Tính cách không thể được hình thành trong yên bình. Chỉ có trải nghiệm mới hun đúc tâm hồn, làm rõ tầm nhìn, sản sinh ra tham vọng, và giúp đạt được thành tựu.

Helen Keller

 
 
 
 
 
Tác giả: Henri Navarre
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 9 - chưa đầy đủ
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2098 / 31
Cập nhật: 2016-07-13 10:11:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6: Các Cuộc Hành Quân Trước Chiến Dịch Điện Biên Phủ
ại chương III, tôi có nói đến việc dự kiến một chiến lược hành quân có tính cách phòng thủ phía bắc vĩ tuyến thứ 18 và tiến công ở phía nam cho chiến dịch năm 1953-1954.
Để thực hiện việc này, một số giai đoạn được dự kiến.
Trong thời gian đầu kéo dài từ mùa hè đến đầu mùa thu năm 1953, là các hoạt động nhằm mục đích vừa tạo cho các đơn vị chúng ta có được một sự cơ động chiến thuật, vượt trội hơn đối phương; vừa đảm bảo vững chắc cho việc tiến hành công tác bình định ở những vùng chúng ta kiểm soát được tạo điều kiện thuận lợi để giành chiến thắng ở một số mặt trận phụ. Kế hoạch dự kiến các hoạt động tảo thanh trong vùng đồng bằng, miền Trung và Nam Việt Nam, cũng như những cuộc hành quân địa phương tại xứ Thái và Lào, uy hiếp địch từ phía sau lưng, tạo sự thông thoáng cho vùng Luang Prabang, cánh đồng Chum.
Trong giai đoạn thứ hai, kéo dài suốt mùa khô năm 1953-1954, là tổ chức những cuộc hành quân quan trọng. Một số nhằm mục đích đối phó những cuộc tiến công của quân địch dự kiến sẽ triển khai từ tháng 10 hoặc tháng 11; một số khác nhằm chiếm đóng các vùng lãnh thổ của Việt Minh ở phía nam đèo Ngang. Giai đoạn này phải được thực hiện thông qua hai bước.
Bước đầu tiên (Thu - Đông 1953-1954), chúng ta phải:
- Một mặt, tập họp tại Bắc Bộ, bắt đầu từ giữa tháng 9 một số những sự chuyển quân nhằm mục đích đối phó với cuộc tiến công của đối phương, mà theo những sự biểu hiện của Việt Minh sẽ được tiến hành hoặc trong vùng châu thổ hoặc ở bên ngoài;
- Mặt khác, ta phải cảnh giác ở vùng Trung Bộ Đông Dương, đặc biệt là các hoạt động của Việt Minh từ Liên khu V nhắm vào vùng Tây Nguyên, về phía sông Mêkông (Hạ Lào và Campuchia).
Bước thứ hai (Xuân - Hè 1954), ta dự kiến sẽ nỗ lực tiêu diệt các lực lượng của Việt Minh ở phía nam vĩ tuyến 18, do điều kiện của khí hậu các cuộc hành quân có thể kéo dài đến tháng 9.
Những nỗ lực đặc biệt phải chú ý đến:
- Đánh chiếm vùng Liên khu V
- Chiếm đóng vùng bên kia sông Bassac (Nam Bộ)
- Bình định hoàn toàn vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Trên đây là kế hoạch chung. Chương này sẽ thuật lại diễn biến của nó cho đến khi chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra.
Các cuộc hành quân sẽ được trình bày theo yêu cầu đặt chúng vào khung cảnh của chiến dịch Điện Biên Phủ để làm rõ thêm những nguyên do phải chấp nhận chiến này, và cũng để làm sáng tỏ thêm những điều kiện tổng thể mà chiến dịch này đã diễn ra.
CÁC CUỘC HÀNH QUÂN MÙA HÈ NĂM 1953
Ngay từ tháng 6, nhưng cuộc hành quân tiến công có tính địa phương được phát động trên toàn lãnh thổ Đông Dương. Chúng được tiến hành với những đơn vị cơ động sẽ rút đi sau khi đã tái lập được sự ổn định của các lực lượng chúng ta bị xáo trộn vì chiến dịch 1952-1953.
Trong vùng châu thổ, mục đích chính của các cuộc hành quân này là:
- Ổn định vùng Bùi Chu, một vùng ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, đã quyết định chuyển cho nhà cầm quyền Việt Nam. Để làm việc này, trước hết phải giải phóng nó khỏi tay những đơn vị chính quy và địa phương của Việt Minh.
- Giải tỏa vùng Hải Phòng bằng cách tiêu diệt tổng thể những căn cứ địa đối phương nằm trong các vùng lận cận.
- Hành quân tảo thanh vùng phía tây.
Tại miền Trung, tiến chiếm “Phố không vui”, một vùng địch ngay trong lòng lãnh thổ chúng ta giáp phía bắc thành phố Huế, và mở rộng vùng lãnh thổ của ta chung quanh Phan Thiết.
Phía sau lưng Việt Minh trong vùng cao Bắc Bộ:
- Vào tháng 7, một đơn vị không vận thành công trong việc tiêu diệt các kho dự trữ của đối phương trong vùng Lạng Sơn. Cuộc hành quân này đã gây được một tiếng vang lớn đối với quân đội đối phương.
- Vào tháng 10, ta tiến hành một cuộc hành quân không vận rất dũng cảm vào Lào Cai với sự hỗ trợ của lực lượng du kích địa phương.
Song song với những hoạt động thuần túy quân sự, ta tiến hành chính sách thành lập các đơn vị du kích được tuyển từ những nhóm dân cư người Thái và nhất là người Mèo1. Đây là chính sách chỉ sau một thời gian ngắn đã gây ra sự lo lắng cho đối phương, qua đó chúng ta tái chiếm một số vùng lãnh thổ.
Hơn nữa, từ ngày 8 đến 13 tháng 8, chúng ta phải di tản bằng đường không căn cứ Nà Sản, một cứ điểm mà ta biết được từ các nguồn tin chắc chắn, sẽ bị đối phương tiến công vào cuối mùa hè. Cuộc hành quân di tản đã tiến hành một cách rất bất ngờ và thành công.
Tướng Cogny đã đặt yêu cầu với tôi về việc di tản khỏi Nà Sản, ngay sau khi ông nắm quyền chỉ huy ở Bắc Bộ. Việc di tản này tạo một yếu tố thuận lợi là: một mặt nó tước đi của Việt Minh một mục tiêu nhiều rủi ro cho chúng ta; nếu ta quyết giữ, nó sẽ tạo ra những gánh nặng quá sức chịu đựng của chúng ta trong những điều kiện lúc bấy giờ. Mặt khác, việc di tản này giúp cho chúng ta thu hồi được khoảng sáu tiểu đoàn dùng vào việc bảo vệ cứ điểm này. Tuy nhiên việc rút bỏ Nà Sản cũng tạo ra một điểm bất lợi rất nghiêm trọng. Nó mở ngỏ vùng Lai Châu và tạo điều kiện cho Việt Minh có một giao lộ, đi ngang Tuần Giáo, Điện Biên Phủ và thung lũng Nậm U dẫn đến Luang Prabang. Vì vậy, tướng Cogny đã nhấn mạnh rằng để bù lại việc này chúng ta phải chiếm giữ Điện Biên Phủ. Tôi đã chấp nhận quan điểm này.
Tại Thượng Lào, vào tháng 9 ta tiến hành việc tảo thanh tạo sự thông thoáng cho căn cứ đóng sâu trong vùng cánh đồng Chum, và mở một cuộc hành quân quan trọng để giải vây cho vùng Đông Bắc Luang Prabang cùng những thung lũng vùng Nậm U và Nậm Sương. Cuộc hành quân này nhằm mục đích chuẩn bị cho một hành động tiến chiếm Điện Biên Phủ sau này là một quyết định đã được nhất trí sau khi chúng ta rút khỏi Nà Sản1.
Tất cả các cuộc hành quân nói trên cùng với một loạt những cuộc hành quân nhỏ, giúp chúng ta có được những thuận lợi về mặt tinh thần rất quan trọng. Chúng tạo cho quân đội ta có được sự tự tin, khi rất nhiều các đơn vị bị xuống tinh thần; giúp cho lãnh đạo các Quốc gia Liên kết lấy lại tinh thần và tạo ra nhiều lo lắng cho Việt Minh.
Nhưng các kết quả đạt được dừng lại ở đây. Trong các công văn chính thức, trong các thư riêng gửi các nhân vật chính trị và quân sự cao cấp, trong các cuộc họp báo, trong các cuộc nói chuyện của tôi với các vị khách quan trọng Pháp và nước ngoài, tôi không ngừng khẳng định, với những lời lẽ hơi thô một chút, là “chúng ta chỉ mới ăn những món khai vị thôi, nhưng phần còn lại của bữa ăn chính trong trận chiến này thì chúng ta chưa đụng đến”.
Và bữa ăn chính đó ngày càng trở nên khó tiêu hơn. Tất cả những tin tức tình báo phù hợp với nhau trên thực tế cho thấy rằng Việt Minh đang chuẩn bị rất kỹ cho chiến dịch mùa đông với một tầm cỡ chưa bao giờ có. Binh đoàn Tác chiến của họ, cho dù bị thiệt hại nhẹ trong chiến dịch năm 1952-1953, vẫn hoàn toàn được rút ra khỏi các cuộc hành quân một cách chủ động, bắt đầu từ đầu tháng 7 được đưa về huấn luyện thật ráo riết. Tất cả những thông tin này dự báo cho biết là Binh đoàn sẽ sớm ra tay, một sự ra tay rất là khủng khiếp.
Không may là, kết quả tốt của những cuộc hành quân vào mùa hè, cho dù chúng ta đã có sự cẩn thận, vẫn bị báo chí thổi phồng quá đáng. Những sự thổi phồng đã tạo ra một cảm giác sảng khoái đáng lo ngại trong các giới chức Chính phủ. Ở paris, người ta đã kêu gọi tôi là “không nên tìm cách thắng cuộc chiến tranh”, chỉ chứng tỏ cho đối phương thấy họ không thể thắng được cuộc chiến thôi - và người ta đã dựa vào đấy mà từ chối cung cấp các phương tiện cho tôi. Thực tế cay đắng của mấy tháng sắp tới đã bị bỏ quên. Cuộc bừng tỉnh do đó càng vô cùng tồi tệ.
CUỘC CHIẾN MÙA THU NĂM 1953
Vào thời điểm khoảng 20 tháng 9, tình hình tổng quát có thể được tóm tắt như sau.
Vào cuối tháng 8 các lực lượng đối phương trải rộng khắp Bắc Bộ, giãn ra đôi chút chung quanh vùng đồng bằng và tập trung ở hai cụm chính. Một cụm gồm hai sư đoàn (308 và 312) và hai trung đoàn chính quy độc lập, được sự yểm trợ của sư đoàn nặng 351 trấn đóng ở mặt bắc. Cụm thứ hai gồm sư 316 (thiếu một trung đoàn), các sư 304 và 320 và một trung đoàn độc lập, được tập trung ở mặt Tây Nam.
Trong vùng châu thổ còn có sự tăng cường của các lực lượng dân quân và địa phương. Hai trung đoàn chính quy độc lập xâm nhập vào các nơi nào đó trong vùng sông Hồng, phía đông Hà Nội, trong khi ba trung đoàn khác di chuyển trong vùng Hưng Yên, Thái Bình và Bùi Chu.
Ngoài ra còn có sự hiện diện ba binh đoàn thứ yếu. Một binh đoàn (gồm trung đoàn độc lập 148 và một trung đoàn của sư đoàn 316) hoạt động trong vùng Thái Nguyên và vùng Bắc Lào chống lại các lực lượng biệt kích của chúng ta và duy trì một vòng vây uy hiếp căn cứ tiền tiêu Lai Châu của chúng ta. Binh đoàn thứ hai (sư 325) đang được hình thành trong vùng Vinh (Bắc Trung Bộ Việt Nam). Binh đoàn thứ ba bao gồm những lực lượng của Liên khu V.
Các nguồn tin đáng tin cậy cho thấy đối phương đang chuẩn bị một cuộc tiến công tổng lực vào vùng châu thổ qua hai giai đoạn. Trước hết, sư đoàn 320 xâm nhập vào trục Phủ Lý - Hưng Yên - Hải Dương. Vài tuần sau đó, là hai cuộc tiến công: một ở phía bắc, do hai sư 308 và 312 dẫn đầu với sự hỗ trợ của sư đoàn nặng, đánh vào trục Vĩnh Yên - Phúc Yên - Bắc Ninh; một ở phía nam với sư 304 và có thể là một phần của sư 316, vào vùng Phát Diệm và Bùi Chu. Mục đích là cô lập Hà Nội với Hải Phòng. Họ cũng dự kiến đánh chiếm các thành phố quan trọng trong vùng châu thổ.
Để đối phó với một cuộc tiến công như vậy, tướng Cogny, người chỉ huy mặt trận Bắc Bộ, mong muốn có được trong tay tất cả những lực lượng trù bị ở Đông Dương. Tuy nhiên ông cũng không che đậy ý muốn là sẽ rút về cố thủ bên trong vùng châu thổ, tránh mọi cuộc giao tranh với những đơn vị địch ở bên ngoài1.
Một sự uy hiếp rất nghiêm trọng đè nặng lên vùng châu thổ. Trong một công văn, tôi trình bày không che giấu với Chính phủ rằng: “Tận dụng thời gian khoảng bảy tháng trước khi mùa mưa đến, cùng với sự mệt mỏi về mặt tinh thần và thể chất của các đơn vị ta, Việt Minh có thể mong đợi đạt được những kết quả quan trọng và quyết định cho cuộc chiến”.
Để đối phó với sự uy hiếp này, nhiều biện pháp quan trọng được thực hiện.
Tất cả những lực lượng cơ động cần thiết đã được tập trung trong vùng châu thổ: một tập đoàn gồm 8 binh đội cơ động, hai binh đội thiết giáp, hai binh đội thủy bộ và những phương tiện tổng trù bị quan trọng đã được tập hợp giữa ngày 10 tháng 9 và 15 tháng 10.
Chúng ta mở nhiều cuộc hành quân lớn càn quét các căn cứ1 được các trung đoàn địch xây dựng khi xâm nhập vào đồng bằng, để chuẩn bị đón những đơn vị lớn hơn từ bên ngoài tiến vào. Đặc biệt là cuộc hành quân “Brochet” kéo dài từ ngày 20 tháng 9 đến 10 tháng 10 tại Thái Bình và Ninh Bình đã thành công trong việc phá hủy một phần những cứ điểm mà trung đoàn 42 - một trung đoàn năng nổ và nguy hiểm nhất trong các trung đoàn xâm nhập vào - đã tổ chức, cho dù không hoàn toàn loại ra khỏi vòng chiến trung đoàn này.
Cuối cùng và quan trọng nhất là cuộc hành quân lớn được chuẩn bị chống lại sư đoàn 320, nhằm mục đích loại sư đoàn này khỏi vòng chiến trước khi nó tiến vào vùng châu thổ, hoặc là ít nhất là phá huỷ những cứ điểm tiến công mà nó đã xây dựng được trong vùng Phủ Nho Quan.
Cuộc tiến công này, được đặt tên là cuộc “hành quân Mouette”, mở ra ngày 15 tháng 10, cùng ngày - theo những nguồn tin chắc chắn - với cuộc tiến công của Việt Minh. Nó tiếp nối với cuộc “hành quân nghi binh” 2, nhằm mục đích cầm chân sư 304 bằng một động tác giả đổ bộ vào vùng Thanh Hóa3. Vì không phối hợp chặt chẽ việc phòng thủ, nên đối phương phải chịu nhiều thiệt hại nặng nề vì hỏa lực của không quân và pháo binh của ta.
Sau hai mươi ngày cố gắng bất thành, sư đoàn 320, do bị loài khỏi vòng chiến khoảng 3000 người trong đó có hơn 1200 chết, từ bỏ các cuộc phản công và chúng ta đã làm chủ chiến trường. Những thông tin tình báo đáng tin cậy cho biết Bộ Chỉ huy Việt Minh đánh giá là bất cứ một cuộc tiến công nào trong thời gian hai tháng trước mắt là không phù hợp. Ta bẻ gãy được cuộc tiến công ngay ở bước chuẩn bị của nó. Chúng ta có được một chiến thắng không thể tranh cãi4.
Tuy vậy, các trận đánh cho thấy rất rõ sự cải thiện một cách đáng kể về khả năng chiến đấu của bộ binh Việt Minh. Đây là lo lắng rất lớn khi một ngày nào đó, chúng ta phải đối mặt không phải chỉ với một sư đoàn, mà là cả Binh đoàn Tác chiến của Việt Minh với quân số lớn hơn rất nhiều trong khi Binh đoàn của chúng ta có quân số kém hơn hẳn.
SỰ THAY ĐỔI KẾ HOẠCH CỦA VIỆT MINH
Bất ngờ, từ cuối tháng 10, một loạt các nguồn tin chúng ta nhận được cho thấy là Bộ Chỉ huy Việt Minh đã thay đổi hoàn toàn kế hoạch hành động của họ.
Cuộc tiến công vào vùng châu thổ đã - ít nhất là tạm thời bị huỷ và chúng tôi thấy có hai hướng hành động khác nhau; một hướng, có vẻ quan trọng hơn, là tiến về vùng Thượng du Bắc Bộ và Bắc Lào; hướng kia là đi về vùng trung tâm Đông Dương, khi có các dấu hiệu cho thấy các lực lượng của Liên khu V có những sự chuẩn bị để tiến công vào vùng Tây Nguyên.
Đâu là nguyên nhân của sự thay đổi nói trên?
Việc củng cố lực lượng của chúng ta trong vùng châu thổ và những thiệt hại ta tạo ra cho sư 320 là một trong những nguyên nhân rõ ràng, nhưng chưa đủ để giải thích được một cách hoàn toàn.
Cũng có nhiều khả năng Việt Minh đã chịu một áp lực nào đó của Trung Quốc, và thậm chí là của Liên Xô để chuyển các nỗ lực của họ vào vùng sông Cửu Long, hơn là nhắm vào vùng châu thổ Bắc Bộ. Việc thay đổi này phù hợp với hướng phát triển của Chủ nghĩa Cộng sản nhắm vào các nước Miến Điện và Ấn Độ thông qua các Quốc gia có sắc dân Thái (vùng Thượng du Bắc Bộ, Lào, Xiêm).
Nhưng nguyên nhân chính cho sự thay đổi kế hoạch của Việt Minh mang tính chính trị. Chìa khóa của sự thay đổi này là những lời tuyên bố của ông Hồ Chí Minh với tờ nhật báo Thụy Điển Expressen. Đây là những lời tuyên bố đã được suy nghĩ rất lâu, thể hiện quyết định của Việt Minh tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng cho cuộc xung đột bằng đường lối chính trị.
Sự hiểu biết chính xác của ông về suy nghĩ của các giới chính trị và kế hoạch của ta (xem chương 4) khiến ông đi tới nhận định rằng một giải pháp chính trị có thể chấp nhận được và khả thi trong khoảng thời gian không lâu. Sở dĩ ông cho giải pháp chính trị là chấp nhận được vì ông lo sự phát triển Binh đoàn Tác chiến của ta và của các Quân đội Liên hiệp chỉ trong vài tháng sẽ làm mất đi ưu thế hiện tại của Việt Minh. Và khả thi vì ông đánh giá tinh thần của người Pháp đã bị bào mòn, cho phép ông hy vọng vào sự thành công của một giải pháp chính trị.
Chính vì vậy Bộ Chỉ huy Việt Minh có các kế hoạch hành quân hướng đến việc có thể tạo điều kiện thương thuyết một giải pháp chính trị. Cái họ cần là chiến thắng quân sự vang dội. Cái Bộ Chỉ huy nhắm đến là những mục tiêu chính trị, mà thành công của nó sẽ tạo ra một tiếng vang sâu sắc trong dư luận Pháp, và đặt chúng ta vào một tình thế rất khó xử, không những đối với các Quốc gia Liên kết, mà còn đối với Mỹ và thậm chí là Anh quốc. Từ đây trở đi việc tìm kiếm “lá bài quân sự” là cơ sở cho tất cả mọi quyết định của họ. Về điểm này, chúng ta có được những thông tin chắc chắn.
Để có được lá bài quân sự nói trên một cách thuận lợi nhất, đối phương rất khó có thể tìm kiếm nó bằng cách đánh thẳng vào vùng châu thổ, trừ khi phải chấp nhận ngay những thiệt hại khổng lồ cho một chiến thắng quyết định như chiếm được Hà Nội hoặc Hải Phòng. Ngược lại, việc này có thể thực hiện được bằng đánh chiếm những vùng rộng lớn thưa thớt mà chúng ta rất khó bảo vệ, như vùng Thượng du Bắc Bộ, nước Lào hay là những vùng núi cao.
Đặc biệt nước Lào là một mục tiêu lý tưởng. Trong ba Quốc gia Liên kết, nước Lào là nước trung thành với chúng ta nhất. Chúng ta vừa ký với nước Lào một thỏa hiệp, theo đó ta bắt buộc phải bảo vệ họ. Thế nhưng, Việt Minh đã biết rõ thông qua những sơ hở của báo chí - hoặc nếu không là thông qua những sự “rò rỉ” tin tức khác - về buổi trao đổi xung quanh việc bảo vệ nước Lào tại Ủy ban Quốc phòng ngày 24 tháng 7. Nội dung buổi trao đổi này cho thấy bảo vệ nước Lào là vấn đề gai góc nhất của chúng ta, và ta vẫn chưa tìm được cách giải quyết (xem chương 1). Chính vì vậy, Việt Minh đã chọn mục tiêu là nước Lào cho nỗ lực chiến tranh của họ. Nỗ lực này nhắm vào cả hai vùng Bắc Lào và Trung Lào.
Bằng cách chiếm vùng Bắc Lào và kinh đô Luang Prabang, Việt Minh sẽ gây ra cho chúng ta một thất bại lớn về mặt tinh thần mà ta rất khó có thể phục hồi lại được. Họ sẽ uy hiếp nước Xiêm và đưa vấn đề Đông Dương lên tầm cỡ quốc tế, một việc họ không làm được trong năm trước đó.
Khi chiếm đóng vùng Trung Lào, họ sẽ tạo điều kiện giúp các lực lượng của Liên khu V tiến công vào vùng Tây Nguyên, uy hiếp biên giới Campuchia và vùng Nam Bộ. Toàn bộ vùng Nam Đông Dương, một vùng mà việc phòng thủ đã trở nên rất yếu kể từ khi Bắc Bộ trở thành vùng tối quan trọng trong chiến lược của chúng ta, nay sẽ lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Khi tiến hành những cuộc tiến công này, quân địch tìm cách giữ chân tối đa các lực lượng của chúng ta trong vùng châu thổ bằng các lực lượng địa phương và một lực lượng tối thiểu quân chính quy.
Trên đây là một sự phác thảo kế hoạch của Việt Minh - ta chỉ có thể nhận biết dần dần. Sách lược quân sự của Việt Minh bao giờ cũng được lồng vào sách lược chính trị. Sách lược chính trị này vừa nhắm vào dư luận Pháp, mà sự mong mỏi “kết thúc” cuộc chiến tranh sẽ được kích động bằng tất cả những phương tiện tuyên truyền và xúi giục phản bội họ có thể có được, vừa nhắm vào dư luận Việt Nam, cũng sẽ bị giao động và mất tin tưởng vào chúng ta vì nghi ngờ ta muốn từ bỏ cuộc chiến.
Chính vì không khí chính trị chưa bao giờ bị huỷ hoại nặng nề như thế, nên Việt Minh sẽ tiến hành những cuộc hành quân quân sự.
Đứng về mặt chiến lược, nếu sự thay đổi kế hoạch của Việt Minh đã loại bỏ nguy cơ cuộc tiến công vào vùng châu thổ, thì nó cũng đặt ra cho chúng ta một vấn đề không kém phần cam go.
Chúng ta phải đối phó với hai hướng hoạt động khác nhau. Một xuất phát từ vùng Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên, trước hết hướng về vùng Lai Châu và Điện Biên Phủ, trước khi tiến vào vùng Thượng Lào. Một xuất phát từ vùng Vinh, tiến về phía nam và Tây Nam, để tiến về hoặc là phía đông hay là phía tây của dãy Trường Sơn, để giáp công một hướng hoạt động khác xuất phát từ Liên khu V.
Để đối phó với những hoạt động của Việt Minh, chúng ta có thể sử dụng hai giải pháp - nếu một chiến lược có đủ phương tiện sẽ tiến hành cả hai cùng một lúc.
Giải pháp đầu tiên - là sự phòng thủ trực tiếp - bao gồm việc chặn đánh tại tất cả các hướng đang bị uy hiếp bằng các lực lượng đủ để ngăn chặn và đánh bật quân địch. Việc này đòi hỏi sự chia nhỏ các lực lượng của ta, tương tự như cách làm của đối phương. Nhưng đây là sự chia nhỏ có tính cách hình thức hơn thực tế, nhờ vào khả năng cơ động chiến lược nhanh bằng đường không, giúp ta có được phương cách chuyển quân mà đối phương không thể có được.
Giải pháp thứ hai - là phòng thủ gián tiếp - bao gồm việc giữ lực lượng của chúng ta ở vùng châu thổ, và hành động phía sau lưng quân địch.
Giải pháp thứ hai này, thoạt xem qua có vẻ hấp dẫn hơn giải pháp thứ nhất. Nó có thuận lợi là cho phép sử dụng không quân tốt hơn, hoạt động gần các căn cứ tại vùng châu thổ. Nhưng ưu thế này không thể được đánh giá quá cao, vì khi hoạt động ở các vùng Trung Du và vùng cao, khả năng của không quân có sự hạn chế. Nhất là ưu thế này phải được cân đối với hai mặt khó khăn đã thường được nhận thấy trong một thời gian dài ở Đông Dương.
Khó khăn thứ nhất là đối phương có khả năng ngăn chặn hành động của chúng ta xuất phát từ vùng đồng bằng - nếu đây không phải là những quả đấm thật mạnh - bằng các lực lượng hoặc là địa phương hoặc là chính quy, độc lập với Binh đoàn Tác chiến của họ. Đây là lực lượng họ có rất nhiều, là việc họ đã làm được một cách thành công năm ngoái, khi tướng Salan có một cuộc hành quân xuất phát từ vùng châu thổ, chống lại các lực lượng Việt Minh ở vùng Thượng du: cuộc hành quân “Lorraine” đã bị các lực lượng nhỏ hơn chúng ta rất nhiều ngăn chặn, không thể đạt được mục đích đề ra.
Khó khăn thứ hai là sự việc thường được nhận thấy trong các chiến dịch đã qua - nhất là năm 1952 trong cùng cuộc hành quân “Lorraine” - Việt Minh rất tin tưởng vào khả năng phản ứng linh hoạt, thay đổi nhanh chóng các tuyến liên lạc, tiếp tế của các lực lượng của họ. Họ không để cho bị đánh lạc hướng bằng các trận đánh uy hiếp sau lưng.
Tuy nhiên tất cả những khả năng hành động của chúng ta đã được nghiên cứu một cách cẩn thận.
Trong vùng Vinh và Hà Tĩnh một lực lượng cỡ sư đoàn được tăng viện một trung đoàn đã tập kết để đưa vào hoạt động ở vùng trung tâm Đông Dương.
Để có thể hoạt động được sau lưng lực lượng này, và buộc nó phải thay đổi phương hướng hoạt động, ta có thể dự kiến các hành động xuất phát từ vùng châu thổ tiến về Thanh Hóa, hoặc là từ Trung Bộ Việt Nam tiến về Chu Lai. Các cuộc tiến công trên bộ có thể được kết hợp với các cuộc hành quân đổ bộ.
Cả hai đều đòi hỏi phương tiện lớn hơn rất nhiều so với những gì chúng ta có thể cung cấp, chưa kể đến việc phải đối phó cùng một lúc, với một hướng tiến công vào Bắc Lào, và có vẻ như đây là hướng tiến công quan trọng nhất.
Thật vậy, phần lớn Binh đoàn Tác chiến của Việt Minh xuất phát từ vùng Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên tiến về hướng Tây Bắc.
Để ngăn chặn bước tiến của Binh đoàn Tác chiến Việt Minh, chúng ta phải có một hành động xuất phát từ vùng châu thổ, hoặc chặn đánh họ trước khi họ xuất phát, hoặc cắt đứt ngay lập tức đường liên lạc của họ, buộc họ phải quay trở lại. Giải pháp này chỉ khả thi khi địch thủ chấp nhận giao tranh. Nhưng trong trường hợp này, nó có thể tạo ra ngay từ tháng 11 năm 1953, một cuộc chiến tổng lực, mà vì lý do yếu thế của các phương tiện của chúng ta, ta đã phải tìm cách trì hoãn, cho đến khi nào việc phát triển Binh đoàn Tác chiến của ta có được những lực lượng đúng như ý muốn. Do đó giải pháp này chứa đựng một sự rủi ro rất lớn.
Tuy vậy, tôi ra lệnh tiến hành một cuộc nghiên cứu. Có hai kế hoạch được dự kiến. Kế hoạch thứ nhất là kế hoạch duy nhất thực sự có hiệu quả hướng đến một cuộc tiến công nhắm vào giao lộ liên lạc chủ yếu trong vùng Yên Bái. Tướng Cogny (người dự kiến được giao tư lệnh cuộc hành quân này) đã ước tính phải cần một lực lượng vượt xa khả năng của tất cả những lực lượng hiện có tại Đông Dương1. Hơn nữa các phương tiện ta có chỉ cho phép ta tái lập và bảo trì một trục lộ giao thông duy nhất không thể đủ cho một cuộc hành quân tầm cỡ như thế. Do đó cuộc hành quân được xem là không thể nào khả thi.
Do đó chúng tôi dự kiến một hành động vào vùng gần hơn là Thái Nguyên. Cho dù ít tốn kém hơn so với một cuộc hành quân vào Yên Bái, một hành động như vậy sẽ mang lại hiệu quả kém hơn nhưng lại đòi hỏi phương tiện nhiều hơn những gì ta có.
Vì thế, chúng tôi đã nghĩ đến một hành động theo kiểu “đánh và rút” trong vòng hai hay ba tuần; trong khoảng thời gian nói trên, chúng ta gần như hoàn toàn bỏ trống vùng châu thổ. Hiệu quả sẽ rất thấp, cả không gian (vì Việt Minh có những cách để né tránh) lẫn thời gian (vì không thể bỏ trống lâu dài vùng đồng bằng). Hơn nữa, trong khoảng thời gian duy nhất mà một kế hoạch như vậy có thể tiến hành được, thì các lực lượng quan trọng của Binh đoàn Tác chiến Việt Minh vẫn còn đóng gần vùng châu thổ và họ có thể đánh vào vùng Thái Nguyên, làm cho khả năng thành công của chiến dịch của ta trở nên vô cùng bấp bênh. Sau khi nghiên cứu rất kỹ vấn đề này, tôi và tướng Cogny đã nhất trí từ bỏ kế hoạch này.
Chính vì vậy, để đối phó với những cuộc chuyển quân của Việt Minh nhằm mục đích tiến công vào vùng Thượng du và phần trung tâm của Đông Dương, do sự thiếu hụt về lực lượng, bắt buộc chúng ta phải bảo vệ các vùng bị uy hiếp bằng cách đối mặt trực tiếp với quân địch. Việc đối mặt trực tiếp ít tốn kém hơn, vì chúng ta có thể sử dụng lực lượng đóng ngay tại địa phương. Tuy nhiên việc bảo vệ trực tiếp cũng không loại trừ những hành động về sau đánh vào các tuyến đường giao thông liên lạc của quân địch, khi nào chúng ta thấy cần thiết - khi mà có sự chi viện của chính quốc hoặc dựa vào sự phát triển các lực lượng Quân đội Liên hiệp.
CHIẾN TRƯỜNG MÙA ĐÔNG NĂM 1953-1954
Chiến trường miền Tây Bắc1
Các lực lượng Việt Minh tương đối quan trọng kiểm soát vùng Thượng du Bắc Bộ, nơi chúng ta chỉ còn giữ Lai Châu và một vài “điểm” được các lực lượng du kích của ta trấn giữ.
Để có thể tái lập một cách vững chắc sức mạnh của ta trong vùng này đồng thời bảo vệ vùng Bắc Lào, ta dự kiến vào mùa hè vừa qua, sau khi rút khỏi Nà Sản, mở một cuộc hành quân để kiểm soát vùng Điện Biên Phủ, được xem như là một điểm chiến lược quan trọng chủ yếu. Do thiếu phương tiện nên chúng ta đã phải trì hoãn kế hoạch này.
Cuộc hành quân này đòi hỏi phải sử dụng các đoàn quân xuất phát từ Lai Châu, thung lũng Cao của vùng Nậm Ư (chúng ta tái chiếm được vào tháng 9) và các đơn vị nhảy dù. Nó được dự kiến sẽ được tiến hành vào tháng 12 hay tháng giêng, khi các tiểu đoàn quân Lào mới được thành lập tạo điều kiện giải phóng các lực lượng cơ động cần thiết. Trong những ngày đầu tháng 11, có nhiều dấu hiệu ngày càng rõ ràng cho thấy các lực lượng quan trọng của Việt Minh (sư đoàn 316 và những đơn vị của một hay có thể hai sư đoàn khác) đang tiến về vùng Thượng du, nhắm vào mục tiêu đầu tiên là Lai Châu, sau đó là dựa vào Điện Biên Phủ để tiến vào Bắc Lào.
Đứng trước một sự uy hiếp nghiêm trọng như vậy, đối với trung tâm kháng cự của ta ở Lai Châu và vùng Bắc Lào, chúng ta phải có ngay một quyết định thích ứng, không thể chậm trễ được. Trong chương tiếp theo, nói về chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi sẽ nói rõ thêm về những hoàn cảnh đã khiến tôi phải có một quyết định. Ở đây, tôi giới hạn sự giải thích này như sau: vì những lý do tôi đã nói đến ở phần trước, để có thể trực tiếp bảo vệ nước Lào, tôi đã quyết định tiến hành cuộc hành quân dự kiến vào Điện Biên Phủ, để chặn đường tiến quân của Binh đoàn Tác chiến địch.
Giai đoạn đầu, ta chiếm Điện Biên Phủ bằng một cuộc hành quân không vận. Qua giai đoạn hai ta rút các phương tiện từ Lai Châu về Điện Biên Phủ, do đặc điểm đặc thù của địa hình, ta không thể nào bảo vệ được cứ điểm này trước một quả đấm mạnh.
Cuộc hành quân được dự kiến vào ngày 20 tháng 11. Nó đã được thực hiện bằng việc thả xuống 6 tiểu đoàn nhảy dù, mà không gặp khó khăn lớn, mặc dù gặp phải một sự kháng cự khá quyết liệt của một tiểu đoàn địa phương Việt Minh.
Ngay sau khi chiếm được Điện Biên Phủ, chúng ta bắt đầu xây dựng một cứ điểm cho một lực lượng từ 5 đến 6 tiểu đoàn, và có thể tăng lên 10 đến 12 tiểu đoàn, tùy theo tính cách quan trọng của các lực lượng đối phương mà ta phải đối đầu.
Lai Châu đã được sơ tán ngày 8 tháng 12, và lực lượng đồn trú của nó rút về Điện Biên Phủ, một phần bằng đường bộ, một phần bằng đường không.
Trong những ngày kế tiếp, chúng tôi nhận được thông tin liên tiếp về sự di chuyển về vùng Thượng du của các sư đoàn 316, 308 và 312, sau đó là một số đơn vị của sư 304 (một, rồi hai trung đoàn) và cuối cùng là sư đoàn nặng 351.
Một số lượng lớn các trang thiết bị và đồ tiếp tế từ Trung Quốc đã được báo cáo.
Tập hợp một lực lượng dân công lớn hơn các chiến dịch trước rất nhiều, đối phương đã phục hồi và làm mới hệ thống đường giao thông từ biên giới Trung Quốc đến Điện Biên Phủ. Họ xây dựng tại Tuần Giáo một căn cứ hậu cần rất lớn.
Từ đầu tháng giêng, Binh đoàn Tác chiến Việt Minh đã tập trung quanh Điện Biên Phủ, và ngày càng có nhiều dấu hiệu của một cuộc tiến công.
Về phía ta, ta tăng cường đến mức tối đa quân số được dự kiến cho lực lượng đồn trú, và mọi thứ đã được thực hiện để đảm bảo phòng thủ thắng lợi.
Song song với những nỗ lực phòng thủ trên, ta cho tiến hành một loạt các động thái, xuất phát từ thung lũng sông Mêkông Thượng nhằm mục đích triển khai một lực lượng nhằm bảo vệ vùng Bắc Lào trong trường hợp quân địch sẽ bỏ qua Điện Biên Phủ và tiến về Luang Prabang; đồng thời làm bàn đạp cho các cuộc tiến công của chúng ta nhằm hỗ trợ Điện Biên Phủ.
Toàn bộ các cuộc hành quân đã phá vỡ gần hết mọi sự chuẩn bị (gạo và đạn dược) để tiến đánh vùng Bắc Lào của Việt Minh vào mùa hè.
Vào cuối tháng giêng, khi cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ đã gần như chắc chắn, thì bất ngờ địch quân - ít nhất là cũng tạm thời - từ bỏ hướng này, di chuyển sư đoàn 308 và trung đoàn 148 gấp rút tiến về hướng Luang Prabang.
Giả thuyết này được dự kiến trước từ lâu và ta đã sẵn sàng đối phó. Ta rút một phần các lực lượng từ Nậm U Thượng về Luang Prabang, một phần về Mường Sài, nơi lực lượng không vận1 đã hình thành nhanh chóng các trung tâm phòng thủ. Khi tiến đến vùng Nậm Bạc, ở khoảng giữa Điện Biên Phủ và Luang Prabang, đối phương ngừng lại, chỉ giao tranh có tính cách thăm dò với những đơn vị nhẹ ở Luang Prabang, Mường Sài. Họ bị không quân của ta gây rất nhiều khó khăn, nhất là trong việc tiếp tế, mà con đường tiếp vận chính của họ đã bị cứ điểm của ta tại Điện Biên Phủ chặn từ phía sau lưng2.
Chiến trường miền Trung và Nam Lào
Vào tháng 11 trong vùng Vinh, Bộ Chỉ huy Việt Minh hình thành một lực lượng tiến công (gồm sư đoàn 325 và một trung đoàn của sư 304) nhằm mục đích đánh vào vùng trung tâm Đông Dương. Ta không thể biết được họ sẽ nhắm vào vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam (vùng Đồng Hới) hay là các hệ thống giao thông với vùng Bắc Lào (vùng thung lũng sông Cửu Long về phía Thakek và Seno).
Cùng lúc ấy, lực lượng của Liên khu V chuẩn bị một cuộc tiến công đánh vào Tây Nguyên, họ cũng có khả năng uy hiếp các đường liên lạc của chúng ta với vùng Bắc Lào dọc theo thung lũng sông Cửu Long (vùng Pakse - cao nguyên Bolovens).
Trước khả năng rõ ràng của các cuộc tiến công này và trong tình hình tôi không biết chắc họ sẽ bắt đầu tấn công vào đâu, tôi quyết định thành lập một Bộ Chỉ huy hành quân thống nhất cho vùng trung tâm Đông Dương, và giao quyền chỉ huy cho tướng tư lệnh vùng Trung Bộ Việt Nam1 phụ trách cả vùng Trung và Nam Lào, cũng như vùng Tây Nguyên.
Biện pháp này cho phép sử dụng một cách có hiệu quả tối đa số lực lượng ít ỏi đóng ở đây. Một binh đội cơ động đến từ vùng châu thổ được đặt dưới quyền của vị tướng tư lệnh vùng trung tâm Đông Dương. Đây là lực lượng cơ động duy nhất có thực lực của vùng này2. Nó phải được bố trí để có thể vừa hoạt động được, hoặc ở vùng Bắc Trung Bộ hoặc ở Trung Lào, tùy theo các hoạt động khác nhau của đối phương nhận được thông qua các nguồn tin tình báo3. Cuộc tiến công của Việt Minh bắt đầu ngày 20 tháng 12. Nỗ lực chính của họ hướng về vùng Trung Lào. Bỏ qua tất cả các con đường lớn, chỉ sử dụng hệ thống các đường mòn xẻ dọc dãy Trường Sơn ở phía Đông Bắc Thakek, tranh thủ thời tiết xấu gây nhiều trở ngại cho không quân chúng ta, nhất là trên vùng sườn đông của dãy Trường Sơn các lực lượng Việt Minh đã bất ngờ đánh bật các lực lượng phòng thủ của ta. Những trận đánh ác liệt xảy ra từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 12. Bước đầu tiên, chúng ta rút về Thakek, rồi sau đó bước thứ hai rút về Seno. Ngày 26 tháng 12, một số đơn vị Việt Minh tiến vào Thakek, nơi chúng ta sơ tán khỏi ngày hôm trước. Tất cả báo chí đều loan tin: “Đông Dương bị cắt ra làm đôi”. Dư luận Pháp xôn xao và tư tưởng chủ bại lại một lần nữa trỗi dậy.
Do đó một số lực lượng tương đối quan trọng được rút khỏi vùng châu thổ4 để di chuyển về phía Seno, nơi một căn cứ không quân lớn đã được xây dựng vào tháng 9 để đối phó với một tình huống như thế.
Từ ngày 5 đến ngày 9 thánh giêng, cuộc tiến công của Việt Minh đánh vào Seno vấp phải một sự ngăn chặn quyết liệt. Vài ngày sau đó, Seno được giải tỏa và trục giao thông trên sông Cửu Long cùng tuyến đường bộ dọc theo nó (đường 13) nối vùng Trung và Bắc Lào được mở lại. Thakek được tái chiếm.
Thế nhưng đối phương không hoàn toàn biến mất. Bằng cách chia nhỏ các tiểu đoàn, họ vẫn duy trì sự có mặt trong vùng rừng rậm Trung Lào, thậm chí còn xâm nhập về phía Nam Lào, tạo ra sự bất ổn thường xuyên trong vùng, có khả năng bóp nghẹt vùng Trung và Bắc Lào.
Do thiếu thốn các phương tiện đường không, nhất là phần cơ sở hạ tầng, ngăn cản chúng ta thiết lập một cầu hàng không, nên việc bảo vệ các trục lộ giao thông đã thu hút một số lượng quan trọng các lực lượng chiến đấu. Việc phòng thủ này làm suy yếu nghiêm trọng các lực lượng đóng ở những nơi khác. Về mặt này, Việt Minh gặt hái được một kết quả không thể tranh cãi được.
Hơn nữa, các lực lượng của Liên khu V mở một cuộc tiến công vào phía bắc Tây Nguyên ngày 28 tháng 1. Cuộc tấn công nhanh chóng đạt được những kết quả quan trọng buộc ta phải sơ tán khỏi Kontum và rút chạy về Pleiku. Thêm một áp lực đè lên trục giao thông của thung lũng sông Mêkông.
Chiến trường Tây Nguyên và cuộc hành quân “Atlante”
Cuộc hành quân “Atlante”, có mục đích tiêu diệt Liên khu V, được lên kế hoạch để thực hiện từ tháng giêng đến tháng 9. Đây là khoảng thời gian duy nhất trong năm có điều kiện thời tiết thuận lợi1.
Là một dãy đất hẹp chạy dọc theo bờ biển, có chiều dài 370 km và chiều ngang trung bình 70 km, Liên khu V là một vị trí tương đối có giá trị về mặt kinh tế (sản xuất lúa gạo, đánh cá) và dân số (khoảng 2.500.000 người). Nhưng tầm quan trọng về mặt chính trị và chiến lược của nó còn lớn hơn. Đây là con đường nối liền Nam - Bắc giữa Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam Bộ. Thông qua con đường này Việt Minh gửi cán bộ, vũ khí, tiền bạc cho lực lượng của họ ở phía nam và Campuchia. Việc giải phóng vùng này rồi giao quyền quản lý trực tiếp của nó cho Chính phủ Việt Nam sẽ có một ảnh hưởng về mặt tinh thần rất lớn đối với toàn bộ nước Việt Nam, kể cả trong những vùng do Việt Minh kiểm soát. Đây là một cuộc trắc nghiệm chính trị quan trọng hàng đầu.
Nhưng đây không phải là mục đích chủ yếu của cuộc hành quân. Đây là biện pháp phủ đầu chống lại một nguy cơ rất lớn. Thực vậy, Liên khu V cùng với những căn cứ địa trên vùng cao nguyên Bolovens là một mối nguy cơ thường xuyên đối với tất cả vùng Nam Đông Dương (Nam Bộ, Nam Lào và Campuchia). Do ở xa nguồn tiếp tế của Trung Quốc nên sức mạnh quân sự của Liên khu V bị tụt hậu trong một thời gian dài về mặt số lượng và chất lượng so với những vùng của Việt Minh ở phía Bắc. Nhưng trong vòng một năm trở lại đây, nó đã phát triển một cách nhanh chóng. Chúng ta nắm được từ các nguồn tin chắc chắn là Bộ Chỉ huy Việt Minh xem Liên khu V như một căn cứ để tung ra các cuộc hành quân quan trọng vào năm 1954 - 1955. Vì thế, do chúng ta chậm trễ trong việc tiêu diệt nó nên đang phải đối đầu với một vấn đề khủng khiếp.
Vào cuối những năm 1953, các dấu hiệu nghiêm trọng cho thấy có sự chuẩn bị của Liên khu V cho một cuộc tiến công, hoặc vào Đà Nẵng hoặc vào Nha Trang, nhiều khả năng là vào vùng Tây Nguyên. Sự phối hợp hành động của cuộc tiến công này với một cuộc tiến công khác vào Seno có thể gây cho chúng ta những hậu quả hết sức bi thảm: sự cắt đứt hoàn toàn những đường giao lộ của chúng ta với vùng Bắc Lào, một cuộc tiến quân của Việt Minh vào Campuchia và Bắc Nam Bộ.
Các lực lượng của Liên khu V ước tính có khoảng 30.000 người, trong đó có 12 tiểu đoàn chính quy, từ 5 đến 6 tiểu đoàn địa phương với chất lượng chiến đấu rất tốt. Vị trí của họ trên các “chiến tuyến vòng trong” cho phép họ có khả năng tiến công liên tục về nhiều phía. Do đặc tính của địa hình và có rất nhiều kho dự trữ được giấu kín ở nhiều nơi khác nhau, nên họ có khả năng tập trung, và đưa các lực lượng của họ tiếp cận các mục tiêu một cách bí mật.
Ngược lại, ta phải trấn đóng ở vòng ngoài nên phải cảnh giác trên cả ba mặt trận: nam Đà Nẵng, bắc Nha Trang và vùng mặt đông của Tây Nguyên. Khu vực của chúng ta bị chia cắt rất nhiều, các cuộc chuyển quân của ta hoặc phải được thực hiện trên các đoạn đường dài và khó khăn, hoặc bằng đường hàng không trong khả năng của cơ sở hạ tầng rất nghèo nàn.
Có khả năng một cuộc tấn công của Việt Minh diễn ra trong hoàn cảnh rất khó khăn của ta. Các lực lượng tối thiểu cần thiết để chống đỡ một quả đấm đầu tiên - mà ta vẫn chưa biết sẽ xảy ra ở đâu, có khả năng diễn ra bất cứ lúc nào1 - là 5 binh đội cơ động2.
Tuy nhiên, lực lượng cần thiết để vừa tiến hành cuộc hành quân “Atlante” vừa đủ đảm nhận công việc bảo vệ ở các điểm ta không tấn công, được ước tính khoảng 6 binh đội cơ động3.
Giữa một giải pháp có tính cách thuần tuý phòng thủ không giải quyết được gì và một giải pháp tiến công có khả năng làm xáo trộn toàn bộ kế hoạch của đối phương, loại trừ hoàn toàn sự uy hiếp của Liên khu V, cái giá phải trảm, là gần như ngang nhau về các lực lượng trên bộ4. Còn về mặt không quân, thì tiến công không đòi hỏi lực lượng nhiều hơn khi phòng thủ5.
Các chi tiết trên đây rất cần thiết để chứng minh rằng, khác với một số nhận định, cuộc hành quân “Atlante” không làm ảnh hưởng đến các mặt trận khác, nhất là vùng Bắc Bộ, cho dù trận chiến xảy ra ở trong vùng châu thổ hay ở tại Điện Biên Phủ.
Do đó cuộc hành quân “Atlante” được mở ra, như dự tính vào ngày 20 tháng giêng, trước cuộc tiến công của Việt Minh vào Tây Nguyên chỉ vài ngày. Nó không ngăn chặn được cuộc tiến công này của Việt Minh, nhưng làm giảm rất nhiều cường độ ác liệt của nó.
Một trận đánh phức tạp diễn ra trên cả vùng Tây Nguyên, nơi Việt Minh tiến đánh căn cứ của ta tại An Khê cùng nút giao thông quan trọng tại Pleiku, và trong vùng đồng bằng duyên hải, nơi các lực lượng của ta di chuyển ngược từ phía nam lên phía bắc dần dần tiến gần đến Quy Nhơn.
Vào đầu tháng 3, ta chiếm được vùng phía nam của Liên khu V, cho đến tuyến Quy Nhơn (trong tay Việt Minh) - An Khê (trong tay chúng ta). Nhưng ta lại để mất vùng bắc Tây Nguyên đến tuyến An Khê- Pleiku (vẫn nằm trong tay ta).
Trận đánh tiến dần đến sự ổn định. Việt Minh phải từ bỏ việc chiếm An Khê, Pleiku. Còn chúng ta, rất thất vọng về các đơn vị người Việt Nam và người Thượng: đào ngũ, từ chối ra trận, bỏ vị trí chiến đấu, thậm chí đào ngũ cả đơn vị, nổi loạn cùng những khó khăn trong việc sử dụng lính Thượng ở vùng đồng bằng và sử dụng người Kinh trên cao nguyên. Mặt khác, giới thẩm quyền dân sự - quân sự Việt Nam được bố trí vào các vùng lãnh thổ chiếm được tỏ ra hoàn toàn không có khả năng trong việc quản lý, bình định các vùng này.
Chiến trường tại vùng châu thổ cho đến tháng 2 năm 1953
Từ cuối tháng 10 năm 1953, cho dù cuộc chiến trở nên ác liệt đến mức nào đi nữa, vùng châu thổ sông Hồng vẫn là một chiến trường phụ. Tổng số lực lượng chính quy Việt Minh xâm nhập vào cùng với các đơn vị đóng chung quanh hoặc ở trong tình trạng sẵn sàng can thiệp không ngừng giảm sút từ 78 tiểu đoàn vào thời điểm ngày 15 tháng 10 xuống khoảng 50 tiểu đoàn vào khoảng ngày 28 tháng 2.
Cùng thời gian nói trên, tôi cho rút khỏi vùng châu thổ một số lực lượng tổng trù bị để đối phó với các hành động của đối phương trên những mặt trận khác ở Đông Dương. Tôi vẫn để lại các lực lượng trực thuộc địa phương. Việc rút các lực lượng nói trên được thực hiện tiếp sau từng sự sụt giảm lực lượng của Việt Minh đóng chung quanh vùng châu thổ; và số quân rút đi luôn luôn được tính toán để không mất thế cân bằng bất lợi cho ta. Trên thực tế, không chỉ sự cân bằng lực lượng nói trên được duy trì, mà tỷ lệ giữa lực lượng của ta và Việt Minh luôn luôn nghiêng hẳn về phía chúng ta, ngay cả khi chiến tranh tổng lực diễn ra tại vùng châu thổ vào khoảng tháng 11 năm 1953, như là chúng ta từng lo ngại trước khi Việt Minh thay đổi kế hoạch.
Cho dù điều trái lại đã được nhiều người nêu lên, sự thật là Bộ Chỉ huy Bắc Bộ bao giờ cũng có đủ lực lượng để đối phó với những mối hiểm họa nghiêm trọng đè nặng lên vùng châu thổ. Số lượng và chất lượng các phương tiện cùng với sự thuận lợi về địa bàn hoạt động và sự phong phú tương đối của hệ thống giao thông làm cho Bộ Chỉ huy ở đây có nhiều thuận lợi hơn so với các Bộ Chỉ huy ở những nơi khác (vùng Trung Lào, nhất là trên Tây Nguyên).
Đối với những người chấp hành mệnh lệnh thì trận đánh ở vùng châu thổ là một trong những trận đánh cam go nhất. Mật độ dày đặc và sự đan chéo lẫn nhau của các đơn vị đối kháng nhau, cùng sự tinh nhuệ của các binh sĩ đối đầu nhau đã làm cho các cuộc chạm súng trở nên thường xuyên và ác liệt hơn những nơi khác.
Sau cuộc hành quân “Mouette” đã loại khỏi vòng chiến sư 320 trong nhiều tuần lễ, qua đó làm thay đổi kế hoạch của đối phương, vùng châu thổ có được một thời kỳ an bình tương đối (bên cạnh những đơn vị dân quân và địa phương, thì chỉ có bốn trung đoàn chính quy Việt Minh hoạt động).
Sau một thời gian ngắn nghỉ ngơi, các đơn vị cơ động của ta nắm thế chủ động và với các cuộc hành quân bủa vây rộng lớn, ta đã cố gắng tiêu diệt các đơn vị đối phương. Mức độ các kết quả đạt được là khác nhau. Có nhiều thắng lợi được ghi nhận nhưng cũng có nhiều lần, mặc dù ta huy động nhiều phương tiện quan trọng, nhưng lại rơi vào các vùng trống.
Bằng một chỉ thị ký ngày 22 tháng 12, tôi yêu cầu tướng Cogny nên từ bỏ các cuộc hành quân mang dáng dấp quy mô, với “những phương tiện to lớn nhưng không đem lại những kết quả tương xứng” và “nên tập trung vào việc phá hủy những căn cứ địch bằng những cuộc tiến công nhanh chóng và trực tiếp, được thực hiện bởi một hay hai binh đội cơ động hoặc thiết giáp”. Phương cách này, tuy không gây ấn tượng lắm, nhưng hiệu quả, phải mang lại những kết quả tốt hơn, với phí tổn thấp hơn.
Vào cuối tháng 12, sau khi tổ chức lại, sư đoàn 320 bắt đầu tái xâm nhập vào vùng phía nam, trong lúc một trung đoàn độc lập khác hoạt động trong vùng phía bắc. Ta phản ứng bằng các cuộc hành quân tấn công gây thiệt hại nặng cho đối phương, nhưng chúng ta cũng phải chịu một số thất bại.
Vào giữa tháng 2, một sự yên tĩnh tương đối kéo dài đến đầu tháng 3.
Chiến trận ở Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam
Ở các vùng này chỉ có các cuộc hành quân mang tính địa phương, thế nhưng cũng không kém phần khó khăn vì không còn các đơn vị tinh nhuệ. Họ đã được chuyển đến các chiến trường ác liệt hơn. Tôi xin nhấn mạnh ở đây, những sự hy sinh rất lớn của tướng Bourgund, Tư lệnh quân đội ở Trung Bộ, và các tướng Bondis, Gardet, những vị tư lệnh kế tiếp nhau ở Nam Bộ đã thi hành nhiệm vụ với những phương tiện tối thiểu có được trong tay.
TÌNH HÌNH TỔNG THỂ VÀO CUỐI THÁNG 2 - 1954
Vào cuối tháng hai, cuộc tiến công của Việt Minh bắt đầu từ đầu mùa đông đã lan rộng nhanh chóng ở các vùng Bắc, Trung và Nam Lào cũng như trên vùng Tây Nguyên, có vẻ như đạt đến quy mô phát triển tối đa.
Các hoạt động chính của họ đã bị chặn lại tại tuyến Mường Sài - Luang Prabang - Seno và Pleiku, nơi có một sự cân bằng lực lượng.
Vẫn còn vài cuộc tiến quân của đối phương ở các vùng gần như hoang vắng như Nam Lào, Bắc Campuchia, Tây Nguyên nhưng do không được tiếp tế đầy đủ về mặt hậu cần vì ở quá xa căn cứ, phải phân tán nhỏ để sống nên các hoạt động của họ trong các vùng này chỉ giới hạn ở chiến tranh du kích.
Tuy nhiên, các hoạt động của Việt Minh trên đường 13, con đường huyết mạch tối cần thiết mang tiếp liệu vào đất Lào, chạy dọc theo sông Mêkông nối liền Sài Gòn với Seno, gây rất nhiều khó khăn cho ta. Rất nhiều công trình xây dựng trên con đường này1 là mục tiêu tấn công không ngớt của họ. Ta phải tăng cường nhiều phương tiện trong vùng Paksé và Bắc Campuchia để đảm bảo việc di chuyển của các đoàn công - voa.
Một số cuộc tập kích vào các vùng Trung và Nam Tây Nguyên gây khó khăn cho liên lạc của ta với Pleiku và An Khê.
Trong vùng Tây Bắc, sư đoàn 308 rời khỏi Bắc Lào đi ngược về phía Điện Biên Phủ, nơi mọi sự chuẩn bị cho một cuộc tiến công đã hoàn tất. Qua những thông tin thu thập được, cuộc tấn công sẽ diễn ra vào khoảng 15 tháng 3. Nó sẽ rất ác liệt, nhưng chúng ta biết hậu cần của địch về đạn dược không cho phép họ kéo dài trận đánh hơn vài ngày. Do đó chúng ta có quyền nghĩ có thể thắng trong trận đánh này.
Cuộc tấn công này, Việt Minh gọi là “mặt trận chính”, chắc chắn sẽ được thực hiện cùng lúc với các hoạt động quan trọng khác diễn ra trong vùng châu thổ Bắc Bộ, đánh vào các đường giao thông liên lạc và căn cứ không quân của ta, với mục đích là cầm chân các lực lượng trên bộ, phân tán lực lượng không quân của ta. Chúng ta cũng có các biện pháp đối phó.
Nói tóm lại, nhờ vào sự bám trụ tại Điện Biên Phủ, nơi 12 tiểu đoàn của ta kèm chân 33 tiểu đoàn quân chính quy Việt Minh, ta có thể thực hiện được sự cân bằng chiến lược trên toàn bộ các chiến trường Đông Dương. Từ đó có thể đối đầu được mà không gặp quá nhiều khó khăn, với một Binh đoàn Tác chiến lớn hơn chúng ta rất nhiều. Đối phương đã có các dấu hiệu tỏ ra mệt mỏi.
Để có thể kết thúc cuộc chiến với một kết quả bất phân thắng bại là tham vọng của chính tôi, tôi phải hoàn tất hai điều kiện: thắng trận đánh quyết định tại Điện Biên Phủ và tiêu diệt những mũi nhọn nguy hiểm nhất trên các mặt trận khác.
Do đó, tôi đã ra lệnh nâng cao tối đa khả năng bảo vệ cụm cứ điểm Điện Biên Phủ và quyết định mở những cuộc phản công trên tất cả các chiến tuyến phụ nhằm vô hiệu hóa các kết quả mà đối phương có khả năng đạt được. Cuộc phản công này phải được tiến hành song song với đấu tranh chính trị, bắt chước theo phương pháp đối phương đã thực hiện.
Tất cả những phương cách trên được hướng dẫn trong chỉ thị ký ngày 25 tháng 2 năm1954.
Vào thời kỳ này, sau khoảng một tháng công tác tại Đông Dương, một phái bộ do ông Pleven, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu, trở về Pháp. Phái bộ này gồm các ông Marc Jacquet, Tổng trưởng phụ trách các Quốc gia Liên kết; ông De Chevigné, Tổng trưởng Bộ Chiến tranh; tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng; tướng Blanc, Tổng tham mưu trưởng Lục quân; và tướng Fay, Tổng tham mưu trưởng Không quân. Phái bộ này đã viếng thăm tất cả các chiến tuyến, đặc biệt là Điện Biên Phủ. Phái bộ này chia sẻ sự tin tưởng của tôi vào thời kỳ cuối của giai đoạn chiến tranh 1953-19542.
Khi trở về nước ông Pleven đã nhắc lại sự tin tưởng này bằng những lời tuyên bố trước Quốc hội. Về sau ông bị chỉ trích vì sự lạc quan này, nhưng vào thời điểm lúc bấy giờ sự tin tưởng của ông là có cơ sở.
HỘI NGHỊ GENÈVE VÀ CUỘC TỔNG TẤN CÔNG CỦA VIỆT MINH
Vào giai đoạn cuộc chiến mùa xuân năm 1954 đang diễn biến theo chiều hướng ổn định, thậm chí tốt hơn, và “mặt trận chính” Điện Biên Phủ đang báo hiệu một trận đánh dữ dội nhưng có nhiều thuận lợi thì một sự kiện quyết định đã diễn ra, đã làm đảo lộn mọi vấn đề.
Ngày 18 tháng 2, nước Pháp đã chấp thuận, nếu không muốn nói là đã gợi ý, một hội nghị sẽ được diễn ra tại Genève vào cuối tháng 4 để bàn về hoà bình tại Đông Dương.
Cả ngài Tổng uỷ lẫn tôi đều không được thông báo trước về sự việc này. Chúng tôi đã không được tham khảo về thời cơ của hội nghị, quan trọng hơn là ý kiến của chúng tôi về thời điểm, thời gian và các thành phần tham dự hội nghị.
Ngược lại, phía Việt Minh, Bộ Chỉ huy của họ được thông báo về những gì họ có thể chờ đợi ở hội nghị này. Họ quyết định lập tức kết nối các hoạt động quân sự với sự kiện này, mà theo họ là một sự kiện quyết định và có khả năng mang lại thắng lợi cuối cùng cho cuộc chiến tranh trong thời gian ngắn. Bằng cách điều chỉnh tất cả các kế hoạch của họ, Việt Minh cho tiến hành sớm hơn dự kiến (một hoặc hai năm) một cuộc tổng tiến công nhằm mục đích đạt chiến thắng quyết định.
Do đó, hậu quả của một sáng kiến không đúng lúc của các nhà lãnh đạo chính trị phía ta làm cho tình hình quân sự bất ngờ chuyển biến một cách hết sức nghiêm trọng đối với chúng ta.
Trong những ngày đầu tiên của tháng ba, từ nguồn tin chắc chắn ta biết được quyết định tổng tấn công của Việt Minh1.
Quyết định tổng tiến công này lập tức được thể hiện qua nhiều dấu hiệu khác nhau.
Ta đã phát hiện Việt Minh đưa vào sử dụng một cách gấp rút đủ các loại phương tiện phục vụ cho cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ. Lực lượng vây hãm được các lực lượng chi viện rất lớn đang tăng cường.
Chúng ta ghi nhận có một sự tuyên truyền rất mạnh nhắm vào dân chúng, nhất là vào quân đội Việt Nam. Nó đã tạo ra một sự tan rã nhanh chóng trong hàng ngũ quân đội này: việc tuyển mộ quân bị ngưng hẳn, một làn sóng đào ngũ mạnh mẽ, việc từ chối ra mặt trận và nổi loạn ở một số đơn vị.
Ta biết có những chỉ thị được đưa ra ở tất cả các cấp chỉ huy, ra lệnh “tăng cường hoạt động” và chuẩn bị tiến hành các trận đánh kéo dài ít nhất là cho đến cuối tháng 7, nghĩa là kéo dài đến giữa mùa mưa. Khác với mọi năm, năm nay việc hành quân không thể bị ngừng lại vì mùa mưa.
Và cuối cùng, đây là điểm quyết định, chúng ta biết rằng sự viện trợ của Trung Quốc được gia tăng với một khối lượng rất lớn gồm đạn dược, vũ khí mới, xe cộ1.
Cuộc tổng tiến công của Việt Minh diễn ra trên tất cả các chiến tuyến của Đông Dương, nhưng nỗ lực chính dồn vào Điện Biên Phủ. Chính tại đây đối phương muốn chiến thắng đầy ấn tượng nhằm mục đích bẻ gãy tinh thần của nước Pháp và các Quốc gia Liên kết. Các mặt trận khác sẽ “hỗ trợ cho mặt trận chính” này bằng những hoạt động phối hợp để cầm chân lực lượng trên bộ, trên không của ta, đồng thời ngăn chặn các đơn vị này can thiệp vào chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến dịch này sẽ được trình bày ở chương tiếp theo. Trước khi bàn đến nó, tôi xin nói vắn tắt về những mặt trận phụ, cuộc tiến công của Việt Minh và kết quả trên các mặt trận này.
Ở Nam Bộ, tình hình ngày một tệ hại đi, nhất là ở những vùng đã được chuyển giao cho nhà cầm quyền Việt Nam. Những cuộc tiến công của đối phương vào các đồn bót nhỏ và tháp canh gia tăng mạnh mẽ. Do thiếu phương tiện, tôi đành phải từ bỏ việc chiếm đóng phần lãnh thổ bên kia sông Bassac.
Ở Trung Bộ, ta ghi nhận sự gia tăng của chiến tranh du kích gây nhiều khó khăn cho ta, buộc ta phải từ bỏ các cuộc hành quân tảo thanh.
Trên các vùng cao nguyên và trong vùng hoạt động của cuộc hành quân “Atlante”, chiến cuộc lại nổ ra chung quanh Pleiku, An Khê. Đối phương tìm cách cô lập hai thị trấn này. Ta chiếm được Quy Nhơn, nhưng đối phương đã kháng cự mạnh. Ta không thể nào nối liền Quy Nhơn và An Khê, để giảm bớt một số lượng lớn các lực lượng cần thiết. Đối phương xâm nhập vào sau lưng chúng ta, uy hiếp vùng Tuy Hoà, Ban Mê Thuộc, thậm chí Đà Lạt. Họ tìm cách chiếm lại dân chúng bằng một cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt mà nhà cầm quyền Việt Nam tỏ ra bất lực khi phải đối phó. Chúng ta đã bị bắt buộc phải phòng thủ trong điều kiện hết sức khó khăn, khi tất cả những phương tiện khác đều phải được huy động để bảo vệ vùng châu thổ.
Tại vùng Trung Lào, quân Việt Minh giao tranh dữ dội với ta trong vùng núi vôi Thakek. Sau các trận đánh khốc liệt, ta đẩy lui được họ. Họ đã không thành công trong việc bao vây lực lượng của ta, nhưng lại cầm chân được quân ta.
Trong vùng Nam Lào và Campưchia, lực lượng Việt Minh tiến rất xa về phía nam Seno, lần lượt uy hiếp Saravane và Paksé, sau đó chiếm Voeune Sai rồi tản ra trong rừng già Bắc Campuchia, tìm cách liên lạc với các nhóm địa phương ủng hộ Việt Minh, gia tăng sự phân hóa về mặt chính trị của nước này.
Ở vùng Bắc Lào, Việt Minh hỗ trợ cho các lực lượng của họ đang bao vây Điện Biên Phủ bằng cách chuyển một số đơn vị về phía Nga Na Son để chặn đánh các đơn vị của ta di chuyển từ Luang Prabang và Mường Sài tiến về phía bắc tìm cách bắt liên lạc với các lực lượng đang cố thủ tại lòng chảo này.
Cuối cùng trong vùng châu thổ, các trận đánh nổ ra một cách dữ dội. Phối hợp với cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ, lực lượng Việt Minh tiến hành một loạt các hoạt động quan trọng nhắm vào các đường liên lạc chủ yếu (đường sắt, đường bộ nối liền Hải Phòng và Hà Nội), vào vùng phía tây, nhất là phía nam và các căn cứ không quân Cát Bi, Gia Lâm.
Tại vùng nam và tây, địch quân đã bị đánh bại. Những thiệt hại gây ra do các cuộc đột kích của họ vào sân bay chúng ta là nhỏ1.
Họ đạt được nhiều thành công hơn trên trục đường Hải Phòng - Hà Nội (đường bộ và đường sắt). Họ đã cắt đứt được trục giao thông này trong vòng 4 ngày. Sở dĩ họ làm được như vậy, là do trục đường này đã không được bảo vệ một cách đầy đủ, do sự phối hợp không tốt của các đơn vị trú đóng trong vùng châu thổ. Ngay khi các lực lượng được bố trí phù hợp hơn với nhiệm vụ2, thì cuộc tiến công của đối phương bị đánh bại.
Một tình trạng cân bằng mong manh được giữ vững cho đến khi chiến dịch Điện Biên Phủ chấm dứt. Đây là kết quả đạt được bằng một sự trả giá đắt và sự thiệt hại nghiêm trọng của ta.
Các yêu cầu tăng viện cho vùng châu thổ được tướng Cogny liên tục gửi đến tôi suốt trong thời gian diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ. Rất khó thỏa mãn hết những yêu cầu trên mà không làm suy yếu các chiến tuyến khác, nơi mà tình hình cũng rất căng thẳng. Những yêu cầu này cũng không có cơ sở vì vị Tư lệnh ở Hà Nội vẫn chưa sử dụng hết lực lượng của chính ông. Thực ra trong chỉ thị quy định nhiệm vụ bảo vệ vùng châu thổ có ghi rõ như sau: “Trong trường hợp xảy ra các mối hiểm họa nghiêm trọng, những cứ điểm nào không đóng vai trò chủ yếu trong việc bảo vệ các căn cứ, các đường huyết mạch giao thông hoặc các ổ kháng cự, có thể được cho sơ tán để tránh tạo cho địch có cơ hội làm nên chiến thắng vang dội. Những phương tiện thu hồi sẽ được sử dụng vào việc củng cố các cứ điểm chủ yếu và các đơn vị cơ động”. Quyền hạn hành động này có thể tạo điều kiện cho tướng Cogny huy động được phương tiện cần thiết, nếu không dùng để đánh sau lưng các lực lượng của Việt Minh tại Điện Biên Phủ thì ít nhất cũng có thể đối phó với tình hình chuyển biến tại vùng châu thổ mà không cần sự chi viện từ bên ngoài1. Nhưng tướng Cogny không bao giờ sử dụng đến quyền hạn này.
Dù thế nào đi nữa, các hoạt động chính trị - quân sự của Việt Minh được tăng cường rất mạnh và không bị đối phó một cách có hiệu quả, một phần vì lực lượng của chúng ta, do phải đối phó với các cuộc tiến công liên tục đã không còn làm tốt nhiệm vụ trên các mặt trận, nhưng phần khác là do sự thiếu trách nhiệm của nhà cầm quyền Việt Nam. Từ đó, tình hình ở vùng châu thổ đã xấu đi một cách nhanh chóng, đặc biệt là trong các vùng kế cận trục đường bộ và đường sắt Hải Phòng - Hà Nội.
Nói tóm lại là cuộc tổng tiến công của Việt Minh diễn ra trên các chiến trường phụ, trong đó có vùng châu thổ với hoạt động nhằm kìm chế lực lượng trên bộ của ta, làm suy yếu sức mạnh không quân, khiến nó không thể tập trung vào sự chi viện cho Điện Biên Phủ. Để làm việc này, họ đã cho thực hiện nhiều phương cách: tấn công các đường giao thông chủ yếu của ta (Hải Phòng - Hà Nội, Sài Gòn - Seno) để hạn chế lưu lượng tiếp tế, buộc chúng ta phải sử dụng các “cầu hàng không”; tấn công các sân bay để phá huỷ máy bay, cô lập đồn bót, buộc chúng ta phải tiếp tế bằng đường hàng không.
Về mục đích làm suy yếu sức mạnh không lực của ta, họ chỉ đạt được kết quả rất hạn chế. Sự can thiệp bằng không quân để yểm trợ cho Điện Biên Phủ chỉ giảm sút rất ít.
Nhưng bù lại đối phương đạt được kết quả không thể tranh cãi trong việc cầm chân các lực lượng trên bộ của ta. Họ đã buộc chúng ta phải giữ chân tại chỗ một số lượng rất lớn quân lính để bảo vệ các tuyến giao lộ và sân bay, cũng như để giải vây đồn bót bị vây hãm. Những lực lượng này không thể tham dự vào một cuộc hành quân giải cứu Điện Biên Phủ.
Chú thích
1. Là một dân tộc trên những vùng cao của xứ Thái, thô lỗ và hiếu chiến hơn người Thái.
1. Một hành động được dự kiến vào tháng 12 hay tháng giêng, khi ta tập hợp đủ lực lượng ở Lào.
1. Trong thư đề ngày 19 tháng 8.
1. Do sự cần thiết phải để lại một số đơn vị bảo vệ vùng châu thổ, chúng ta phải cần đến từ 11 đến 12 binh đội cơ động, bốn đoàn thiết giáp và ba đoàn không vận. Tướng Cogny ước tính số đơn vị cần thiết là: 6 binh đội cơ động, hai đoàn thiết giáp và 2 đoàn không vận chỉ cho trận đánh không thôi; từ 3 đến 4 binh đội cơ động để bảo vệ tuyến đường liên lạc của chúng ta; từ 2 đến 3 binh đội cơ động, 2 đoàn thiết giáp và một đoàn không vận dự trữ tại vùng châu thổ. Thêm vào những đơn vị nói trên, chúng ta còn phải cộng thêm từ 5 đến 6 tiểu đoàn để bảo vệ vùng cao chống lại các lực lượng nhẹ đang hoạt động ở đấy và chống lại những đơn vị mà địch có thể gửi đến. Thế nhưng, vào thời kỳ ấy, chúng ta chỉ có tại Đông Dương 8 binh đội cơ động, hai đoàn thiết giáp và 3 đoàn không vận.
1. Các căn cứ này được xây dựng bằng những làng hoặc những cụm làng được gia cố, bên trong có kho chứa trang thiết bị, đạn được và lương thực đủ loại...
2. Đây là cách gọi một cuộc hành quân giả nhằm đánh lạc hướng địch quân.
3. Báo chí, do không được biết gì sự bí mật của cuộc hành quân này, đã kết luận là chúng ta không thành công trong cuộc tiến công ở vùng Thanh Hóa.
4. Việc rút quân về vùng châu thổ của những đơn vị đã tham dự vào cuộc hành quân “Mouette” là hoàn tất nhiệm vụ quy định, chứ không vì một cuộc thất bại như báo chí đã loan tải.
1. Phần này sẽ được trình bày ngắn gọn, vì nó được nói đến một cách chi tiết trong chương kế tiếp, nói riêng về chiến dịch Điện Biên Phủ.
1. Một binh đội cơ động và hai tiểu đoàn rút từ vùng châu thổ, ba tiểu đoàn rút từ miền Trung Lào.
2. Ngoài ra chúng ta còn làm đảo lộn mọi sự chuẩn bị về mặt tổ chức của Việt Minh đã thực hiện trong mùa thu tại vùng Thượng Lào.
1. Tướng Leblanc, rồi sau đó là tướng Bourgund.
2. Tình hình chung quanh cùng châu thổ, nơi còn khoảng từ 3 đến 4 sư đoàn Việt Minh không cho phép có thể rút đi một lực lượng nào quan trọng hơn.
3. Việc chuyển quân của các đơn vị trù bị giữa vùng Trung Bộ Việt Nam và Trung Lào vẫn có thể làm được - dù có nhiều khó khăn - thông qua con đường từ Huế đến Seno (đường số 9).
4. Thời kỳ này nguy cơ một cuộc tổng tiến công vào vùng đồng bằng đã hoàn toàn biến mất.
1. Xin nhắc lại là cuộc hành quân này được tướng Salan đề nghị trong bản nghiên cứu của ông vào tháng 5 năm 1953 (xem chương 3).
1. Ở cả Đông Dương, Liên khu V là vùng ta có được ít thông tin nhất.
2. Một binh đội cơ động tại Đà Nẵng, một tại Nha Trang, và 3 trên Tây Nguyên.
3. Có thể thêm một số lượng tương đối nhiều các tiểu đoàn nhẹ Việt Nam vừa được thành lập để dùng vào công tác bình định. Nhưng đây là những đơn vị không thích hợp cho những cuộc hành quân. Chúng chỉ được sử dụng đặc biệt cho dùng Nam và Trung Bộ, không thể sử dụng được ở dùng Bắc Bộ.
4. Cần phải chú ý thêm là “bản kê các lực lượng cần thiết” nói trên không hề được lập ra trên cơ sở có hại cho vùng lãnh thổ khác bị Việt Minh uy hiếp - nhất là ở Bắc Bộ - vì trên 6 binh đội cơ động cần thiết, thì có hai nhóm (số 41 và số 420) tuyển từ dân miền cao, một nhóm (số 21) tuyển từ dân Trung Bộ, một nhóm (số 110) hoàn toàn từ dân Nam Bộ và nhóm còn lại (số 100) có một phần là dân Nam Bộ. Các binh đội cơ động chỉ sử dụng được trong vùng Nam và Trung của Đông Dương. (Sẽ có những cuộc đào ngũ, thậm chí nổi loạn nếu chúng ta tìm cách đưa đi những nơi xa gia đình họ cư ngụ). Chỉ có binh đội cơ động 10 gồm những người Bắc Phi, là có thể được sử dụng không khó khăn ở Bắc Bộ. Nhưng việc huy động binh đội cơ động này có thể tạo ra rủi ro rất lớn vì nó là đơn vị duy nhất có chất lượng chiến đấu đảm bảo và sự hiện diện của một đơn vị vững mạnh là sự cần thiết để củng cố một tập thể những đơn vị có chất lượng chiến đấu không cao - nhất là trong việc phòng thủ.
5. Chúng được hình thành phần lớn bởi những máy bay không sử dụng được tại Điện Biên Phủ, vì lý do chủng loại hoặc vì tình trạng kỹ thuật của chúng.
1. Trên tuyến đường 13 nối liền Sài Gòn và Seno, có đến 275 cầu được xây dựng.
2. Mặt khác tôi cũng phát biểu sự dè dặt cho tương lai do những sự thất vọng về phía Việt Nam đối với nỗ lực chiến tranh và hình thành quân đội của họ.
1. Các tài liệu của Việt Minh cho thấy họ chỉ đạo cuộc tổng tiến công này “để gây sức ép lên hội nghị Genève” mà theo họ sự nhóm họp đã là một thắng lợi vô cùng to lớn.
1. Các tin tức tình báo chính xác có được sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, xác nhận tất cả những gì chúng ta được biết khi trận đánh diễn ra. Việt Minh xem hội nghị Berlin có một “tầm quan trọng quyết định” đã thúc đẩy đồng minh của họ (Liên Xô và Trung Quốc) có các nỗ lực tối đa để giúp họ có những điều kiện tốt nhất khi đến dự hội nghị Genève. Sự giúp đỡ của Trung Quốc gia tăng vô cùng mạnh mẽ. Khi chiến dịch Điện Biên Phủ xảy ra thì các nhà lãnh đạo của Việt Minh, Trung Quốc và Liên Xô thường xuyên liên lạc với nhau.
1. Số lượng máy bay bị loại khỏi vòng chiến rất ít, những biện pháp cấp bách đã được thực hiện để đối phó.
2. Các nhiệm vụ của lực lượng bảo vệ vùng châu thổ được quy định trong chỉ thị ký ngày 7.10.1953. Nhiệm vụ chính là bảo vệ trục Hà Nội Hải Phòng. Nhưng Bộ Chỉ huy Bắc Bộ cho rằng, ngoài việc dùng để vận chuyển cho chúng ta, nó được Việt Minh sử dụng vận chuyển bí mật mọi thứ hàng hóa của họ, cho nên nó sẽ không bao giờ bị cắt đứt lâu dài. Từ nhận định đó mà Bộ Chỉ huy đã không có đầy đủ các biện pháp để bảo vệ trục đường này.
1. Suy nghĩ sâu xa hơn có thể dẫn đến phương cách cầm chân đối phương một cách kinh tế hơn trong vùng châu thổ. Mục đích của họ là giữ tối đa các lực lượng của chúng ta bằng một lực lượng tối thiểu của họ. Một sĩ quan trong Ủy ban Đình chiến Việt Minh đã bày tỏ sự ngạc nhiên của ông với sĩ quan bên ta khi thấy những cuộc hành quân của ta được tiến hành nhiều lần theo một phương cách hoàn toàn giống nhau.
Đông Dương Hấp Hối Đông Dương Hấp Hối - Henri Navarre Đông Dương Hấp Hối