Những người vĩ đại không những phải biết chớp lấy cơ hội mà còn phải biết tạo ra cơ hội.

C.C. Colton

 
 
 
 
 
Tác giả: Henri Navarre
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 9 - chưa đầy đủ
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2098 / 31
Cập nhật: 2016-07-13 10:11:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5: Nỗ Lực Chiến Tranh Ở Đông Dương
iệc chính phủ Pháp lãnh đạo cuộc chiến tranh một cách không triệt để là nguyên do chính của sự thiếu nỗ lực cho cuộc chiến tranh tại Đông Dương. Là người lãnh đạo của liên minh, nước Pháp không thể đòi hỏi các đồng minh đóng góp sự hy sinh trong khi bản thân mình lại không làm gì cả.
Tuy nhiên đối với các Quốc gia Liên kết, mỗi quốc gia đều có các lý do riêng ngăn cản nỗ lực của họ, với những hậu quả mà nước Pháp không thể tránh được.
NỖ LỰC CHIẾN TRANH CỦA CÁC QUỐC GIA LIÊN KẾT
Tại Sài Gòn, tôi và ông Tổng ủy cùng nhau cố gắng soạn ra một học thuyết ở cấp của chúng tôi để tiến hành chiến tranh. Chúng tôi không thể đề ra một học thuyết hoàn chỉnh. Không thể làm gì được hơn khi mà ngay tại Paris không có nền tảng cho học thuyết đó.
Chúng tôi thử đem áp dụng học thuyết này với các chính phủ Quốc gia Liên kết. Kết quả gần như là không được gì: không một quốc gia nào kiên quyết theo đuổi cuộc chiến.
Khó khăn cơ bản là sự chán ghét của tất cả các nhà lãnh đạo chính trị, cho dù đó là người Lào, Campuchia hay Việt Nam, đối với việc áp đặt các nỗ lực chiến tranh lên đất nước họ. Tất cả đều muốn có quyền lợi của sự độc lập, nhưng không muốn nhận trách nhiệm.
Các khó khăn khác xuất phát từ chỗ: lúc ta cần đòi hỏi các Quốc gia Liên kết tăng cường nỗ lực chiến tranh, thì cũng là lúc ta phải thương lượng với họ để áp dụng “Tuyên bố ngày 3 tháng 7”. Việc áp dụng tuyên bố này, theo ý muốn của Chính phủ Pháp, nhằm mục đích ép buộc các nhà lãnh đạo Việt Nam, Lào và Campuchia phải chấp nhận - ít nhất là tạm thời - những hạn chế quan trọng cho nền độc lập của các quốc gia này. Đưa các Quốc gia Liên kết vào cuộc chiến đòi hỏi phải dựa vào các nhà lãnh đạo có khả năng có ảnh hưởng với dân chúng. Thế nhưng, những người có khả năng đó là những người chống lại - ít nhất là một cách chính thức - mọi sự giới hạn đối với nền độc lập. Họ đều từ chối một cách thẳng thừng cộng tác với chúng ta trên cơ sở của tuyên bố ngày 3 tháng 7, dù để đạt đến chiến thắng trong cuộc chiến.
Do đó, những nhà chính trị ta có thể trông cậy lại là những người bị đồng bào của họ khinh thường vì đã cộng tác với chúng ta, bị coi là những kẻ sẵn sàng nhượng bộ chúng ta. Rất nhiều người trong số họ tạo ra nhiều khó khăn khi hợp tác với chúng ta vì họ thiếu lòng tin và có động cơ vụ lợi. Điều này càng làm tăng khả năng không có được ảnh hưởng đối với quần chúng của những người này. Bản thân họ cũng ý thức được tình trạng không có trọng lượng của mình, và để làm ra vẻ có uy tín, họ không có một phương cách gì khác ngoài việc tỏ ra hằn học đối với ta để chứng tỏ tư tưởng độc lập của họ. Kết quả là chúng ta có được một số đối tác không có tầm cỡ và quan hệ với họ đôi lúc rất khó khăn.
Tuy nhiên thái độ của chúng ta đối với ba quốc gia này có những khác biệt nhau.
Người Lào luôn tỏ ra rất nhiệt tình với sự hợp tác. Trong những chính trị gia của họ, một số có ý định chơi bài nước đôi với Việt Minh và với chúng ta, song ảnh hưởng của Hoàng gia đã giúp họ giữ được con đường đi đúng. Nhà vua già Sivavong Vong luôn luôn được thần dân kính mến. Ông càng được họ kính nể thêm nhờ vào sự can đảm của mình khi Luang Prabang bị trực tiếp đe dọa vào tháng 4 năm 1953. Con trai ông, Đông Cung Thái tử Savang, mặc dù vẫn bảo vệ một cách kiên quyết nguyên tắc độc lập của quốc gia mình, nhưng vẫn thừa thông minh và nhạy cảm để nhận ra rằng nước Lào còn lâu mới đạt được một sự phát triển cần thiết để hoàn toàn độc lập trên thực tế. Ông này luôn luôn là một đồng minh trung thực, và đã làm hết sức mình để dẫn dắt dân tộc mình. Nhờ vào ngài Đông Cung Thái tử mà nỗ lực tiến hành chiến tranh của nước Lào được thành thật hơn; nếu tính theo tỉ lệ nguồn tài nguyên của Lào thì nỗ lực chiến tranh của họ cao hơn hẳn các quốc gia khác. Nhưng không may, các phương tiện của nước Lào là yếu kém nhất và chẳng mấy chốc đã lên đến tột đỉnh.
Tình hình ở Campuchia phức tạp hơn. Ít bị trực tiếp đe dọa bởi Việt Minh như Lào. Là một nước giàu có hơn, Campuchia đã có được một sự yên bình tương đối cho đến đầu năm 1953. Sự yên bình này đôi lúc cũng bị xáo động bởi các cuộc nội loạn, ít nhiều liên hệ đến Việt Minh. Với ảo ảnh không phải đứng trước một mối hiểm nguy nào, có vị trí tương đối xa cách phần còn lại của Đông Dương, có mối quan hệ với nước Xiêm, cùng sự quan tâm của người Mỹ và Anh xem Campuchia như một lá chắn để bảo vệ Miến Điện và Malaysia, tất cả những yếu tố trên đã thúc đẩy Campuchia giữ một thái độ rất độc lập với chúng ta, và họ tìm cách dựa vào những thế lực khác. Vả lại, những “thế lực khác” này rất vui lòng biến Campuchia thành vùng kín để thực hiện những mưu đồ đen tối của Anh, Xiêm và Mỹ, ít nhiều đều chống lại nước Pháp.
Tình tình của ông vua trẻ Sihanouk không thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề khó khan. Có cá tính mạnh mẽ, thông minh, rất thân với nước Pháp và người Pháp, nhưng lại có lập trường hay thay đổi và bốc đồng, ông là người có niềm tin thần bí là được Bề trên giao cho việc dẫn dắt đất nước đi đến một nền độc lập hoàn toàn. Cho dù ông đã thấy rất rõ những mối hiểm nguy, nhưng ông cho rằng trách nhiệm của ông là phải đi đến cùng trong sứ mệnh này, không màng đến những hậu quả nghiêm trọng của đường lối của mình trên lĩnh vực quân sự.
Sự không kiên định trong đường lối chính trị của chúng ta, cộng với một vài sự vụng về đối với nhà vua trẻ, một vài sự vụng về nhỏ nhưng đã đụng chạm đến tự ái của ông ấy dẫn đến một sự căng thẳng ra mặt với ta1, dù rằng chắc chắn đây không phải là tình cảm sâu xa trong đáy lòng của ông đối với nước Pháp. Trong vòng sáu tháng, các mối quan hệ gần như bị cắt đứt giữa ta và Campuchia. Những mối quan hệ này được hàn gắn lại một cách hết sức khó khăn vào cuối năm 1953 và đã có một sự dàn xếp tạm thời, trên phương diện chính trị, quân sự. Thực tế là từ thời điểm đó Campuchia đã gần như là một quốc gia độc lập, luôn luôn đòi hỏi sự giúp đỡ của ta như là một quyền lợi đương nhiên phải có, nhưng lại không bao giờ chịu nghe theo một sự chỉ đạo nào.
Nỗ lực tham gia vào cuộc chiến tranh của Campuchia, dù có những biểu hiện gây ấn tượng2, gần như là không có gì cả. Campuchia trở thành một gánh nặng đối với chúng ta chứ không phải là một nước hỗ trợ cho ta. Một sự xâm nhập quan trọng của Việt Minh đến vùng biên giới sẽ nhanh chóng tạo ra sự sụp đổ hoàn toàn của nó.
Những hy vọng thành công của ta hoàn toàn dựa vào nỗ lực chiến tranh của Việt Nam. Nếu không có những nỗ lực này - với mục đích là sự thành lập một quân đội Việt Nam, nếu không lớn thì cũng phải là một quân đội hùng mạnh - thì không thể hy vọng gì có được một giải pháp thuận lợi ở Đông Dương. Nhưng không may là chính ở Việt Nam, vấn đề trở nên khó khăn hơn cả.
Khó khăn xuất phát từ cả phía chúng ta lẫn phía Việt Nam.
Đối với ta, một lần nữa phải nhắc đến sự không nhất quán của đường lối chính trị. Đây là một nguyên do rất tốt để các nhà lãnh đạo Việt Nam từ chối tham gia nỗ lực chiến tranh. Là một nguyên do không hợp lý, vì tuyên bố ngày 3 tháng 7 năm 1953 cùng với phạm vi rộng rãi mà ông Tổng uỷ đã sẵn sàng thực thi, là những nền tảng rất đầy đủ để các nhà chính trị Việt Nam có thể quyết tâm đưa đất nước của họ tham gia vào cuộc chiến.
Tình hình chính trị ở Việt Nam rất phức tạp, hoàn toàn không thuận lợi cho một hành động có hiệu quả.
Đối với người Việt Nam, cuộc chiến tranh này chỉ là một cuộc nội chiến. Đối phương là một người bạn, một người cha, thường là một người anh hoặc em với những mối quan hệ không thể cắt rời được; cho dù kết quả của cuộc chiến này như thế nào, một ngày nào đó họ vẫn gặp lại nhau. Vì vậy, từ suy nghĩ đến hành động không kiên quyết chống lại Việt Minh, chỉ là một bước đi tới rất nhỏ.
Một lý do khác của sự phức tạp là sự thiếu thống nhất trong cả nước. Những sự mâu thuẫn giữa miền Bắc, miền Trung và miền Nam; giữa các sắc tộc và tôn giáo; ý đồ của những phái trong Nam muốn thành lập quốc gia trong một quốc gia - tất cả những việc này đã tạo ra sự không thuận lợi cho nỗ lực chiến tranh.
Và cũng thiếu một tinh thần thật sự quốc gia mà Chính phủ Việt Nam đã không tạo ra được và tinh thần này chỉ có thể được thể hiện, thường xuyên bằng tư tưởng bài người Pháp một cách có hệ thống, nhằm mục đích cạnh tranh với Việt Minh, nhưng lại ảnh hưởng đến nỗ lực chiến tranh. Tư tưởng bài Pháp này lan rộng trong môi trường quân đội. Ví dụ như, một lần tôi đã phải can thiệp để cấm một tờ báo bán công khai, do các sĩ quan chủ biên, lưu hành trong quân đội, đã nói xấu, chửi rủa nước Pháp.
Phải kể thêm nữa là tính người Việt Nam, khi không bị khống chế bởi một quyền lực mạnh, họ sẽ dễ bị lôi cuốn theo, thay vì những tính rất tốt của họ thì lại theo những tính xấu mà còn lớn hơn rất nhiều: thích thủ đoạn, chỉ trích không xây dựng, khuynh hướng vị lợi, ăn hối lộ, tư tưởng nghiêng về suy nghĩ lý thuyết, có tính chất thụ động hơn là làm những việc thực tiễn và hành động.
Muốn đưa nước Việt Nam vào cuộc chiến, phải tìm ra một người đứng đầu. Hoàng đế Bảo Đại được không? Người ta thường nói rằng “kinh nghiệm Bảo Đại” là một sự sai lầm. Tuy nhiên, ngoài Bảo Đại và truyền thống quân chủ ra, người ta không thấy có một người nào một đức tin nào - trừ ông Hồ Chí Minh và ý thức hệ Cộng sản ra - có thể tạo được một sự hợp nhất nào đó, trong một quốc gia mà chỉ có lòng trung thành với vua mới có thể tạo được chất xi măng duy nhất.
Do đó Bảo Đại đã có một vai trò quan trọng. Ông đã không đóng vai đó tuy nếu muốn thì ông có thể làm được - và ông có thể muốn điều này nếu chúng ta tạo cơ hội cho ông. Con người ông có giá trị còn lớn hơn uy tín của ông. Ông đã từng chứng tỏ sự can đảm về mặt thể chất. Sự sâu sắc và tế nhị của trí thông minh của ông đã chinh phục được những người nói chuyện với ông. Sự sáng suốt của ông được thể hiện trong một bức thư ông gửi cho tướng De Gaulle vào năm 1945: “Mỗi làng mạc sẽ là một ổ kháng chiến, mỗi người đã từng công tác với Pháp sẽ là một địch thủ... Phương cách duy nhất để bảo tồn quyền lợi của người Pháp là thẳng thắn công nhận nước Việt Nam độc lập”. Tình cảm cá nhân của ông đối với nước Pháp và mong muốn có quan hệ tốt với chúng ta là điều không thể nghi ngờ được.
Những đức tính này của ông, không may là đã bị làm hỏng đi bởi tu tưởng “chờ thời” một cách có hệ thống, mà người ta thường coi là một thủ đoạn sâu sắc, nhưng đó chỉ là thể hiện của một sự uể oải, sự thiếu kiên quyết, và một niềm tin rất phương Đông, mọi việc sẽ được giải quyết qua thời gian.
Bảo Đại không bao giờ có thể trở thành một Lý Thừa Văn, nhưng ông có thể là một nhà lãnh đạo rất có uy tín, nếu nước Pháp có một chính sách rõ ràng về Việt Nam, kiên quyết, không quanh co, và nhất là nước Pháp được đại diện bởi một nhà chỉ huy quân sự có đủ quyền lực, khả năng tác động mạnh mẽ lên ý chí của Hoàng đế - ví dụ thống chế De Lattre có thể ở lại Đông Dương hai hay ba năm thay vì chỉ một năm.
Bên cạnh Hoàng đế, bên phía Quốc gia Việt Nam không có một nhà chính trị nào có tri thức và tư cách cần thiết để lãnh đạo được đất nước.
Thủ tướng đương nhiệm, ông Ngô Đình Diệm, là một người mà nhiều người Việt Nam và một số người Pháp đặt nhiều hy vọng. Ông này có thể đóng một vai trò lớn hơn nếu ông đồng ý sử dụng năng lực đầy nhiệt huyết và ngoan cường của mình để giúp Bảo Đại. Nhưng ông không bao giờ muốn ra khỏi sự dè dặt mang tính hằn học của mình do một sự hiềm khích với vua Bảo Đại, cũng như do một tư tưởng bài Pháp xuất phát từ những mối hận thù cá nhân1. Thêm vào đó là ảnh hưởng của người Mỹ. Sau một chuyến đi lâu dài tại Hoa Kỳ, ông đã trở thành công cụ của họ. Ông không làm gì khác ngoài việc tham mưu cho thân chủ của mình nên dứt khoát chờ thời, vô tình làm lợi cho Việt Minh.
Tất cả những nỗ lực mà vị Tổng ủy và tôi đã làm trong mùa hè năm 1953 để thuyết phục Chính phủ Việt Nam tham gia vào cuộc chiến chỉ nhận được những câu trả lời nhằm mục đích kéo dài thời gian.
Vào tháng 10, để có thể đặt vấn đề một cách rõ ràng, nhân một buổi họp của Ủy ban Quân sự Cao cấp, tôi đã gửi một văn bản trình bày thẳng thắn quan điểm của tôi. Tôi nhấn mạnh đến việc phải tiến hành cuộc chiến tranh một cách đầy quyết tâm, trên lĩnh vực quân sự và cả tâm lý (dựng lên một tinh thần quốc gia có sức cuốn hút), kinh tế và nhất là xã hội2. Tôi đã yêu cầu thực hiện ngay một số biện pháp mà chỉ có Chính Phủ Việt Nam mới chủ động làm được. Gần như không có một việc gì được thực hiện sau đó.
Thật ra bầu không khí chính trị không thuận lợi cho việc thực hiện các biện pháp nói trên. Ngày 15 và 16 tháng 10, Quốc hội Việt Nam họp tại Sài Gòn3. Các quyết định chống đối việc Việt Nam ở lại khối Liên hiệp Pháp - ít nhất là theo tinh thần của bản Hiến pháp - được thông qua và luận điệu của các bản tham luận cho thấy các nhà chính trị Việt Nam không ý thức được các mối hiểm họa chết người đang đè nặng lên đất nước họ. Họ quên rằng họ là người được hưởng lợi chính nếu chiến tranh có một kết cục tốt đẹp và đòi hỏi các sự nhượng bộ của người Pháp phải đi đôi với nỗ lực chiến tranh của họ.
Trong một bức thư đề ngày 18 tháng 10, gửi ông Tổng ủy, tôi đã mạnh mẽ phản đối tư tưởng này và đòi hỏi Chính phủ Pháp phải yêu cầu “một sự tham gia có hiệu quả và toàn diện của các Quốc gia Liên kết vào nỗ lực chiến tranh”. Tôi đã kết luận như sau: “Nỗ lực này phải được thể hiện bằng sự huy động các tài nguyên kinh tế và nhân lực, nghĩa là cần phải có những biện pháp chính trị và xã hội. Những biện pháp xã hội này là một yêu cầu tối quan trọng, vì nếu đông đảo quần chúng không thấy các nhu cầu đơn giản nhất của họ được thỏa mãn, thì chúng ta không thể nào mong đợi sự ủng hộ của họ. Tôi nhận định nếu tất cả những yêu cầu nói trên không được chấp thuận, thì nước Pháp phải chấm dứt những nỗ lực về quân sự của mình ở Đông Dương”.
Không có một cải cách nghiêm túc nào trong cách cư xử của Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Pháp cũng không làm gì để ủng hộ các nỗ lực của bản thân tôi. Tôi không ngừng nhắc lại những mệnh lệnh đối với Chính phủ Việt Nam và những lời cảnh cáo đối với Chính phủ Pháp. Ngày 1 tháng 1 năm 1954, trong một bức thư gửi Chính phủ Pháp, một lần nữa tôi đã thông báo cho Chính phủ suy nghĩ bi quan của tôi về khả năng của Chính phủ Việt Nam tham gia cuộc chiến tranh. Nhưng bức thư này không được trả lời. Vào tháng hai, tôi nhấn mạnh vấn đề này với ông Pleven, nhân chuyến viếng thăm Đông Dương của ông. Trong tháng 2, 3 và 4, tôi không ngừng gửi công văn đến Tổng trưởng phụ trách quan hệ với các Quốc gia Liên kết, kêu gọi sự quan tâm đến thái độ tiêu cực ngày càng lớn của các giới thẩm quyền Việt Nam. Phản ứng của Chính phủ Pháp đối với những động thái trên của tôi gần như không có gì. Người ta còn khuyên tôi “không nên làm mất lòng người Việt Nam”. Còn Việt Minh thì không sợ làm mất lòng ai cả!
Chỉ cho đến đầu tháng 4 Chính phủ Pháp mới gửi cho Chính phủ Việt Nam một công văn tương đối cứng rắn, thúc đẩy họ ban hành một số biện pháp tổng thể để tham gia mạnh mẽ vào nỗ lực chiến tranh. Nhưng sau đó cũng không thấy có biện pháp nào tiếp theo và thực ra thì mọi việc đã quá trễ.
Vẽ lại bức tranh về các nỗ lực chiến tranh của người Việt Nam chẳng khác gì đọc một bản luận tội về sự thiếu trách nhiệm.
Không một biện pháp tâm lý đánh với tên gọi của nó được thực hiện để tác động lên dân chính và quân đội. Không hơn gì người pháp, người Việt Nam cũng không hiểu vì sao họ phải chiến đấu. Những sự lơ là, thủ đoạn vụ lợi, hối lộ trong những tầng lớp lãnh đạo đã hoàn toàn đi ngược lại các nỗ lực theo hướng đó.
Trên lĩnh vực xã hội, không một động thái nào được thực hiện. Một trong những người chỉ huy quân đội xuất sắc nhất của Việt Nam viết rằng, đồng bào của ông cần có “một cái gì đó của họ để họ bảo vệ, dù chỉ là vài gốc lúa và một con heo mọi”. Luật đất đai đã được thông qua nhưng không được áp dụng trong thực tế. Không một biện pháp nào tôi yêu cầu được thực hiện. Tôi đã không thể có được chính sách trợ cấp cho gia đình binh sĩ, vô cùng cần thiết trong việc nâng cao tinh thần binh lính.
Trên lĩnh vực kinh tế, mọi việc cũng như y thế. Các tài nguyên cơ bản tiếp tục chạy vào tay Việt Minh, mà không có một biện pháp để làm giảm hoặc ngăn chặn nạn xuất huyết này.
Cuối cùng, trong lĩnh vực quân sự, sự nỗ lực chỉ giới hạn trong việc thành lập quân đội, tôi sẽ nói thêm ở phần sau. Không bao giờ chính phủ suy nghĩ một cách nghiêm túc đến việc vận động sự ủng hộ của cả nước cho quân đội. Tất cả những biện pháp ở cấp chính phủ lẽ ra phải đi đôi với những biện pháp của Bộ Tổng tham mưu quân đội không hề được quan tâm. Không có một cơ chế chiêu mộ binh lính nào được vạch ra. Không có một hành động nghiêm túc nào chống lại những kẻ bất tuân lệnh và đào ngũ. Chế độ quân dịch cưỡng bách cuối cùng được lập ra ngày 7 tháng 6 năm 1953, chỉ là một nguyên tắc. Rất nhiều trường hợp được miễn trừ - thường được trao đổi bằng tiền - đã giúp cho thanh niên con những nhà tư sản khỏi phải đi lính để lê la trên các đường phố Hà Nội, Sài Gòn và cả ở Paris, trong khi quân đội chúng ta chiến đấu cho đất nước họ. Không có một sự kiểm tra dân số nào được tổ chức: sự giúp đỡ cho quân địch không bị trừng phạt, việc trưng dụng nhân công không được bảo đảm. Không có một nỗ lực nào để thống nhất các lực lượng quân đội, đặc biệt là để sáp nhập các đơn vị quân đội của các phe nhóm riêng lẻ ở Nam Bộ1.
Tôi không tự bịt mắt mình trước những khó khăn từ mọi phía mà Chính phủ Việt Nam phải đối mặt. Có thể khi tìm cách khắc phục, họ cũng sẽ khó thành công, vì đã quá trễ để bắt kịp Việt Minh khi họ đã đi trước từ một đến hai năm. Nhưng những người Việt Nam này không có một nỗ lực nào thực sự nghiêm túc.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUÂN ĐỘI LIÊN HIỆP
Chỉ trong lĩnh vực thuần tuý quân sự và hoàn toàn kỹ thuật của việc thành lập quân đội của mình, các Quốc gia Liên kết có những nỗ lực đáng ca ngợi. Nhưng không may là những nỗ lực này đã không được hoàn tất. Một quân đội chỉ có thể tồn tại được, về mặt tinh thần cũng như vật chất, nếu rễ của nó cắm sâu vào lòng đất nước. Nó chỉ có thể được phát triển trong khuôn khổ của sự nỗ lực trên phạm vi quốc gia, và quân đội là kết quả cuối cùng của sự nỗ lực này. Thế nhưng - chúng ta vừa thấy ở trên - đã không có một nỗ lực nào về mặt này.
Trong một bản ghi nhớ gửi Ủy ban Quốc phòng ngày 24 tháng 7 năm 1953, tôi có một nhận xét về tình trạng quân đội các Quốc gia Liên kết khi tôi nắm quyền chỉ huy như sau: “Cho đến giờ phút này, chúng ta không thể đánh giá thật sự về các đạo quân và lực lượng được các Quốc gia Liên kết thành lập. Các đạo quân này tạo thành lực lượng bổ sung cho các lực lượng Viễn chinh, chứ không thể là lực lượng có thể giải phóng đất nước của họ được. Giá trị của những lực lượng này là một điều không thể tranh cãi, vì họ là lực lượng duy nhất thích hợp với đất nước này”.
Tất cả mọi nỗ lực của tôi là đem lại cho họ một sự tự trị càng lớn càng tốt - tôi đánh giá là vô cùng cần thiết cho tinh thần của họ - nhưng vẫn giữ được chất lượng chiến đấu của họ khi bị sự tự trị làm suy giảm. Tôi gặp phải vô số những sự khó khăn1.
o O o
Khó khăn thứ nhất bắt nguồn ngay từ việc tổ chức các cơ quan quyền lực ở Đông Dương. Quyền chỉ huy quân đội, trên lĩnh vực quân sự, được phân ra giữa một bên là ông Tổng ủy “có trách nhiệm về an ninh và quốc phòng”, “để thực hiện mục đích này, có quyền cung cấp sự trợ giúp cho các Quốc gia Liên kết”; và bên kia là người Tổng chỉ huy quân đội “có trách nhiệm trong việc điều hành các cuộc hành quân”. Về mặt lý thuyết, trách nhiệm của việc thành lập quân đội của các Quốc gia Liên kết thuộc về người Tổng ủy, các đơn vị quân đội chỉ được đặt dưới thẩm quyền của Tổng tư lệnh trong những cuộc hành quân thôi. Nhưng trên thực tế người Tổng tư lệnh quân đội, Bộ Tham mưu của ông và những đơn vị dưới quyền đóng vai trò chủ yếu trong việc thành lập các quân đội này vì chỉ họ mới có khả năng và các phương tiện.
Do đặc điểm của sự lãnh đạo có tính chất song quyền như vậy, các điều kiện để đề ra và thi hành các quyết định đã triệt tiêu mọi hiệu quả.
Kế hoạch phát triển Quân đội Liên hiệp ở cấp vĩ mô được các “Ủy ban Quân sự Cao cấp” vạch ra. Những quyết định này về nguyên tắc sẽ được các “Ủy ban quân sự thường trực” thi hành2. Trên thực tế các “Ủy ban thường trực” này có thể đưa những quyết định có tính chi tiết trên cơ sở những kế hoạch tổng thể được các Ủy ban Quân sự Cao cấp vạch ra, nhưng họ lại không thực hiện được các quyết định ấy. Vì để thực hiện những quyết định trên, cần phải có sự can thiệp của nhiều cơ quan chức năng, trực thuộc hoặc Tổng ủy hoặc vị Tổng tư lệnh tại Đông Dương, hoặc những bộ của các Quốc gia Liên kết. Không có một cơ quan có thẩm quyền duy nhất chịu trách nhiệm về việc thành lập các Quân đội Liên hiệp, cũng như một cơ chế trung tâm đóng vai trò nhạc trưởng điều hành hoạt động của những đơn vị có liên quan.
Ngay khi tôi nắm quyền chỉ huy quân đội tại Đông Dương, tôi đã yêu cầu giao toàn bộ trách nhiệm này cho tôi, và một cơ chế lãnh đạo phải được hình thành ngay lập tức, dưới hình thức một phòng trong Bộ Tham mưu của tôi. Đây là một phương cách đơn giản nhưng có khả năng mang lại hiệu quả một cách nhanh chóng. Sau những cuộc trao đổi dài đằng đẵng, Tổng trưởng phụ trách các Quốc gia Liên kết đã đặt ra công thức “Phái đoàn trợ giúp quân sự”, với một định chế phức tạp trực thuộc ông ấy, ông Tổng ủy Pháp tại Đông Dương và tôi, có nghĩa là trên thực tế chẳng trực thuộc ai cả. Định chế bắt đầu làm việc khi tôi rời nhiệm sở. Một khoảng thời gian rất lâu và rất quý đã bị mất đi.
o O o
Các khó khăn khác xuất phát từ thái độ của giới thẩm quyền Mỹ.
Giới thẩm quyền này có đại diện ở Sài Gòn là “Phái đoàn trợ giúp quân sự” do một sĩ quan cấp tướng chỉ huy có nhiệm vụ mang tính chất kỹ thuật là thỏa mãn các yêu cầu về tài chính và trang thiết bị của ta. Để làm việc này, họ kiểm tra kỹ lưỡng các nhu cầu cần thiết, sau đó họ thẩm tra việc sử dụng các khoản chi và trang thiết bị nói trên. Mối quan hệ của chúng tôi với phái bộ luôn luôn tốt đẹp, tôi phải ca ngợi tinh thần hợp tác mà phái bộ này đã thể hiện trong việc thi hành các nhiệm vụ chính thức. Thực ra chúng tôi phải có những cuộc trao đổi đầy kiên nhẫn nhưng đã có nhiều sự chậm trễ, do phương cách làm việc nặng nề và cứng nhắc của người Mỹ, không thích ứng được với những yêu cầu của cuộc chiến. Nhưng nói chung những yêu cầu của chúng tôi được thỏa mãn trong điều kiện phù hợp.
Chỉ đến khi đụng đến việc thành lập các lực lượng Quân đội Liên hiệp, thì giữa chúng ta và người Mỹ có những khó khăn nghiêm trọng, nguyên nhân là do sự khác biệt về cách nhìn nhận vấn đề.
Đối với chúng ta, các Quân đội Liên hiệp sẽ được hướng đến việc trở thành quân đội hoàn toàn độc lập, nhưng chúng ta muốn tiến trình này chỉ được thực hiện từng bước, và họ vẫn giữ mối quan hệ chặt chẽ, thường trực với ta. Quan điểm này là sự thể hiện trên bình diện quân sự, quan điểm chính trị của chúng ta về việc trao trả độc lập từng bước cho các Quốc gia Liên kết trong khuôn khổ khối Liên hiệp Pháp.
Quan điểm của người Mỹ lại hoàn toàn khác. Đối với họ, quân đội của các Quốc gia Liên kết là những quân đội đã được độc lập tuy vẫn cần sự bảo hộ trong một thời gian nào đó, nhưng ngay khi có thể thì phải giao quyền độc lập hoàn toàn cho họ. Họ công nhận rằng - ít nhất là tạm thời - sự bảo hộ đó do người Pháp đảm nhận, nhưng họ rất muốn tham gia vào việc này... trong khi chờ đợi thay thế hoàn toàn chúng ta, mà rõ ràng đây là mục đích cuối cùng của họ.
Sự khác biệt về cách nhìn vấn đề này đã không tránh khỏi việc dẫn đến những sự va chạm nhau.
Đối với việc sử dụng các nguồn viện trợ về tài chính và trang thiết bị, ta bảo vệ quan điểm là tất cả mọi thứ đều phải qua tay chúng ta, ta là người phân phối chúng cho các lực lượng Quân đội Liên hiệp, trên cơ sở nhu cầu thực tế. Ý tưởng này cho dù là một điều kiện cần thiết của mọi hoạt động có hiệu quả nhưng lại chỉ được người Mỹ chấp nhận một cách rất miễn cưỡng. Họ luôn tìm cách sử dụng phương tiện tài chính để siết chặt quan hệ với các Quốc gia Liên kết, và khuyến khích các quốc gia này tìm cách thoát khỏi sự kiểm soát của chúng ta1.
Quan điểm của ta và quan điểm của người Mỹ cũng đối chọi nhau về mặt tổ chức. Nguyên tắc của chúng ta là tiến độ thành lập các đơn vị bản xứ quan trọng tùy thuộc vào sự hình thành các khung chỉ huy vô cùng cần thiết. Khi thành lập những đơn vị này, chúng ta dự kiến giao quyền chỉ huy vào lúc ban đầu cho các sĩ quan Pháp. Hiển nhiên chúng ta có lý vì các Quân đội Liên hiệp không có được - trừ một vài trường hợp ngoại lệ - những người chỉ huy có khả năng chỉ huy chiến đấu những đơn vị quan trọng. Về điểm này, người Mỹ có thể phản bác lại ta bằng cách lý luận rằng chính chúng ta là người phải chịu trách nhiệm về sự trì trệ này, vì trong vòng bảy năm tiến hành cuộc chiến tranh, nếu chúng ta đã hình thành một cách có hiệu quả các đơn vị bản xứ, thì đến giờ phút này chúng ta có thể trao quyền tự chủ cho các Quân đội Liên hiệp. Tuy nhiên, họ đã phạm phải một sai lầm rất cơ bản khi muốn áp đặt cho chúng ta - vào thời điểm của một khúc quanh khốc liệt - một biện pháp làm suy yếu đi, thời điểm trước mắt, những lực lượng chiến đấu đã sẵn yếu kém của các quân đội này.
Trường hợp của Triều Tiên mà họ muốn chúng ta bắt chước không có một sức thuyết phục nào, vì hoàn cảnh khác nhau: địa hình, hình thức chiến tranh và tính cách con người, nhất là tính cách của các nhà lãnh đạo1. Hơn nữa việc đưa vào áp dụng cơ chế của Mỹ trong việc thành lập quân đội Nam Triều Tiên đòi hỏi một số lượng cán bộ khung lớn hơn cơ chế của Pháp rất nhiều2. Người Mỹ biết rõ rằng chúng ta không có đủ khả năng, họ đề nghị cung cấp một phần những cán bộ khung này tại các trường huấn luyện và các đơn vị không chiến đấu - nhưng nếu chúng ta chấp nhận đề nghị tức là chúng ta để cho ảnh hưởng của Mỹ thay thế dần ảnh hưởng của chúng ta. Đây là một vấn đề đặt ra cho cả khối Liên hiệp Pháp trên lĩnh vực quân sự.
Đối với vấn đề sử dụng lực lượng Quân đội Liên hiệp trong các cuộc hành quân, suy nghĩ của Mỹ cũng khác với suy nghĩ của ta. Chúng ta dự kiến - chắc chắn những gì chúng ta dự kiến là đúng - trong điều kiện hiện tại khi chúng ta đang còn gánh chịu một phần lớn trách nhiệm, các Quân đội Liên hiệp không thể nào tự đảm nhận được các nhiệm vụ quan trọng mà không phải chịu đựng những thảm họa lớn lao. Những đơn vị này chỉ có thể chiến đấu được khi cùng hoạt động với các lực lượng Viễn chinh Pháp. Dần dần họ mới có thể hoạt động riêng lẻ được, khi công tác tổ chức và khung chỉ huy được cải thiện tốt hơn.
Người Mỹ, trong lĩnh vực này cũng như trong những lĩnh vực khác luôn luôn chủ trương trao quyền tự chủ ngay lập tức và rộng rãi cho các lực lượng quân đội quốc gia, lúc nào họ cũng đưa ra ví dụ về quân đội Nam Triều Tiên họ đã thành lập, mà quên là các điều kiện chiến tranh ở đây hoàn toàn khác với ở Triều Tiên3.
Sự khác biệt giữa Pháp và Mỹ, cho dù không bao giờ được thể hiện ra một cách mãnh liệt, cũng tạo ra một gánh nặng lên sự hình thành Quân đội Liên hiệp. Lẽ ra trước con mắt những người lãnh đạo chính trị và quân sự của các Quốc gia Liên kết, mặt trận Pháp - Mỹ phải không có một rạn nứt nào. Nhưng do ta không giữ được như vậy nên những người lãnh đạo Đông Dương có điều kiện chơi trò đi dây qua lại giữa chúng ta và Mỹ, một trò mà người Mỹ sốt sắng tham dự. Và kết quả là việc hình thành các lực lượng quân đội của họ đã bị chậm lại.
Khi Phái bộ Mỹ được sự chỉ huy của tướng Trapnell - một nhân vật lãnh đạo quân sự bậc hai nhưng làm việc rất hiệu quả và là người có tính kỷ luật rất nghiêm - luôn luôn giữ đúng quyền hạn của mình, các khó khăn nói trên đã được giải quyết nhẹ nhàng.
Mọi việc đều thay đổi, khi tướng O’ Daniel đứng đầu Phái bộ Mỹ.
Tướng O’ Daniel là một người lính tuyệt vời, trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai đã từng chỉ huy một quân đoàn; và rất thích kể lại chiến công của ông góp phần giải phóng vùng Alsace cùng với Quân đoàn một Pháp. Đây là một con người cởi mở, thẳng thắn, rất thân thiện, tôi nghĩ là một người bạn tốt của chúng ta.
Nhưng quan hệ có tính cách cá nhân giữa chúng tôi lúc nào cũng luôn luôn thân thiện, tôi không thể làm gì hơn ngoài việc phải cảm ơn những nỗ lực mà ông đã giúp chúng tôi về mặt vật chất. Nhưng tôi gặp nhiều khó khăn với ông ta trên lĩnh vực quyền chỉ huy của một vị tổng tư lệnh quân đội Pháp.
Ông ta đã nhiều lần đến Đông Dương, đứng đầu một nhóm công tác của Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao nhằm mục đích thực hiện “một sự hội nhập sâu hơn của viện trợ Mỹ vào các kế hoạch chiến lược”. Ông có sự hiểu biết tốt về kế hoạch của chúng ta; sự hiểu biết này đã làm cho ông trở thành một “chuyên gia về Đông Dương” của Lầu Năm Góc. Tuy vậy những ý tưởng của ông về cuộc chiến tranh Đông Dương luôn luôn bị giới hạn trong sự dịch chuyển một cách máy móc và đơn giản những gì ông gọi là “những bài học” ở Triều Tiên sang Việt Nam, mà tôi vừa cho biết ý kiến của mình như thế nào. Cái nhìn đơn giản về các sự việc như vậy được tất cả thành viên của phái bộ ông chia sẻ và tôi còn nhớ rõ một sự ồn ào tạo ra bởi một bài báo của tờ New York Herald Tribune mà tác giả là một nhà báo rất nổi tiếng đã tóm tắt ý kiến của rất nhiều người trong họ như sau: “Với những phương pháp của chúng ta, Navarre sẽ bị tống cổ ra khỏi Đông Dương chỉ bằng một cái trở bàn tay”. Nhưng không may là “bản tính sắt thép” của tướng O’ Daniel, rất nổi tiếng ở Mỹ với biệt danh là Mike thép - khiến ông ta dửng dưng trước mọi sự chỉ trích.
Được bổ nhiệm vào đầu năm 1954 ở tại Sài Gòn, thay thế tướng Trapnell, ông đã gia tăng quân số của phái bộ Mỹ, tạo ra một sức bật làm nó vượt xa quyền lực của mình. Lạm dụng thẩm quyền điều tra việc sử dụng những khoản tiền viện trợ và trang thiết bị do Mỹ cung cấp, ông tìm cách áp đặt quan điểm của mình lên tất cả các lĩnh vực, lên cả những cuộc hành quân nhân dịp xảy ra một sự vụng về của nền ngoại giao chúng ta. (Việc kiểm soát nguồn tài chính và trang thiết bị viện trợ của Mỹ tạo cơ hội cho sự can thiệp của Phái bộ Mỹ - thường là một cách thô bạo - vào các lĩnh vực tổ chức, quản lý và bảo dưỡng các lực lượng của ta. Tuy nhiên lĩnh vực điều hành các cuộc hành quân lại thoát khỏi bàn tay hay can thiệp này, và người Tổng chỉ huy quân đội luôn có toàn quyền hành động. Bắt đầu từ đầu năm 1954, người Mỹ đưa ra những yêu sách của họ về lĩnh vực này, nhưng tôi làm ra vẻ như điếc, không nghe biết gì về ý kiến của họ. Chỉ trong những tuần lễ cuối cùng của nhiệm kỳ công tác của tôi mà tình cờ tôi đã biết được là vào tháng 9 năm 1953, Bộ Ngoại giao Pháp đã hứa với Chính phủ Mỹ là sẽ xem xét kỹ ý kiến của giới thẩm quyền Mỹ về việc phát triển và thực thi kế hoạch chiến lược của Pháp ở Đông Dương - nếu được tham khảo về vấn đề này, tôi sẽ không bao giờ đồng ý - Phái bộ quân sự Mỹ được thông tin về lời hứa, nên đã tự cho quyền được can thiệp vào việc điều hành những cuộc hành quân, trong khi tôi hoàn toàn không biết gì về những lời hứa này, nên có suy nghĩ ngược lại. Ví dụ này một lần nữa cho thấy có một sự thiếu phối họp hoàn toàn của các bộ ngành khác nhau ngay trong nội bộ Chính phủ Pháp). Sức ép của Mỹ nhanh chóng trở thành những yêu cầu trả nợ. Chúng trở nên càng lúc càng khó chịu hơn cùng với những khó khăn về mặt quân sự của ta.
Sau thất lại của chiến dịch Điện Biên Phủ, thông qua tướng O’ Daniel, người Mỹ quyết định áp đặt quan điểm của họ lên tất cả mọi vấn đề, để đổi lại sự gia tăng viện trợ quân sự mà ta yêu cầu. Nếu không phản ứng, ta sẽ trở thành những kẻ “đi đánh thuê” cho người Mỹ. Tôi bắt buộc phải báo cho Paris biết càng lúc tôi càng có cảm tưởng người chủ thật sự ở Đông Dương là Phái bộ Mỹ. Người ta đã trả lời tôi bằng lời khuyên phải cố gắng giữ những quan hệ “cá nhân” tốt với tướng O’ Daniel. Thật ra quan hệ này đã rất tốt - nhưng đó không phải là vấn đề.
o O o
Cho dù khó khăn của chúng ta đối với người Mỹ có như thế nào, nhưng đó vẫn không phải là khó khăn chính. Những khó khăn chính xuất phát từ giới lãnh đạo các Quốc gia Liên kết. Tôi đã nói đến tính quan trọng của những khó khăn này khi bàn về nỗ lực tiến hành chiến tranh, nên tôi cho là rất cần thiết quay trở lại vấn đề này một cách rõ ràng hơn.
Tất cả những người lãnh đạo các Quốc gia Liên kết, cho dù đó là người Việt Nam, Lào hay Campuchia, lúc nào cũng muốn chứng tỏ tư thế của họ bằng cách thành lập các quân đội độc lập, ngang hàng với đoàn quân Viễn chinh Pháp, và cùng tham gia với Bộ Chỉ huy quân đội Pháp vào các quyết định quan trọng. Nhưng họ không bao giờ chịu nhận những trách nhiệm thực tế, vì tất cả đều biết rõ về sự thiếu khả năng của khung chỉ huy cũng như của các đơn vị quân đội họ khi tác chiến một mình, không có sự yểm trợ của khung chỉ huy và các đơn vị quân đội Pháp. Cho dù không nói ra chính thức, nhưng họ vẫn phải nhìn nhận ưu thế vượt trội của quân đội ta. Mặc cảm tự ti cùng với sự kiêu hãnh là hai yếu tố chính ngăn cản việc thành lập và đưa vào sử dụng một cách có hiệu quả các Quân đội Liên hiệp.
Dưới đây tôi sẽ đề cập đến những gì đã diễn ra với mỗi quân đội.
Quân đội Việt Nam
Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam, là một cựu trung tá không quân Pháp. Ông tỏ ra là một phi công rất xuất sắc trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ông là một sĩ quan thông minh và chắc chắn là một sĩ quan xuất sắc nhất của quân đội Việt Nam, chỉ cần có thêm một vài năm kinh nghiệm nữa là ông có thể có được một khả năng ngang tầm với chức vụ của mình. Ông hiểu rất rõ quân đội còn non trẻ của ông cần sự đỡ đầu của ta trong một thời gian dài. Tôi tìm thấy ở ông một tinh thần hợp tác hoàn toàn. Thái độ cáu kỉnh của Chính phủ ông đối với ta để bày tỏ ý muốn được độc lập của họ, cùng với một số khuyến khích của người Mỹ, đôi lúc đã thúc đẩy ông tìm cách bước ra khỏi sự đỡ đầu. Tôi không nghĩ quân đội Việt Nam có thể được lợi từ những lần muốn ly khai như vậy.
Dù thế nào đi nữa, cho dù họ có những sai lầm và thất bại, tôi không thể không có sự kính mến đối với các nỗ lực rất lớn của tướng Hinh và Bộ Tham mưu của ông để thành lập quân đội Việt Nam. Quân đội này là thành quả tốt nhất có thể là duy nhất - của Quốc gia Việt Nam.
Những cố gắng chung của chúng tôi nhằm đi đến những mục đích sau đây:
- Tăng tốc nhịp độ thành lập các đơn vị mới.
- Tăng cường và cải thiện việc đào tạo các khung chỉ huy.
- Dần dần thành lập những đơn vị quan trọng hơn (những đơn vị cơ động rồi sau đó các sư đoàn).
- Tăng cường khả năng hành quân của quân đội Việt Nam bằng cách để họ đảm nhận hoàn toàn trách nhiệm trong vùng nào đó.
Về nhịp độ thành lập các đơn vị mới, những cố gắng của chúng tôi đã không đạt được một kết quả nào cả. Nguyên nhân chính là Chính phủ Việt Nam không có khả năng tuyển mộ quân lính. Vào lúc khởi đầu thì lời kêu gọi nhập ngũ có được những kết quả đáng khích lệ, nhưng xu thế này đã gãy đổ ngay khi có thông báo vào tháng 2 năm 1954 về sự nhóm họp của hội nghị Genève. Tỷ lệ những người không phục tùng trở nên rất cao (90% vào thơi điểm mùa xuân năm 1954), trong khi tỷ lệ những người đào ngũ cũng gia tăng với tỷ lệ tương tự.
Việc hình thành khung chỉ huy cũng gặp thất vọng nặng nề. Khác với Việt Minh đi tìm nguồn nhân lực “trong ruộng đồng”, tức là từ giai cấp nông dân, thì Chính phủ Việt Nam lại tuyển mộ các sĩ quan khung của mình từ giai cấp tư sản và tuyển lựa họ qua thi tuyển. Nhưng trên thực tế con em giai cấp tư sản tìm mọi cách để né tránh chế độ quân dịch ngay khi có thể. Các sĩ quan tại chức luôn có tư tưởng họ là con cháu quan lại, và không có một mối quan hệ nhân ái với binh sĩ của họ, từ đó rất khó chỉ huy họ. Thường thì tước vị sĩ quan chỉ là một cái nghề mang lại tiền bạc cho họ. Đủ loại thương vụ làm ăn diễn ra một cách thường xuyên, kể cả những vụ làm ăn phi pháp.
Mặc dù có những trở ngại nói trên, nhưng các hạ sĩ quan và sĩ quan được đào tạo từ các trường huấn luyện đã gia tăng mạnh mẽ, sự gia tăng này đã giúp giải quyết trong những điều kiện phù hợp vấn đề về số lượng các khung chỉ huy cấp dưới đến cấp trung đội. Vấn đề chỉ huy cấp đại đội cũng trên đà chuyển biến tốt và dự kiến sẽ được giải quyết vào cuối năm 1954. Còn vấn đề các sĩ quan cấp cao hơn lại gặp nhiều khó khăn vì nó được quan tâm giải quyết một cách quá chậm và cũng do không có các sĩ quan cấp dưới đủ những kinh nghiệm cần thiết để được bổ nhiệm vào công tác chỉ huy cấp tiểu đoàn hoặc các đơn trị lớn hơn.
Tuy vậy việc thành lập các đơn vị hoàn toàn Việt Nam vẫn được tiến hành. Số lượng các đơn vị cơ động được chuyển đến quyền chỉ huy của tôi đã tăng từ một lên đến sáu, việc thành lập ba sư đoàn đã được dự kiến vào mùa thu năm 1954. Do không đủ các sĩ quan khung có chất lượng, quyền chỉ huy và những chức vụ quan trọng trong ban tham mưu đều tạm thời do các sĩ quan Pháp nắm giữ.
Khi tôi đến nhận công tác, chỉ có hai khu vực quan trọng do người Việt Nam chỉ huy. Một số khu vực khác được dự kiến sẽ “bàn giao lại” cho họ1. Trước khi tôi đến thì việc bàn giao này được thực hiện bằng cách thay thế những đơn vị Pháp bằng những đơn vị Việt Nam chỉ trong một bước một. Cách làm này có những kết quả rất xấu, thậm chí thất bại nghiêm trọng2. Tôi đã quyết định cải tổ việc bàn giao này bằng cách tạm thời sắp xếp những sĩ quan tham mưu và một số đơn vị Pháp dưới quyền chỉ huy của một ban chỉ huy Việt Nam. Mặt khác, nhằm mục đích thỏa mãn những yêu cầu thường xuyên của giới thẩm quyền Việt Nam, đồng thời giao cho họ những trách nhiệm ngày càng lớn hơn, tôi quyết định gia tăng chương trình bàn giao này. Chỉ một phần nhỏ của chương trình là thực hiện được. Chính phủ Việt Nam, hoặc là từ chối không chịu nhận trách nhiệm, hoặc là không có khả năng sắp xếp được những người có trách nhiệm về mặt quân sự và dân sự. Một số các nhóm thiểu số - nhất là các phái ở Nam Bộ - từ chối phục vụ dưới quyền của Chính phủ Việt Nam, và yêu cầu được ở lại dưới sự quản lý trực tiếp của chúng ta.
Vì vậy trong tất cả các lĩnh vực, cố gắng của chúng ta chỉ có được những kết quả hết sức hạn chế.
Tình hình khi tôi rời khỏi nhiệm vụ: Về mặt lý thuyết, chương trình dự kiến thành lập các đơn vị đã được tiến hành đến ngày 30 tháng 6 năm 1954, nhưng rất nhiều đơn vị không có khả năng tham gia thật sự vào các cuộc hành quân, do thiếu các khung chỉ huy, thiếu quân số, và huấn luyện chậm trễ. Hơn nữa, việc bổ sung các đơn vị cũ không được thực hiện, vì số quân dùng cho việc bổ sung cho các đơn vị cũ lại được dùng để lập ra các đơn vị mới.
Việc thành lập những đơn vị mới dự kiến bắt đầu từ 1 tháng 7 năm 1954 đã bị trì hoãn vì thiếu quân số. Ngay khi biết được có quyết định họp Hội nghị ở Berlin (ngày 17 tháng 2 năm 1954) để thảo luận về vấn đề hòa bình ở Việt Nam, quân đội Việt Nam đã bắt đầu tan rã. Những lo âu về viễn cảnh một cuộc thắng lợi không thể tránh khỏi của Việt Minh khi hội nghị họp cùng với sự tuyên truyền của đối phương khai thác tối đa những viễn cảnh này đã phá hoại nặng nề hàng ngũ Quân đội Quốc gia Việt Nam. Những cuộc tuyển mộ gần như bị tạm ngưng, nạn đào ngũ gia tăng hàng loạt, một số đơn vị từ chối ra trận, một số khác nổi loạn, các sĩ quan khung Pháp bị chửi rủa và đôi lúc bị hành hạ.
Chính trong không khí như vậy mà thất bại Điện Biên Phủ đã diễn ra. Cú sốc tinh thần nó gây ra đã làm cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng.
Quân đội Campuchia
Các sự kiện xảy ra vào cuối tháng 6 năm 1953, tôi đã có nói đến ở phần trước, làm cho quân đội Khmer gần như hoàn toàn được tách ra khỏi sự bảo hộ của ta. Gần như tất cả các sĩ quan Pháp được biệt phái đến Bộ Tham mưu ở Phnôm Pênh cũng như những sĩ quan được giao đảm nhận các khung chỉ huy đã được gọi về. Chúng ta chỉ có thể duy trì một ảnh hưởng quân sự nhỏ nhờ sự có mặt ở Phnôm Pênh của tướng Langlade và sau đó là của đại tá Essars. Cả hai đều có được mối quan hệ hữu nghị và sự tin tưởng của nhà vua. Họ tiếp tục đảm nhận vai trò cố vấn, dù khó khăn, bên cạnh Chính phủ Khmer.
Trong vòng sáu tháng tôi đã phải cho ngưng lại việc phát triển một quân đội bất cứ lúc cũng có khả năng quay súng chống lại chúng ta.
Vào mùa đông năm 1953-1954, không khí chính trị đã được cải thiện. Những cuộc đàm phán giữa Pháp và Campuchia được mở ra. Kết quả là chúng ta chuyền cho phía Campuchia ba trong số sáu tiểu đoàn Pháp được thành lập qua sự tuyển mộ người Campuchia, và kế hoạch phát triển quân đội của họ được xúc tiến trở lại. Một nửa số tiểu đoàn nhẹ mới đã được hình thành khi tôi rời nhiệm vụ.
Ta cũng phải chấp nhận sự chuyển giao quân đội Khmer qua sự chỉ huy của nhà vua, với một sự thỏa thuận về mặt lý thuyết là tôi vẫn có thể tiếp tục hành xử quyền lực của tôi đối với quân đội này thông qua Bộ Tham mưu Khmer. Nhưng trên thực tế kể từ ngày đó, các lực lượng quân đội Campuchia đã thoát khỏi quyền chỉ huy của tôi. Tuy nhiên tôi vẫn không nhìn nhận một cách chính thức sự việc đã rồi này, dự phòng những biến chuyển không lường được trước trong tương lai.
Trong ba Quân đội Liên hiệp, với quân đội Campuchia chúng ta có quan hệ khó khăn nhất. Những cách cư xử vụng về và không thân thiện của người Mỹ đối vẫn ảnh hưởng của chúng ta, nhất là niềm hy vọng về sự giúp đỡ trực tiếp cho quân đội Campuchia đã làm chóa mắt những người lãnh đạo nước này. Quân đội Khmer dần dần mất hết tầm quan trọng. Càng ngày, những đơn vị của nó có khuynh hướng biến thành những băng đảng vũ trang dưới quyền một lãnh chúa nào đó.
Quân đội Lào
Quân đội Lào không bao giờ gây cho ta một khó khăn nào nghiêm trọng. Họ chấp nhận sự trực thuộc trực tiếp đại tá Crèvecoeur, Tư lệnh quân đội Lào, và vẫn giữ Bộ Tham mưu Pháp. Nhờ vào sự thông hiểu lẫn nhau giữa Bộ Chỉ huy Pháp và chính quyền Lào mà vấn đề “độc lập” đã không trở nên quá nổi cộm như các Quốc gia Liên kết khác; họ chú tâm nhiều hơn vào nỗ lực chiến tranh thực sự.
Kết quả là kế hoạch phát triển quân đội Lào được thực hiện gần như trọn vẹn. Nhưng sự nghèo nàn về tất cả các tài nguyên của nước Lào làm giới hạn rất nhiều sự phát triển các lực lượng vũ trang của nước này.
VIỆC CƠ ĐỘNG HÓA CÁC LỰC LƯỢNG CHIẾN ĐẤU
Việc phát triển hàng loạt và nhanh chóng các Quân đội Liên hiệp không cung cấp được cho ta các đơn vị tinh nhuệ. Mục đích chính của công tác này, tôi xin nhắc lại, là cung cấp cho ta một số lượng lớn binh lính để đảm bảo những nhiệm vụ bề nổi của cuộc chiến và cho phép chúng ta giải phóng các đơn vị thiện chiến tiến tới thành lập Binh đoàn Tác chiến.
Ở phần trên tôi đã có nói đến những khó khăn của việc “cơ động hóa” những đơn vị đóng chốt, và tôi có chỉ rõ rằng, chỉ có những cuộc hành quân bình định, lâu dài và tốn kém về mặt nhân lực mới có thể giúp đem lại kết quả mong muốn.
Nhưng công tác bình định lại vấp phải tình trạng thiếu năng lực của các giới thẩm quyền dân sự và quân sự các Quốc gia Liên kết, đặc biệt là giới thẩm quyền dân sự. Những vùng được bình định phải được quản lý ngay sau đó bằng một nền hành chính bản xứ có năng lực, năng động và trung thực. Thực tế là không có một tổ chức hành chính như vậy. Không có sự cố gắng để xây dựng nền hành chính đó, mà trong lĩnh vực này thì không thể tuỳ tiện ứng biến được. Tình trạng không có đường lối chỉ đạo chiến tranh trước đây đem lại những hậu quả rất cay đắng.
Dù thế nào đi nữa, việc “cơ động hóa” đã được tiến hành với một sự kiên trì. Các kết quả đạt được rất khác nhau tuỳ theo từng vùng lãnh thổ.
Nước Lào đã thành công trong việc cơ động hóa một phần quan trọng các đơn vị của họ.
Ở Campuchia, sau nhiều diễn biến không hay, một đơn vị nhỏ đã được cơ động hóa.
Một nỗ lực rất nghiêm chỉnh được tiến hành ở Trung và Nam Bộ Việt Nam, qua đó cho phép rút đi một số lượng quân quan trọng bổ sung vào Binh đoàn Tác chiến. Nhưng nó vẫn phải bị trả giá bởi không ít những bất lợi nghiêm trọng. Do chất lượng quá kém cỏi của các đơn vị thay thế, tình hình một số các địa phương trong hai vùng lãnh thổ này đã sa sút một cách nghiêm trọng.
Bắc Bộ là nơi tập trung nhiều khó khăn nhất, lý do đây là địa bàn hoạt động của nhiều đơn vị tinh nhuệ của Việt Minh. Nhưng cũng tại vùng lãnh thổ này ta lại đạt được nhiều kết quả nhất. Tại đây ta có thể rút ra được một số lượng quân nhiều hơn các vùng khác rất nhiều (vùng này có đến 100.000 quân được đóng chốt) và nếu như việc cơ động hóa được thực hiện tốt thì nó sẽ tạo điều kiện cho Bộ Chỉ huy có được một lực lượng cơ động rất lớn.
Một vấn đề đặc thù được đặt ra là sự hiện hữu của “chiến tuyến De Lattre”. Chiến tuyến này hình thành bởi một hệ thống các lô cốt hiện đại được trang bị bằng các loại vũ khí tương đối tốt. Nó chỉ có thể được trấn giữ bởi các đơn vị chính quy. Tuy nhiên chiến tuyến này chưa bao giờ phát huy được hai yêu cầu ta mong đợi khi xây dựng nó: bẻ gãy những cuộc tiến công quy mô vào vùng châu thổ sông Hồng và chống lại các cuộc xâm nhập. Chúng ta có thể rút ra nhiều quân chính quy bằng cách huỷ bỏ hoặc biến đổi chiến tuyến này khi giao nó cho các đơn vị bổ sung trấn giữ, phù hợp hơn cho việc chống sự xâm nhập của đối phương. Giải pháp này đòi hỏi thời gian và tiền bạc nhưng gặp các trở ngại về mặt tinh thần: một công trình to lớn và tốn kém vừa mới được hoàn tất của thống chế De Lattre bị một số người xem như một sự trở mặt, xúc phạm đến uy tín của Nguyên soái. Một trở ngại thực tế hơn cũng được đặt ra. Quân đội Việt Minh hiện nay đang có một sức mạnh có thể giúp họ một ngày nào đó tiến công vào đồng bằng. Lúc đó thì “chiến tuyến De Lattre” sẽ phát huy tác dụng. Có nên phá huỷ nó vào lúc này chăng? Những sự cân nhắc như vậy đã khiến tôi phải chọn một giải pháp chờ đợi, bố trí tại mỗi căn cứ một số quân, và giải phóng để cơ động một số quân chính quy.
Có một điều chắc chắn là tại Bắc Bộ, chỉ có một chính sách “cơ động hóa” mạnh mẽ ta mới có thể có một số lượng các lực lượng cơ động quan trọng. Nếu các lực lượng này được triển khai kịp thời thì chúng có thể đánh vào những đường tiếp tế của Việt Minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Không may là các kết quả đạt được rất kém cỏi do Bộ Chỉ huy tại Hà Nội có khuynh hướng đòi hỏi sự chi viện từ bên ngoài, thay vì sử dụng các lực lượng tự có. Tôi rất tiếc là đã không kiên quyết hơn trong việc giải quyết vấn đề này.
BỐ TRÍ CÁC LỰC LƯỢNG CHIẾN ĐẤU
Trong những ngày tôi ở Paris trước khi nắm quyền chỉ huy, tôi được nghe rất nhiều các lời chỉ trích về những sự “lạm dụng” tràn lan khắp nơi ở Đông Dương. Người ta nói đến sự lạm phát tướng lĩnh, sự thừa thãi sĩ quan “chen chúc” trong các Bộ Tham mưu và các đơn vị hậu cần, rất nhiều chức vụ vô bổ... nói chung là một sự phung phí quân số đầy tai tiếng. Thành phố Sài Gòn bị tố cáo như là một Capoue tân thời.
Nguồn gốc của những sự chỉ trích này chủ yếu là do các nhà báo và các nhà chính trị đi “công tác”, đủ để tôi có thể có được một sự tin cậy nhất định, nhưng tôi quyết định phải nghiên cứu vấn đề một cách nghiêm túc hơn. Huyền thoại về thành phố Sài Gòn như là một “Capoue tân thời” không cần phải xác minh lâu. Nó đã khắc sâu vào suy nghĩ của tất cả mọi người, không chỉ ở Pháp mà còn ở cả Đông Dương. Người ta cho rằng ở Sài Gòn, chúng ta có một cuộc sống dễ dàng, không lo âu và xa xỉ của một quân đội sống trong thời bình, trong khi ở Hà Nội, chúng ta phải “tiến hành chiến tranh”.
Vẻ bề ngoài của hai thành phố này đã tạo điều kiện làm phát sinh và lan truyền huyền thoại này. Ở Sài Gòn, chúng ta có thể thấy được rất nhiều quan chức dân sự - quân sự ở “hậu phương”. Đây là một sự tập trung không thể tránh khỏi. Do không thể đóng quân ở một nơi nào khác, nên hầu hết các ban tham mưu cùng đơn vị hậu cần của lực lượng quân đội Viễn chinh và quân đội Việt Nam đều đóng tại đây. Còn ở Hà Nội, vì là nơi tập trung ít hơn các quan chức dân sự và chỉ là nơi quá cảnh, nghỉ ngơi của các đơn vị quân đội, nên thành phố này có bề ngoài của một thành phố trong tình trạng chiến tranh.
Trên thực tế, cuộc sống ở Sài Gòn chỉ xa xỉ, dễ dàng đối với các quan chức dân sự. Các ban tham mưu không thể có được một cuộc sống như vậy và họ sống trong một tình trạng chiến tranh như ở Hà Nội: giờ làm việc cũng như thế, sự rủi ro thì ngang bằng nhau (ở Sài Gòn những cuộc tiến công còn nhiều hơn ở Hà Nội), số lượng công tác ở vùng bất an ninh ngang bằng thậm chí cao hơn ở Hà Nội. Dư luận không đúng về các sự thật nói trên khiến tôi phải làm cho rõ.
Chỉ cần nhìn qua công tác quản lý các sĩ quan cấp tướng, tôi có thể nhận định ngay những lời phàn nàn về số lượng quá nhiều là không đúng. Để chỉ huy một lực lượng gần bằng một nửa quân số của toàn bộ quân đội Pháp, tôi chỉ có được một phần tám số sĩ quan cấp tướng. Chính vì vậy, có rất nhiều vị trí lẽ ra do các sĩ quan cấp trung tướng hoặc thiếu tướng chỉ huy, thì thay vào đó là các sĩ quan cấp đại tá và trung tá.
Tương tự như vậy, tôi nhận thấy hầu hết các chỉ trích về sự lãng phí nguồn nhân lực là không có cơ sở. Với ý muốn giảm bớt sự thiếu hụt về mặt nhân lực cấp sĩ quan và hạ sĩ quan từ chính quốc, tôi cho nghiên cứu khả năng giảm biên chế trong nội bộ các lực lượng Viễn chinh.
Khung chỉ huy tại các ban tham mưu cũng rất thiếu như trong các đơn vị chiến đấu. Bộ Tham mưu tại Sài Gòn là một Bộ Tham mưu chiến trường, chỉ huy hơn 500.000 quân nhưng lại không có được một quân số bình thường của ban tham mưu một quân đoàn1. Ban tham mưu tại Hà Nội tương đương với ban tham mưu một binh đoàn nhưng nó lại chỉ huy gần 200.000 quân. Những ban tham mưu tại các vùng lãnh thổ khác cũng thiếu người rất nhiều một cách hết sức buồn cười. Nếu chúng ta đem so sánh chúng với các ban tham mưu ở Paris, Đức và các vùng lãnh thổ khác tại chính quốc, thì các ban tham mưu những nơi này được một quân số hoàn toàn vượt trội. Tuy vậy, tôi đã quyết định phải cắt giảm 10% tất cả quân số của các ban tham mưu, để không làm tổn hại đến các lực lượng chiến đấu và thành lập những ban tham mưu cần thiết cho việc thành lập Binh đoàn Tác chiến.
Còn đối với các đơn vị phục vụ chiến đấu, tỷ lệ so với số quân họ phục vụ và các trang thiết bị họ bảo quản thấp hơn tiêu chuẩn khiêm tốn nhất của các quân đội trong thời chiến, cũng thấp hơn rất nhiều so với các đơn vị Pháp không ở trong tình trạng chiến tranh. Về lĩnh vực này, cũng như nhiều lĩnh vực khác, cuộc chiến tranh Đông Dương được tiến hành bằng “giá rẻ”. Việc cắt giảm những “công việc vô ích” chỉ mang lại kết quả không đáng kể về mục đích có thêm sĩ quan vì thực ra không hề có loại công việc này. Mặt khác, chúng ta đã tận dụng một số lớn các hạ sĩ quan bằng cách sắp xếp lại lực lượng bảo vệ cơ động2. Việc này tạo điều kiện giảm bớt các yêu cầu về hạ sĩ quan đối với chính quốc.
BINH ĐOÀN TÁC CHIẾN
Vì vậy các phương cách tập hợp lực lượng để thành lập một Binh đoàn Tác chiến (sử dụng các lực lượng chi viện từ Pháp, sắp xếp lại quân số, phát triển các Quân đội Liên hiệp, cơ động hóa các đơn vị đóng chốt) không có được những kết quả đồng đều và thường là đầy thất vọng.
Tuy nhiên sự thành lập Binh đoàn cơ động là điều kiện không thể thiếu cho sự thành công, được tiến hành một cách rất cố gắng.
Theo kế hoạch ban đầu được đề nghị với Chính phủ vào tháng 7 năm 1953, Binh đoàn Tác chiến phải bao gồm: 7 đơn vị cấp sư đoàn trong đó có một đơn vị không vận1, hỗ trợ cho 24 đoàn cơ động2 trong đó có 12 đoàn quân Việt Nam, và 3 đoàn không vận3 trong đó có một đoàn không vận Việt Nam. Nhiều đơn vị dự bị cũng đã được dự kiến4.
Các phương tiện cần thiết đã không thể tập kết được nên phải có nhiều cắt giảm so với kế hoạch ban đầu. Việc cắt giảm này được thực hiện ở cấp sư đoàn (bị cắt giảm từ 7 xuống 6), ở tại các lực lượng cấu thành, ở các thành phần yểm trợ, và ở các lực lượng chi viện cơ động, và nhất là các lực lượng trừ bị.
Lộ trình thành lập binh đoàn cơ động này được dự kiến như sau:
- Đợt đầu tiên phải sẵn sàng được sử dụng vào ngày 1 tháng 4 năm 1954: bốn đơn vị cấp sư đoàn - 18 binh đội cơ động (trong đó có 6 binh đội cơ động Việt Nam) và binh đội không vận.
- Đợt thứ hai được dự kiến hình thành vào 1 tháng 9 năm 1954: một đơn vị không vận cấp sư đoàn - ba binh đội cơ động Việt Nam và một binh đội không vận Việt Nam.
- Đợt thứ ba được dự kiến sẵn sàng vào sáu tháng đầu năm 1955: 2 lực lượng cấp sư đoàn Việt Nam và ba binh đội cơ động Việt Nam.
Đợt đầu tiên đã được tiến hành đúng theo thời gian được dự tính, nhưng từ đầu năm 1954, khó khăn nghiêm trọng bắt đầu xuất hiện, do sự chậm lại của việc thành lập các đơn vị và việc huấn luyện các đơn vị Việt Nam dùng để thay thế các đơn vị được chuyển vào binh đoàn cơ động.
Vào cuối tháng hai những khó khăn này càng trở nên nghiêm trọng, do việc ngưng việc tuyển mộ binh lính tiếp theo sau thông báo việc nhóm họp hội nghị Genève.
Được hình thành bằng các đơn vị tổ chức theo lối cổ điển, được trang bị bằng các loại vũ khí nặng và thường là không phù hợp, các lực lượng của ta thiếu hẳn tính linh hoạt và sự cơ động.
Muốn tạo cho các lực lượng này có được những tính năng nói trên là một công việc lâu dài. Phải có trang thiết bị mới, nhưng thường là chuyện này không thể làm được, phải tổ chức lại hoàn toàn các đơn vị, thậm chí thay đổi cách huấn luyện cùng tinh thần của các khung chỉ huy và quân lính. Việc này chỉ có thể thực hiện khi tình hình quân sự được ổn định trong vòng ít nhất vài tháng. Một số giải pháp cục bộ được dự kiến trong thời gian trước mắt. Chúng được nghiên cứu kỹ và thực hiện ngay khi có thể.
Tỷ lệ các lực lượng bộ binh bên trong Binh đoàn Tác chiến được tăng thêm so với những gì tướng Salan trù hoạch.
Đã có những yêu cầu Paris và Washington tăng cường số lượng súng liên thanh nhẹ trong các tiểu đoàn bộ binh. Những yêu cầu này vẫn chưa được đáp ứng khi tôi rời nhiệm vụ.
Phải lập ra những căn cứ huấn luyện để các đơn vị có thể luân phiên nhau đến đấy tập luyện thích ứng với loại chiến tranh mà chúng ta tiến hành. Cuối cùng, một “Bộ Chỉ huy biệt động” đã hình thành và được giao nhiệm vụ thành lập một số lượng quan trọng các đơn vị nhẹ, được huấn luyện kỹ và trang bị tốt, để thi thành những nhiệm vụ mà các lực lượng cổ điển không thể làm được. Việc này cũng không thể nào làm trong ngày một ngày hai1.
o O o
Như thế là, dù không có một yêu cầu nào về đường lối chính trị mà tôi cho là tối cần thiết được đáp ứng, và cho dù các yêu cầu về quân sự được đáp ứng một cách hết sức hạn chế, các lực lượng của chúng ta được tổ chức lại và một Binh đoàn Tác chiến quan trọng đã được thành lập. Từ 6 binh đội cơ động, 8 tiểu đoàn nhảy dù khi tôi mới đến nhận nhiệm vụ, binh đoàn cơ động đã có được 18 binh đội cơ động, 10 tiểu đoàn nhảy dù vào thời điểm 1 tháng 4 năm 1954.
Nhưng những đơn vị mới, vào thời điểm đó vẫn chưa có khả năng chiến đấu tốt1, nhất là viễn cảnh về sau thì thật là đen tối.
Ngay từ đầu năm 1954, tôi nhận thấy - và tôi đã báo động với Chính phủ rằng việc chậm trễ hình thành quân đội Việt Nam và không cung ứng đầy đủ các lực lượng chi viện từ Chính quốc, sẽ tạo ra rất nhiều khó khăn trong giai đoạn hai của việc thành lập Binh đoàn Tác chiến.
Sự tiên liệu này còn trầm trọng hơn do việc ngưng tuyển mộ binh lính, việc đào ngũ hàng loạt trong quân đội Việt Nam, cũng như do sự thiệt hại phải chịu đựng nặng nề hơn những năm trước sẩy ra bởi sự lan rộng, kéo dài và tính khốc liệt của các trận đánh - mà những thiệt hại của lực lượng đồn trú tại Điện Biên Phủ là một thí dụ điển hình.
Cho dù chúng ta không bị thất bại lớn trong thời kỳ đỉnh cao sự nguy hiểm của chiến dịch Đông Xuân năm 1953-1954, chúng ta vẫn không có đủ phương tiện cần thiết vào thời điểm mùa thu năm 1954 để tiến hành tấn công theo kế hoạch của tôi.
Dù thế nào đi nữa, do những kết quả kể trên, Chính phủ buộc phải đi đến một quyết định có tính chất rất nghiêm trọng trong mùa hè năm 1954: hoặc là kết thúc cuộc chiến bằng một giải pháp chính trị, cho dù kết quả không tốt chút nào; hoặc là yêu cầu nước Pháp để bù lại sự thiếu trách nhiệm của phía Chính phủ Việt Nam cùng những sự thiệt hại, cần có một nỗ lực mới, trên thực tế chúng ta không có khả năng sẵn sàng về trang thiết bị và tinh thần; hoặc đưa cuộc chiến vào con đường quốc tế hóa.
Chú thích
1. Ngày 13 tháng 6 năm 1953, Quốc vương Sihanouk bất ngờ bỏ Vương quốc của mình, chạy qua nước Xiêm. Bằng hành động này, ông cực lực phản đối những “sự quanh co” của chính sách Pháp khi khẳng định “sự độc lập của Quốc gia Khơme” lại hành động như chẳng có một nền độc lập nào cả. Ông cho rằng việc phá giá đồng bạc Đông Dương trước đó không lâu thể hiện chính sách nước đôi của Pháp. Do không được nước Xiêm tiếp đón như mong muốn, ông quay trở về Campuchia vài ngày sau, những ông tự lưu đày mình trong vùng Xiêm Riệt, và thông báo chỉ trở về Phnôm Pênh khi nào nền độc lập của Campuchia có hiệu lực. Thái độ này tạo ra một làn sóng chống Pháp, có lúc tưởng chừng như gây ra những cuộc bạo loạn nghiêm trọng.
2. Nhà vua quyết định phát động phong trào “tổng động viên quần chúng” dẫn đến những làn sóng bạo động, chủ yếu nhắm vào nước Pháp hơn là nhắm vào Việt Minh.
1. Các phái ở Nam Bộ Việt Nam (Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên) là những tổ chức vừa có tính cách tôn giáo, chính trị và quân sự, một loại quốc gia trong một quốc gia, đòi hỏi sự tự trị trong lòng nước Việt Nam. Họ gắn với nước Pháp qua những hiệp ước rất xưa và lỗi thời mà ông Tổng ủy và tôi đã yêu cầu nên bãi bỏ để họ có thể gia nhập vào các đơn vị quân Việt Nam. Mặc dù chúng tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng họ từ chối việc sáp nhập, và lựa chọn sự chỉ đạo trực tiếp của chúng ta. Vấn đề này trên hết là một vấn đề chính trị, mà chính phủ Việt Nam không bao giờ đề cập một cách thẳng thắn. Họ lựa chọn phương cách đổ lỗi cho chúng ta là đã ngấm ngầm ủng hộ, ngăn cản những nhóm này tập hợp vào hàng ngũ họ, để tự bảo vệ việc thiếu trách nhiệm của họ. Thái độ của những nhóm này sau khi cuộc đình chiến được thực hiện, khi nước Việt Nam được trao trả hoàn toàn độc lập đã chứng tỏ sự không đúng của già thuyết này.
1. Tư tưởng bài Pháp của ông có vẻ như xuất phát từ một sự bất hòa với đô đốc Decoux, trong thời gian chiến tranh 1940 -1945, đã ra lệnh bắt ông vì hợp tác với người Nhật.
2. Trích trong báo cáo ngày 11 tháng 10 năm 1953 về nỗ lực chiến tranh: “Điều không ai nghi ngờ gì là sức mạnh to lớn của Việt Minh nằm trong niềm tin của họ vào khả năng làm cho quần chúng nhân dân tin tưởng Việt Minh là niềm hy vọng duy nhất về sự bình đẳng và công bằng xã hội. Đây là động lực chính của tinh chiến đấu của bộ đội Việt Minh. Để thúc đẩy người lính quốc gia chiến đấu tốt, phải thuyết phục anh ta rằng về phía chúng ta cũng có khả năng cho một sự giải phóng về mặt xã hội, vì ở đất nước này chính sự giải phóng về mặt xã hội có một khả năng thu hút lôi cuốn quần chúng lớn hơn là sự độc lập về mặt chính trị”.
3. Một tổ chức tương tự như quốc hội lập hiến, nhưng đã giải thể sau vài cuộc tranh luận.
1. Tôi xin tỏ lòng cung kính những sĩ quan khung người Pháp được biệt phái bên cạnh các Quân đội Liên hiệp, đã hoàn thành nhiệm vụ của họ bằng sự hy sinh quên mình, trong hoàn cảnh đầy sự hiểu lầm và thậm chí thù nghịch. Không có những người này, các quân đội này đã không thể được thành lập.
2. Các “Ủy ban quân sự thường trực” tập hợp các sĩ quan và viên chức dân sự người Pháp và quốc gia sở tại.
1. Quan điểm này của Pháp bị hủy bỏ vào năm 1954 do các nguyên nhân về mặt tài chính.
1. Địa hình của Triều Tiên dễ dàng hơn rất nhiều so với địa hình Đông Dương có nhiều rừng rậm và cánh đồng ngập nước. Địa hình này không có ở Triều Tiên và tạo ra một điểm đặc thù cơ bản. Ở Hàn Quốc có một chiến tuyến hẳn hoi phân chia hai đội quân đối đầu nhau. Hậu phương rất là chắc chắn. Và cuối cùng, Nam Triều Tiên có một người lãnh đạo có tâm huyết cực kỳ mạnh mẽ, có khả năng đưa cả nước vào cuộc chiến.
2. Nhằm mục đích hình thành một cơ chế “cố vấn quân sự” nhiều gấp đôi các khung chỉ huy bản xứ.
3. Người Mỹ quên rằng chỉ sau khi đình chiến, họ mới cho quân đội Nam Triều Tiên một nền tự trị thật sự.
1. Ở Bắc Bộ là Bùi Chu; Trung Bộ là Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang; Nam Bộ là những vùng ở trung tâm và phía tây.
2. Ví dụ như trong vùng được bàn giao cho phía Việt Nam là Bùi Chu (vùng phía nam của châu thổ sông Hồng, Việt Minh đã tập trung một cách có tổ chức những nỗ lực của họ nhằm tiến công các tiểu đoàn Việt Nam mới vừa được thành lập, và chỉ trong một thời gian ngắn đã tiêu diệt hoàn toàn những tiểu đoàn này (một phần bị tiêu diệt và chủ yếu là đào ngũ).
1. Thống chế De Lattre từng nỗ lực cắt giảm quân số các ban tham mưu nhưng cuối cùng cũng không làm được.
2. Trong cơ cấu tổ chức của lực lượng này, hầu hết các thành viên đều phải làm nhiệm vụ của binh lính, nhưng khi được phân bổ trong các đơn vị quân đội, hầu hết họ đều có thể làm nhiệm vụ của hạ sĩ quan.
1. Một đơn vị gồm: một ban tham mưu, một tổng hành dinh, một ban tham mưu pháo binh cấp sư đoàn và một đại đội thông tin.
2. Mỗi đoàn gồm: một ban tham mưu, một đại đội thông tin nhẹ, 3 tiểu đoàn bộ binh, một đội pháo binh, một đại đội cối hỗn hợp, một đội khuếch trương chiến quả.
3. Mỗi đoàn gồm: một ban tham mưu, một đại đội thông tin nhẹ, một đại đội công binh, ba tiểu đoàn nhảy dù, một đội pháo binh dù, một đại đội súng hỗn hợp, một đội khuếch trương chiến quả.
4. Bao gồm chủ yếu là 25 tiểu đoàn bộ binh, 6 trung đoàn thiết giáp, 3 đội hành quân thủy bộ, 8 đội pháo binh và 4 tiểu đoàn công binh.
1. Các đơn vị biệt động - trong đó có một số rất thiện chiến - đã có mặt tại Đông Dương từ lâu, nhưng việc sử dụng họ gần như được giao hoàn toàn cho các tư lệnh vùng lãnh thổ. Khả năng của họ không đồng đều (hầu hết chỉ mang tên biệt động trên danh nghĩa thôi), và không có một học thuyết quân sự để sử dụng loại binh chủng này trên chiến trường Đông Dương.
1. 6 binh đội cơ động và 2 tiểu đoàn nhảy dù vẫn chưa thích ứng được với những cuộc hành quân khó khăn.
Đông Dương Hấp Hối Đông Dương Hấp Hối - Henri Navarre Đông Dương Hấp Hối