Số lần đọc/download: 428 / 4
Cập nhật: 0001-01-01 07:06:40 +0706
(Thuyền trưởng Xcốt, 90 độ vĩ Nam ngày 16 tháng giêng năm 1912)
Thế kỷ 20 hạ tầm mắt nhìn xuống một thế giới không có gì là bí ẩn. Mọi xứ sở đều đã được khảo sát, tàu bè đã đi lại dọc ngang khắp các vùng biển xa xôi nhất. Những miền cách đây tám chục năm còn chìm trong bóng tối cũng đã phải phục vụ cho nhu cầu của châu Âu. Những con tàu chạy bằng hơi nước ngược dòng lên tận ngọn nguồn bao lâu nay chưa ai tìm thấy của sông Nin. Những ngọn thác hồ Victoria mà người châu Âu mới khám phá nửa thế kỷ nay đã trở thành kho dự trữ than trắng. Những khu rừng bí hiểm vùng Amadôn đã trở nên quen thuộc. Tibê, vùng đất cuối cùng chưa có vết chân người, cũng đã bị xâm nhập. “ Terra incognita “ (1) trên những tấm bản đồ cũ, và các quả địa cầu đã bị xóa bỏ bởi bàn tay các nhà bác học. Con người của thế kỷ hai mươi biết rõ tình hình của mình. Lòng say mê khám phá đã tìm thấy những con đường mới thâm nhập vào giới động vật kỳ quái dưới lòng đại dương sâu thẳm hoặc trong không gian bao la của bầu trời.
o O o
o O o
Sự thực thì trái đất e thẹn vẫn còn giấu diếm một điều bí ẩn cuối cùng. Hai bộ phận nhỏ trên cái cơ thể trái đất đã bị mầy mò, làm tình làm tội, vẫn thoát được sự thảm sát của những đứa con của nó: Bắc cực và Nam cực, hai điểm quá nhỏ gần như đông cứng, hai đầu của cái trục mà hàng vạn năm nay trái đất vẫn quay quanh nó, hai điểm đó vẫn chưa hề bị xâm phạm. Một hàng rào băng không cho ai bén mảng tới, mùa đông vĩnh cửu đứng gác, nhất mực ngăn cản mọi kẻ hiếu kỳ.
Những cuộc thám hiểm nhằm tiến sâu vào những khu vực chết người này kế tiếp nhau trong nhiều năm. Ngày nay, sau ba mươi ba năm, ở một nơi nào đó người ta mới tìm thấy xác của hai người thám hiểm người Thụy-Điển Ăngđrê trong cỗ quan tài bằng băng của ông: con người dũng cảm nhất trong những người dũng cảm, con người đã thử bay trên bắc cực bằng khí cầu và không bao giờ trở về. Mọi mưu toan đều tan vỡ trước những bức thành trắng của băng giá mùa đông.
Tuy nhiên, thế kỷ 20 đầy sức trẻ lại hết sức nôn nóng. Nó đã rèn những vũ khí mới trong các phòng thí nghiệm, phát minh những áo giáp hộ thân chống nguy nóng. Nó đã rèn những vũ khí mới trong các phòng thí nghiệm, phát minh những áo giáp hộ thân chống nguy hiểm, và những trở lực gặp phải chỉ làm nó tăng thêm tính hiếu kỳ mà thôi. Nó muốn biết toàn bộ sự thật. Chỉ riêng thập kỷ đầu tiên nó đã quyết tâm thực hiện bằng công cuộc chinh phục ở những nơi mà người ta đã thất bại hàng ngàn năm về trước. Sự cạnh tranh giữa các quốc gia tiếp thêm lòng can đảm cho các cá nhân. Họ không chỉ đấu tranh chinh phục địa cực, mà còn đấu tranh cho lá cờ đất nước họ phất phới bay đầu tiên trên những miền chưa ai biết tới. Một cuộc thập tự chinh của các chủng tộc và các dân tộc bắt đầu, nhằm khám phá các miền đất đã trở nên thiêng liêng nhờ sự cuồng nhiệt đầy hứng khởi mà những miền đó đã gây nên cho họ. Những cuộc tiến công lại tái diễn từ khắp mọi nơi trên trái đất. Nhân loại lên cơn sốt; người ta hiểu rằng đây là vấn đề khám phá ra điều bí ẩn cuối cùng của địa cầu. Ở châu Mỹ, Piry và Cốc chuẩn bị lên Bắc cực, trong khi ở châu Âu, hai con tàu sửa soạn tiến về Nam cực: một do người Na-uy tên là Amunsen chỉ huy, một tàu nữa do thuyền trưởng Xcốt người Anh chỉ huy.
XCỐT
Xcốt: Một thuyền trưởng của hải quân Anh. Một người có mặt ngay từ buổi đầu. Tiểu sử của anh với biểu thăng trật là một. Anh làm việc được thượng cấp rất hài lòng. Sau đó anh đã tham gia cuộc viễn chinh Saclơtông. Không có một hành động hiển hách nào báo hiệu anh sẽ là một anh hùng trong tương lai. Bức hình chụp của anh cho thấy một khuôn mặt người Anh điển hình: lạnh lùng, cương nghị, thản nhiên, có thể nói là đanh lại bởi một nghị lực tập trung, đôi mắt màu xám thép, đôi môi mím lại, không có một nét lãng mạn, không một ánh tươi vui trên gương mặt, mà tất cả chỉ là ý chí và tinh thần thực dụng. Chữ viết của anh: kiểu chữ bất kỳ của người Anh nào, không bay bướm, viết nhanh và rắn rỏi. Văn phòng của anh: sáng sủa, hợp cách, có sức thuyết phục vì tinh thần thực tế của nó: nhưng khô khan như văn viết báo cáo. Xcốt viết tiếng Anh như Taxít viết tiếng Latin, tức là bằng chất liệu thô. Người ta cảm thấy đây là một con người hoàn toàn thiếu trí tưởng tượng, một kẻ cuồng tín của chủ nghĩa thực nghiệm. Tóm lại, đó là một con người dòng giống Anglô-Xacxôn, ở những người này thiên tài cũng phải phục tùng việc hoàn thành nghĩa vụ cao cả. Những mẫu người như vậy thường xuất hiện trong lịch sử nước Anh. Chính những con người đó đã chinh phục Ấn Độ và vô số dân trong quần đảo Acaipen, đã biến châu Phi thành thuộc địa và giao chiến với toàn thế giới, lúc nào cũng vẫn cái nghị lực sắt thép đó, cái ý thức tập thể đó, cái vẻ mặt lạnh lùng và kín đáo đó.
Xcốt có một ý chí sắt đá: người ta dự cảm thấy điều đó ngay từ trước khi hành động diễn ra. Anh ta muốn hoàn thành những điều mà Saclơtông đã khởi đầu. Anh chuẩn bị một cuộc thám hiểm, nhưng anh không có đủ phương tiện. Điều đó không làm anh chùn bước. Anh hy sinh gia tài của mình và đi vay nợ, niềm tin chắc là mình sẽ thành công ở anh thật là mạnh. Người vợ trẻ đã cho anh một đứa con trai: đó là bé Hécto của thời đại mới. Anh chẳng ngần ngại từ giã nàng Ăngđrômác của mình. Chẳng bao lâu anh đã tìm được những người bạn cùng đi. Trên đời này không có gì làm lung lay được ý chí của anh. Terra Nôva là tên gọi của con tàu phi thường sẽ đưa anh đến những miền tận cùng của Đại dương băng giá. Phi thường vì con tàu có hai loại trang bị, một phần giống con tàu Nôê chở đầy súc vật sống, phần kia là một phòng thí nghiệm hiện đại chứa đủ mọi dụng cụ khoa học và sách vở. Bởi vì cần phải mang theo mọi thứ cần thiết cho cơ thể và trí tuệ trong những vùng hoang vắng đó; những phương tiện tự vệ thô sơ của người nguyên thủy, những bộ da lông thú đi kèm với những trang bị hiện đại tinh vi nhất. Hơn nữa, chuyến đi mang hai tính cách cũng lạ kỳ như con tàu: đây là một cuộc mạo hiểm, nhưng lại được nghiên cứu như một chuyến đi buôn, một mưu toan táo bạo được chuẩn bị thận trọng hết mức - một chuỗi vô tận những tính toán chính xác từng cái một, chống lại chuỗi vô tận những rủi ro bất ngờ còn nhiều hơn nữa.
Ngày mồng một tháng 6 năm 1910, Xcốt cùng đồng đội rời nước Anh. Vào dịp này trong năm, miền thôn quê nước Anh đang ở thời kỳ đẹp nhất. Những cánh đồng cỏ xanh tươi mượt mà, những tia mặt trời nóng bỏng đã xóa tan mây mù. Những nhà thám hiểm xúc động nhìn bờ biển mờ dần: mọi người đều biết rõ họ chào tạm biệt hơi ấm và ánh sáng trong nhiều năm, đối với một số có thể là vĩnh viễn. Nhưng quốc kỳ nước Anh phấp phới đằng mũi tàu và họ tự an ủi rằng một biểu tượng của nền văn minh cùng đi với họ tới một miền duy nhất của trái đất cho đến nay còn chưa có người làm chủ.
“ UNIVERSITASANTARCTICA “ (2)
Sau một cuộc dừng chân ngắn ngủi ở mũi Êvan tại New Zealand, tháng giêng họ đi vào ngưỡng cửa của vùng băng giá vĩnh cửu và dựng một căn nhà để sống qua mùa hè, bởi vì đó là những tháng duy nhất mà mỗi ngày mặt trời chiếu sáng vài tiếng đồng hồ trên một bầu trời trắng đục màu kim loại. Những bức tường của cái lô cốt cũng bằng gỗ như trong những cuộc thám hiểm trước, nhưng bên trong thể hiện rõ hơn sự tiến bộ. Nếu trước đây những bậc tiền bối của họ phải dùng những ngọn đèn dầu khói um và hôi hám, ánh sáng tù mù, vì vậy các vị đành phải ngồi không, trong cảnh tranh tối tranh sáng, mệt mỏi vì sự tẻ nhạt của những ngày không có ánh sáng, thì con người của thế kỷ 20 có tất cả khoa học của thế giới thu nhỏ lại trong bốn bức tường ván. Một thiết bị thắp sáng bằng đất đèn tỏa ra ánh sáng trắng và ấm. Để giải trí họ, những máy chiếu bóng chiếu những cảnh tượng các xứ sở xa xôi, những cảnh nhiệt đới rất mực êm dịu. Một máy pianôla (3) chơi nhạc cho họ nghe; một chiếc máy hát giúp họ nghe thấy tiếng nói của con người; một tủ sách cung cấp cho họ những tri thức của thời đại. Chiếc máy chữ lách cách trong một gian phòng. Một gian khác dùng làm buồng tối để rửa phim và những bản âm kính màu. Nhà địa chất thí nghiệm tính phóng xạ của khoáng vật; nhà động vật khám phá những ký sinh trùng mới trên những con chim cánh cụt mà họ bắt được. Những quan sát khí tượng xen kẽ với những thí nghiệm vật lý. Người ta đã ấn định cho mỗi người một việc trong những tháng sống trong bóng tối và trong một hệ thống sắp đặt khéo léo làm cho những tìm tòi riêng lẻ biến thành công cuộc nghiên cứu tập thể. Bởi vì cả hai mươi nhà thám hiểm tối nào cũng họp mặt trao đổi, những lớp học đại học thực sự được tổ chức ở giữa vùng băng giá địa cực. Nhà chuyên môn từ bỏ thói kiêu ngạo, mỗi người đều cố gắng truyền bá khoa học của mình cho người khác và kiến thức chung của họ, không ngừng tăng lên trong các cuộc trao đổi hăng say. Biệt tịch trong hiu quạnh vô biên giữa một thiên nhiên nguyên thủy, họ trao đổi với nhau những kết quả mới nhất của thế kỷ 20. Trong căn nhà chẳng những người ta cảm thấy từng giờ trôi qua, mà còn cảm nhận được từng phút của chiếc đồng hồ vũ trụ. Thật là cảm động khi nhìn thấy vẻ hoan hỉ trên nét mặt của những con người nghiêm trang lúc họ vui với cây Nôen trong giờ nghỉ, lúc họ thích thú với những chuyện khôi hài nho nhỏ trong tờ “ Tin tức Nam cực “, tờ báo hài hước do họ “ xuất bản “. Họ biến một chuyện tình cờ nhỏ nhặt nhất thành một sự kiện - một con cá voi nổi lên, một con ngựa con quỵ ngã - Thế mà những hiện tượng lớn lao nhất - một địa cực quang chói lọi, một đợt lạnh rùng người – thì họ lại xem là những việc vô nghĩa và tầm thường.
Đôi khi họ cũng thử ra ngoài trời chốc lát. Họ thử những chiếc xe trượt tuyết gắn máy, họ tập đi ski trượt tuyết và luyện đàn chó. Họ lập một cái kho dự trữ chuẩn bị cho một cuộc hành trình lớn. Nhưng đối với họ, còn lâu lắm mới đến mùa hè (tức là đến tháng chạp). Lúc đó một con tàu sẽ vượt qua băng giá mang thư từ đến với họ. Để dày dạn với giá rét, ngay từ lúc này nhiều nhóm nhỏ đã làm lều ra ngoài trời nhiều ngày giữa lúc mùa rét dữ nhất. Mang lều trại của mình ra dùng thử, kinh nghiệm của họ càng thêm vững vàng. Không phải bao giờ cũng thành công, mà những khó khăn kích thích họ thêm can đảm. Sau mỗi cuộc viễn du thử sức trở về, mệt lả và tê cóng, họ được đón tiếp bằng ánh sáng ấm áp của lò sưởi và tiếng reo hoan hỉ của các bạn đồng hành. Sau những ngày thiếu thốn, nhà nhỏ đầy đủ tiện nghi ở vĩ độ 77 0 đối với họ chẳng khác nào như một thiên đường.
Nhưng một hôm, có đội thám hiểm từ phía Tây trở về mang đến một tin làm mọi người sửng sờ: Đoàn này đã gặp trên đường đi những căn nhà chống rét của Amunsen: Đột nhiên Xcốt hiểu rằng ngoài giá rét và nguy hiểm, anh còn một kẻ địch khác đang tranh giành với anh niềm vinh quang khám phá ra điều bí mật của mảnh đất tàn ác này: đó là nhà thám hiểm Na-uy. Anh ta xem bản đồ. Và người ta đoán được nỗi thất vọng của anh khi anh nhận thấy trại của đối phương đã ở gần cực trái đất hơn trại của anh một trăm mười kilômét. Anh choáng váng nhưng không hề bỏ cuộc. “ Hãy đứng thẳng lên vì danh dự tổ quốc “, anh tự hào viết điều đó trong cuốn nhật ký của mình.
Đó là lần duy nhất cái tên Amunsen xuất hiện trong sổ ghi chép của anh. Sau đó, không bao giờ người ta còn thấy nhắc đến nữa. Nhưng người ta cảm thấy từ ngày đó một bóng lo âu đè nặng trên căn nhà mất hút giữa các tảng băng, và không một giờ nào cái tên đó không ám ảnh anh ta, kể cả trong giấc ngủ.
TRÊN ĐƯỜNG TỚI ĐỊA CỰC
Cách căn lều một dặm, trên quả đồi quan sát, họ đặt một chòi quan sát không ngừng nghỉ. Một cỗ máy dựng trên gò đất cao thẳng dốc nom như một khẩu đại bác nhắm vào một kẻ thù vô hình: nó dùng để ghi lại các hiện tượng nhiệt xuất hiện trước lúc mặt trời mọc. Các nhà thám hiểm rình mò sự xuất hiện của mặt trời nhiều nguy hiểm. Ánh phản chiếu của mặt trời tạo nên một bình minh rực rỡ nhiều màu huyền ảo. Nhưng chiếc đĩa rực lửa vẫn chưa ló lên khỏi chân trời. Cái bầu trời tràn đầy một thứ ánh sáng kỳ diệu lúc mặt trời sắp nhô lên ấy, cái ảo ảnh ấy làm cháy bừng trái tim rạo rực của họ. Cuối cùng, họ vui mừng nghe tiếng điện thoại reo trên mái nhà lôcôt: Mặt trời vừa mới mọc, và đây là lần đầu tiên từ nhiều tháng nay, nó xua tan bóng tối của mùa đông trong một giờ. Ánh nắng yếu ớt và nhợt nhạt làm cho không khí đỡ giá buốt được tí chút và gây được một hiệu quả thấy được trên máy điện thoại. Nhưng chỉ riêng bóng dáng của nó cũng đã gây phấn khởi. Họ hối hả chuẩn bị chuyến đi để không bỏ phí một chút những thời khắc ngắn ngủi có ánh sáng bao gồm cả mùa xuân, mùa hạ và mùa thu. Nhưng đối với thân thể chịu rét kém của chúng ta, nó vẫn là một mùa đông khủng khiếp. Những cỗ xe trượt tuyết có gắn động cơ đi trước. Theo sau là những chiếc xe do những con ngựa nhỏ vùng Xibia và những con chó kéo. Họ đã thận trọng chia cuộc hành trình thành nhiều chặng, cứ hai ngày đường họ lại dựng một kho dự trữ, để khi trở về có quần áo thay, có lương thực và một thứ còn quý giá hơn nhiều là dầu hỏa, nhiệt lượng cô đọng ở giữa nơi băng giá. Đoàn người lên đường đầy đủ: họ sẽ trở về từng nhóm riêng biệt, để cho phân đội cuối cùng, những người trực tiếp chinh phục địa cực có được dự trữ lương thực tối đa, những con vật kéo xe sung sức nhất và những cỗ xe trượt tuyết tốt nhất.
Kế hoạch được chuẩn bị một cách quy mô, ngay cả những sự cố cũng được dự liệu trước hết sức tỉ mỉ. Và những sự cố thì chẳng phải chờ đợi lâu la gì. Sau hai ngày hành trình, những xe trượt tuyết gắn máy bị hỏng: họ bỏ lại như những vật cồng kềnh. Đàn ngựa không dai sức như họ tưởng. Tuy nhiên ở nơi này, loài vật so với máy móc lại hơn nhiều: những con vật mà họ bắt buộc phải hạ sát đã cung cấp cho lũ chó thức ăn tươi và bổ để tăng thêm sức lực.
Những cuộc khởi hành riêng biệt bắt đầu ngày mồng một tháng mười một năm 1911. Nhờ những bức ảnh, chúng ta thấy đoàn lữ hành kỳ lạ lúc đầu có ba chục người, rồi hai chục, một chục và cuối cùng là năm người mạo hiểm xuyên qua vùng sa mạc trắng xóa của cái thế giới không sinh khí này. Một người đi đầu toàn thân bọc kín trong bộ da lông thú và len, một thứ người mọi rợ mà chỉ chòm râu và đôi mắt là lộ ra khỏi khối da và len bọc ngoài. Bàn tay anh ta đi găng da lông, cầm cương một con ngựa kéo xe trượt tuyết chất nặng. Một nhân vật thứ hai cách ăn mặc và dáng dấp tương tự, đi theo sau. Rồi một người thứ ba: tất cả hai mươi cái chấm đen tạo thành một chuyển động trong màu trắng chói lòa của một không gian vô tận. Ban đêm họ chui trong lều vải, dựng lên những bức tường bằng tuyết để chắn gió cho ngựa, và sáng hôm sau, họ lại tiếp tục cuộc hành trình chán ngắt và đơn điệu xuyên qua bầu không khí giá buốt mà lần đầu tiên có con người hít thở kể từ ngày khai thiên lập địa.
Nhưng những nỗi lo âu cứ ngày càng chồng chất. Thời tiết xấu dai dẳng. Đôi khi mỗi ngày họ chỉ vượt qua được ba mươi kilômét, mà dự định là phải đi bốn mươi. Và đối với họ, một ngày là quý giá kể từ khi họ biết rằng một địch thủ vô hình đi từ phía khác cùng nhằm đến một đích với họ. Ở chốn này, một việc bất ngờ nhỏ nhặt nhất cũng biến thành điều nguy khốn: Một con chó sổng mất, một chú ngựa biến ăn, chừng ấy sự việc kinh khủng, bởi vì ở giữa vùng cô quạnh này, mọi vật đều trở nên quý giá khác thường. Những vật dụng thiết yếu cho sự sống thì vô giá: không có gì thay thế được. Sự bất tử có khi tùy thuộc vào bốn miếng sắt vó ngựa: bầu trời u ám báo trước cơn giông bão có thể chôn vùi sự nghiệp vinh quang. Đồng thời sức khỏe của các nhà thám hiểm bắt đầu sa sút, một số bị lóa mắt vì ánh phản xạ của tuyết, số khác bị tê cóng chân tay; ngựa phải ăn hạn chế theo khẩu phần dần dần kiệt sức và cuối cùng ngã quỵ ngay trước sông băng Biếcmo. Các nhà thám hiểm phải rầu lòng hạ sát những con vật dũng cảm mà giữa chốn cô quạnh này và sau hai năm chung sống, đã trở thành những người bạn được tất cả bọn họ vuốt ve trìu mến. Họ gọi chốn u buồn này là “ kho chứa thịt ướp lạnh “. Ở đấy, một bộ phận của đoàn thám hiểm tách ra và quay trở về, những người còn lại chuẩn bị dốc hết nỗ lực vượt qua cái thành lũy mà chỉ có ý chí nồng nhiệt và hăng say của con người mới có thể vượt qua nổi.
Họ tiến lên từng chặn ngắn dần, bởi vì ở chỗ này tuyết rắn đanh lại, lớp vỏ ngoài lổn nhổn. Xe trượt tuyết không lướt đi được nữa, người phải kéo nó đi. Tuyết rắn đến nỗi cứa đứt cả giày trượt băng, chân họ chảy máu khi đi trên những tinh thể di động đó. Nhưng không cái gì cản bước họ được. Ngày 30 tháng mười một, họ tới vĩ tuyến 870, điểm tột cùng của đoàn thám hiểm Saclơtông. Chính tại nơi đây họ lại phải tách nhóm lần cuối: chỉ có năm người đi tới cực. Xcốt chọn người. Những người khác không dám cưỡng lời anh, nhưng họ không khỏi đau lòng vì buộc phải trở về giữa lúc đã sát gần tới đích, nhường lại cho bạn đồng hành niềm vinh quang của công cuộc khám phá. Nhưng việc đã quyết định rồi. Họ siết chặt tay nhau lần cuối cùng và dằn lòng nén nỗi xúc động, rồi toán người tách nhau ra. Hai hàng người thưa thớt, nhỏ xíu lên đường, một nhắm hướng Nam, một hướng Bắc, trở về Tổ quốc. Chốc chốc từ hai phía, họ ngoảnh lại để một lần nữa thấy rõ ràng người bạn của mình vẫn còn kia, bằng xương bằng thịt. Chẳng bao lâu, bóng dáng cuối cùng của mỗi nhóm người đã biến hút. Và cả năm người được chọn: Xcốt, Baoơ, Oát, Uynxtơn, và Êvan tiếp tục con đường cô đơn và bí ẩn của họ.
NAM CỰC
Nỗi lo lắng ngày càng tăng bộc lộ rõ trong những ghi chép vào những ngày cuối cùng, khi chiếc kim la bàn màu xanh quay cuống cuồng theo đà tới địa cực. Ta đọc thấy: “ Biết bao nhiêu thời gian, những hình bóng bắt đầu quay xung quanh chúng tôi, nó lướt đi từ phải sang trái trước mặt chúng tôi với nhịp độ mới chậm làm sao “. Nhưng đôi khi ta cũng thấy ở đó lóe lên một tia hy vọng. Xcốt ghi lại những khoảng cách còn phải vượt qua với tâm trạng ngày càng nôn nóng. “ Còn một trăm năm mươi kilômét, chúng tôi sẽ không chịu nổi đến cùng nếu tình trạng này còn tiếp tục! “. Sự mệt nhọc làm anh thốt lên như vậy. Hai ngày sau: “ Chỉ còn một trăm ba mươi bảy kilômét, nhưng gian nan quá chừng! “. Rồi đột nhiên, bằng một giọng gần như đắc thắng: “ Còn chín mươi tư kilômét nữa là đến Nam cực, nếu chúng tôi không đến tận nơi được thì cũng là gần kề “. Ngày 14 tháng giêng hy vọng chuyển thành niềm tin chắc chắn: “ Chỉ còn bảy mươi kilômét, mấy bước nữa là chúng tôi đến đích “ và hôm sau, một tiếng reo vui chiến thắng: “ Chỉ còn có năm mươi kilômét khốn khổ! Phải đến nơi bằng bất cứ giá nào! “. Đọc những dòng chữ vội vàng này, ta có cảm giác sâu xa rằng lòng mong đợi làm căng thẳng thần kinh của các nhà thám hiểm, rằng tim họ rung lên vì sốt ruột. Thắng lợi đã gần kề, bí ẩn cuối cùng của trái đất đã nằm trong tay họ. Một cố gắng cuối nữa là tới đích.
16 THÁNG GIÊNG NĂM 1912
Nhật ký ghi: “ Giây phút long trọng “. Họ khởi hành từ sáng sớm. Lòng ham muốn biết được điều bí ẩn kỳ diệu đã lôi họ ra khỏi túi ngủ sớm hơn thường lệ. Cả năm con người gan dạ bước nhanh xuyên qua sa mạc trắng và đi được bốn kilômét trong buổi sáng. Lúc này thành công đã chắc chắn, cái kỳ tích mà nhân loại phải khâm phục có thể nói là đã hoàn thành. Bỗng Baoơ, một trong những bạn đồng hành của Xcốt cảm thấy lo lắng. Mắt anh nhìn sững vào một chấm đen nhỏ giữa bãi tuyết mênh mông. Anh không dám trao đổi mối ngờ vực của anh với người khác, nhưng cũng ý nghĩ khủng khiếp đó dằn vặt mọi người: liệu đó có phải là cọc mốc do bàn tay con người trồng. Họ cố gắng tự dối mình để được vững lòng. Cũng như Rôbinxơn đã hoài công tự thuyết phục mình. Họ tự an ủi rằng đó là vết băng nứt hoặc chỉ là một ảo ảnh. Họ run rẩy tiến lại gần, vẫn còn cố gắng gây ảo tưởng lẫn cho nhau, mặc dầu mọi người đều đã đoán ra sự thực, đều biết rằng nhà thám hiểm Na-uy đã đến trước họ! Hy vọng cuối cùng của họ đã tiêu tan trước sự thật không sao chối cãi được: Một lá cờ treo ở cột trụ xe trượt tuyết đứng đúng bên trên những vết tích còn lại của một láng trại bỏ hoang, đồng thời người ta nhận thấy nhiều vết chân chó: Địa cực đã hàng bao nghìn năm không có vết chân người và tự thuở khai thiên lập địa có lẽ chưa từng có con mắt người trần nào được ngắm nhìn nay đã bị khám phá hai lần trong một thời gian quá ngắn ngủi, có hai tuần lễ. Họ chậm mất một tháng mặc dù ba mươi ngày có nghĩa lý gì so với hàng ngàn năm về trước – nhưng họ chỉ là kẻ thứ nhì trong một thế giới mà kẻ đi đầu là tất cả, còn kẻ thứ nhì cũng bằng không!
Thế là, suốt bao nhiêu tuần lễ, ròng rã bao nhiêu tháng trời, những cố gắng của họ thật công toi, những thiếu thốn của họ thật lố bịch, những hy vọng của họ thật hão huyền! “ Vì sao chúng tôi đã chịu đựng những cực hình đó? - Xcốt viết trong nhật ký của anh - Chỉ vì những ước mơ bây giờ đã tiêu tan “. Mắt họ ứa lệ, đêm tiếp theo họ không ngủ được mặc dầu ai nấy đều mệt mỏi hết sức. Hoang mang, tuyệt vọng như những kẻ bị kết án tử hình, họ vượt nốt chặng đường cuối cùng mà trước đây họ đã tưởng là sẽ đưa họ đến quang vinh. Không ai còn tìm cách an ủi người khác, họ lê bước nhọc nhằn, chẳng nói chẳng rằng. Ngày 18 tháng giêng, Xcốt và các bạn đồng hành tới cực. Bởi vì cái vinh quang được là người đầu tiên (điều mà trước đây anh xiết bao hy vọng) không còn quyến rũ anh nữa, anh dửng dưng nhìn cảnh tượng hoang vu này: “ Chốn này chẳng có gì là thú vị, chẳng có gì xua tan được sự đơn điệu của những ngày cuối cùng “ – anh ghi như vậy. Đó là tất cả những gì anh đã tả về Nam cực. Điều lạ lùng duy nhất mà họ nhận thấy không phải là công trình của tạo hóa, mà lại là bàn tay của địch thủ. Đó là cái lều vải của Amunsen và lá cờ Na-uy phấp phới bay ngông nghênh đắc thắng trên pháo đài mà ông ta đã chinh phục được. Một lá thư của người đi chinh phục chờ đợi một người không quen biết đó chuyển bức thư đến tay nhà vua Hắc-kông nước Na-uy. Xcốt thầm hứa sẽ làm tròn sứ mệnh nặng nề là xác nhận với thế giới rằng một người khác đã làm nên cái chiến công mà chính bản thân anh tha thiết muốn thực hiện.
Họ buồn bã cắm lá cờ “ Liên bang Giắc “ đến muộn bên cạnh biểu tượng chiến thắng của Amunsen. Rồi họ rời bỏ “ chốn đã phản bội tham vọng của họ “. Một cơn gió lạnh thổi sau lưng. Khắc khoải về một tình cảm chẳng lành, Xcốt viết trong nhật ký của mình: “ Lượt trở về làm tôi hoảng sợ “.
TIÊU TAN
Cuộc trở về nguy hiểm bội phần. Lúc ra đi, la bàn chỉ đường cho họ. Lần này, trong nhiều tuần lễ, họ phải hết sức chú ý để khỏi mất dấu vết, để đừng đi chệch hướng – dù chỉ một lần thôi - rời khỏi con đường có những kho dự trữ. Ở đó họ có thức ăn, quần áo và nhiệt lượng cô đọng trong các thùng dầu hỏa. Bởi vậy họ lo lắng mỗi khi cơn gió tuyết làm họ lóa mắt, vì chỉ cần nhắm hướng là họ đi thẳng đến chỗ chết. Ngoài ra cơ thể họ cũng không được khoan khoái như trước, nó mất hẳn sự linh hoạt lúc khởi đầu cuộc hành trình, lúc ấy họ còn được nuôi dưỡng bằng thực phẩm dồi dào, giàu nhiệt lượng.
Thế rồi cái lò-xo ý chí của họ gãy hẳn. Lúc ra đi, niềm hy vọng của cả một thế hệ khiến cho họ tràn trề nghị lực. Ý thức hoàn thành một kỳ công bất tử đã tiếp cho họ sức mạnh siêu phàm. Lúc này, họ chỉ còn vật lộn để cứu lấy mạng mình, cứu lấy sự sống còn thể chất để trở về. Cuộc trở về không chút vinh quang mà trong thâm tâm có lẽ họ sợ nó hơn là mong muốn.
Phần tường thuật về những ngày này là những trang bi thảm. Thời tiết ngày càng xấu, mùa đông bắt đầu sớm hơn thường lệ, tuyết dính bết vào đế giày cản bước chân đi của họ. Giá rét làm hao mòn những tấm thân tiều tụy vì mệt mỏi. Bởi vậy mỗi lần tới được một kho dự trữ sau những ngày chán nản và thất vọng, họ cũng có chút niềm vui; và một tia mỏng manh của lòng tin vẫn thoáng hiện trong nhật ký của họ. Không có bằng chứng nào vĩ đại hơn về tinh thần anh hùng của nhóm người mất hút giữa nơi hoang vu mênh mông trắng toát này bằng hình ảnh nhà bác học Uynxơn đã gần kề cái chết mà vẫn theo đuổi những quan sát khoa học và mang theo về trên xe trượt tuyết của mình ngoài trọng tải cần thiết, mười tám kilôgam khoáng vật hiếm.
Nhưng lòng can đảm của con người nhụt dần trước sự toàn năng của thiên nhiên hình như đã tung ra hết mọi sức mạnh tàn phá tích tụ từ bao nhiêu ngàn năm nay để chống lại năm con người táo bạo này: gió, rét và tuyết. Chân họ đã loãng máu từ lâu và thân thể họ không được hồi sức đầy đủ vì chỉ được ăn một bữa nóng duy nhất, lại còn phải hạn chế khẩu phần nên càng suy yếu và bắt đầu kiệt sức. Một hôm, họ kinh hoàng nhận thấy Êvan, người lực lưỡng nhất trong bọn có những hành động thác loạn. Anh dừng lại phía sau, luôn miệng lảm nhảm về những nỗi đau có thực và tưởng tượng. Anh nói năng kỳ quặc đến nỗi họ hiểu ngay rằng con người bất hạnh này đã phát điên sau một lần ngã hoặc do quá đau khổ. Giải quyết với anh như thế nào đây? Bỏ rơi anh giữa sa mạc băng giá này ư? Mặc khác phải đến được ngay kho dự trữ không chậm trễ, nếu không thì... bàn thân Xcốt cũng không dám viết điều gì sẽ xảy tới. Ngày 17 tháng hai khoảng một giờ sáng, Êvan con người khốn khổ thở hơi cuối cùng ở một nơi chỉ cách “ kho thịt ướp lạnh “ chưa đến một ngày đường, ở đấy họ tìm thấy nguồn thực phẩm dồi dào hơn nhờ những con ngựa mà họ giết chết tháng trước.
Bốn người lại lên đường. Nhưng, than ôi! Họ thất vọng cay đắng khi đến kho dự trữ tiếp theo, chẳng còn bao nhiêu dầu hỏa: vậy là phải dè sẻn chất đốt, nó là thứ cần thiết nhất. Phải tiết kiệm nhiệt, mặc dầu đó là vũ khí độc nhất chống rét có hiệu quả. Đêm giá buốt, khắc khoải vì lo âu dằn vặt. Buổi sáng thức dậy, lòng đầy chán nản: phải gắng gượng lắm họ mới đủ sức xỏ được đôi giày nỉ. Tuy vậy, họ vẫn lê bước tiến lên, ngay cả Oat mà hai chân đã tê cóng. Gió dữ dội hơn bao giờ hết. Ngày 2 tháng ba, khi đến một kho dự trữ khác, lại vẫn nỗi thất vọng ghê gớm chờ đợi họ: thiếu chất đốt.
Nỗi sợ hãi bắt đầu len vào nhật ký. Có thể đoán rằng Xcốt đã cố nén lo âu, nhưng một chuỗi những tiếng kêu thất vọng vẫn lộ ra qua sự bình tĩnh giả tạo của anh: “ Không thể cứ như thế này mãi “, hay là: “ Xin thượng đế cứu giúp chúng tôi! Những cố gắng đó vượt quá sức chúng tôi “. Hoặc nữa: “ Sự nghiệp kết thúc một cách bi thảm “. Và, cuối cùng, lời thú nhận kinh khủng: “ Xin thượng đế cứu giúp chúng tôi, lúc này chúng tôi không còn trông đợi gì ở con người nữa! “. Nhưng họ vẫn tiếp tục tiến lên, không hy vọng, răng cắn chặt. Oat bám theo mỗi ngày một khó khăn, anh là gánh nặng hơn là chỗ dựa cho bạn đồng hành. Họ đành phải dừng lại vì thời tiết – 420 và con người bất hạnh đó cảm thấy mình là mối nguy cho các bạn. Họ sắp chết. Họ yêu cầu Uynxơn trao cho mỗi người mười viên Moóphin để chết cho nhanh khi cần thiết. Họ còn cố gắng đi một ngày nữa với người ốm. Rồi con người khốn khổ đó van vỉ mọi người bỏ anh ta nằm lại trong cái chăn túi của mình và đừng ràng buộc số phận của họ với số phận của anh. Mọi người kiên quyết từ chối đề nghị đó, mặc dầu họ hoàn toàn hiểu rằng như thế có lợi cho họ hơn. Lảo đảo với đôi chân tê cóng, người ốm còn đi theo họ mấy cây số nữa đến lúc dừng chân ban đêm. Anh ngủ với mọi người đến sáng: Một cơn gió bão điên cuồng.
Bỗng nhiên Oát đứng dậy: “ Tôi ra ngoài, - anh nói với các bạn – có thể tôi sẽ vắng mặt một lát “. Mọi người rùng mình. Ai nấy đều đoán được hành động đó có ý nghĩa gì. Nhưng không ai dám giữ anh lại. Không ai có đủ can đảm đưa tay ra vĩnh biệt anh. Lòng tôn kính khiến họ ngây ra, tất cả đều cảm thấy La-vrăng-xơ Z.E.Oat, đại úy trong kỵ binh Innixkilinh đón gặp cái chết như một người anh hùng.
Ba sinh vật yếu ớt, kiệt sức, thất vọng lê bước qua sa mạc băng giá khắc nghiệt. Chỉ còn bản năng sinh tồn nâng đỡ bước đi lảo đảo của họ. Thời gian thật đáng sợ, mỗi kho dự trữ lại dành cho sự thất vọng mới: quá ít dầu lửa, quá ít nhiệt lượng. Ngày 21 tháng ba họ chỉ còn cách kho dự trữ hai mươi kilômét, nhưng gió táp dữ dội đến nỗi họ không thể rời khỏi lều. Mỗi buổi chiều họ hy vọng ngày mai là đến đích. Trong thời gian ấy thực phẩm mỗi ngày một khan dần và hy vọng cuối cùng của họ cũng tiêu tan theo. Chất đốt đã hết và nhiệt kế đã chỉ âm 400. Không còn trông mong vào đâu được nữa, họ chỉ còn cách lựa chọn: hoặc chết đói, hoặc chết rét. Dưới mí lều vải nhỏ bé dựng giữa chốn giá rét trắng xóa của thế giới nguyên thủy này, ba người đàn ông vật lộn tám ngày với số mệnh tàn khốc. Ngày 28 tháng ba họ tin chắc rằng không còn phép lạ nào cứu họ được nữa. Bởi vậy họ quyết không dấn thêm bước nào nữa đến đón gặp định mệnh và chịu đựng cái chết cũng dũng cảm như chịu đựng bất cứ tai họa nào. Họ chui vào chăn túi và không một tiếng kêu hấp hối nào của họ vọng đến tai vũ trụ.
NHỮNG BỨC THƯ CỦA NGƯỜI HẤP HỐI
Trong khi bão tố lay chuyển dữ dội lớp vải mỏng của gian lều, trước cái chết vô hình như lại rất gần, thuyền trưởng Xcốt nhớ đến tập thể của mình. Ở giữa chốn yên lặng này, nơi mà tiếng nói của con người chưa bao giờ xuyên qua được, anh dũng cảm nghĩ đến những mối dây ràng buộc anh với đất nước anh và với cả nhân loại. Một ảo ảnh của trí tuệ làm hiện lên trong bãi sa mạc trắng này hình ảnh tất cả những người anh yêu mến và anh nói với họ. Đến lúc chết, thuyền trưởng Xcốt, bằng bàn tay tê cóng, đã viết cho tất cả, những người thân yêu đang còn sống.
Những bức thư đó thật đáng khâm phục. Cái chết khủng khiếp gần kề đã loại trừ ra khỏi chúng mọi điều tẹp nhẹp. Ánh trong suốt như pha lê của bầu trời hoang vu như đã thấm vào các bức thư. Thư viết cho vài người, nhưng lại nói với cả nhân loại. Thư liên quan đến một thời kỳ, mà lại nói với vĩnh cữu.
Anh viết cho vợ. Anh xin chị hãy chăm sóc đến di sản quý báu nhất của anh - đứa con trai, anh dặn dò chị làm thế nào đừng để cho con nhiễm thói hèn yếu và khi nói về một trong những chiến công cao cả nhất của lịch sử, anh thú nhận: “ Em biết đấy, anh đã phải cố gắng để trở nên can đảm. Trước kia anh vẫn hay lười biếng “. Trên ngưỡng cửa vào cõi chết, Xcốt vẫn hài lòng về quyết định của mình mà không hề hối tiếc: “ Anh có thể kể gì với em về cuộc hành trình của anh? Tuy nhiên, anh cho rằng như thế còn hơn là ngồi ru rú trong xó nhà “ êm ấm “.
Rồi bằng một giọng thảm thiết anh viết cho vợ và mẹ của những người đã chết bên cạnh anh, nói lên hành vi anh hùng của họ. Con người sắp giã từ cuộc đời này an ủi bà con của các bạn đồng hành, truyền cho họ ý thức sâu sắc và gần như siêu phàm về sự cao cả của giây phút này, về quang vinh của cái chết mà những người thân của họ đã phải gánh chịu.
Tiếp theo, anh viết cho các bạn thân. Với thái độ khiêm tốn khi nhắc đến bản thân mình, nhưng anh nói về đất nước Anh với lòng kiêu hãnh thanh cao, đất nước mà giờ phút này anh cảm thấy mình là người con xứng đáng: “ Tôi không biết tôi có phải là nhà thám hiểm lớn hay không, - anh thú nhận – nhưng cái chết của chúng tôi chứng tỏ rằng lòng can đảm và chí kiên cường vẫn chưa mất hẳn trong nòi giống chúng ta “. Và chỉ cái chết mới moi được ở anh lời thú nhận tha thiết sau đây mà tính cương nghị của nam nhi và sự trinh tuyên về đạo đức không cho phép anh nói ra lúc sinh thời: “ Trong đời tôi, tôi chưa hề gặp một người nào mà tôi thán phục và yêu quý như anh - Xcốt nói với người bạn tốt nhất của mình như vậy – Nhưng tôi chưa bao giờ bộc lộ cho anh biết tình bạn của anh đối với tôi có ý nghĩa như thế nào, bởi vì anh đã cho tôi rất nhiều, mà tôi thì không có gì tặng lại cho anh cả “.
Bây giờ anh viết lá thư cuối cùng, lá thư hay nhất viết cho nước Anh, tổ quốc của mình. Anh tự cho là có bổn phận biện bạch cho các bạn của mình trong cuộc đấu tranh liên quan đến danh dự của đất nước.
Anh lần lượt kể lại những cảnh ngộ đã cố tình chống lại anh và với giọng mang âm vang dội lên từ dưới mồ khiến nó trở nên bi tráng lạ thường, anh cầu xin tất cả mọi người Anh đừng bỏ rơi những người thân yêu của anh. Ý nghĩ cuối cùng của anh tự nó đã phó mặc số phận của bản thân mình. Những lời cuối cùng của anh không đả động đến cái chết của anh mà đến cuộc sống của những người khác. “ Vì lòng yêu Thượng đế, xin hãy chăm sóc tất cả những người mà chúng tôi để lại “.
Thuyền trưởng Xcốt đã ghi nhật ký đến giây phút cuối cùng, đến tận lúc các ngón tay anh tê cứng lại, và cây bút chì tuột khỏi tay anh. Niềm hy vọng rằng người ta sẽ tìm thấy trên xác anh những trang giấy đó chứng tỏ tất cả những gì anh đã làm, chứng tỏ lòng can đảm của dân tộc anh đã cho anh sức mạnh phi thường ấy. Bàn tay đã lạnh cứng của anh còn kịp vạch những chữ nguệch ngoạc nói lên lòng ham muốn tột bậc này: “ Hãy giữ cuốn nhật ký này cho vợ tôi! “. Nhưng lúc ấy, tin chắc rằng cái kết thúc ác nghiệt sẽ đến với mình, anh xóa “ vợ tôi “ và viết lên trên mấy chữ khủng khiếp này: “ Người vợ góa của tôi “.
HỒI ÂM
Những người đồng hành của Xcốt không được vinh dự theo anh đến tận cùng đã chờ nhà thám hiểm nhiều tuần lễ trong căn lều của họ. Lúc đầu tin tưởng, sau hơi lo lắng, tiếp đó nỗi lo lắng ngày càng lớn dần. Hai lần liên tiếp, họ cho những đoàn đi cứu, nhưng bão táp buộc họ phải quay trở lại. Đoàn quân không người cầm đầu đã ru rú trong lều suốt cả mùa đông không làm nên công chuyện gì. Một thứ linh cảm đau buồn tràn ngập trái tim mọi người. Trong thời gian đó, tuyết và sự im lặng chôn vùi chiến công và tính mạng của thuyền trưởng Xcốt.
Đến tận ngày 29 tháng mười, mùa xuân Nam cực, nhiều người trong bọn họ mới đi tìm kiếm Xcốt và các bạn. Ngày 12 tháng mười một, họ tới căn lều và tìm thấy xác của những con người gan góc chết cóng trong những chăn túi. Xcốt ôm lấy Uynxơn một cách thân thiết trong lúc chết. Họ tìm thấy những bức thư và tài liệu để lại. Họ đào một ngôi mộ để chôn cất những người anh hùng chết bi thảm đó. Một cây thập tự đen giản dị ở giữa sa mạc trắng, cho đến ngày nay vẫn còn vươn cao trên đỉnh gò tuyết, lưu giữ mãi bí mật việc làm oanh liệt đó của con người.
Ồ không! Kỳ công của họ lại được tái sinh một cách bất ngờ, kỳ lạ. Phép lạ của kỹ thuật hiện đại. Các bạn của Xcốt mang theo về những tấm kính âm bản và những cuộn phim. Rửa ảnh, người ta lại nhìn thấy nhà thám hiểm đi giữa các bạn đồng hành và quan cảnh địa cực mà Amunsen chỉ ngắm riêng được có một mình. Điện tín truyền đi tập nhật ký và các bức thư của Xcốt làm thế giới thán phục. Trong nhà thờ của vương quốc Anh, nhà vua quỳ gối tưởng nhớ người anh hùng. Thế là cái kỳ tích tưởng như vô dụng đã trở thành sức mạnh động viên, sứ mệnh không hoàn thành biến thành một lời kêu gọi tha thiết, thúc giục nhân loại tập hợp lực lượng đến nơi chưa ai từng tới được. Do một điều trái ngược thần kỳ, cái chết sản sinh ra sự sinh tồn siêu việt, một thất bại làm nảy sinh ra khát vọng đạt tới cái vô cùng. Bởi vì một thắng lợi tình cờ, một thành công dễ dãi chỉ nhen lên lòng tham vọng, trong khi đó, không làm gì cho trái tim trở nên cao cả bằng sự thất bại trước uy quyền toàn năng của định mệnh. Đó là cái lớn lao nhất trong tất cả các bi kịch, đôi khi do thi ca sáng tạo ra, nhưng cuộc sống còn sáng tạo ra những bi kịch loại đó nhiều hơn gấp bội.