu thấy không có Mặt Mịt nào ở đó - mà ta chắc luôn là chẳng có con nào - chúng ta sẽ định cư trong ngôi nhà cũ của Grimby. Ở đó sẽ không ai quấy nhiễu chúng ta, thậm chí cũng không ai biết chúng ta ở đó, và chúng ta muốn quậy trang trại nhà Bean bao nhiêu thì quậy, sẽ chẳng ai biết, vì sẽ không con vật nào dám vào Rừng Lớn.”
Và lũ chuột đã làm đúng như thế. Và nếu Freddy mà không quá tò mò về Mặt Mịt, và không sinh nghi về sự tồn tại của một con như thế, thì lũ chuột đã được sống an nhiên tại đó rồi. Bởi nhờ những lá thư đe dọa, do Mặt Mịt ký, và với thủ đoạn khăn trải-vải dù, cùng những cách khác nhau, chúng đã dựng nên huyền thoại về Mặt Mịt và gieo rắc trong đám súc vật một niềm tin lẫn nỗi sợ vào hắn, đến nỗi tất cả các con trong trang trại nhà Bean, những con lâu nay đã chẳng nghĩ mấy về hắn, cũng bắt đầu trở nên sợ hãi thực sự ngay cả việc sinh sống gần Rừng Lớn.
“Thế đấy,” lão Whibley nói khi Simon kết thúc. “Rõ hết rồi đấy”.
“Rõ cái gì?” Jinx hỏi.
“Anh tự đi mà tìm hiểu,” con cú nói rồi bay đi mất.
“Chà, lão ấy được việc ghê,” Jinx nói. “Chúng ta sẽ làm gì với Simon đây, Freddy?”
“Quyết định sau đi. Giờ giải lão về và nhốt lão lại. Và không cần đi phục kích ngôi nhà Grimby nữa.” Chú bắt đầu cuộn lại tấm trải. “Tôi sẽ mang cái này về theo. Giúp tôi một tay, Charles.”
Sáng hôm sau, ông Bean đang ngồi ở bàn dùng điểm tâm, vừa mới dùng đến cái bánh kiều mạch thứ mười bốn và cốc cà phê thứ ba, lại vừa chén xong một miếng bánh táo nướng, thì nghe có tiếng nện búa dưới khu chuồng trại.
“Chà, gì nữa đây?” ông kêu lên, và phải biết là ông ngạc nhiên lắm mới đứng hẳn dậy và đi ra hàng hiên, bởi bà Bean vừa mới đặt thêm sáu cái bánh kiều mạch vào đĩa ông và đang vào chạn lấy thêm bánh rán. Ông Bean lúc nào cũng thích kết thúc bữa sáng của mình bằng năm hay sáu cái bánh rán.
Freddy đang đóng đinh cái gì đó lên cánh cửa khu chuồng trại.
“Cái quái gì thế!” bà Bean kêu lên; bà đã chạy ra, đứng sau lưng chồng.
“Sao, đó là cái khăn trải giường của tôi bị ăn trộm mà.”
“Và một cái áo sơ mi mặc Chủ nhật của tôi nữa,” ông Bean nói.
Freddy biến mất vào khu chuồng, và một phút sau chạy ra, lôi theo khẩu súng săn. Đằng sau chú là một đám đông những súc vật nhỏ vác rau củ - một số rau trông có hơi héo - đã bị ăn cắp trong vườn. Và cuối cùng là một xâu băng đảng chuột cống, do hai con mèo canh gác.
“Chà, mình sắp bị chơi gì đây!” ông Bean kêu lên, và ngôn ngữ này là khá bạo đối với ông, đặc biệt là mới bảnh mắt ra thế này.
Jinx giải đoàn chuột cống đến những bậc cấp hàng hiên, và sắp chúng thành hàng trước mặt ông Bean.
“Nằm ngửa ra và thú nhận tội ác tụi bay mau,” nó ra lệnh.
Sau một hồi rối tung rối nhùi trong quanh dây, thêm mấy cú hắt hơi tệ hại, đám chuột cũng xoay sở mà nằm ngửa ra được, giơ chân lên trời. Tất cả, trừ Simon, lão gầm gừ, “Tao sẽ không làm thế.”
“Ố!” Jinx vừa nói vừa nhe răng cười. “Là chuột thủ lĩnh, tao chắc mày có quá nhiều phẩm giá, đúng không? Chà, tao nghĩ tao có thể thọt bớt phẩm giá trong mình mày ra.” Và nó khom người, bò chầm chậm về phía Simon.
Thoạt tiên con chuột cống giả vờ như không thèm để ý, nhưng khi Jinx tiến tới càng lúc càng gần hơn, lão bắt đầu run lẩy bẩy; và ré lên một tiếng rúc rích điên loạn, lão lăn ra, ngã ngửa. “Được rồi, được rồi,” lão giận dữ nói. “Tao không chịu nổi trò thọt lét ấy đâu.”
“Thế có phải tốt hơn không,” con mèo nói. “Nào, bọn kia, lặp lại những gì chúng mày phải nói với ông Bean đi.”
Thế là bầy chuột cống đồng thanh lặp lại những lời mà Jinx đã dành cả tiếng đồng hồ dạy chúng. “Ôi, ông Bean, chúng tôi là những tên trộm đã ăn trộm lúa mạch của ông. Chúng tôi ăn trộm khẩu súng của ông từ cậu Freddy. Chúng tôi ăn trộm quần áo của ông từ dây phơi. Chúng tôi ăn trộm hầm bạc của Đệ nhất Ngân hàng Thú vật. Chúng tôi giả vờ là Mặt Mịt sống trong Rừng Lớn, và chúng tôi dọa bầy súc vật, làm chúng phải ăn cắp rau của trong vườn nhà ông.”
Cả đám chuột đã ngừng, nhưng Simon tiếp tục, “Và nếu ông tha thứ cho chúng tôi mà cho chúng tôi đi, chúng tôi hứa sẽ không làm thế nữa.”
“Ấy ấy,” Jinx phản đối. “Tao có bảo mày nói thế đâu. Mà nói thế cũng không đúng nữa. Bọn chuột cống kia, chúng tao từng thả tụi bay hai lần rồi, và lần nào tụi bay cũng quay trở lại mà giở trò gì đó còn tệ hại hơn. Không, chắc chắn là không, lần này ông Bean sẽ quyết định phải làm gì với chúng mày.”
Im lặng mất một tí, và rồi ông Bean quay sang bà Bean. “Thế đấy, bà B.,” ông nói, “chúng ta sẽ làm gì với cái bọn thú phá phách này đây? Chuột cống thì chẳng ra gì rồi. Chúng là thứ động vật chúng ta không tin được. May ra ngoại trừ có hổ. Nhưng tôi lại chưa từng có kinh nghiệm nào với hổ nên tôi không biết. Thế nào, chúng ta làm gì đây? Bắn chúng hả?”
Bà Bean cười và lắc đầu.
“Dìm nước chúng?” ông Bean hỏi.
Bà lại lắc đầu.
Ông Bean nghĩ mất một lúc, rồi ông nói, “Treo đuôi chúng lên nhé?”
“Trời ơi, không!” bà Bean kêu lên.
Thế là đến lượt ông Bean lắc đầu. “Tôi cạn ý tưởng rồi đấy,” ông nói. “Có lẽ bà phải quyết định thôi, bà B. ơi.”
Và rồi bà Bean nghĩ mất một lúc. Cuối cùng bà nói, “Tôi cũng không thích chuột cống như ông thôi, ông B. ạ. Nhưng chúng xấu xa thì đâu phải lỗi tại chúng. Có lẽ tại chúng không được nuôi nấng đúng cách. Và biết đâu chừng chúng có muốn tốt cũng không phải dễ. Ý tôi là khi ai nấy đều nghi ngờ chúng, và mèo nào chó nào cũng săn đuổi chúng, thì chúng kiếm sống cũng khó, thế nên chúng gần như phải trộm cắp mới đủ ăn. Đó là tôi nghĩ thế, ông B. à. Vậy nên tôi muốn thử thứ khác. Tôi muốn cho chúng cái chuồng cũ ở bãi chăn thả phía sau để sống. Ông có dùng nó nữa đâu. Và tôi muốn hứa sẽ cho chúng ba bữa no nê một ngày. Freddy có thể chịu trách nhiệm theo dõi việc này. Tôi nghĩ nếu chúng có một nơi để sống và nhiều thức để ăn như những súc vật khác trong trại, chúng sẽ hành xử giống các con kia. Ông thì sao, ông B.?”
“Lòng tốt của bà đáng được ngợi khen, bà B. à,” ông Bean đáp. “Mặc dầu theo tôi chuột cống là chuột cống, và sẽ vẫn là chuột cống. Nhưng chúng ta sẽ thử xem. Thả chúng ra, Jinx.”
Một số con (đúng ra là hầu hết) chuột trẻ quá cảm động trước sự tử tế của bà Bean, đến nỗi òa ra khóc. Nhưng Simon chỉ cười nhếch mép, và khi đã được trả tự do, lão nói với bà Bean, “Gia đình tôi có vẻ ngả theo hướng chấp thuận lòng hiếu khách của bà, thưa bà, và tôi không có gì để chống lại điều đó. Bà thích thì bà cứ thử thôi. Nhưng chúng đã được nuôi dạy để trở thành những tên trộm, và trộm thì sẽ mãi là trộm, rồi bà sẽ thấy. Ồ, chúng sẽ cư xử phải phép được một thời gian, tôi tin chắc thế. Nhưng với tôi, tôi già quá rồi, không thay đổi được. Với tôi, đó là con đường rộng mở, nơi tôi có thể làm như tôi thích, và không bị ràng buộc bởi những luật lệ do ai đó khác đặt ra cho tôi. Vậy thôi xin tạm biệt, thưa bà.” Và lão quay đi, hướng về cổng lớn.
Jinx chằm chằm dõi theo lão, nhưng bà Bean gọi con mèo lại. “Để nó đi,” bà nói. “Ta chắc nó sẽ không quấy rối chúng ta nữa đâu.”
Simon quay lại. “Cảm ơn bà,” lão nói. “Và tôi nói bà nghe điều này: từ hồi sinh ra tới nay, lời nói tử tế của bà là lời đầu tiên tôi được nghe từ bất kỳ động vật nào hay người nào. Ồ, tôi chẳng thích những lời tử tế, và tôi không xứng đáng với chúng đâu. Nhưng bởi vì bà đã cho tôi những lời tử tế, tôi hứa với bà điều này: rằng từ giờ trở đi, tôi sẽ để cho trang trại nhà Bean được yên.” Và lão quay đi, bước thẳng về phía cổng, biến mất trên con đường.
Khi Jinx đã thả bọn chuột cống, và chúng đã hối hả phóng về căn nhà mới, bà Bean nói, “Rồi, ta nghĩ vụ này nên ăn tiệc. Đám súc vật đâu, tất cả tụi bay được mời dự tiệc vào năm giờ chiều nay ở hàng hiên trước. Và khi ấy tụi bay có thể kể chúng ta nghe về kinh nghiệm bắt trộm của tụi bay. Nếu ông Bean không phiền,” bà thêm, ngó ông chồng.
“Không nghe chúng nói thì làm sao biết được chúng đã làm việc ấy thế nào,” ông bảo. “Cho nên tôi sẽ chịu đựng một lần này vậy.” Và ông nhặt khẩu súng lên, đi vào trong nhà để ăn nốt bữa điểm tâm.
Nhưng Freddy bước tới bà Bean. “Tôi muốn mời vài anh bạn tới dự tiệc có được không ạ. Trong vụ này họ giúp tôi rất nhiều.”
“Sao, mi định mời ai cứ mời chứ,” bà Bean nói.
“Chà,” Freddy nói, “tôi nghĩ có khi bà sẽ không thích có họ. Có một con ếch, một con bọ cánh cứng, một con rết, và mấy...”
“Một con rết!” bà Bean kêu lên. “Ôi Freddy ơi, rết thì ta không biết đâu. Ta sợ ông Bean sẽ phản đối. Ta sợ ông ấy có thể nghĩ một con rết sẽ không biết phải hành xử ra sao ở một bữa tiệc. Ta có phải bắt tay y không?” bà cật vấn đầy nghi ngờ.
“Ồ không, thưa bà,” con heo nói. “Jeffrey kiểu kiểu một viên kim cương thô ráp, bà hiểu tôi muốn nói gì đấy. Tôi e rằng bà mà bắt tay anh ta thì chỉ làm anh ta lúng túng thôi.”
“Ta thì lại chắc y sẽ làm ta lúng túng,” bà Bean nói.
“Tôi có thể mang họ đến trong một cái chai,” Freddy nói. “Tôi nghĩ với Charles và Henrietta lởn vởn quanh thì cách đó họ sẽ thấy ổn hơn. Nhưng tôi chắc họ sẽ muốn tới, và ngắm bên trong nhà mình, với giấy dán tường mới, vân vân. Họ có thể ngắm thoải mái qua cái chai nếu tôi đem rửa cái chai trước.”
Thế là bà Bean ưng thuận nhưng khá hồ nghi, và Freddy đi ra ngắm nghía tấm khăn trải giường chú đã đóng đinh lên cửa khu chuồng trại.
Khi chú tới nơi, Randolph đang bước lên tấm trải.
“Chào, Freddy,” con bọ cánh cứng nói. “Tôi nghĩ là cậu có vẻ đã quên mất tôi trong Rừng Lớn. Sau đó tôi đã trèo lên cái cây ấy, trước trận tấn công. Ổn cả. Tôi đi quá giang xuống nhờ một con sóc. Chà, da Mặt Mịt này đúng là da, nhỉ?”
“Tôi đã bảo là tôi sẽ lột ra, đem đóng vào cửa khu chuồng, và tôi đã làm,” con heo nói.
“Giỏi lắm,” Randolph nói. “Nhưng mà...”
“Nhưng cái gì?” Freddy hỏi, sắc giọng.
“Không thích ra vẻ phê phán,” Randolph nói. “Nhưng gút lại... Chẳng có Mặt Mịt nào cả, đúng không?”
“Chà, tôi không biết,” Freddy nói. “Có và không, nếu anh hiểu tôi muốn nói gì. Khối con vật sợ hắn. Sợ hơn cả sợ một bầy cá sấu Mỹ. Với tôi, dường như như nếu ta tin là có Mặt Mịt đến vậy, thì đã có Mặt Mịt. Ta nghĩ sao thì hắn cũng kinh khủng, hãi hùng, tàn ác hệt y như thế. Và những con vật nào đã đi vào Rừng Lớn để tấn công hắn thì cũng can đảm, hệt như thật là có hắn ở trong đó.”
“Tôi hiểu ý anh,” con bọ cánh cứng nói. “Mẹo ở đây là, đừng tin vào bất cứ cái gì dễ sợ. Rồi thì sẽ không sợ nó nữa. Vâng. Đây, lấy ví dụ bọ cánh cứng nhé. Không ai thèm quấy quả bọ cánh cứng. Đời một con bọ cánh cứng chỉ là một chuyến cắm trại dài. Hoặc đúng phải như thế. Thế rồi sao bọn bọ cánh cứng lại núp dưới những tảng đá? Để tôi nói cậu nghe. Chúng sinh ra đã sợ hãi. Thấy cái gì cũng sợ. Sợ cả những thứ hoàn toàn không có. Như Mặt Mịt chẳng hạn. Nếu cậu tìm được một con bọ cánh cứng nào không hề sợ những gì y không nhìn thấy, thì con bọ cánh cứng ấy hẳn sẽ là một ông vua.”
“Tôi thấy anh suy nghĩ về cuộc đời nhiều ghê nhỉ,” Freddy nói một cách kính nể.
“Lúc ở trên cái cây ấy tôi nghĩ nhiều lắm,” Randolph nói. “Thấy sao những thứ mình sợ nhất lại không hề tồn tại. Việc phải làm là bước thẳng tới chúng và nói, ‘Thưa ông, ông chỉ là một tên Mặt Mịt. Ông không có đó. Cút đi.’ Và rồi, chắc chắn, chúng sẽ biết mất như một bụm khói.”
“Anh nói đúng,” Freddy nói. “Mặt Mịt khiến mọi súc vật trong trang trại này sợ hãi suốt bao năm nay. Mà hắn là gì? Chẳng là gì cả. Trời đất, tôi sẽ không bao giờ sợ bất cứ thứ gì nữa.”
Đúng lúc đó, Jinx, lén lút đến đằng sau con heo, ré lên một tiếng thật to. Freddy nhảy bắn lên không, và rồi với một tiếng éc hoảng sợ, chú phóng luôn vào chuồng.
Con mèo nhe răng cười. “Thế nhé,” nó nói. “Sẽ không bao giờ sợ bất cứ thứ gì nữa hả? Nhìn cậu ta kìa.”
“Chắc rồi,” Randolph nói. “Biết là chúng ta có tránh được đâu mà. Biết là tất cả chúng ta đều sẽ sợ những thứ thực chất chẳng ra gì mà.”
“Ý nói tao hả?” con mèo hỏi, sắc lẻm.
“Nếu anh chẳng ra gì thì anh phải biết rõ hơn tôi chứ,” Randolph nói. Thế rồi, trong lúc con mèo trừng trừng ngó nó đầy dữ tợn, con bọ cánh cứng chui luôn vào một khe nứt trong cánh cửa.
“Hà,” Jinx nói. “Tên ấy phải nói về biết sợ mới phải! Úi!” nó thét lên. “Cái gì thế?” Bởi có cái gì đó dài và như con rắn bất thình lình rơi lên lưng nó, và bằng ba bước, nó đã phóng vút lên hàng rào băng ngang sân gà vịt.
Freddy, kẻ đã quăng một đoạn dây thừng cũ từ cửa chính sang cái chuồng bồ câu ngay phía trên cánh cửa lớn của sân nuôi gà vịt, thò đầu ra.
“Hòa nhé mèo,” chú gọi.
Jinx lên cơn đến nơi, nhưng bất thình lình nó cười to.
“Cậu và thằng bạn bọ của cậu đúng đấy,” nó nói. “Luôn luôn có cái gì đấy hù dọa được chúng ta, và thường hóa ra chẳng là gì cả. Khi thì bọn Mặt Mịt, khi thì mẩu dây thừng, cái gì cũng dọa được.”
“Đúng,” Freddy nói. “Chúng ta đã có một tấm da Mặt Mịt đóng ở đây, nhưng sẽ luôn luôn còn những tên khác. Tên lớn tên nhỏ.”
“Luôn luôn có những tên Mặt Mịt,” con mèo nói.
Và cá nhân tôi, tôi nghĩ đó là câu nói khôn ngoan nhất từ xưa đến nay của nó, hay của bất kỳ con mèo nào.
Freddy & Kẻ Mặt Mịt Freddy & Kẻ Mặt Mịt - Walter R. Brooks Freddy & Kẻ Mặt Mịt