Always read something that will make you look good if you die in the middle of it.

P.J. O'Rourke

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 14
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17
ột trăm kilomet về phía bắc của Leningrad, trên một bình nguyên giữa thị trấn Luzhaika của Nga và thành phố Imatra của Phần Lan, đường sắt chạy qua biên giới. Không có hàng rào ở đây. Có những sân chuyển ray, các lán hải quan và các hầm điện đài kín ở hai bên đường. Tuyết bẩn bên phía Nga bởi những con tàu Nga bên phía đường này đốt than chất lượng kém, và tuyết sạch hơn ở bên đường phía Phần Lan bởi họ dùng dầu diesels.
Arkady đứng cùng với sĩ quan chỉ huy của trạm Tuần tra biên giới Liên Xô và nhìn một vị thiếu tá Phần Lan quay trở lại trụ sở Biên phòng Phần Lan cách đó năm mươi mét.
“Giống như người Thụy Sĩ.” Viên chỉ huy vỗ một phát. “Họ sẽ quét hết muội than phủ bên chúng ta nếu họ đủ can đảm.” Ông đưa tay lên cố gắng nửa chừng kéo chặt phù hiệu đỏ trên ve áo. Trạm Tuần tra Biên giới là một cánh tay của KGB nhưng lực lượng chủ yếu lại là các cựu binh của Quân Đội. Cổ của vị chỉ huy lại quá to, mũi thì vẹo sang một bên và đôi lông mày thì thật lòng lại chả phù hợp chút nào cả. “Hàng tháng, anh ta đều hỏi tôi phải làm gì với cái rương khỉ gió này. Tôi biết thế quái nào được?”
Ông ta dựng que diêm của Arkady lên với hai bàn tay để hai người họ châm điếu thuốc của mình. Một người bảo vệ Liên Xô quan sát từ con đường, một khẩu súng trường trông giống như một dụng cụ của người thợ hàn treo lủng lẳng trên vai anh ta. Mỗi khi người gác di chuyển, khẩu súng lại đung đưa trong gió.
“Anh biết rồi đấy, ở đây, một trưởng thanh tra từ Moscow có nhiều uy quyền như một người Trung Hoa,” vị chỉ huy nói với Arkady.
“Anh biết Moscow những ngày gần ngày Quốc tế Lao động rồi đấy,” Arkady nói. “Cho đến khi tất cả mọi người đóng hết dấu vào hồ sơ của tôi thì tôi đã có thể có một nạn nhân khác trong tay mình.”
Vượt qua biên giới, vị thiếu tá đưa một cặp lính gác biên giới tới căn lán hải quân.
Bên ngoài kia, những ngọn đồi thấp dẫn tới một chiếc hồ nhỏ của Phần Lan. Ở bên này, đất đã được ủi phẳng và rải rác những cây tổng quán sủi, tro bụi và bụi cây nham lê. Một đất nước tốt đẹp để canh giữ.
“Những tay buôn lậu ở đây mang vào cà phê,” vị chỉ huy nói, “bơ, thi thoảng chẳng có gì ngoài tiền. Anh biết đấy, cho các cửa hàng ngoại tệ. Họ không bao giờ buôn lậu cái gì ra bên ngoài cả. Tôi đoán là điều đó thật xấc xược. Khá bất thường, vụ án của anh lại đưa anh đến tận đây.”
“Ở đây tốt mà,” Arkady nói.
“Yên tĩnh. Anh có thể thoát khỏi tất cả.” Viên chỉ huy rút một bình rượu dẹt bằng thép trong từ túi bên trong áo khoác ra. “Anh có thích cái này không?”
“Hẳn nhiên rồi,” Arkady đưa tay nhận lấy bình rượu và ngụm brandy nóng ấm trôi xuống dạ dày.
“Một vài người không thể chịu được cái việc bảo vệ biên giới - bảo vệ một cái ranh giới tưởng tượng, anh biết đấy. Họ thực sự hóa điên. Hoặc là họ cho phép chính mình trở nên suy đồi. Đôi khi chính họ thực sự cố gắng vượt biên. Tôi đáng nhẽ có thể bắn họ rồi, nhưng tôi chỉ trao trả họ về để người ta kiểm tra trí não họ. Anh biết đấy, Thanh tra, nếu tôi gặp một người tới tận đây từ Moscow mà chẳng có một lý do chính đáng nào để tâng bốc ngon ngọt về lực lượng tuần tra biên giới, thì tôi sẽ phải đưa anh ta đi kiểm tra não.”
“Thẳng thắn mà nói,” Arkady nhìn thẳng vào mắt vị chỉ huy “Tôi cũng thế.”
“Chà,” đôi lông mày của vị chỉ huy nhướn lên và ông vỗ vào lưng Arkady “Hãy xem chúng ta có thể làm gì với gã Phần Lan này nào. Anh có thể rán một gã Phần Lan trong bơ và hắn vẫn chỉ là người Phần Lan thôi.”
Căn lán hải quan bên kia bên giới mở ra. Vị thiếu tá Phần Lan quay trở lại mang theo một cái phong bì.
“Thanh tra của chúng tôi có đúng không?” Vị chỉ huy hỏi.
Tay thiếu tá thả chiếc phong bì với sự khinh ghét xuống tay Arkady. “Phân. Phân của những con vật nhỏ trong sáu ngăn bên trong cái rương. Làm thế nào mà anh biết vậy?”
“Cái rương nằm bên ngoài giá của nó đúng không?” Arkady hỏi.
“Chúng tôi mở nó ra,” vị chỉ huy nói. “Tất cả đồ đóng bị mở ra ở bên Liên Xô.”
“Liệu bên trong của chiếc rương đã được kiểm duyệt rồi?” Arkady hỏi.
“Điều quan trọng,” tay người Phần Lan trả lời, “trong mối quan hệ giữa người Phần Lan và Liên bang Xô Viết là thứ như thế ư?”
“Và thủ tục của việc xác nhận những thứ từ khu vực hải quan là gì?” Arkady hỏi vị thiếu tá.
“Rất đơn giản. Có rất ít hàng hóa từng ở lại trong khu vực hải quan, chúng thường nằm trên tàu cho tới Helsinki. Không ai có thể di dời bất cứ hàng hóa nào mà không có giấy tờ xác nhận nhân thân và sở hữu, cũng như các hóa đơn thuế nhập khẩu. Chúng tôi không có ai gác ở cửa, nhưng chúng tôi sẽ để ý tới bất cứ ai từng cố gắng mang một cái rương. Hãy hiểu rằng, chúng tôi duy trì một lực lượng mỏng ở đây bởi những thỏa thuận với Liên Xô nhằm tránh những hành động khiêu khích với người hàng xóm thân thiện. Giờ thì anh phải xin lỗi tôi, tôi đang không ở phiên trực, và tôi có cả một chặng đường dài để lái xe về nhà cho kỳ nghỉ.”
“Cho ngày Quốc tế Lao động,” Arkady nói.
“Lễ hội phù thủy đêm Walpurgis Night.” Tay Phần Lan khoái chí sửa lời anh. “Ngày nghỉ cuối tuần hội họp của các phù thủy.”
Từ Vuborg, gần biên giới, Arkady bay tới Leningrad và từ đó anh bắt chuyến bay đêm tới Moscow. Hầu hết hành khách trên chuyến bay là những quân nhân với kỳ nghỉ hai ngày. Họ đã đang say sưa rồi.
Arkady viết một báo cáo về cuộc điều tra. Anh đặt nó vào trong chiếc túi bằng chứng cùng với lời khai của vị chỉ huy tuần tra biên giới, chiếc phong bì đựng phân động vật từ trong chiếc rương, mẫu lông thú trong chuồng của Kostia, những đồ cá nhân trong tủ của ba nạn nhân, cuốn băng ghi lại lời khai của Irina trong căn nhà, và cuốn băng ngày mùng hai tháng Hai ghi âm cuộc gọi giữa Osborne và Unmann. Anh đã ghi địa chỉ chiếc túi tới Tổng Công tố. Cô tiếp viên hàng không đưa cho anh một thanh kẹo cứng.
Trong vòng vài tiếng, Osborne và Kirwill chắc đã lên máy bay. Hơn bao giờ hết, Arkady đánh giá cao sự đúng giờ của Osborne ở cửa vào và cửa ra. “Ngay cả một cú delay...” Unmann đã lo lắng vào cái ngày trước ngày chiếc rương niêm phong kín sáu con chồn Siberi của Kostia Borodin được chuyển đi từ Moscow. Liệu những con vật nhỏ sẽ bị tiêm thuốc an toàn trong bao lâu? Ba tiếng? Bốn tiếng? Chắc là đủ cho chuyến bay tới Leningrad rồi. Unmann hẳn có thể đã nhét cho chúng thêm một liều nữa trên đường từ sân bay tới ga tàu rồi. Chiếc rương không thể được đưa ra nước ngoài bởi máy chụp X-quang chụp các kiện hàng ở những chuyến bay quốc tế. Các ô tô và đồ đạc bên trong gần như sẽ được tháo dỡ ở các điểm kiểm tra. Con tàu chính là câu trả lời, một chuyến tàu trong nước tới một trạm biên giới thiếu người, trong khi Osborne lái xe ngược xuống từ Helsinki tới trạm biên giới bên Phần Lan ngay cả trước khi chiếc rương ra khỏi tàu. Lực lượng tuần tra biên giới Liên Xô sẽ làm công việc mở cái kiện hàng. Người Phần Lan đã giúp Osborne bằng việc bỏ lại cái rương không có ai trông coi trong lán hải quan. Liệu có bất cứ ai để ý thấy hắn tiến vào không? Liệu hắn có một chiếc áo khoác đặc biệt được làm với những khoang túi không? Liệu có một kẻ đồng phạm nào đó trong số những lính gác Phần Lan không? Không vấn đề gì, Osborne chưa bao giờ phải trình giấy tờ và chả có liên hệ nào giữa hắn với chiếc rương ngay từ đầu của hành trình này cho tới kết thúc.
Kostia Borodin, Valerya Davidova và James Kirwill đã chết trong công viên Gorky. John Osborne có sáu con chồn trại Barguzin ở đâu đó bên ngoài Liên Xô. Chiếc máy bay hạ thấp dần từ lúc hoàng hôn tới Moscow vào ban đêm.
Tại sân bay, Arkady gửi kiện hàng. Tính cả kỳ nghỉ, báo cáo của anh sẽ tới điểm đến trong bốn ngày dù cho có điều gì xảy ra với anh hay không.
Sân dưới nhà đã bị theo dõi. Arkady đi vào tầng hầm từ con hẻm và dùng thang bộ để đi lên căn hộ của mình, anh đổi sang bộ quân phục trưởng thanh tra trong bóng tối. Bộ quân phục có màu xanh hải quan với bốn ngôi sao màu đồng của quân hàm đại úy trên cầu vai và một ngôi sao màu đỏ trên viền vàng của chiếc mũ. Khi đang cạo râu, anh nghe thấy tiếng ti vi ở căn hộ bên trên và bên dưới. Cả hai đều chuyển sang kênh có buổi biểu diễn truyền thống vào đêm trước Ngày Quốc tế Lao động của nhà hát Bolshoi, vở Hồ Thiên Nga ở Điện Kremlin. Trong suốt phần mở màn, anh nghe thấy tiếng của người dẫn chương trình nhấn mạnh những vị khách danh dự và đáng mến nhất trong sáu ngàn vị khách buổi tối hôm ấy, nhưng anh không nghe ra được những cái tên. Anh nhét khẩu tự động vào trong túi áo quân phục.
Trên đại lộ Taganskaya, anh mất hai mươi phút để vẫy một chiếc taxi. Chuyến đi tới trung tâm thành phố ngập đầy ánh đèn pha và những bảng biểu. Suốt cả năm, Moscow như một con nhộng khắc khổ cuộn mình trong những tấm biểu ngữ cổ động vươn tới cuộc sống tựa một chú bướm tới những ánh đèn rực rỡ như đêm nay. Những đôi cánh màu đỏ treo đầy trên các tòa nhà cao tầng và dâng lên đầy trên những con phố lớn. Những dòng chữ chạy: LÊ-NIN ĐÃ SỐNG, ĐANG SỐNG VÀ SẼ SỐNG MÃI MÃI! Chiếc taxi lao vọt qua những dòng chữ. NHỮNG CÔNG NHÂN ANH HÙNG... CAO QUÝ VÀ CHƯA TỪNG CÓ TRONG LỊCH SỬ... BIỂU DƯƠNG... VINH QUANG... Không có phương tiện giao thông công cộng nào được phép chạy trong các dãy phố quanh Quảng trường Đỏ. Arkady trả đồng rúp cuối cùng cho người lái taxi và đi bộ tới Quảng trường Sverdlov ngay khi William Kirwill bước ra khỏi khách sạn Metropole mang theo một cái vali lên chiếc xe buýt Intourist. Kirwill mặc một chiếc áo mưa màu nâu xám và một chiếc mũ vải tuýt vành ngắn, trông anh ta giống như một trong số hàng tá vị khách người Mỹ đang xếp hàng lên xe bus. Khi Arkady vẫn đang qua khu vườn trong trung tâm quảng trường, Kirwill nhìn thấy anh và lắc đầu. Arkady dừng lại. Nhìn quanh, anh thấy những thám tử cảnh sát trong một chiếc xe đằng sau xe buýt, trong quán cà phê khách sạn và ở các góc phố. Kirwill đặt chiếc vali xuống, nó vẫn còn vết lõm từ những cú đá của Arkady. Một chiếc xe buýt khác đang tới, ánh lóa của đèn pha chiếu qua và Kirwill biến mất. Kirwill đã cố gắng nhìn theo hướng của mỗi thám tử để đề phòng Arkady có bỏ lỡ ai. Người lái xe hãng Intourist thẩn thơ đi ra từ khách sạn, ném một điếu thuốc lên phố và mở cửa cho khách lên xe.
“Osborne,” Arkady ra hiệu bằng miệng từ giữa quảng trường.
William Kirwill nhìn vào vị thanh tra một lần cuối. Rõ ràng, anh ta đã không bắt được cái tên. Anh ta muốn nó một cách khủng khiếp, nhưng anh ta biết để có được nó, anh ta sẽ phải giết tất cả những người mặc thường phục đang theo dõi mình ở quảng trường và tất cả những kẻ đi theo, thậm chí sẽ phải đánh sập tất cả các tòa nhà ở quảng trường và tất cả ở trong thành phố.
Vở Hồ Thiên Nga văng vẳng trên radio xe buýt. Kirwill là người cuối cùng lên xe. Lúc ấy, Arkady cũng đã đi rồi.
Những chiếc búa và những con tàu vũ trụ được trang hoàng bởi những bông hoa chờ đợi cuộc diễu binh buổi sáng ở Quảng trường Dzerzhinsky. Arkady nhảy lên một chiếc xe thiết giáp chở lính, và họ băng qua những khán đài trống ở Quảng trường Đỏ. Ánh đèn pha khiến những bức tường của điện Kremlin như lơ lửng trên không, những lỗ châu mai đuôi én rung rinh.
Dọc con phố Manezhnaya phía bên kia Điện Kremlin, những chiếc limousine xếp với nhau thành những hàng chéo đen bóng. Không chỉ là những chiếc limousine Chaika thông thường mà có cả những chiếc Zil của Đoàn chủ tịch, được trang bị vũ khí và mũi nhọn cùng với hệ thống ăng ten. Những người cảnh sát đi tuần đứng xếp hàng cách nhau dọc theo giữa con phố, những nhóm cảnh sát khác thì cưỡi xe môtô đi đi lại lại từ những khoảng trống của Quảng trường Manezhnaya tới Tháp Kutafia của Điện Kremlin, nơi Arkady nhảy xuống khỏi chiếc xe thiết giáp. Bộ quân phục và nhân dạng của anh, anh giải thích với viên sĩ quan KGB đang tiến đến, rằng mình có thông tin gửi tới Tổng Công tố. Anh kiểm soát tay mình khi châm điếu thuốc, và di chuyển khỏi ánh đèn pha đang chiếu sáng vươn lên khỏi những khu vườn thấp bên dưới lên tận qua cây cầu ngắn quét vôi trắng toát nối liền giữa Tháp Kutafia và Cổng Trinity của Điện Kremlin. Anh di chuyển thật bình thường qua con phố vào bóng tối của tòa nhà Manezh, trường dạy cưỡi ngựa của các Nga hoàng. Từ đó, anh có thể thấy dải mái nhà cẩm thạch trắng của Nhà Quốc hội qua bức tường của Điện Kremlin. Khi chiếc xe chở những nhân viên KGB đi qua, anh nghe thấy tiếng những màn múa cuối cùng của vở bale, một điệu valse, trên radio của chiếc xe. Dọc theo tòa Manezh, những hình bóng lay động - một con mắt ở đây, một bàn chân ở kia.
Bên trên Cổng Trinity, những đàn bướm đêm, sáng như pha lê, đang bò lên ngôi sao ruby của Tháp Trinity. Bóng hai người lính nhô lên từ cánh cổng chìm trong ánh sáng phía sau cho tới khi họ bước qua cây cầu nhỏ. Một chiếc xe khác của KGB đi qua kéo lê theo một tràng vỗ tay trên sóng radio. Vở ba lê đã kết thúc.
Để tới sân bay đúng giờ, Osborne sẽ phải tiếp tục đi qua buổi đón tiếp chính thức sau buổi biểu diễn. Mặc dù vậy, vẫn có những tiếng vỗ tay đón mừng, những bó hoa đón chào những nữ diễn viên múa ba lê và Đoàn chủ tịch và hẳn nhiên là cả một cuộc len lỏi không thể tránh khỏi ở phòng giữ đồ. Những tài xế riêng thong thả tiến về chiếc limousine của họ.
Các vị khách bắt đầu xuất hiện. Arkady nhìn một hàng dài những người Trung Quốc, rồi những chàng Hải quân trong bộ quân phục màu trắng, một vài người phương Tây cười sang sảng, những người châu Phi thì cười còn to hơn, các nhạc công, phụ nữ trong những bộ đồng phục lịch lãm đang giữ hoa, một nhà văn trào phúng đứng một mình. Những chiếc limousines giương cờ ngoại giao tiến tới với hành khách của mình. Các vị khách đến còn ít và cây cầu nối tới vỉa hè vẫn còn trống. Chẳng có lý do nào rõ ràng cho Arkady bắt đầu bước xuống phố.
Một người đang rảo bước nhanh, thanh mảnh như dao, tiến tới Cổng Trinity. Bóng người đó bước qua những ánh đèn của cây cầu và Osborne đang đeo đôi găng tay, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước vào những khuôn mặt cảnh giác của những người đang mặc thường phục và những cánh cửa mở của những chiếc limousine. Hắn mặc một chiếc áo choàng đen khiêm tốn và vẫn là chiếc mũ lông chồn mà hắn đã đề nghị tặng Arkady. Bộ lông tối màu tương phản với mái tóc bạc của hắn. Sự chú ý của những người mặc thường phục chuyển sang những vị khách theo sau Osborne. Hắn biến mất về phía Tháp Kutafia, hiện lên trên những bậc thềm của tòa tháp và bước xuống vỉa hè đi về phía chiếc limousine đang lăn tới phía hắn trước khi hắn thấy Arkady bước tới.
Arkady cảm thấy sự bất ngờ khi nhận ra trong đôi mắt tay người Mỹ, sự rung động ấy nhanh chóng bị nén xuống tới mức nó chẳng khác gì một nhịp đập dư của trái tim. Họ gặp nhau bên chiếc limousine, đối mặt với nhau qua nóc chiếc xe.
Osborne nhoẻn một nụ cười rạng rỡ, đầy sức mạnh.
“Anh chẳng chịu đến lấy mũ gì cả, Thanh tra.”
“Không.”
“Cuộc điều tra của anh...”
“Nó kết thúc rồi,” Arkady nói.
Osborne gật đầu. Arkady có đủ thời gian để ngưỡng mộ những đồ vàng và lụa quanh người hắn, nhìn giống như cây gỗ có làn da rám nắng, những đường nét chẳng có chút Nga nào. Anh nhìn đôi mắt Osborne dò xét lên xuống con phố để xem liệu Arkady có đi một mình hay không. Sau khi yên tâm, đôi mắt quay lại nhìn chằm chằm Arkady.
“Tôi có nơi cần phải đến, Thanh tra. Unmann sẽ đưa cho anh mười ngàn đô la Mỹ trong vòng một tuần. Anh có thể đổi chúng sang tiền tệ nước nào anh muốn - Hans sẽ xử lý việc này. Điều quan trọng là tất cả mọi người đều hài lòng. Nếu Iamskoy thất bại và anh để tôi yên, tôi sẽ xem như một sự phục vụ khác còn đáng giá hơn nhiều. Tôi chúc mừng anh, anh không chỉ giữ được mạng mà còn tận dụng tốt nhất cơ hội của mình,”
“Tại sao ông phải nói tất cả những điều đó?” Arkady hỏi.
“Anh không đến để bắt tôi. Anh không có bằng chứng. Bên cạnh đó, tôi biết cách mà người như anh làm việc. Nếu đây là vụ bắt giữ, tôi sẽ quay trở lại chiếc xe của KGB và sẽ bay đi Lubyanka ngay. Chỉ là anh, thanh tra - một mình anh. Nhìn quanh đi - tôi thấy những người bạn của tôi, nhưng chẳng thấy người nào của anh.”
Đến lúc này, những điệp viên trong thường phục vẫn chưa chú ý thấy sự chậm trễ của Osborne. Ở một khoảng cách gần, họ là những người đàn ông to lớn một cách đặc trưng đang xua những vị khách bình thường khỏi những chiếc xe xa hoa.
“Anh định cố gắng tóm cổ một người phương Tây, ở đây trong vô số nơi, đêm nay trong vô số đêm, mà không cần một lệnh được ký từ KGB, thậm chí không cần biết đến công tố viên của anh, không cần bất cứ một ai khác cả, chỉ với mỗi mình anh? Anh, một kẻ bị truy nã vì giết người? Họ sẽ nhét anh vào một viện tâm thần. Tôi sẽ không lỡ chuyến bay của mình đâu, họ sẽ hoãn nó lại vì tôi. Nên anh đến tất cả chỉ là vì tiền mà thôi. Tại sao không? Anh đã biến công tố viên thành một người giàu có sẵn rồi.”
Arkady kéo khẩu tự động của mình ra và đặt nó lên chỗ gập khuỷu tay trái, chỉ đủ để mỗi Osborne có thể thấy cái nòng súng đen ngòm. “Không,” hắn nói.
Osborne nhìn xung quanh.
Những người đàn ông trong thường phục kia có mặt quanh đó, nhưng lại bị xao nhãng bởi dòng khách đổ xuống ngày càng nhiều qua những ánh đèn pha.
“Iamskoy cảnh báo tôi rằng anh sẽ là một kẻ như vậy. Anh không cần tiền, đúng không?” Osborne hỏi.
“Không.”
“Anh đang định cố bắt tôi phải không?”
“Ngăn ông.” Arkady nói. “Không cho ông lên chuyến bay ấy, đó là khởi đầu. Rồi, sẽ không phải là bắt ông ở đây, đêm nay. Chúng ta sẽ lấy xe của ông. Chúng ta sẽ đi một chuyến trong đêm nay, và ngày mai chúng ta sẽ có mặt ở văn phòng KGB ở một thị trấn nhỏ nào đó. Họ sẽ không biết phải làm gì và họ sẽ gọi thẳng đến Lubyanka. Những người ở các thị trấn nhỏ sợ những tội phạm quốc gia, những tên trộm tài sản quốc gia giá trị, phá hoại nền công nghiệp nước nhà, buôn lậu, che giấu tội phạm quốc gia - mà tôi bảo đó là giết người. Tôi sẽ bị đối xử một cách hoài nghi, còn ông sẽ được đối xử một cách lịch sự, nhưng ông biết những người như tôi làm việc thế nào. Sẽ có nhiều cuộc điện thoại hơn, những chiếc lồng sẽ được xem xét kỹ lưỡng, một chiếc rương nhất định sẽ được chuyển tới. Sau tất cả, một khi ông đã lỡ chuyến bay tối nay, ông sẽ muộn hoàn toàn. Dù sao thì, nó cũng đáng một cơ hội.”
“Anh đã đi đâu ngày hôm qua?” Osborne hỏi sau một giây suy nghĩ. “Không ai tìm ra anh được.”
Arkady không nói gì.
“Tôi cho rằng anh đã tới biên giới ngày hôm qua.” Osborne nói. “Tôi cho rằng anh nghĩ anh biết hết mọi việc.” Hắn xem đồng hồ của mình. “Tôi sẽ phải chạy tới chuyến bay đó. Tôi sẽ không ở lại.”
“Thế thì tôi sẽ bắn ông thôi,” Arkady nói.
“Rồi anh sẽ bị bắn ở giây tiếp theo bởi tất cả những người đang có ở đây.”
“Đúng thế.”
Osborne với tay khóa cánh cửa ô tô. Arkady bắt đầu siết lên cò khẩu Marakov, đẩy cái lẫy nhả ra, nó sẽ trượt dọc theo ổ đạn và tách khỏi lá nhíp và đẩy chiếc búa đập về phía viên đạn 9 li trong ổ khóa nòng.
Osborne thả cái tay khóa ra. “Tại sao?” Hắn hỏi. “Anh không thể sẵn sàng chết một cách đơn giản để thực hiện một cuộc bắt giữ nhằm làm hài lòng công lý của Xô Viết được. Ai cũng bị mua chuộc, từ trên xuống dưới. Cả đất nước này đã bị mua chuộc rẻ mạt, rẻ mạt, rẻ mạt nhất thế giới. Anh chẳng quan tâm tới những tin tức mới gì cả, anh không ngu ngốc như thế chút nào nữa. Vậy thì lý do gì để anh phải hy sinh ở đây? Ai chứ? Irina Asanova?”
Osborne chỉ vào túi chiếc áo khoác, rồi chầm chậm nhét tay vào túi áo và lấy ra một chiếc khăn có màu đỏ-trắng pha xanh được trang trí hình những quả trứng Phục sinh, chiếc khăn mà Arkady đã mua tặng Irina. “Cuộc đời luôn luôn phức tạp hơn và đơn giản hơn chúng ta tưởng,” hắn nói. “Tôi thấy nó trên mặt anh.”
“Làm thế nào ông lấy được cái khăn?”
“Một sự trao đổi đơn giản thôi, Thanh tra. Tôi giữ cô ấy. Tôi sẽ nói cho anh biết cô ấy ở đâu, và anh thực sự sẽ chẳng có thời gian để mà lo lắng xem tôi có nói dối hay không, bởi cô ấy sẽ không ở đó lâu đâu. Có hay không?”
Osborne đặt chiếc khăn lên nóc xe. Arkady lấy nó bằng tay trái và đưa nó lên mũi. Nó có mùi của Irina.
“Đã hiểu,” Osborne nói, “chúng ta đều có nhu cầu căn bản của mỗi người và vì nó chúng ta sẽ phá hủy mọi thứ khác. Anh sẽ quăng cuộc đời, sự nghiệp và lý trí cho người con gái ấy. Tôi thà phản bội đồng minh của mình hơn là lỡ máy bay. Cả hai chúng ta đều đang hết thời gian.”
Chiếc limousine đang lùi lại. Tay điệp viên thường phục ở gần hơn đang hét và vẫy vẫy Osborne bước vào xe.
“Có hay không?” Osborne hỏi.
Chẳng có quyết định nào để mà đưa ra cả. Arkady nhét chiếc khăn vào bên trong quân phục. “Ông nói tôi biết cô ấy ở đâu,” anh nói. “Nếu tôi tin ông, ông sẽ tự do. Nếu tôi không tin, tôi sẽ giết ông.”
“Đủ công bằng. Cô ấy đang ở trường đại học, trong khu vườn gần bể bơi.”
“Nhắc lại,” Arkady nghiêng người về trước, kéo cò mạnh hơn một chút. “Trường đại học, trong khu vườn gần bể bơi.”
Lần này Osborne đã tự củng cố tinh thần một cách chủ động để đón nhận viên đạn, đầu hắn hơi nghiêng ra sau nhưng đôi mắt thì vẫn nhìn chằm chằm vào mắt Arkady. Lần đầu tiên, hắn cho phép viên Thanh tra nhìn mình. Một con quái vật đang nhìn thấu đôi mắt Osborne, có một thứ gì đó bị buộc chặt bởi tay hắn, một sinh vật sống trong áo khoác và trong lớp da. Đôi mắt của Osborne không có chút nào sợ hãi.
“Tôi sẽ lấy xe của ông.” Arkady thả khẩu súng vào trong túi áo. “Ông hẳn có thể mua được cái tiếp theo phía sau.”
“Tôi yêu nước Nga.” Osborne thì thầm.
“Về đi, ngài Osborne.” Arkady bước vào trong chiếc limousine.
Ngôi trường tỏa sáng. Bên dưới ngôi sao vàng, trong lớp vòng hoa vàng, là một ngọn tháp nhọn được chiếu hắt sáng từ dưới lên và những ngôi sao ruby, ba mươi hai tầng nhà không một bóng sinh viên đã về nghỉ ngày Quốc tế Lao động. Ở bên cánh của những khu vườn rộng thênh thang trong khuôn viên trường, rộng đến năm trăm mét, những Ngọn đồi Lê-nin trải dài. Trong đêm trước ngày Quốc tế Lao động, những khu vườn được thắp sáng bằng những ngọn đèn mờ dịu, những con đường mòn tỏa ra từ đài phun nước lớn để đi dạo lang thang xuyên qua những hàng rào, chìm vào những hàng cây vân sam và cây thông.
Khu vườn trước thì nhìn ra dòng sông có một hồ nước dài sủi bọt trắng dưới những vòi phun và rực rỡ ánh đèn màu. Đêm thành phố được thắp sáng bởi những ánh đèn chiếu dài hàng mét bắt đầu từ những hệ thống phòng không dọc theo những con đê.
Osborne đã trốn thoát mà không hề tốn công sức. Hắn đã lôi trái tim Arkady ra với chiếc khăn của Irina. Tuy nhiên, Arkady chắc chắn rằng cô ở đây. Đó là một cái bẫy, không phải một lời nói dối.
Ánh đèn chiếu từ những con đê kéo dài nửa tiếng đồng hồ. Cuối cùng thì những ánh đèn màu rực rỡ ở hồ nước tắt lịm, những vòi phun chìm xuống và trên bề mặt tĩnh lặng hiện lên hình ảnh phản chiếu của tòa tháp trong ngôi trường.
Anh đợi giữa những cây linh sam. Máy bay của Osborne lúc này hẳn đang lơ lửng trên trời rồi. Những hàng cây lay động đung đưa, tỏa ra mùi nhựa như một cơn gió nhẹ lướt qua. Tít đầu bên kia hồ nước, có hai bóng người đang bước về phía anh.
Nửa đường thì những cái bóng ngã xuống và mặt hồ rung rinh. Arkady chạy tới, rút khẩu súng của mình ra. Anh phát hiện ra đó là Unmann đang đứng giạng chân đè lên một người trên thành hồ, rồi anh thấy Irina khi cô ngẩng đầu lên thoát khỏi mặt nước. Unmann dúi cô xuống một lần nữa, và cô quàng tay ra sau, cào cấu hắn. Unmann xoắn tóc cô lại thành một búi, cách tốt nhất để giữ cô đứng yên. Hắn ngẩng lên nhìn khi nghe thấy tiếng hét của Arkady. Tên người Đức có đôi mắt trũng sâu và hàm răng nhô ra phía trước. Hắn thả Irina ra. Cô vùng dậy khỏi mặt nước và nôn thốc nôn tháo bên cạnh hồ. Mái tóc ướt sũng tỏa khắp khuôn mặt.
“Đứng dậy.” Arkady ra lệnh cho Unmann.
Unmann vẫn đang quỳ và cười nham nhở. Arkady cảm thấy một vật kim loại nóng chải lên mái tóc ngắn ngủn của anh và dí vào dưới tai anh.
“Thay vì thế,” Iamskoy khép bước cuối cùng lại phía sau Arkady. “Tại sao anh không quẳng khẩu súng của mình xuống nhỉ?”
Arkady làm theo và Iamskoy đặt một bàn tay vỗ về lên vai anh.
Arkady có thể nhìn thấy những đầu ngón tay hồng hồng. Khẩu súng, cùng loại được cấp như của Arkady, ghì chặt vào sau cổ anh. “Đừng làm vậy,” anh nói với lão công tố viên.
“Arkady Vasilevich, làm sao tôi có thể tránh được điều đó? Nếu anh làm như được chỉ đạo, chẳng có ai trong số chúng ta sẽ ở đây lúc này. Tình huống đáng buồn này sẽ không có. Nhưng anh đã vượt ngoài tầm kiểm soát. Anh là trách nhiệm của tôi, và tôi phải dọn dẹp vụ việc này không chỉ vì quyền lợi của chính mình mà còn vì cả văn phòng mà chúng ta đại diện. Đúng hay sai chẳng liên quan gì ở đây cả. Điều đó không phải để hạ thấp tài năng của anh. Sẽ không có một thanh tra nào khác có sức mạnh trực giác như anh, sự tháo vát và toàn diện như anh. Tôi vô cùng tin tưởng vào điều đó.” Unmann đứng dậy và lò dò đi tới trước. “Tôi cứ nghĩ rằng tôi là một học trò của anh, và anh...”
Trong khi Iamskoy khen ngợi, Unmann đấm thẳng vào bụng anh, rút cú đấm ra với một sự háo hức kỳ dị. Arkady nhìn xuống và thấy chuôi một con dao mảnh đang đâm vào bụng anh. Anh cảm thấy như băng lạnh bên trong cơ thể và không thở nổi.
“Và anh đã làm tôi ngạc nhiên,” Iamskoy tiếp tục. “Hầu như tất cả mọi việc, anh làm tôi ngạc nhiên bằng việc tới đây để cứu một kẻ lang thang. Điều này thật là thú vị, bởi Osborne không hề ngạc nhiên chút nào.”
Đôi mắt Arkady lấp đầy sự vô vọng với Irina.
“Hãy thành thực với chính mình,” Iamskoy nói, “và tôi công nhận tôi đang cho anh một ân huệ. Bên cạnh thanh danh của cha anh, anh chẳng mất đi điều gì cả - không vợ, không con, không nhận thức chính trị và không tương lai. Anh có nhớ cái chiến dịch chống chủ nghĩa Vronsky sắp tới chứ? Anh đáng ra là kẻ đầu tiên phải đi. Đó là kiểu kết quả sẽ tới với những kẻ chủ nghĩa cá nhân. Tôi đã cảnh báo anh về điều đó từ rất lâu rồi. Anh thấy kết quả của việc lờ đi những lời khuyên chưa. Tin tôi đi, cách này tốt hơn nhiều. Sao anh không ngồi xuống nhỉ?”
Iamskoy và Unmann bước lùi lại để anh ngã xuống. Hai đầu gối Arkady rung lên và bắt đầu lùi lại. Anh rút con dao ra. Cứ như là nó được rút ra mãi vậy, hai lưỡi sắc và đỏ rực. Sản phẩm tay nghề của người Đức, anh nghĩ. Một dòng nóng bỏng chảy xuống bên trong bộ quân phục của anh. Không hề cảnh báo, anh vung con dao vào bụng Unmann, chính nơi hắn đã đâm con dao vào người anh. Lực của cú lao xô hai người họ xuống hồ.
Họ cùng vùng lên từ dưới nước. Unmann cố đẩy ra, nhưng Arkady quyết tâm cắm con dao vào sâu hơn và giật nó dựng lên. Dọc rìa hồ nước, Iamskoy đang chạy lên chạy xuống để có tầm bắn an toàn. Unmann bắt đầu đấm liên tục vào tai anh và Arkady tiến sát hơn, ôm chặt nhấc hắn lên. Không thoát ra được, Unmann tìm cách cắn xé và Arkady ngã ra sau, kéo theo hắn chìm xuống nước với anh. Dưới mặt nước, tay người Đức ngồi lên trên, siết chặt họng Arkady. Anh nhìn lên từ dưới đáy. Gương mặt của Unmann nhăn nhó, run rẩy đầy kích động, méo mó, vỡ ra rồi lại trở lại với nhau như thủy ngân, sau mỗi lần lại rời rạc hơn lần trước. Nó vỡ tan thành những ánh trăng, và những ánh trăng lại vỡ tan thành những cánh hoa. Rồi một đám mây màu đỏ che khuất Unmann, bàn tay hắn chùng xuống và trôi ra khỏi tầm mắt.
Arkady ngoi lên thở dốc. Cái xác của Unmann lơ lửng ở bên.
“Đứng im đó!”
Arkady nghe thấy tiếng hét của Iamskoy, dù sao thì anh cũng chẳng thể nào di chuyển được.
Iasmkoy đứng bên cạnh hồ, chĩa súng vào anh. Một tiếng nổ lớn của một khẩu súng ngắn, dù Arkady không nhìn thấy ánh sáng lóe lên. Anh thấy chiếc mũ của Iamskoy đã không còn nguyên vẹn, thay vào đó là một cái vương miện thủng trên cái đầu cạo trọc của Iamskoy. Công tố viên đưa tay lau vệt máu trên lông mày, nhưng đầu thì lại đang tuôn máu, như một đài phun nước. Irina đang đứng sau lưng Iamskoy, tay cầm khẩu súng. Cô bắn một phát nữa, quật đầu Iamskoy xoay một vòng và Arkady lại thấy một cái tai biến mất. Cô bắn lần thứ ba, xuyên qua ngực Iamskoy. Công tố viên cố gắng giữ thăng bằng. Phát bắn thứ tư ông ta lao gục xuống mặt nước và chìm nghỉm.
Irina bước tới hồ nước để kéo Arkady lên. Cô kéo anh lên khi Iamskoy trồi lên khỏi mặt nước ngang hông bên cạnh họ. Ông ta ngã ngửa về sau mà không nhìn thấy họ, đôi mắt mở to nhìn thẳng vào màn đêm, và gầm lên, “Osborne!”
Công tố viên chìm nghỉm như thể đang bước xuống một cầu thang, nhưng Arkady nghe thấy tiếng hét rất lâu sau khi ông ta biến mất dưới làn nước.
Án Mạng Ở Công Viên Gorky Án Mạng Ở Công Viên Gorky - Martin Cruz Smith Án Mạng Ở Công Viên Gorky