Love is the only way to grasp another human being in the innermost core of his personality.

Viktor E. Frankl

 
 
 
 
 
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: NGUY MIN GIA
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 7
Cập nhật: 2022-10-11 23:38:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
gô Minh
Ngẫm chuyện Bút Tre
(Tham luận tại Festival Thơ Huế do Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và tạp chí Sông Hương tổ chức ngày 02.6-06.6.2006)
Tôi đến Phú Thọ hai lần, lần nào cũng nghe kể chuyện Bút Tre, nghe đọc thơ Bút Tre. Chuyến đi Đền Hùng tháng Tư năm 2006 vừa rồi, tôi mua được cuốn Bút Tre - Thơ và giai thoại [1] do họa sĩ - nhà văn Ngô Quang Nam sưu tầm và giới thiệu. Tôi đọc và thấy có nhiều điều tâm huyết cần suy nghĩ về thơ cũng như văn chương nghệ thuật trong thời đổi mới. Thơ Việt từ khi có chữ viết đến nay đều bắt nguồn từ ca dao dân ca chốn làng quê mà thành, nên chúng ta hay gọi là Thơ Ca. Ca rồi mới đến Thơ (tức là từ dân gian đến bác học). Cũng có lối đi “từ bác học” đến dân gian. Ví dụ ca dao hò vè, các lối hát quan họ, ca trù, xẩm, v.v… đa phần là sáng tác của các nhà thơ, các thầy đồ hay chữ, được dân gian hóa mà truyền đời này qua đời khác. Có một lối đi từ văn chương bác học đến thơ ca dân gian nhưng vô cùng khác lạ mà lý thú, không giống ai: Đó là lối thơ Bút Tre! Từ nhiều năm nay, nghĩ đến thơ Bút Tre là tôi nghĩ ngay đến một cách chơi thơ tài tử, tài tình, nó là sự cách tân, làm giàu câu thơ Việt.
Trong lịch sử thơ ca nước ta có lẽ tôi chưa biết có một nhà thơ nào sáng tạo ra một cấu trúc thơ riêng của mình có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống sinh hoạt xã hội của người Việt như Bút Tre. Thơ Bút Tre sinh ra từ những năm 60 của thế kỷ trước. Chỉ sau đó 5 năm thôi, thơ Bút Tre đã được “nhân bản” thành các dòng thơ hậu Bút Tre ngay khi ông còn sống, như Bút Tre trẻ, Bút Tre non, Bút Tre xanh, Bút Tre Tây... Bây giờ thì dân ta ai cũng thuộc những câu thơ hậu Bút Tre: “Anh đi công tác Pley / Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra” hay “Núi Voi trông thật giống con voi / Có cả đầu đuôi, có cả vòi / Núi cũng như người hăng sản xuất / Đầu thì trồng sắn, đít trồng khoai...” Chắc chắn cuộc sống càng phát triển, thì dòng thơ Bút Tre ngày càng sinh sôi.
Vậy thơ Bút Tre có phải là thơ không? Dòng thơ đó sinh ra trong hoàn cảnh nào? Và tại sao nó lại được công chúng khắp cả nước truyền tụng, “nối mạng” liên tục như vậy? Nhà “Bút Tre học” Ngô Quang Nam qua cuốn sách đã cho chúng ta hiểu về thơ và giai thoại Bút Tre. Nhưng có thể do bối cảnh, ông chưa muốn lý giải kỹ nguyên nhân tại sao lại sinh ra dòng thơ Bút Tre. Đây là một vấn đề xã hội học và lịch sử văn học nghiêm túc cần phải được nghiên cứu thấu đáo. Bài viết này cố gắng lý giải đôi phần câu hỏi tại sao có thơ Bút Tre và thơ Bút Tre đã làm giàu câu thơ Việt như thế nào?
*
Bút Tre không phải như nhiều anh nông dân thông minh biết đặt vè, nói lối mua vui cho bà con khi ruộng đồng cuốc cày vất vả, thường xuất hiện ở nông thôn nước ta bao đời nay. Ngay ở làng Thượng Luật của tôi hiện nay cũng có tới vài ba người như thế. Bút Tre là bút hiệu của ông Đặng Văn Đăng, nguyên Trưởng Ty Văn hóa tỉnh Phú Thọ, rồi Vĩnh Phú. Ông sinh năm 1911, tốt nghiệp tú tài Tây toàn phần về triết học; là người sử dụng thành thạo hai ngoại ngữ tiếng Pháp và tiếng Anh (đọc tiểu thuyết nguyên bản bằng hai thứ tiếng này). Ông từng viết báo, viết truyện in trên báo Đông Pháp thời Pháp thuộc, ký tên là Lục Y Lang (Chàng trai áo xanh). Sau năm 1945 ông hoạt động ngoại giao, từng làm Bí thư thứ hai Đại sứ quán Việt Nam ở Rumani. Năm 1956 ông là bí thư của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm. Ông từng có tập thơ Nhật ký thơ gồm 398 bài thơ Đường luật niêm luật rất chỉnh chu, v.v… Nghĩa là ông là một người được học hành đến nơi đến chốn, một trí thức “toàn tòng”. Khi làm Trưởng Ty Văn hóa tỉnh, ông là người đề xưởng khai mở nhiều vấn đề lớn về văn hóa của đất nước như nghiên cứu “Văn hóa Hùng Vương”, phát động phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” sau chuyến đi thăm tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng Bình. Ông chính là người đã có công ghi lại (theo kiểu thơ) để lưu truyền câu nói nổi tiếng của Bác Hồ tại Đền Giếng, khi Bác về thăm Đền Hùng: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Một trí thức như thế không thể làm thứ thơ “ngớ ngẩn”, “ngô nghê, vô bổ” như một số người thời đó đánh giá được!
Bút Tre sinh ở xã Đồng Lương, huyện Sông Thao, Phú Thọ. Đây là vùng đất có truyền thống văn hóa dân gian rất phong phú. Làng Đồng Lương xưa kia sinh ra nhiều cây sáng tác vè xuất chúng. Có lẽ ông Đặng Văn Đăng cũng là “hậu sinh khả úy” của làng. Sinh thời ông Đặng Văn Đăng luôn luôn ứng tác thơ ca, vè để phục vụ cuộc sống. Thơ “xuất bản miệng” của Bút Tre nhiều vô kể. Kể cả khi là Trưởng ty Văn hóa, ký quyết định phân công công tác cho một cán bộ về ngành bảo tàng, ông cũng chua thêm thơ: “Chú về công tác bảo tàng / Cũng là công cuộc cách màng giao cho”. Ông để lại rất nhiều bản thảo các tập thơ viết về Nguyễn Trãi, Nguyễn Quang Bích... Còn thơ xuất bản, ông có các tập: Quê hương Phú Thọ, Phú Thọ lớn lên, Rừng cọ đồi chè, Sông Lô sông Chảy, Đồng tâm thắm thịt thắm da... do Sở Văn hóa Vĩnh Phú xuất bản. Ông viết trường ca tặng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trường ca tặng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, trường ca về Điện Biên tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp dài hàng trăm câu thơ song thất lục bát. Thơ Bút Tre giản dị, hồn nhiên, ông tự gọi thơ ông là ca vè: “Tre bút ca vè, tre triệu búp / Tiên phong dẫn xướng gợi đổi mở”. Nhưng có lẽ thơ Bút Tre nằm giữa thơ và ca, vè, khi thì thơ, khi thì vè, nên nhân dân rất dễ thuộc, dễ nhớ, dễ tiếp nhận và truyền tụng. Viết về Bác Hồ, ông có câu thơ có hình tượng đẹp: “Bác là dòng suối mát tươi / Tưới đồng khô cạn, tắm đồi nẻ da”. Tôi đọc, thấy thơ Bút Tre chưa phải là thơ hay, thậm chí nhiều dưới mức trung bình, chủ yếu là để cổ động tinh thần sản xuất chiến đấu như thơ nhiều tác giả cùng thời. Ví dụ bài thơ “Cô lái máy cày” có đoạn: “Nhịp máy rập rờn, tay em đẩy / Con kìm cặp mạ nhả từng phen / Cô đi mạ nở theo chân bước / Đồng lúa xanh rờn dưới gót sen...”
Nhưng điều đặc biệt là trong thơ Bút Tre xuất hiện những câu thơ với hình ảnh, cách ngắt câu mạnh bạo, bắt vần rất lạ, rất đắc địa. Chính những câu thơ này làm nên sức sống và sức lan tỏa của thơ Bút Tre. Viết về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có câu: “Anh đi đồng ruộng lắng nghe / Lúa mừng phân bắc khoai che mảnh vườn” (“Bút Tre dân gian” mới sửa lại: “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh / Anh về phân bắc phân xanh đầy đồng”). Thơ tặng cô bán quả vải, ông viết: “Yêu nhau bóc vỏ áo ra / Trong như ngọc, trắng như ngà em ơi...”. Đặc biệt trong trường ca tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bút Tre có hai câu thơ xuất thần, đột khởi làm nên thương hiệu Bút Tre lưu truyền hậu thế và tạo nên nhiều thế hệ Bút Tre mới sau này. Đó là câu lục bát:
Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về
Trong lịch sử thơ lục bát Việt Nam chưa có ai ngắt nhịp 6/8 chia đôi họ tên một người nổi tiếng như thế cả. Cách bắc cầu trong thơ lục bát như thế gây nên tiếng cười sảng khoái và ám ảnh. Vì chưa hiểu “phong cách thơ Bút Tre”, nên nhiều nhà thơ chuyên nghiêp, nhiều nhà quản lý văn hóa đã cho rằng thơ như thế là thô thiển, văng mạng, là vô lễ với Đại tướng, có người còn cho là phản động, v.v… Nhưng càng đọc, càng ngẫm, mới thấy với cách ngắt nhịp câu lục bát rất ga-lăng và bạo dạn ấy, Bút Tre đã bắt được cái hồn dân gian Việt với cái chữ “ta” tài tình, làm giàu có thêm cho thơ Việt: “Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về”. “Giáp ta” cũng như "Đảng ta", "dân ta", "nước ta", "làng ta" v.v…, là tự hào vỗ ngực, là thương yêu, chứ không hề hạ thấp hay vô lễ gì cả. Đó chính là chất dân gian hiện đại mà Bút Tre đã phát hiện ra. Hai câu thơ đó đã tạo nên loại thơ “Hoan hô” rất phong phú của hậu Bút Tre: “Hoan hô trung tá Phạm Tuân / Bay lên vũ trụ một tuần về ngay”; “Hoan hô đồng chí Hà Đăng / Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa” (Hà Đăng là Tổng cục trưởng Tổng cục Đường sắt lúc ấy); “Hoan hô đồng chí Trần Hoàn / Lên làm bộ trưởng chiếu toàn phim Tây”... Có người cho rằng “Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên...” là bắt chước “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu. Đúng là Bút Tre có “bắt chước” Tố Hữu ở câu lục, nhưng lại tạo ra sự đột biến ở câu bát bằng cách ngắt nhịp “Võ Nguyên / Giáp ta” làm cho câu lục bát bị gãy, tạo nên tiếng cười khoái cảm, có sức lưu truyền, làm cho dân nhớ về chiến thắng Điện Biên không thua kém thơ của các nhà thơ nổi tiếng khác!
Ngoài lối ngắt nhịp đột ngột nói trên, trong thơ Bút Tre còn có rất nhiều cách như chặt từ, để lửng từ, lối ép vần, ép thanh, biến thể lục bát v.v… Đây là những sáng tạo quan trọng trong tu từ và cấu trúc thơ Việt, làm cho câu thơ mang chất uy-mua, chất ngây thơ, rất dân dã mà rất hiện đại. Xin nêu vài ví dụ:
Lối nói tắt:
Bây giờ đang đứng Trưởng ty
Bút Tre thơ phú tôi thì có sau (“đứng”, tức giữ chức vụ)
Lối ép vận:
Chú về công tác bảo tàng
Cũng là công việc cách màng giao cho
Biến thể lục bát:
Đường đời mê mải tham quan
Để cho tiếng hát cây đàn hơi chơi vơi
Câu bát đã biến thành 9 chữ. Có lẽ từ đó mới xuất hiện lối nói hiện đại của lớp trẻ: hơi bị điệu, hơi bị đẹp, hơi bị say...
Lối lửng vần: Viết về một chiến sỹ giữ cầu cho xe qua, Bút Tre nhớ ngay đến câu ngạn ngữ “Qua sông đấm bòi vào sóng”, nhưng ông lại viết khác đi:
Bút Tre chẳng như mọi người
Qua sông... nhớ mãi nụ cười chú em
Đọc “nụ cười” nhưng người ta lại nghĩ ngay đến hình ảnh trong câu ngạn ngữ. Cách chọn từ để gieo vần như thế, người đọc sẽ tự tìm lấy những từ “đắt giá” theo đúng vần điệu và ý thích của mình, nhằm gây tiếng cười sảng khoái. Sinh thời mỗi lần ra Huế nhà thơ Thu Bồn hay đọc một câu thơ mà bạn bè chọc trêu mình theo lối Bút Tre: "Thu Vân ngâm thơ Thu Bồn / Thu Bồn cảm động cầm tay Thu Vân" v.v.. Từ đó “hậu Bút Tre” sáng tác ra hàng ngàn câu thơ ép vận, bỏ lửng... làm cho cuộc sống thêm vui nhộn. "Liên hoan chỉ có nải chuồi / Ra về nhớ mãi cái buổi hôm nay..."
Thì ra câu thơ Việt, con chữ Việt có nội lực tiềm ẩn rất lớn, nếu ta mạnh dạn cách tân cấu trúc, tu từ, sẽ tạo nên sự khoái cảm thẩm mỹ mới lạ! Những sáng tạo lạ lùng và hiệu quả đó của Bút Tre là nguồn gốc sinh thành Trường phái Bút Tre Việt Nam mà hàng thế kỷ qua không có nhà văn, nhà thơ lớn nào tạo dựng được!
Bút Tre là bút danh ông Đăng tự đặt. Ông viết rằng “thơ Tố Hữu khêu gợi Bút Tre”. Khi ông đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, có hai câu: "Nhà nghèo không mực thì son/ Bút tre giấy má nuôi con học hành”. Ông liền lấy hai chữ Bút Tre làm bút danh của mình. Tại sao lại là Bút Tre? Bút Tre là để đối chọi với Bút Sắt. Tại sao phải đối chọi? Vì một thời “các nhà thơ ‘bút sắt’ của ta đều làm thơ nghiêm túc quá, ít chất thi sĩ lãng tử. Làm thơ, làm nghệ thuật là “sự chơi” ở đời, mà chẳng ai biết chơi cả. Những “nhà thơ nhà nước” ấy nói năng thưa dạ chỉnh chu, thơ văn thì nghiêm như báo cáo, từ chương, không ai dám sáng tạo ra điều gì về hình thức và nội dung ngoài những điều trên dạy, sách dạy. Thậm chí có ai làm khác đi, làm mới đi câu thơ Việt thì lập tức các nhà thơ “bút sắt”, các nhà phê bình xúm nhau lại để “giáo dục”, “uốn nắn” nhằm “lập lại trật tự”. Bút Tre là một ví dụ, ông đã bị chế giễu, dè bỉu, thậm chí có người còn đề nghị kiểm điểm, nghĩa là “Oan như oan Kim Ngọc khoán chui”! Có thể nêu hàng trăm ví dụ về những cuộc “đánh đấm”, “răn dạy”, "xay bột”... như thế trong mấy chục năm qua và hiện nay mỗi khi có những đột khởi khác lạ về văn chương, nghệ thuật. Có thể trong thâm tâm, Bút Tre cho rằng làm thơ từ chương, thơ “nghiêm như họp” ấy làm sao mà vào được lòng dân, nên ông quyết “tuyên chiến”, “thách thức” đối với loại thơ “bút sắt” ấy bằng lối tu từ chọc cười tài hoa của mình. Và ông đã thành công ngoài sức tưởng tượng! Có một nhà thơ “bút sắt” đã viết bài in báo ca ngợi Bút Tre:
... Gieo vần gãy nửa nhịp câu
Giữa dòng bạt mạng ngắt câu ngang phè
Mà sao ai cũng thích nghe
Cứ nghe là biết Bút Tre là cười
Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi
Hôm nay còn mãi với đời Bút Tre
Sức sống của Bút Tre chính là nhờ sự cách tân câu thơ, chữ thơ Việt!
Sinh thời hình như thơ Bút Tre không được tờ báo hay nhà xuất bản nào ở trung ương in cả, vì người ta cho đó thơ ngô nghê, buồn cười. Vì là Trưởng Ty Văn hóa, Đặng Văn Đăng phải tự ký giấy phép để Ty xuất bản thơ của mình, nên những người “bút sắt” không hiểu ông đã lu loa lên rằng: đó là thơ bậy bạ, tự ký tự in như thế nguy hiểm quá, phải kiểm điểm, phải chấn chỉnh. Những lúc đó ông buồn lắm, nên trách đời: "Thêm bao bịa đặt cá nhân xuyên” (“xuyên” đây là xuyên tạc - lại nói tắt!). Ông tâm sự:
Mở ca vè, dẫn lối ca vè
Trớ trêu văn nghệ không thừa nhận
Xuyên suốt lòng dân luống đợi chờ
Lịch sử quanh co trêu ghẹo mãi
Nhân tài bất hạnh lặng im tờ...
Nhưng ông nhất quyết không bỏ lối thơ mình đã chọn. Sách Bút Tre - Thơ và giai thoại kể nhiều giai thoại về Bút Tre rất lý thú: Một lần một nhà văn nổi tiếng ở Hà Nội lên Phú Thọ chơi. Sau khi nghe Bút Tre đọc một số bài thơ, nhà văn bảo: "Tôi sẽ nhờ anh Xuân Diệu sửa giùm những bài thơ của anh”. Ông Đăng trả lời ngay: Thưa anh, anh Xuân Diệu làm “thơ bác học”, tôi “làm vè dân gian”. Anh Xuân Diệu là “Bút Máy”, tôi là Bút Tre, Xuân Diệu chữa thế nào được thơ tôi!”. Một lần khác, các nhà văn Tô Hoài, Nguyễn Văn Bổng v.v… đi thực tế ở Phú Thọ. Sau khi nghe mọi người đọc một số câu thơ hậu Bút Tre như: "Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh/ Anh về phân bắc phân xanh đầy chuồng”, “Con ruồi là giống hiểm nguy / Một chân của nó rất vi trùng nhiều”... thì các nhà văn này cho rằng phải đính chính trên báo để “giải oan cho Bút Tre”, vì một người trí thức Tây học không thể viết thứ thơ như thế. Khi người cán bộ kể với ông Đăng chuyện này, ông cười bảo: "Đố cậu đính chính nổi. Ai lại dùng thơ văn bác học để sửa lại thơ văn dân gian". Người cán bộ hỏi tiếp: "Đã là thơ dân gian sao lại có tên tác giả là Bút Tre hở bác?”. Ông cười bảo: “Đó là thơ dân gian hiện đại”. Rồi ông nói tiếp: "Cậu có biết vì sao các loại kiểu thơ Bút Tre người ta lại thích không?" Ông cán bộ: "Vì những câu thơ hồn nhiên, buồn cười hở bác?" Ông Đăng mới kết luận: “Ấy đấy, vì thơ văn các cậu ‘nghiêm như hội nghị’ ấy mà lỵ...” Theo nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn (Phú Thọ), những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ trước, nghĩa là mãi 20 năm sau thơ Bút Tre ra đời, nhà văn Nguyễn Tuân - một bậc thầy về chữ nghĩa - đã nhắc nhở những người lãnh đạo văn nghệ Vĩnh Phú và Hội Nhà văn Việt Nam cần phải nghiên cứu nghiêm túc về hiện tượng thơ Bút Tre. Có lẽ lúc đó Nguyễn Tuân đã nhận ra sức sống của Dòng thơ Bút Tre.
Qua những giai thoại trên ta thấy việc tạo ra những câu thơ “giả vờ ngây ngô” gây cười bằng cách xáo trộn cấu trúc câu, vần, chữ... là có chủ đích của Bút Tre. Tôi nghĩ, Bút Tre đã làm ra loại thơ ca gây cười để giễu cái thứ văn chương “nghiêm như họp” ấy. Ông cố tình viết như thế và ông tin: “Năm năm dân dã lắng nghe / Một Bút Tre thành vạn Bút Tre các làng”, bởi vì “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn / Cây đa bến cũ vẫn ngồi nguyên”. Nghĩa là nền tảng văn hóa dân gian muôn đời, là hồn dân tộc vẫn còn nguyên vẹn trong tâm hồn và thơ ông. Nên “Mai sau kẻ đoái người hoài, mặc! / Hạnh phúc hôm nay mát dạ người." Bút Tre không mong mai sau có người nhớ mình, nhưng rõ ràng thơ Bút Tre người ta vẫn nhớ, vẫn sinh sôi mãi mãi. Con người cần vui để sống, cần vui cười để lao động, học tập tốt hơn, nên thơ hậu Bút Tre sinh sôi nảy nở.
Ngẫm về Trường phái Bút Tre, người viết bài này muốn bày tỏ một ý nguyện: Các nhà thơ, nhà văn cây đa cây đề, các nhà phê bình, các nhà quản lý văn hóa văn nghệ hãy biết trân trọng nâng niu chờ đợi cái mới, cái khác lạ, dù nó mới ra đời, vì biết đâu nó sẽ làm nên một dòng thơ, một trào lưu văn chương mới mẻ hơn, được người đọc tán thưởng. Chữ Việt, câu lục bát Việt là cái muôn đời. Nhưng chữ Việt, câu lục bát Việt không phải là cái bất biến. Chỉ cần một sự đổi mới về tu từ, về cấu trúc câu như Bút Tre, câu thơ Việt đã mang chất lượng nghệ thuật mới mẻ. Nếu cái lạ, cái mới vừa ra đời đã bị chửi mắng, vùi dập thì làm sao thế hệ 8X, 9X làm nên được tiếng thơ của riêng mình?
Huế, 5.2006
Chị em nô nức đặt vòng
hoa mộ liệt sỹ tỏ lòng biết ơn
Anh đi công tác bản Mường
Tè xong một cái lên đường về quê
Chồng người du kích sông Lô
Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần
Email anh viết thật bay
bướm em mong đợi từng ngày từng đêm
Con đò dịch đít sang ngang
Bên kia có một cái làng thò ra
Bướm đồng động đến thì bay
Bướm nhà động đến lăn quay ra giường
Chim đồng bóp cái chết ngay
Chim nhà mà bóp càng ngày càng sưng
Mời anh vào quán kara-
OK em đã mở ra sẵn sàng
Sông Cầu nước chảy lơ thơ
Có đôi trai gái ngồi hơ quần đùi
Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân bắc phân xanh đầy làng
Ta đi bầu cử tự do
Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm
Bắc Ninh có cậu Nguyễn-Trùng-
-Dương, vật khỏe quá cả vùng thất kinh
Mấy em mặc váy đánh cầu
lông bay phấp phới trên đầu các anh
Anh đi công tác Cam Pu
Chia chiến lợi phẩm ở tù ba năm
Nhớ nhung về thị xã Phan
Thiết tha mơ tưởng cô hàng nước măm
Chưa đi chưa biết Cửa Lò
Đi về mới biết nó to thế này
Chị em du kích tài thay
Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa (nhà) mình
Liên hoan có bánh có chuồi
Ta đi ta nhớ cái buồi (buổi) hôm nay
Anh đi công tác Pờ Lây
Ku dài dằng dặc biết ngày nào ra
Còn em em vẫn ở nhà
Cửa (nhà) mình em mở người ra kẻ vào
Tiễn anh lên bến ô tô
Đêm về em khóc... tồ tồ cả đêm
Hoan hô anh La Văn Cầu
Cánh tay bị đứt nhưng đầu vẫn nguyên
Không đi không biết Tam Đao (Tam Đảo)
Đi thì không biết chỗ nào mà ngu (ngủ)
Một giường nó nhét hai cu (cụ)
Thôi thì cố nhịn đến chu nhật về...
Phụ nữ thường rất hay lươi (lười)
Riêng em anh thấy là người cần... cu (cù).
Ngọt ngào bóc múi em ra
Mời nhau cặp bưởi, chút quà Hùng Đoan
Nhớ quê ra đứng đỉnh đèo
Bỗng đâu thấy một chú mèo gâu gâu
________________________________________
Đọc thêm cho vui
Có một giai thoại thơ Bút Tre liên hệ đến nhà thơ Bùi Giáng khá thú vị đã được đồn đãi như sau:
Sau biến cố tháng tư năm 75, các văn nghệ sĩ miền Nam người thì đã vượt biên, người bị cầm tù. Một trong số những người ở lại mà không phải chịu cảnh tù tội là nhà thơ Bùi Giáng. Ông không bị bắt vì là người mang bệnh tâm thần. Nghe kể một hôm ông ghé trụ sở hội Nhà Văn ở thành Hồ chơi. Lúc bấy giờ nhà thơ Thu Bồn, một ủy viên ban chấp hành hội Nhà Văn VN, đang đứng trò chuyện với nữ sĩ Thu Ba, trông thấy ông bèn gọi lại bảo rằng:
- Nghe đồn ông có tài xuất khẩu thành thơ, làm một bài cho anh em nghe chơi.
Bùi Giáng gãi tai trả lời:
- Lâu quá tui không có làm thơ, quên mất cả rồi.
Thu Ba năn nỉ:
- Làm đại một câu lưu niệm đi mà. Bấy lâu chỉ kiến văn kỳ thanh hôm nay mới kiến diện kỳ hình ông đó.
Bùi Giáng cười móm mém:
- Nhưng tui làm dở, đùng có cười tui nghe!
Thu Bồn giục:
- Thôi mà đừng khiêm tốn nữa, không ai cười đâu.
Bùi Giáng tằng hắng một tiếng rồi đọc:
Thu Ba khen ngợi Thu Bồn
Thu Bồn cảm động sờ vai Thu Ba
Thu Ba nhăn mặt:
- Ý dà, ông làm thơ lục bát chi mà chẳng có vần có điệu gì hết trơn.
Bùi Giáng đáp:
- Thì sức tui chỉ có vậy, cô muốn thơ có vần thì kiếm chữ khác thay vào đi.
Thu Ba bỗng đỏ mặt hứ lên một tiếng. Bùi Giáng lại móm mém cười một cách ngây thơ rồi quay đi trước cái nhìn giận dữ của Thu Bồn.
Cũng xin kể thêm một câu chuyện chứng tỏ uy lực của trường phái thơ Bút Tre.
Người viết có một anh bạn vừa về thăm gia đình bà chị ruột ở Saigon. Vốn là người sống mẫu mực, trong những ngày ở VN, anh không hề có ý định ghé đến những nơi thiếu lành mạnh. Tuy nhiên, một hôm đang rảo bước qua một quán hát Karaoke, anh bỗng bắt gặp một cô nhân viên của quán, mặt hoa da phấn đứng trước cửa, lúng liếng nhìn anh rồi đon đả mời chào:
Mời anh vào quán Kara
O.K. em đã mở ra sẵn sàng
Nghe câu thơ, anh khoái quá, bèn tặc lưỡi, theo cô vào quán hát đại vài ba bài. Khi ra về, anh tự nhủ một chút yếu lòng vì mấy câu thơ Bút Tre thì cũng đáng lắm chứ.
Như đã đề cập ở trên, một trong những đặc điểm của trường phái thơ Bút Tre là sự cưỡng bách vần điệu. Trên thực tế, Bút Tre không phải là người làm thơ đầu tiên phải ép chữ vì gặp trở ngại về vần. Thuở trước, dưới thời Tây Sơn, nhà nho Nguyễn Huy Lượng cũng vì không tìm được chữ hợp với cả ý lẫn vần cho một câu trong bài phú nổi tiếng "Tụng Tây Hồ Phú" nên đã phải viết như sau:
Sắc dờn dờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo
Hình lượn lượn uốn vòng câu bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò
Khi đọc bài phú, người đọc phải hiểu rằng tác giả muốn viết "mảnh nho nhỏ".
Một học giả nổi tiếng trong thời Pháp thuộc là ông Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã có lần chứng tỏ là người cùng hội cùng thuyền với Bút Tre Trong tập dịch Thơ Ngụ Ngôn La Fontaine, khi dịch bài "Le petit poisson et le pêcheur" (con cá nhỏ và người câu cá), vì bị bí vần, ông đã dùng một chữ khiến những bậc khả kính phải cau mày mà phì cười khi đọc. Bài thơ tiếng Pháp có những câu:
Petit poisson deviendra grand
Pourvu que Dieu lui prête vie;
Mais le lâcher en attendant,
Je tiens, pour moi, que c'est folie.
Các câu trên có nghĩa:
Con cá nhỏ một ngày kia sẽ lớn
Miễn là Chúa ban cho nó sự sống
Nhưng thả nó ra để chờ đợi
Theo ý tôi thật là điên khùng
Tuy nhiên ông Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch như sau:
Miễn là cá sống dưới hồ,
Cỏn con cũng có ngày to kếch xù.
Nhưng mà cá đã cắn cu,
Thả ra, tôi nghĩ, còn ngu nào tầy.
Khi đọc bài thơ dịch, phải vận dụng trí phán đoán, độc giả mới có thể hiểu ông ám chỉ con cá cắn "câu" chứ không phải cắn cái loài người vẫn dùng để truyền giống, nhưng vì bí vần nên ông phải mượn tạm chữ "cu". Trong tập sách phê bình "Nhà Văn Hiện Đại" học giả Vũ Ngọc Phan phê phán kịch liệt lối dịch ẩu này. Ông Phan viết nguyên văn rằng "cắn gì chứ cắn cu thì ai mà không phải phì cười".
Qua các dẫn chứng vừa kể, rõ ràng là trước Bút Tre, có nhiều người đã phải hy sinh sự chính xác của ngôn ngữ cho vần điệu của bài thơ, và có khi phải đặt bút hạ những chữ khá oái oăm như trường hợp ông Nguyễn Văn Vĩnh. Tuy nhiên, ngày đó, không ai nghĩ đến chuyện bắt chước lối làm thơ ấy để giải sầu và để châm chọc nhau như ngày nay. Vì sao?
Ông Hà Sĩ Phu đã có lời giải đáp cho câu hỏi nêu trên. Cũng trong bài "Chia Tay Ý Thức Hệ", ông viết như sau: "Xã hội quái đản ấy buộc phải đẻ ra thơ Bút Tre để phản ảnh nó, khi văn học chính thống cứ ngồi lù lù đó một cách vô tích sự... Cái ngớ ngẩn một cách chân thành, và chân thành một cách ngớ ngẩn, của người cán bộ văn hóa Vĩnh Phú kia chỉ là cái cớ để dân gian tải cái ngớ ngẩn giả vờ của mình, để riễu cợt những giá trị công khai họ cứ phải hoan hô".
Phân tích một cách thấu đáo, có thể nói, thơ Bút Tre đã lan rộng và bám chặt vào đời sống quần chúng nhờ bốn yếu tố:
1) Gói ghém tư tưởng phản kháng của giới bị trị,
2) Mang tính khôi hài, dung tục,
3) Giả vờ ngô nghê để châm biếm một cách sâu sắc, hóm hỉnh, và
4) Dễ nhớ.
Ấy vậy trong những năm qua, vẫn có những người lên tiếng đả kích trường phái thơ Bút Tre. Nếu tìm hiểu kỹ, chúng ta nhận thấy đây là những kẻ ăn lương nhà nước để bảo vệ nhà nước. Điển hình là một nhà phê bình nọ, sau khi tuyên bố "Thơ Bút Tre thậm chí đã dựng nên một thể loại, nhưng vẫn không được coi là một dạng thơ chính thống, không được coi là một tác phẩm nghệ thuật", lại còn đao to búa lớn rằng: "Cách tân là tốt, nhưng không thể cứ cái gì lạ cũng là cách tân. Và cũng nên nhớ rằng lại càng không dễ núp bóng sự cách tân đó mà đưa ra những vấn đề nhạy cảm, dung tục".
Cái ông trí thức ấy chỉ vẽ chuyện. Có ai lên tiếng đòi hỏi vị trí chính thống cho thơ Bút Tre đâu? Những người làm ra, và cả những người góp phần truyền tụng, những câu thơ dân giã ấy rất hãnh diện với vị trí phi chính thống của dòng thơ. Nó được sinh ra, được nuôi dưỡng cho lớn lên để đấu tranh với cái mà giới cầm quyền nhận vơ là chính thống. Thêm nữa, lẽ ra ông trí thức ấy phải hiểu rằng chính cái chính thống theo kiểu đảng và nhà nước đã đẻ ra sự cách tân nhậy cảm và dung tục cho dòng thơ, như ông Hà Sĩ Phu đã nhận định. Điều đáng nói là tại VN trong hơn nửa thế kỷ qua, những cây bút sắt đã dần dần trở thành mòn rỉ sau quãng thời gian dài phải cúc cung ca tụng chính sách đảng và nhà nước. Không có những bút tre dân gian, đời sống người dân có lẽ trở thành buồn tẻ biết bao. Có thể nói bốn câu thơ nêu sau của một bậc sĩ phu vô danh trong nước đã diễn tả được ảnh hưởng của thơ Bút Tre đối với quần chúng:
Thì sao ai cũng thích nghe
Cứ nghe mà biết Bút Tre là cười
Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi
Bút Tre vẫn để cho đời nguồn vui
Cuối cùng, người viết xin nhắc lại một câu nói của ông Mác. Vâng, có lần ông ấy bảo: "Bao giờ nhân loại cũng tiễn đưa quá khứ một cách vui vẻ". Phải chăng đó là lý do tại sao dòng thơ Bút Tre lớn mạnh đến hôm nay. Có vẻ dòng thơ ấy đang tận tụy (một cách vui vẻ) để cố làm tròn chức năng tiễn đưa một chế độ về miền quá khứ.
Có vẻ lắm đấy các ông Bút Tre dân gian của tôi ơi. Cố lên chút nữa đi mà!!!
Nguyễn Ngọc Bảo
Tài liệu tham khảo:
- Ngô Quảng Nam, "Bút Tre, Thơ và Giai Thoại", nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội 1994.
- Hà Sĩ Phu, "Chia Tay Ý Thức Hệ", loạt bài gửi từ trong nước ra hải ngoại, 1995.
- Ngô Tự Lập, "Ai Là Cha Đẻ của Thơ Bút Tre", bài phổ biến trên hệ thống Internet
________________________________________
Sau đây là một câu truyện cổ tích hiện đại.
Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng làm cùng ngành xuất bản sách.
Ðêm tân hôn của họ thật thơ mộng. Họ nói với nhau đủ chuyện, từ chuyện yêu đương, gia đình, bè bạn, nghề nghiệp... Anh chồng ôm vợ âu yếm rồi đọc thơ: Sách mới cho nên phải đắt tiền Chị vợ cùng nghề, nghe chồng đọc liền ứng khẩu đọc tiếp luôn: Hôm nay xuất bản lần đầu tiên Anh chồng ghì chặt vợ vào lòng mình đọc luôn câu thứ ba: Anh còn tái bản nhiều lần nữa Chị vợ sung sướng đọc câu thơ trong tiếng thở: Em để cho anh giữ bản quyền. Vài năm sau... Cô vợ đọc: Sách đã cũ rồi phải không anh/ Sao nay em thấy anh đọc nhanh/Không còn đọc kỹ như trước nữa/Ðể sách mơ thêm giấc mộng lành Anh chồng ngâm nga: Sách mới người ta thấy phát thèm/Sách mình cũ rích, chữ lem nhem/Gáy thì lỏng lẻo, bìa lem luốc/Ðọc tới đọc lui, truyện cũ mèm Cô vợ thanh minh: Sách cũ nhưng mà truyện nó hay/Ðọc hoài vẫn thấy được... bay bay/Ðọc xong kiểu này, rồi kiểu khác/Nếu mà khám phá sẽ thấy hay.. Anh chồng lầu bầu: Ðọc tới đọc lui mấy năm rồi/Cái bìa sao giống giấy gói xôi/Nội dung từng chữ thuộc như cháo/Nhìn vào hiệu sách, nuốt không trôi... Cha hàng xóm lẩm nhẩm: Sách cũ nhưng mà tui chưa xem/Nhìn anh đọc miết.. thấy cũng thèm/Cũng tính hôm nào qua đọc lén/Liệu có trang nào anh chưa xem? (Sưu tầm)
Cũng chẳng mấy người biết tại sao có sự phân biệt giữa thơ Bút Tre thật và thơ Bút Tre dân gian, cùng những tương đồng và dị biệt giữa hai loại thơ này. Trong bài viết dưới đây, người viết xin trình bầy những chi tiết về dòng thơ vừa kể, một dòng thơ đã lan tràn và bám rễ vào đời sống nhân dân trong nước suốt hơn ba thập niên qua.
Bút Tre Thật
Bút Tre là bút hiệu của ông Đặng Văn Đăng, sinh năm 1911 tại xã Đồng Lương, Sông Thao, Vĩnh Phú. Thời niên thiếu, ông theo học chương trình giáo dục của Pháp và đến khi trưởng thành, được bổ nhiệm làm giáo học tại Tuyên Quang.
Sau khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945, ông Đặng Văn Đăng tham gia hàng ngũ kháng chiến và đến năm sau, được kết nạp vào đảng. Năm 1962, ông được cất nhắc làm trưởng ty văn hóa Phú Thọ và giữ chức vụ này cho đến năm 1968. Ông về hưu năm 1970 và mất năm 1987.
Trong thời gian giữ chức trưởng ty văn hóa Phú Thọ, ông Đăng cao hứng cho in tập "Thơ Bút Tre", chủ yếu để lưu hành nội bộ trong ty và tặng thân hữu. Hầu hết thơ trong tập này là nhũng bài hoặc ca ngợi lãnh đạo, hoặc hô hào, cổ động cho kế hoạch của đảng và nhà nước. Điểm đáng nói là tuy mang danh trưởng ty văn hóa nhưng thơ của ông ngô nghê, luộm thuộm đến độ buồn cười. Lắm khi người đọc phải vận dụng trí thông minh để hiểu ông muốn nói gì qua những vần thơ ấy. Chẳng hạn như những câu sau:
Bây giờ đang đứng trưởng ty
Bút Tre thơ phú tôi thì có sau
Cuối cùng xin nhắc một câu
Văn hóa cơ sở là đầu chúng ta
Đọc hết bài thơ, ngẫm đi ngẫm lại, người đọc mới hiểu rằng ông trưởng ty muốn nhắc nhở chúng ta cần phải đặt văn hóa cơ sở lên hàng đầu trong các sinh hoạt quần chúng.
Trong một bài ca ngợi hợp tác xã nông nghiệp tại địa phương, "nhà thơ" đã đặt bút viết những lời nôm na, nghe khá khôi hài như sau:
Nhìn lên đỉnh núi con Voi
Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi
Voi cũng như người, voi sản xuất
Đầu thì trồng sắn, đít trồng khoai
Tập thơ cũng bao gồm nhiều bài ngợi ca lãnh đạo đảng nhưng ý tứ nghèo nàn, ngô nghê. Trong những bài này, có những câu đã khiến người đọc phải phì cười, chẳng hạn như bài tâng bốc Thủ Tướng Phạm Văn Đồng khi ông này đến thăm Phú Thọ:
Hoan hô thủ tướng Phạm Văn Đồng
Bàn tay Người vẩy muôn dòng mắt theo
Bên đường Người nhẩy cây reo
Rồi đến những câu ca ngợi Nguyễn Chí Thanh, trưởng ban nông nghiệp trung ương của đầu thập niên 60:
Anh đi đồng ruộng lắng nghe
Lúa mừng phân bắc, khoai che mảnh vườn.
Đại loại, những bài thơ trong tập Thơ Bút Tre nếu không ngô nghê về cú pháp thì cũng nghèo nàn về ý tứ và lắm khi sai cả niêm luật.
Bút Tre Dân Gian
Tập thơ Bút Tre được in trong khoảng thời gian trước năm 1968, tức trước khi ông rời khỏi chức trưởng ty văn hóa Phú Thọ. Sau khi ra đời, tập thơ nhanh chóng chìm vào quên lãng.
Dần dần, dòng thơ Bút Tre dân gian được thành hình, ngày càng phát triển và trở thành cái gọi là trường phái Bút Tre, tung hoành ngang dọc từ thành thị đến thôn chốn quê trên đất nước. Có thể nói đây là một phong trào làm thơ "cưỡng từ đổi nghĩa, sửa dấu ép vần" độc nhất của văn học VN, kể cả văn học bình dân lẫn văn học trí thức. Cốt lõi của dòng thơ là tính trào phúng và chất tục, khi thì tục lồ lộ, khi thì tục mà thanh, khi thì thanh mà tục, đáp ứng được thị hiếu của nhân dân đang cần những nụ cười sảng khoái để quên đi trong khoảnh khắc những lầm than của cuộc sống xã hội chủ nghĩa thời bao cấp.
Đặc điểm thơ Bút Tre dân gian
Một cách tổng quát, dòng thơ Bút Tre dân gian mang những đặc điểm sau:
1) Chia cắt hai chữ lẽ ra phải được nối liền nhau, một chữ đặt ở cuối câu "lục" và chữ kia ở đầu câu "bát" nhằm mang ý nghĩa trào phúng cho một trong hai câu thơ. Ý nghĩa này khác hẳn với nghĩa của cả hai câu nếu đọc liền một mạch. Chẳng hạn như:
Chị em nô nức đặt vòng
Hoa mồ liệt sĩ tỏ lòng biết ơn
hoặc
Chị em mặc váy đánh cầu
Lông bay phơ phất trên đầu các anh
Có khi cái tên được ngắt làm đôi, như câu thơ ngợi khen cậu Nguyễn Trùng Dương đã oanh liệt chiếm giải đô vật trong một hội xuân ở tỉnh Bắc Ninh:
Bắc Ninh có cậu Nguyễn Trùng
Dương vật khỏe quá cả vùng thất kinh
2) Thêm hay bớt, hoặc đổi dấu ở những chữ phải hiệp vần trong thơ để câu thơ trở nên hài hước và mang dụng ý châm chọc, rồi ghi bí chú bên dưới:
Liên Xô rất đỗi tự hào
Anh Ga Ra Rỉn bay vào vũ tru
(bí chú: Ga ra rin bay vào vũ trụ)
hoặc
Mừng ngày mồng tám tháng ba
Chị em phụ nữ chúng ta vung lền
(bí chú: vùng lên)
hoặc
Phụ nữ thường rất hay lười
Riêng em, anh thấy là người cần cu
(bí chú: cần cù)
hoặc
Trung ương chỉ thị ba cùng
Đảng viên phải bám quần chùng nhân dân
(bí chú: quần chúng)
"Ba cùng" ở đây là sách lược "cùng ăn, cùng ở, cùng làm". Nhân dân đã đói đến nỗi quần phải chùng mà còn bị các ông đảng viên bám vào thì chịu sao cho thấu.
3) Câu thơ thiếu một chữ khiến điều muốn diễn tả hóa thành khôi hài:
Anh đi em ở lại nhà
Cửa mình em mở người ra kẻ vào
(bí chú: cửa nhà mình)
4) Cố ý dùng chữ không đúng với luật bằng trắc của thơ lục bát khiến người đọc phải tự động nghĩ đến một chữ khác hợp với luật thơ:
Đồng xuân nô nức tiếng đồn
Có cô bán trứng vịt lộn rất to
hoặc
Khoai luộc tiếp tế chiến khu
Chị em bóc thử một củ ăn liền
5) Gói ghém hình ảnh dung tục:
Con đò dịch đít sang ngang
Bên kia có một cái làng thò ra
hoặc như trong hai câu tả chị em du kích:
Má kề nòng súng thẳng đơ
Tay thuôn chị cứ bóp cò sướng chưa?
Tiểu sử Bút Tre theo dân gian
Khi phong trào thơ Bút Tre vừa nở rộ, hầu như không ai biết rõ lai lịch ông Đặng Văn Đăng. Vì vậy, óc tưởng tượng của quần chúng có cơ hội được bộc phát. Trên đất nước ta thuở ấy, ở những lúc trà dư tửu hậu, những cái miệng (có lẽ là phản động) cứ bát nháo tranh luận về tiểu sử Bút Tre. Trong số các bản tiểu sử do nhân dân đặt ra, nhân vật Bút Tre sau đây là thú vị hơn cả:
Bút Tre vốn xuất thân là người miền Nam tập kết ra Bắc sau khi hiệp định Geneve chia đôi đất nước được ký kết. Ông sinh quán tại Bến Tre nên lấy tên hiệu là Bút Tre.
Khi ra miền Bắc, ông được phong làm trưởng ty văn hóa Yên Báy (Yên Báy chứ không phải Phú Thọ như trong chính bản.). Lúc bấy giờ, ông tự in một tập thơ gồm những bài thơ ngắn, mỗi bài chỉ có hai câu để đánh dấu những thời điểm đáng nhớ trong cuộc kháng chiến. Qua tập thơ, người đọc lấy làm một sự nể phục nhà thơ qua các chiến dịch ông từng tham gia. Có khi là chiến dịch Pleiku dài dằng dặc, có khi là Ban Mê Thuột bụi mù trời. Cũng có lần ông phải đi rất xa như chuyến đi đến bản Mường Tè của người thiểu số, và lần đi bằng thuyền lá ra đến mãi đảo Côn Lôn. Những chiến dịch này được ông diễn tả bằng những câu sau:
Anh đi chiến dịch Pờ Lê
Ku dài dằng dặc biết ngày nào ra
Anh đi chiến dịch Ban Mê
Thuột xong vài bữa rồi về với em
Anh đi chiến dịch bản Mường
Tè xong rồi lại tìm đường về xuôi
Đi chiến dịch, quanh năm suốt tháng, nghĩ cũng thấy tội cho người yêu ở nhà. Vì vậy, lần đi Côn Lôn, ông nhắn nhủ nàng hãy cố gắng tìm vui nơi tình làng nghĩa xóm trong những ngày đợi ông về:
Anh đi chiến dịch đảo Côn
Lôn em ở lại xóm thôn vui vầy
Một thời gian sau, nhờ tài làm thơ, Bút Tre được chuyển từ đơn vị chiến đấu sang đội ngũ văn nghệ. Có một đêm khuya, nhà thơ đang nằm trong hầm của tổ văn nghệ thì bỗng có một chị nữ dân công khênh thùng đạn đến tiếp tế vì tưởng đó là hầm của bộ đội chiến đấu. Nói theo tiếng Bắc thì chị vào nhầm chỗ, còn theo tiếng Nam thì chị vào lộn. Bởi thế nhà thơ có câu:
Yêu thay chị nữ dân công
Nửa đêm khuya khoắt đem lộn vào đây
Lúc bấy giờ, dưới ánh đèn dầu hiu hắt, trông chị nữ dân công mồ hôi mồ kê nhễ nhại trên đôi má đỏ hồng vì lao động vất vả, nhà thơ cảm thấy thương quá. Suy đi nghĩ lại, nhà thơ quyết định tặng chị quả chuối duy nhất của mình để bồi dưỡng cho chị:
Mời em ăn một quả chuồi
Để em nhớ mãi cái buổi hôm nay
Có lẽ là chị khó thể quên được cái buổi hôm ấy.
Khi ở đất Bắc, Bút Tre tiếp tục mang khả năng mình phục vụ cho đảng. Nhân ngày bầu cử quốc hội, nhà thơ hý hoáy bút giấy tán tụng rằng:
Mừng ngày bầu cử tự do
Những ai xứng đáng thì cho vào hòm
Đọc hai câu thơ nêu trên, nhiều người quả quyết rằng vì xa quê đã lâu, nên nhà thơ đã quên mất nghĩa của chữ "hòm" ở trong Nam.
Đôi khi nhà thơ nổi hứng làm thơ ca tụng lãnh đạo, như những câu sau viết về ông cụ Hồ:
Bác Hồ quả thật có kinh
Nghiệm trong sử sách có mình bác thôi
Rồi đến ông Trường Chinh:
Giỏi a đồng chí Trường Chinh
Làm việc thì ít xuất (tinh) ngoại thì nhiều
Trong thời kỳ tầu bay Mỹ oanh tạc miền Bắc, thấy báo Nhân Dân ca ngợi chị em du kích dùng súng trường bắn rơi đến mấy chiếc B52, nhà thơ cảm phục quá bèn hạ bút:
Chị em du kích giỏi thay
Bắn máy bay Mỹ rơi ngay cửa mình
(bí chú: cửa nhà mình)
Đại loại, thơ in trong Tập Bút Tre là những bài độc đáo như thế. Tuy nhiên, khi tập thơ đến tay bộ trưởng văn hóa Tố Hữu thì định mạng đã an bài đối với Bút Tre. Vốn là người hay ganh ghét tài năng kẻ khác, ông Tố Hữu bèn cất chức trưởng ty của Bút Tre và giao nhà thơ một chức vụ ngồi chơi xơi nước kém bổng lộc ở viện Bảo Tàng.
Ảnh hưởng của thơ Bút Tre
Có thể nói thơ của ông Bút Tre Đặng Văn Đăng là nguyên nhân khiến dòng thơ Bút Tre được phát sinh nhưng người khai sáng và phát triển dòng thơ này không phải là Bút Tre mà chính là nhân dân. Ngày ông Đăng còn sống, sau khi một một số câu thơ Bút Tre dân gian được phổ biến trong quần chúng, một nhà báo tại VN tên Ngô Quảng Nam đến phỏng vấn ông với dụng ý minh oan cho ông trước đảng và nhà nước. Khi nghe nhắc đến các câu thơ đang được truyền khẩu, ông Đăng lộ vẻ buồn bã bảo "Oan tớ hơn oan Thị Kính".
Cho đến hôm nay, trường phái Thơ Bút Tre đã lan rộng ra cả nước. Có thể nói hầu như bất kỳ một người làm thơ nào, dù tài tử hay chuyên nghiệp như nhà thơ Nguyễn Duy, cũng đã hơn một lần bước vào cõi thơ Bút Tre sáng tác dăm ba câu, trước để mua vui, sau là châm biếm giới cầm quyền.
Trong vài năm qua, thỉnh thoảng, chúng ta lại nghe hoặc đọc được đôi ba câu thật hóm hỉnh như:
Cùng vào lăng bác đi cầu
Nguyện cho thân quyến vừa giầu vừa sang
hoặc
Bốn ông chung một đĩa lòng
Lợn ngồi chễm chệ bên thùng bia hơi
hoặc như lời các cô cậu sinh viên ngồi chit-chat với nhau qua điện toán:
Email anh viết thật bay
Bướm em mong đợi cả ngày lẫn đêm
(theo tư liệu tvvn, internet...)
Ai là cha đẻ của thơ Bút Tre
Tác giả: Ngô Tự Lập
Bạn có thể phản bác: Đồng ý rằng Bút Tre không phải là cha đẻ duy nhất của các bài thơ Bút Tre, nhưng ông là cha đẻ duy nhất của trường phái thơ Bút Tre. Chớ nên nhầm trường phái với những bài thơ cụ thể của trường phái ấy.
Câu hỏi nghe chừng ngớ ngẩn: cha đẻ của thơ Bút Tre thì phải là Bút Tre chứ còn ai vào đấy nữa? Nhất là khi nhiều người còn nói rõ Bút Tre là ai. Nhà thơ Phạm tiến Duật, chẳng hạn, trong một bài báo, viết: "Cụ Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng, quê ở Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ quê tôi. Tôi cũng được coi là người nổi tiếng nhưng không thể nổi tiếng bằng cụ. Cụ Bút Tre đã từng là giám đốc ty văn hoá (khi ấy chưa gọi là sở) tỉnh tôi, và là người có đạo đức mẫu mực, được nhiều người mến mộ và kính trọng. Chỉ có thơ cụ là rất buồn cười. Làng ta có một cái núi voi/ Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi/ Voi cũng hăng say đua sản xuất/ Đầu thì trồng sắn đít trồng khoai. Phát hiện quả núi có đầu đít ấy mới thật là kinh khủng! Thơ Bút Tre nhiều người thuộc, tưởng không cần chép lại nữa".
Nhưng suy nghĩ thêm một chút thì thấy hình như câu hỏi cũng không phải hoàn toàn không có cơ sở. Bởi lẽ thơ Bút Tre đã trở thành một trường phái có sức hút và sức sống không thể xem thường. Trên thực tế, hôm nay, rất lâu sau khi Bút Tre mất, và tôi tin rằng cả trong tương lai nữa, thơ Bút Tre vẫn tiếp tục được sáng tác và yêu thích. Rất nhanh, những tác phẩm xuất sắc trở thành tài sản chung, hòa vào và làm phong phú trường phái Bút Tre. Nghĩa là cha đẻ của những bài thơ Bút Tre không chỉ có Bút Tre. Chính Phạm Tiến Duật, trong bài báo nói trên cũng viết:
"Cùng thời với Bút Tre hồi ấy, có một ông ở Quảng Bình, có chức vụ quan trọng lắm và cũng có thơ không kém Bút Tre là mấy. Ông viết: Trên đường xe chạy bon bon/ Nhìn bông lúa chín hạt tròn hạt vuông. Xe chạy như thế cũng khiếp thật. Là người sinh ra ở quê hương lúa nước mà ta chưa thấy hạt lúa nào tròn huống chi còn có hạt vuông. Nhà nông học Lương Định Của sống dậy chắc cũng kinh ngạc. Cái ông ở Quảng Bình ấy còn có hai dòng thơ tả cảnh ta và Mỹ đánh nhau rất quyết liệt. Đọc xong, ngẫm một hồi, lại thấy không phải là ta và địch mà là câu thơ tả hai ông làm nghề húi đầu: Thằng Mỹ cầm kéo định cắt tóc ta/ Ta cạo trọc đầu chúng nó. Tất nhiên ông thợ Việt Nam vẫn oách hơn ông thợ Mỹ".
Bạn có thể phản bác: Đồng ý rằng Bút Tre không phải là cha đẻ duy nhất của các bài thơ Bút Tre, nhưng ông là cha đẻ duy nhất của trường phái thơ Bút Tre. Chớ nên nhầm trường phái với những bài thơ cụ thể của trường phái ấy. Rõ ràng "Ai là cha đẻ của thơ Bút Tre" là một câu hỏi ngớ ngẩn.
Lời phản bác nghe chừng đầy thuyết phục: cha đẻ của trường phái thơ Bút Tre thì phải là Bút Tre, chứ còn ai vào đấy nữa?
Nhưng suy nghĩ thêm một chút thì thấy hình như ngay cả sự phản bác ấy cũng không phải hoàn toàn thuyết phục. Bởi lẽ, một khi nói đến trường phái thì bao giờ cũng phải nói đến tiền thân của trường phái âý. Mối nhà văn độc đáo đều sản sinh ra tiền bối của mình. Vậy thì thơ Bút Tre, với tư cách một trường phái, phải có một tiền thân, và Bút Tre, với tư cách một tác giả độc đáo, phải có tiền bối của mình. Nói cách khác, thơ Bút Tre chắc chắn phải được sáng tác trước khi Bút Tre viết những bài thơ nổi tiếng của mình.
Những suy luận trên đây dẫn tôi ngược dòng thời gian và người đầu tiên tôi gặp là Nguyễn Văn Vĩnh, một dịch giả nổi tiếng, người có công lao to lớn trong phong trào truyền bá chữ quốc ngữ và "Âu Tây tư tưởng" hồi đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, tôi chỉ muốn đưa ra một ví dụ để chứng tỏ rằng ông là một trong những tiền bối của Bút Tre.
Trong tập Thơ Ngụ ngôn La Fontaine (Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1928) do ông dịch có bài Le petit poisson et le pêcheur (Con cá nhỏ và người câu cá) mở đầu như sau:
Le petit poisson deviendra grand,
Pourvu que Dieu lui prête vie;
Mais le lâcher en attendant,
Je tiens, pour moi, que c'est folie.
Nghĩa là: "Con cá nhỏ sẽ lớn, miễn là Trời cho nó sống. Nhưng hoạ có là điên tôi mới thả nó ra để đợi". Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch như sau:
Miễn là cá sống dưới hồ
Cỏn con cũng có ngày to kếch xù
Nhưng mà cá đã cắn cu (câu)
Thả ra, tôi nghĩ, còn ngu nào tầy.
Đoạn thơ với thủ pháp sửa âm cho hợp...vần rất đặc trưng cho thơ Bút Tre này đã được Vũ Ngọc Phan trích dẫn trong Nhà văn Việt Nam hiện đại với những lời bình luận như sau: "..sở dĩ phải đổi ra cu chỉ là cho hợp với vần ngu ở dưới. Nhưng cắn gì thì cắn chứ cắn cu thì ai cũng phải phì cười...".
Nhưng trước Nguyễn Văn Vĩnh là ai? Nếu ai cũng có tiền bối cả thì ai sẽ là cha đẻ?
Đến đây thì chính tác giả những dòng này cũng phải nghi ngờ rằng câu hỏi ở đầu bài có lẽ là ngớ ngẩn thật, bởi lẽ nó dẫn đến những tác giả vô danh trong văn học dân gian. Chẳng hạn bài ca dao:
Bà già đi chợ đường Cồn
Vừa đi vừa nhổ lông...tay xỉa răng
Chắc chắn có thể coi là một bài thơ "Bút Tre" điển hình. Hóa ra mọi thứ đều bắt rễ từ những giá trị truyền thống, và câu trả lời cho câu hỏi "Ai là cha đẻ thực sự của thơ Bút Tre" có thể tìm được ngay mà chẳng cần mất nhiều công tìm kiếm đến thế.
Bút Tre Bút Tre - Nhiều Tác Giả