Books can be dangerous. The best ones should be labeled "This could change your life."

Helen Exley

 
 
 
 
 
Tác giả: Martin Cruz Smith
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 14
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 16
ốn giờ sáng, Arkady gọi tới Ust-Kut. “Tôi là Thám tử Yakutsky.”
“Tôi là trưởng thanh tra Renko ở Moscow.”
“Ồ? Cuối cùng thì anh cũng gọi vào thời gian phù hợp.” Yakutsky nói.
Arkady nhắm mắt trước bóng tối của cửa sổ. “Chồn thì ăn gì?” Anh hỏi.
“Anh gọi tôi để hỏi vậy à? Anh không thể tìm thấy phiên bản bách khoa toàn thư nào sao?”
“Bộ quần áo của Borodin có dấu vết máu gà và cá. Anh ta mua gà và cá hàng ngày.”
“Chồn zibelin và chồn vizon ăn thịt gà và cá. Nhớ là, con người cũng thế.”
“Không phải hàng ngày.” Arkady nói. “Có tên trộm chồn nào ở chỗ anh không?”
“Không, không hề.”
“Không có sự việc bất thường nào xảy ra ở bất cứ trại lông thú nào à?”
“Chẳng có gì bất thường cả. Có một vụ cháy hồi tháng Mười một tại một trại ở Barguzin, và có năm hay sáu con chồn zibelin bị chết.”
“Chúng cháy tới mức nào?”
“Chết, như tôi nói đấy. Thực ra thì, tổn thất có thể đánh giá được, bởi trại Barguzin là trại có những bộ lông chồn zibelin tốt nhất.”
“Có một cuộc điều tra được thực hiện nhưng không phát hiện ra sự bất cẩn nào.”
“Liệu các khám nghiệm tử thi trên các con vật có cho thấy chính xác đó là chồn trại Barguzin hay không và liệu chúng có thực sự chết vì lửa, hay chính xác khi nào chết không?”
“Thưa thanh tra, tôi đảm bảo với anh rằng chỉ có ai đó ở Moscow mới có thể nghĩ đến những chuyện thế.”
Sau khi dập máy, Arkady lặng lẽ mặc quần áo và rời khỏi căn hộ, đi bộ về phía Quảng trường Taganskaya trước khi bước vào một bốt điện thoại công cộng, vẫn không nhận được trả lời từ căn hộ của Misha. Anh gọi và đánh thức Swan lẫn Andreev, rồi đi bộ quay trở lại căn hộ của mình, đứng dựa vào tường phòng ngủ ngắm nhìn Irina.
Liệu anh có thể đi tới chỗ vị Tổng công tố và nói rằng công tố viên Moscow là một kẻ giết người không? Hai ngày trước ngày Quốc tế Lao động? Mà chẳng có bằng chứng gì? Họ sẽ bảo anh say xỉn hoặc điên rồi, và sẽ giam anh lại cho tới khi Iamskoy đến. Anh có thể tới chỗ KGB không? Osborne là một người đưa tin của KGB. Tay anh cũng dính máu của một nhân viên KGB đã chết, nhờ Kirwill cả.
Bình minh dần soi rõ cơ thể Irina. Một hình hài xanh nhạt trên tấm ga trải xanh nhạt. Anh ngắm nhìn như thể chỉ cần tập trung đủ là sẽ in hằn hình ảnh của cô vào mắt anh. Trán cô được che phủ bởi mái tóc đang trở thành màu vàng lấp lánh khi mặt trời lên.
Thế giới chỉ là một hạt bụi bị quậy tung lên bởi hơi thở của cô. Thế giới là một tên hèn nhát âm mưu giết hại cô. Anh có thể cứu cô. Anh sẽ mất cô, nhưng anh có thể cứu lấy cuộc đời của cô.
Khi cô tỉnh giấc, anh đã làm cà phê và để váy của cô dưới chân giường.
“Có chuyện gì vậy?” Cô hỏi. “Tôi tưởng anh thích có tôi ở đây.” “Nói cho tôi biết về Osborne đi.”
“Chúng ta đã nói về tất cả rồi mà, Arkady.” Irina ngồi dậy. “Ngay cả nếu tôi tin vào điều anh nói về Osborne, thì sẽ ra sao nếu tôi sai? Nếu Valerya đang an toàn ở nơi nào đó, tôi sẽ tìm đến người đã giúp cô ấy. Nếu cô ấy đã chết thì là cô ấy đã chết. Không gì có thể thay đổi được điều đó cả.”
“Đi nào.” Arkady ném chiếc váy về phía cô. “Cô nói về cái chết quá dễ dàng. Tôi sẽ giới thiệu cô với thần chết.”
Trên đường tới phòng thí nghiệm, Irina nhìn chăm chăm vào anh. Anh cảm thấy cô đang tìm kiếm lời giải thích cho sự thay đổi đột ngột của một nhà điều tra.
Arkady đưa cô vào trong phòng thí nghiệm điều tra với anh để lấy một chiếc túi bằng chứng đã được đóng kín và một túi rỗng từ Đại tá Lyudin. Lyudin rất quan tâm tới Irina, một số mẹo với bàn tay lẫn chiếc khăn quàng mới đã biến chiếc áo Afghanistan của cô trở nên nhẹ nhàng lịch sự.
Lái xe đi, cô tỏ ra ức chế với sự cộc cằn của Arkady bằng việc nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ. Tính cách của cô nói rằng, đây là một kiểu cãi nhau vụn vặt điển hình của những cặp yêu nhau. Một mùi hương thoang thoảng trong xe. Cô nhìn vào chiếc túi được niêm phong và chiếc túi bằng chứng to đùng bên cạnh mình. Mùi hương nhẹ nhàng thoang thoảng tới nỗi khó mà nhận thấy, nhưng nó có sự đậm đà lưu lại ở lưỡi và cổ họng. Khi họ tới dòng sông, cô mở cửa sổ bên mình ra đón không khí lạnh bên ngoài.
Ở viện Dân tộc học, Arkady đưa Irina lên phòng của Andreev. Dịu lòng khi ra khỏi chiếc xe, cô tỏ vẻ tò mò trước những chiếc tủ đựng đầu của Tamerlane và Ivan bạo chúa trong khi Arkady đi tìm nhà nhân chủng học. Nhưng Andreev đã biến mất, như thể anh ấy đã thề là sẽ biến mất.
Arkady nhìn Irina đi qua căn phòng trưng những chiếc đầu.
“Có phải đó là thứ anh đưa tôi đến để xem?” Cô vỗ vào cái tủ đựng Ivan.
“Không. Tôi hy vọng chúng ta có thể gặp giáo sư Andreev. Không may là, anh ấy có vẻ như không có ở đây. Anh ấy là một người phi thường, cô chắc hẳn phải nghe nói về anh ấy rồi chứ.”
“Không.”
“Họ giảng bài về thành tựu của anh ấy ở Khoa Luật,” Arkady nói. “Cô cần phải nhớ điều đó chứ nhỉ.”
Irina nhún vai và rời những cái tủ sang những chiếc bàn trưng bày, dò xét những khuôn mặt với những cặp lông mày rậm và đôi mắt thủy tinh. Cô đi tới gần hơn. Công trình của Andreev quả là nhiệm màu. Arkady nhìn thấy sự thích thú của Irina trên một khuôn mặt nhăn nhó như khi rúm ró, và trong một khuôn mặt khác đang thể hiện một sự cau có khốc liệt. Ở cuối chiếc bàn là một đĩa bánh xoay đặt sọ người Neanderthal, đã được phủ một nửa với những dải sợi cơ Palestine màu hồng.
“Tôi biết.” Cô chạm vào phần trơ trụi của cái sọ. “Andreev tái dựng chúng,” cô rụt tay ra sau, những từ định nói vẫn đọng trên môi.
“Không sao cả.” Arkady tiến tới gần cô. “Anh ấy để lại cho chúng ta.”
Lủng lẳng dưới tay của Arkady là sợi dây treo một chiếc hộp tròn phủ men màu hồng, kiểu hộp đã lỗi thời từ cách đây sáu mươi năm.
“Tôi đã nghe nói về Andreev.” Irina lau những ngón tay của mình.
Khi Arkady bước về phía cô, chiếc hộp nhún nhảy theo kiểu nặng đầu.
Mỗi sinh viên khoa Luật đều biết đến các tác phẩm tái dựng đầu các nạn nhân bị giết của Andreev. Lái xe dọc công viên Gorky, cựu sinh viên ưu tú Irina Asanova chỉ hít thở bầu không khí độc hại của chiếc xe. Mùi chết chóc tỏa ra từ chiếc túi bị niêm phong và lách cách trong chiếc hộp ở ghế sau.
“Chúng ta đang đi đâu đây, Arkady?” Irina hỏi.
“Cô sẽ biết thôi.” Arkady chọn những từ tẻ nhạt nhất, câu trả lời với một tù nhân.
Anh không đưa ra lời giải thích hay sự thương xót nào để làm cô bớt nghĩ, không bàn tay nào để nắm, không có sự cảm thông. Một người đàn ông không trở thành trưởng thanh tra nếu không có khả năng tàn nhẫn, anh tự nói với chính mình.
Khi toàn bộ đoàn xe hộ tống của những người lính đang đi qua bên trái và đôi mắt của Irina không hề nhìn sang bất cứ nơi nào ngoài nhìn thẳng về trước, anh biết đó là vì cô sợ hãi dù chỉ một sơ xuất nhỏ xíu thôi cũng khiến ánh mắt cô nhìn vào cái hộp sặc sỡ ghê tởm đó. Qua một đoạn đường gồ ghề nó xô lệch đi. Chiếc hộp như nói với Irina. Với cô, nó hẳn sẽ có cả một tiểu sử, đủ và còn hơn thế để có thể phun ra một chặng dài sau xe.
“Hãy đợi,” anh nói với cô trong khi cua góc. Chiếc hộp xô nghiêng và tay Irina va vào nó như thể cố tình.
Những tấm bảng vận động màu đỏ cho ngày Quốc tế Lao động chạy dọc một nhà máy vòng bi, nhà máy sản xuất máy cày, nhà máy điện, nhà máy dệt. Trên các tấm bảng biểu là những dòng chữ vàng, những vòng nguyệt quế vàng, những khẩu hiệu vàng. Từ những tầng lớp nhà máy mọc lên những cột khói xù xì màu thép. Hẳn lúc này cô phải biết mình đang bị đưa đi đâu.
Không ai nói lời nào cả tiếng đồng hồ khi đi về phía đông nam xuyên qua quận Lyublinsky, qua những nhà máy rộng lớn tới những nhà máy nhỏ hơn, rồi tới những căn hộ của công nhân được làm từ nhà đúc sẵn màu xám xịt, tới những ngôi nhà cũ kỹ được phá bỏ nhường cho sự phát triển, tới những cánh đồng quê bị chia cắt lộn xộn bởi những đường gạch của những người vẽ bản đồ, nảy tưng tưng trên những mảng bùn, qua cả những điểm dừng cuối cùng của xe buýt, vẫn trong giới hạn mở rộng của thành phố, tới một thế giới khác của những ngôi nhà thấp bé nhỏ hơn một cái cabin, những hàng rào cọc đung đưa và những chú dê bị buộc.
Anh đưa cô ra khỏi xe, lấy những chiếc túi và chiếc hộp từ ghế đằng sau. Ở cửa ngôi nhà, anh lấy ra ba chùm chìa khóa từ một trong những chiếc túi, những chùm chìa khóa được tìm thấy từ chiếc túi da dưới lòng sông. Trên mỗi chùm là một chìa khóa giống nhau.
“Nghe có vẻ logic, đúng không?” Anh hỏi Irina.
Chiếc chìa khóa vừa vặn. Cánh cửa bị kẹt và Arkady đẩy nó bằng hông, mùi nấm mốc tỏa ra khi cánh cửa mở. Trước khi bước vào trong, anh đeo đôi găng tay cao su và bật đèn. Bóng đèn đơn trên chiếc bàn tròn vẫn sáng. Ngôi nhà có mùi hôi thối của một cái bẫy và lạnh lẽo, như thể nó đã cất giữ cả mùa đông. Irina đứng ở giữa sàn nhà run cầm cập.
Chỉ có một phòng trong ngôi nhà, với bốn cánh cửa sổ ba lớp đều được đóng và khóa lại. Những tấm mền lông ngựa ở trong hai gian ngủ. Một cái lò than nằm trên một thềm đầy bụi. Ba cái ghế thuộc ba kiểu khác nhau xung quanh chiếc bàn. Một cái tủ với những miếng pho mát mốc meo và một chai sữa đã được mở đóng băng lạnh từ lâu rồi. Trên các bức tường, một bức ảnh của Brando và rất nhiều những hình tượng thánh được xé ra từ những quyển sách. Bên dưới một mảnh vải phủ sàn trong góc tường là những thùng sơn, những chai màu nhuộm và vecni, những miếng giẻ, một miếng mút, những cây cọ đầu bằng, máy khoan và bàn chải. Arkady kéo tấm mền ra từ một cái tủ để lộ ra hai bộ vest đàn ông, một size vừa và một size lớn, ba chiếc váy giá rẻ cùng size nhỏ và ở trên sàn là một đống giày lộn xộn.
“Đúng vậy,” Arkady đọc suy nghĩ trên khuôn mặt Irina, “nó giống như ở trong ngôi mộ của một ai đó. Luôn là thế.”
Ba tủ giày kiểu hải quân cũ đứng dựa vào tường. Arkady mở chúng ra, sử dụng những chiếc chìa khóa khác nhau từ mỗi cái móc chìa khóa. Cái đầu tiên đựng đồ lót, tất, Kinh thánh và những đồ tôn giáo lậu khác. Tủ thứ hai là quần áo lót, một lọ đựng bụi vàng, bao cao su, một khẩu côn Nagant cũ và đạn. Tủ thứ ba là quần áo lót của phụ nữ, trang sức bằng thủy tinh, một lọ nước hoa nước ngoài, một lọ thụt, kéo, bàn chải, son, cặp tóc, một cái bình, một con búp bê sứ nung hầu như không có gì đặc biệt, và những bức ảnh của Valerya Davidova, phần lớn là chụp với Kostia Borodin và một tấm là cô với một người đàn ông già đầy râu.
“Bố cô ấy, đúng không?” Anh nhấc tấm ảnh lên cho Irina thấy. Cô không nói gì. Anh đóng những cái tủ lại. “Kostia hẳn phải thực sự sợ hãi những người hàng xóm trong khi anh ta ở đây. Hãy tưởng tượng họ không vào đây mọi lúc.” Cái buồng ngủ đập vào mắt anh. “Kostia hẳn phải là một người khó tính, và phải sống với một người đàn ông khác nữa nhỉ? Dù sao thì, đây là cách chúng tôi sống,... Tại sao không ngăn tôi lại, Irina? Nói cho tôi biết họ đã làm gì đó cho Osborne ở đây.”
“Tôi nghĩ anh đã biết rồi chứ,” cô thì thầm.
“Đó là suy luận, cần phải có nhân chứng. Có ai đó phải nói với tôi chứ.”
“Tôi không thể.”
“Nhưng cô sẽ.” Arkady đặt chiếc hộp và những chiếc túi bằng chứng lên bàn. “Chúng ta sẽ giúp đỡ lẫn nhau và chúng ta sẽ làm sáng tỏ một vài điều bí ẩn. Tôi muốn biết điều gì mà Valerya và Borodin làm cho Osborne ở đây và cô muốn biết Valerya đang ở đâu lúc này. Rồi tất cả sẽ sớm rõ ràng thôi.”
Anh dịch chuyển một cái ghế đi chỗ khác, để lại hai cái ghế bên chiếc bàn. Anh nhìn quanh căn phòng. Nó quá tồi tàn, chỉ lớn hơn cái thùng các tông một chút, gói gọn bên trong nó ba cuộc đời, một tấm chăn mỏng chẳng đủ cho sự riêng tư.
Cái bóng đèn mờ tỏa ánh sáng vàng lên Irina và phủ bóng làm má cô trũng sâu. Anh nhìn thấy hình ảnh của mình trong mắt cô, một người đàn ông gầy hốc hác với mái tóc đen hoang dã và những đường nét góc cạnh, che bóng lên chiếc hộp màu hồng. Anh nhìn sâu hơn vào hình ảnh phản chiếu của gã đàn ông lố bịch ấy, con rối của Iamskoy, như Irina đã nhìn thấy thật chính xác về anh ngay từ ban đầu. Tuy nhiên anh có thể cứu cô khỏi Iamskoy và Osborne - và thậm chí khỏi chính cô, nếu ý chí của anh không rớt xuống.
“Vậy,” Arkady đập tay mình, “đó là ở công viên Gorky lúc trời nhá nhem. Đang có tuyết rơi. Người phân loại lông thú xinh đẹp Valerya, Kostia Kẻ cướp Siberi và cậu trai người Mỹ Kirwill đang trượt tuyết với nhà buôn lông thú Osborne khi họ rời khỏi con đường và tiến vào năm mươi mét tới khu đất trống để ăn uống. Họ đứng ở đó. Kostia ở đây” - Arkady chỉ vào chiếc ghế ở một phía chiếc bàn. “Cậu nhóc nhà Kirwill ở đây,” anh chỉ vào một chiếc ghế khác, “và Valerya ở giữa,” anh đặt tay mình bên cạnh chiếc hộp. “Cô, Irina, đứng đây,” anh đặt cô gần chiếc bàn hơn, “cô là Osborne.”
“Không, làm ơn.” Irina nói.
“Chỉ đơn giản vì mục đích giải thích thôi,” Arkady nói. “Tôi không thể tạo cả tuyết và lấy thêm chai vodka được, thứ lỗi nhé. Cố tưởng tượng không khí lúc đó, sự vui vẻ hân hoan. Ba người trong số họ hoàn toàn tin tưởng rằng một cuộc đời mới sắp bắt đầu - tự do cho hai trong số họ, tiếng tăm cho người thứ ba. Đây không chỉ là một bữa liên hoan trượt tuyết, mà còn là một buổi ăn mừng! Có phải đó là khi cô - Osborne, là thế - đang định hướng dẫn họ trốn thoát không? Rất có vẻ thế. Chỉ cô biết rằng chỉ vài giây nữa thôi họ sẽ chết.”
“Tôi...”
“Cô không quan tâm tới bất cứ cái rương tôn giáo nào cả, bất cứ ai cũng có thể lấy nó cho cô - ví dụ như là Golodkin. Nếu đó là điều tất cả ba người này đã làm cho cô, một chút buôn lậu và làm giả tượng thánh, cô có thể đã cho họ sống. Cho họ nói, cho họ đi ngay thẳng tới KGB với cáo trạng và những bức ảnh để chứng minh với họ, bạn bè của cô ở đó hẳn sẽ cười họ cho tới khi họ quay ra. Nhưng đây là một chuyện khác, không phải là cái rương mà lại điều họ thực sự làm cho cô, ba người này không bao giờ được nói đến - không phải ở Moscow, không ở bất cứ đâu.”
“Anh không phải làm thế này với tôi,” Irina nói.
“Tuyết đang rơi,” Arkady tiếp tục. “Mặt của họ hơi ửng đỏ bởi vodka. Họ tin tưởng cô, cô đã mang cái cậu người Mỹ Kirwill này vào rồi mà, đúng không? Đến khi chai vodka đầu tiên cạn, họ yêu cô lắm. Cô là vị cứu tinh của họ từ phương Tây. Rất nhiều nụ cười và rất nhiều những lần nâng ly. Nghe thấy nhạc từ phía đường trượt chứ? Đó là nhạc của Tchaikovsky! À, chúng ta cần một chai nữa. Ngài Osborne, ngài là một người hào phóng, ngài đã mang theo một chiếc túi da đầy những chai vodka, rượu ngoại và đủ thứ kẹo. Ngài nâng cái túi lên cao như thể ngài đang lục tìm bên trong và rút ra... một chai khác. Uống trước đi, giả vờ như tợp một hơi. Kostia uống tiếp theo. Lúc này, Valerya thì có một chút choáng váng và không hề dễ để lấy cái chai khi cô ấy đang cầm bánh mì ở một tay và tay còn lại cầm pho mát. Bên cạnh đó, cô ấy còn đang nghĩ tới nơi cô ấy sẽ đến trong một tuần tới hoặc hơn, cô ấy sẽ đang mặc quần áo gì, nó ấm thế nào. Không Siberi nữa, thay vào đó là thiên đường. Kirwill thì đã lảo đảo sẵn trên giày trượt rồi, chân cậu ấy yếu, nhưng cậu ấy đang nghĩ tới việc quay về nhà với minh chứng cho tất cả những nỗ lực thiêng liêng của mình. Thảo nào vodka hết nhanh đến vậy.
Một chai nữa? Sao lại không nhỉ? Tuyết đang rơi dày hơn, tiếng nhạc lớn hơn. Ngài nhấc chiếc túi của mình lên và lục lọi, sờ thấy cái chai, thấy cái báng khẩu súng. Kéo chốt an toàn. Kostia là kẻ khát nhất, xoay về phía anh ta và nở một nụ cười với gã kẻ cướp nổi tiếng này.”
Arkady đá chiếc ghế ngã chổng kềnh trên sàn. Irina chớp mắt và hơi giật mình vì bất ngờ.
“Rất tốt,” Arkady tiếp tục. “Một khẩu tự động không gây ra nhiều âm thanh như một khẩu côn, và âm thanh thì bị nghẹn lại bởi chiếc túi da, tuyết và tiếng nhạc từ những chiếc loa. Chắc hẳn là không có dấu hiệu rõ ràng nào của máu lúc đầu. Valerya và cậu Kirwill không thực sự hiểu tại sao Kostia lại gục xuống đất. Tất cả là bạn bè. Ngài đến để cứu họ, không phải để làm họ tổn thương. Quay sang cậu nhóc người Mỹ. Giữ chiếc túi lên ngang ngực.”
Một giọt nước mắt chạy qua cái bớt trên má cô.
“Không có biểu cảm gì lúc này,” Arkady nói.
Anh đá chiếc ghế thứ hai lên sàn. “Chuyện quá đơn giản. Chỉ còn lại mỗi Valerya. Cô ấy nhìn xuống Kostia đã chết, cậu người Mỹ đã chết, nhưng lại không xê dịch để chạy trốn, để hét toáng lên, để kháng cự. Ngài hiểu quá rõ cô ấy. Không có Kostia thì cô ấy cũng như chết rồi, ngài sẽ đưa cô ấy ra khỏi nỗi thống khổ của mình. Một cuộc đời có thể thay đổi điều đó nhanh chóng. Ngài sẽ ban cho cô ấy một ân huệ.” Arkady kéo khóa mở chiếc túi vật chứng ra. Một hương thơm mùi dầu ngập tràn không gian khi anh kéo chiếc váy sẫm màu rẻ tiền loang lổ vệt bẩn, máu và có một lỗ trên ngực trái. Irina nhìn vào cái tủ mở và nhìn lại, anh biết cô nhận ra chiếc váy. “Đưa khẩu súng đến gần như ngài muốn, Valerya sẽ đứng đợi, cô ấy chờ đợi viên đạn. Đưa khẩu súng lên gần với trái tim cô ấy. Ngài nghĩ, quả là lãng phí một cô gái đẹp,” Arkady thả chiếc váy rơi xuống trên bàn - “thật lãng phí sắc đẹp. Chết, cả ba người. Không một ai đến, nhạc vẫn chạy, tuyết sẽ vẫn sớm che phủ những cái xác mà thôi.”
Irina đang run lên.
“Họ có thể chết,” anh nói, “nhưng ngài vẫn còn công việc. Thu thập tất cả những đồ ăn nhập khẩu, những cái chai, những giấy tờ từ các xác chết. Tận dụng cơ hội bắn thêm hai phát nữa, bởi cậu nhóc người Mỹ có chút chỉnh sửa răng miệng. Ngài bắn Kostia một phát nữa ở cùng một chỗ có lẽ để cho những người cảnh sát ngờ nghệch sẽ nghĩ rằng đó là một phát bắn ân sủng. Và họ vẫn có thể được nhận dạng. Họ có dấu vân tay. Đơn giản. Một chiếc kéo lớn nào đó, cái loại được dùng để cắt gà và cắt ở mỗi cái khớp ngón tay. Nhưng sẽ phải làm gì với những khuôn mặt? Hy vọng chúng sẽ phân hủy mục rữa chăng? Nhưng họ sẽ đông cứng, họ sẽ trắng bệch hơn cả tuyết. Bôi mứt lên mặt họ để cho những con vật nhỏ của công viên sẽ ăn mất? Không, những con sóc đã lẩn trốn bởi mùa đông và không có đủ chó ở Moscow. Nhưng nhà buôn lông thú có một câu trả lời bởi hắn có một kỹ năng đặc biệt. Hắn ta lột da họ: hắn ta lột cả khuôn mặt như một miếng da hồng nhỏ khỏi từng cái đầu một - Kostia, Kirwill, cuối cùng và thanh tú nhất là Valerya. Một khoảnh khắc đặc biệt làm sao. Có bao nhiêu người làm lông thú đã từng làm điều đó! Hắn móc mắt của họ ra, và thế là xong. Những mảnh thịt ấy nhét vào trong túi. Ba cuộc đời bị xóa bỏ và xóa bỏ hai lần. Quá đủ! Ngài đi tới khách sạn, tới máy bay của mình, tới cái thế giới tách riêng ấy mà ngài đi ra từ đó. Mọi thứ có vẻ hoàn hảo.”
Arkady đặt chiếc váy lên bàn. “Có duy nhất một người mà ngài có thể nghĩ tới kết nối ngài với ba cái xác trong công viên Gorky. Dù, cô ấy sẽ không nói, bởi cô ấy là bạn thân nhất của Valerya và cô ấy muốn Valerya ở New York, Rome hay California. Cái ảo mộng ấy là điều quan trọng nhất trong đời cô ấy. Cô ấy có thể vượt qua mọi ngày ngu ngốc, nguy hiểm, buồn thảm trĩu nặng ở đây nếu cô ấy có thể tin rằng Valerya đã trốn thoát. Cái ý nghĩ về việc Valerya đang hít một hơi thở tự do ở đâu đó là tất cả để giữ cho người bạn này không bị chết bởi nỗi sợ bị giam giữ. Ngài có thể thử giết cô ấy và cô ấy sẽ không nói. Ngài thực sự hiểu những người bạn Nga của mình.”
Irina ngập ngừng do dự. Anh lo rằng cô sẽ ngã xuống.
“Vậy toàn bộ câu hỏi sẽ là, Valerya ở đâu?” Arkady tiếp tục.
“Làm thế nào anh có thể làm như vậy?” Irina hỏi.
“Chúng tôi,” Arkady nhìn sang một bên và nói bằng một âm vực khác, “là những kẻ chậm tiến, thờ ơ. Có vẻ như là chúng tôi luôn thế. Chúng tôi có những tài năng kỳ lạ, Irina. Ở Khoa Luật trong trường đại học, cô có những bài giảng về y học hình sự và được giới thiệu về những công trình của giáo sư Andreev. Có lẽ cô đã được xem vài bức ảnh. Đó là một phương pháp đơn giản nhưng đầy khó khăn trong việc tái tạo một khuôn mặt từ hộp sọ. Không phải là một ý tưởng mơ hồ về việc khuôn mặt trông sẽ như thế nào hoặc là một sự gần sát thực tế, mà chính là bản thân khuôn mặt. Không một nước nào khác có nó. Đó là cả một sự tinh tế khi tạo ra từng sợi cơ trên hộp sọ, rồi gắn vào đó thịt, mắt và da. Như cô biết, Andreev là một bậc thầy và cô cũng phải biết được thanh danh của anh với sự chính trực.” Arkady tháo nắp của cái hộp. “Cô muốn biết Valerya ở đâu.”
“Tôi biết anh, Arkady,” Irina nói. “Anh sẽ không làm thế.”
“Đây là Valerya.”
Arkady bắt đầu nhấc cái đầu ra khỏi chiếc hộp. Anh làm nó thật chậm rãi để Irina có thể nhìn thấy bên trên mép hộp trước một mớ tóc quăn tối màu trong tay anh, rồi mớ tóc căng lên giữa tay anh và nâng một cái trán với lớp da tươi.
“Arkady!” Cô nhắm chặt mắt lại và lấy tay che mặt.
“Hãy nhìn đi.”
“Arkady!” Cô không bỏ tay khỏi đôi mắt “Đúng thế, đúng thế, đây là nơi mà Valerya đã sống. Nhét nó lại vào hộp đi.”
“Valerya nào?”
“Valerya Davidova.”
“Với...”
“Kostia Borodin và cậu Kirwill.”
“Một người Mỹ tên là James Kirwill à?”
“Đúng.”
“Cô thấy họ ở đây à?”
“Kirwill toàn trốn ở đây. Valerya có ở đây, tôi không đến được nếu cô ấy không có ở đây.”
“Cô không thân với Kostia lắm?”
“Không.”
“Họ làm gì ở đây trong ngôi nhà này?”
“Làm một cái rương, anh biết về cái rương mà.”
“Cho ai?” Arkady nín thở khi cô đang ngập ngừng.
“Osborne,” cô nói.
“Osborne nào?”
“John Osborne.”
“Nhà buôn lông thú người Mỹ tên là John Osborne à?”
“Đúng.”
“Họ nói với cô là họ đang làm cái rương cho Osborne?”
“Đúng.”
“Có phải đó là tất cả những gì họ làm cho Osborne?”
“Không.”
“Cô đã bao giờ đi vào cái kho ở sau ngôi nhà này?”
“Có, một lần.”
“Cô thấy họ mang cái gì cho Osborne từ Siberi?”
“Vàng.”
“Nhắc lại câu trả lời của cô. Cô thấy họ mang cái gì từ Siberi cho Osborne?”
“Tôi ghét anh,” cô nói. Arkady tắt chiếc máy ghi âm cầm tay ở dưới đáy chiếc hộp và thả chiếc đầu xuống. Irina buông tay. “Giờ tôi thực sự ghét anh.”
Swan bước vào phòng từ bên ngoài cánh cửa, nơi hắn đã đứng đợi.
“Người này sẽ đưa cô trở lại thành phố.” Arkady tiễn cô. “Ở bên cạnh anh ta. Đừng tới căn hộ của tôi, nó sẽ không an toàn đâu. Cảm ơn sự giúp đỡ của cô trong cuộc điều tra này. Tốt nhất cô nên đi ngay.”
Anh hy vọng cô sẽ hiểu và cô sẽ đòi ở lại. Anh có thể đưa cô đi với anh nếu cô làm thế.
Cô đứng lại ở cửa. “Có một câu chuyện về cha anh, vị tướng.” cô nói. “Họ gọi ông ấy là quái vật bởi ông ấy lấy tai của người Đức như chiến lợi phẩm trong suốt cuộc chiến. Không ai từng nói ông ấy khoe một cái đầu. Ông ấy chả là gì so với anh.”
Cô bước ra ngoài. Hình ảnh cuối cùng của cô trong Arkady là bên trong chiếc xe của Swan, một chiếc Zil cổ đại, đang đi lên trên con đường bẩn thỉu.
Arkady đi tới phía sau ngôi nhà, qua cái nhà xí và tới nhà kho bằng sắt, anh mở cửa bằng một trong những chiếc chìa của những kẻ đã chết. Khi anh bước vào, có cái gì đó quệt vào mặt, một sợi dây đèn được treo lủng lẳng từ giữa trần nhà. Khi anh kéo sợi dây, những bóng đèn đứng thẳng hàng rực sáng cả cái nhà kho. Anh tìm thấy một cái đồng hồ bấm giờ trên tường. Anh vặn nó và nghe thấy tiếng tích tắc nho nhỏ. Anh nhận ra có một sự dịch chuyển chút xíu hầu như không nhận thấy về ánh sáng. Cái đồng hồ bấm giờ hẳn đã xoay cái bánh răng một trăm tám mươi độ qua mười hai giờ để giả lập quá trình mọc và lặn của mặt trời. Một sợi dây khác nhô lên cho hai bóng đèn cực tím. Không có cánh cửa sổ nào.
Những gì còn lại của một cái lò hình tròn giải thích lịch sử của căn nhà kho. Những đống đất xốp và những mảnh vụn sắt đã gỉ vàng trong những nút kim loại. Toàn bộ không gian sử dụng được dành cho hai cái lồng chạy dọc theo chiều dài của nhà kho. Mỗi cái lồng được chia bởi những bức tường bằng gỗ thành ba ngăn, mỗi ngăn có một cái chuồng gỗ. Những sợi dây che phủ khắp hai bên và nóc những cái lồng. Ở dưới mặt đất, những sợi dây được chặn bởi những hòn đá và xi măng để không chỉ những con nhỏ nhất mà cả những con hung hăng muốn thoát nhất không thể nào trốn ra được.
Ở khoảng giữa hai cái lồng là một chiếc ghế dài với những vệt cắt đan xen dính máu và vảy cá. Arkady tìm thấy một quyển Kinh thánh bên dưới chiếc ghế. Anh tưởng tượng sự bất đồng giữa James Kirwill và Kostia Borodin khi đang trông coi và nuôi dưỡng bí mật của họ, Kirwill cầu nguyện vị thần của mình trong khi Kostia thì lại hành nghề trộm cắp.
Anh bước vào cái chuồng và nhặt những sợi lông từ những sợi dây và những đống phân trên sàn.
Quay trở lại ngôi nhà, anh nhét đầy túi bằng chứng của mình với những vật dụng thu thập được từ những tủ giày. Khi anh đặt chiếc túi lên bàn, anh va vào cái hộp và cái đầu bên trong lăn ra ngoài. Đó là một cái đầu gắn thạch cao không có mắt, lông mày, hay miệng, không có bất cứ đường nét riêng biệt nào cả, chỉ có sơn và hình hài thô sơ nhất của một khuôn mặt cùng bộ tóc giả. Đó chỉ là cái hình nộm Andreev dùng để giảng dạy. Khi Arkady nhấc cái đầu trở lại, hai nửa của khuôn mặt mở bung ra và cho thấy ánh nhìn bên trong của chiếc sọ.
Tác phẩm tái phục dựng đầu Valerya của Andreev giờ chẳng còn là gì ngoài bụi và mang mùi tóc cháy khét ở căn nhà của Iamskoy. Andreev đã xác nhận rằng Iamskoy đã đích thân gọi điện về cái đầu và đưa một gã mặt thẹo tới để lấy nó. Theo một hướng khác thì, sự phá hủy tuyệt tác của Andreev đã giải thoát cho Arkady, chỉ sau đó anh mới nghĩ tới việc phải sử dụng hình nộm. Anh thực ra không bao giờ có thể cho Irina thấy cái đầu thật sự, chỉ bởi anh biết thừa là cô không thể nhìn nó. Tuyệt vọng, anh đã nghĩ ra một ý tưởng thông minh. Anh đã lừa cô. Cứu cô và đánh mất cô.
Bước vào sảnh tòa nhà Ukraina, Arkady nhìn thấy Hans Unmann rời thang máy.
Arkady ngồi trên chiếc ghế ở hành lang và nhấc một tờ báo bị vứt lên. Anh chưa bao giờ thực sự thấy kẻ đồng mưu với Osborne trước đây. Tay người Đức là một tên bù nhìn, có cái miệng mỏng và đầy xương, với mái tóc vàng nhưng được cắt sát dưới vành mũ. Hắn là kiểu người sẽ nhìn chằm chằm vào người phía sau hắn trên đường hắn đi một cách bản năng, hắn quá giống với một kẻ sát nhân nguy hiểm chả kém gì Osborne hay Iamskoy. Khi hắn đi qua, Arkady thả tờ báo xuống và lẩn nhanh vào trong thang máy.
Anh đã hy vọng sẽ thấy văn phòng vắng người, nên anh thực sự bất ngờ khi thấy thám tử Fet đang ngồi ở bàn và chĩa khẩu súng ngắn vào anh.
“Fet!” Arkady cười lớn. “Tôi xin lỗi. Tôi quên béng mất cậu.”
“Tôi cứ nghĩ anh là hắn đang quay lại.” Fet nói. Anh ta run tới mức phải dùng hai tay để hạ khẩu súng xuống. Cặp kính gọng sắt nằm trên khuôn mặt trắng bệch vì sợ hãi. “Hắn đang đợi anh đến. Rồi hắn có một cuộc điện thoại và chạy ra ngoài. Hắn trả tôi khẩu súng. Tôi đã có thể sử dụng nó.”
Những bản viết tay và các băng ghi âm vương vãi quanh những chiếc ghế bổ ngửa và những ngăn kéo mở toang. Đã bao lâu rồi, Arkady tự hỏi, từ khi anh, Pasha và Fet hưởng thụ tuổi thơ ở trong văn phòng này? Chính Iamskoy là người đã sắp xếp cho họ gặp nhau ở đây. Liệu có máy ghi lén không nhỉ? Liệu có ai đang nghe trộm họ lúc này không? Không quan trọng, anh không định ở lại lâu. Anh lục tìm trong đống lộn xộn trên sàn đủ để thỏa mãn rằng tất cả những bản ghi chép và tấm băng ghi âm của Osborne và Unmann đã biến mất, tất cả ngoại trừ cái cuộn Arkady đã giữ về cuộc gọi giữa Osborne và Unmann vào mùng hai tháng Hai.
“Hắn ta đột nhập vào đây và xử lý nơi này.” Fet đã lấy lại được sắc thái bình thường. “Hắn sẽ không để tôi đi. Hắn nghĩ tôi sẽ cảnh báo anh.”
“Anh không nên làm thế.”
Giữa đống vụn vỡ, Arkady tìm thấy một trong những quyển lịch bay màu xanh bị bỏ lại bởi những người chủ trước đây của văn phòng. Quyển sách dành cho hiện tại. Tất cả các chuyến bay quốc tế rời Moscow từ sân bay Sheremetyevo và máy bay duy nhất cất cánh vào đêm ngày Quốc tế Lao động là chuyến bay đêm của hãng Pan American. Osborne và Kirwill hẳn sẽ ở trên cùng một chuyến bay.
Và có một chiếc bưu kiện đã mở từ Bộ Ngoại thương, từ Yevgeny Mendel. Bên trong đó là một bản sao của giấy khen dành cho cha anh ta, kẻ hèn nhát và để giải thích mọi ngờ vực, cũng như một bản báo cáo dài lê thê chán ngắt về hình ảnh anh hùng của Mendel được ký ngày mùng bốn tháng Sáu năm 1943. Không có gì phải thắc mắc về việc Unmann đã mở cái bưu kiện, nhìn nó chằm chằm và quăng nó sang một bên, cũng như Arkady đang định làm cho tới khi anh thấy ở trên trang cuối cùng, dù đã trải qua sự tàn phá của thời gian và nét mờ mờ của chiếc máy copy của bộ, vẫn thấy chữ ký in đậm của sỹ quan điều tra, Trung úy A. o. Iamskoy. Ở đó, Trung úy trẻ của Quân đội phương Bắc Andrei Iamskoy - không thể tới hai mươi tuổi - đã gặp sỹ quan trẻ Ban đối ngoại của Mỹ John Osborne từ hơn ba mươi năm trước, từ đó biết và bảo vệ hắn.
“Anh vẫn chưa nghe à?” Fet ướm lời.
“Nghe chuyện gì?”
“Văn phòng Công tố viên gửi đi một cảnh báo toàn thành phố cho anh một tiếng trước.”
“Vì điều gì?”
“Giết người. Một cái xác được tìm thấy trong bảo tàng ngoài Serafimov. Một luật sư tên là Mikoyan. Dấu tay của anh được tìm thấy trên các mẩu thuốc lá ở đó.” Fet nhấc điện thoại lên và bắt đầu quay số. “Có thể anh sẽ muốn nói chuyện với Thiếu tá Pribluda?”
“Chưa phải lúc này.” Arkady giật cái ống nghe và đặt lại nó lên hộp điện thoại. “Ngay bây giờ, cậu là một người bị lãng quên. Luôn là những người bị lãng quên trở thành anh hùng. Trong bất cứ trường hợp nào, luôn là kẻ bị lãng quên còn sống để kể lại câu chuyện.”
“Ý anh là sao?” Fet cảm thấy bối rối khó hiểu.
“Tôi muốn khởi hành sớm.”
Ga Savelovsky thường dành cho những người đi làm xa - những thư ký bằng lòng với cuộc sống và những công dân tốt. Con tàu này lại đặc biệt, và những hành khách thường ngày ấy hôm nay lảng tránh những người hạ cấp đông đúc đang có mặt trên tàu. Họ là những người công nhân, tất cả đều ký vào một bản hợp đồng ba năm làm việc ở các mỏ phía bắc, một số là ở trong Vòng Bắc Cực. Họ sẽ làm việc trong hơi nước và băng giá, sẽ cõng quặng trên lưng khi những chiếc xe chở bị vỡ vụn bởi băng giá, sẽ chết bởi những vụ nổ, sập mỏ hay chứng hạ thân nhiệt, hoặc họ sẽ giết một ai khác để giành giật một đôi bốt hay một đôi găng tay. Khi họ đến mỏ, các hộ chiếu trong nước của họ sẽ bị lấy để không bao giờ có một suy nghĩ thứ hai nào nữa. Trong ba năm, họ sẽ biến mất và một vài trong số họ sẽ ổn.
Arkady hòa lẫn vào với những người công nhân. Anh di chuyển, luồn lách giữa đám đông, giữ chặt chiếc túi bằng chứng bằng một tay, tay còn lại thì đặt lên khẩu súng trong túi áo. Trên con tàu, anh tới một toa đã chật cứng những người đàn ông và mùi chua chua của mồ hôi lẫn mùi hăng hắc của hành. Hàng tá khuôn mặt nhìn anh chằm chằm. Những khuôn mặt đó vừa khó nhằn vừa xấu xí lại còn xù xì và mang vẻ đường phố hơn một chút. Họ mang những vết bầm tím và những vết sẹo bất thường, những khớp ngón tay và cổ áo thì bẩn thỉu, và họ ôm những bó đồ đạc của mình. Về căn bản thì họ là tội phạm, những gã đàn ông bị truy nã vì bạo lực hay trộm cắp ở một thành phố thay vì trên cả nước. Những chú cá gai góc, những tay anh chị, những vụ khó nhằn, những gã đàn ông đầy hình xăm với những con dao. Đối với họ, một người lạ là đôi giầy, áo khoác, có thể là một cái đồng hồ. Arkady chiếm một chỗ trống ở cái giường thấp.
Một nhóm cảnh sát đẩy những người công nhân cuối cùng lên tàu. Không khí trong toa ngột ngạt không thể thở nổi, dù Arkady biết anh sẽ quen với nó. Những người chỉ huy tàu bắt đầu chạy lên chạy xuống sân ga bên ngoài, hăng hái đưa chuyến tàu vào hành trình và thoát ra khỏi sân ga của họ. Một báo động toàn thành phố có thể chốt chặn mọi con đường, sân bay và những chuyến tàu bình thường với một người đàn ông đang đào thoát, nhưng đây là chuyến tàu của toàn những kẻ đào thoát. Qua cửa sổ toa tàu, Arkady nhìn thấy Chuchin, vị trưởng thanh tra Vụ đặc biệt, đang tranh cãi với một người điều hành tàu. Chuchin đưa cho người trưởng ga ấy xem một bức ảnh. Tất cả những gì ông ấy phải làm là nhìn vào toa tàu. Vị trưởng ga vẫn lắc lắc đầu. Chuchin vẫy vẫy cho những cảnh sát lên tàu. Ở trong toa bên cạnh có một ai đó bắt đầu hát, “Tạm biệt, Moscow, tạm biệt tình yêu...” Bị đẩy dọc theo sân chờ bởi những cảnh sát là một việc, bị lôi cổ khỏi toa của họ trên con tàu đặc biệt của chính họ là một việc khác. Những mối đe dọa và những tai ương trì hoãn tiến trình tìm kiếm: “Anh không thể làm tôi bực mình được, tôi đang sẵn trên đường đến địa ngục rồi đây!” Thay vì rời khỏi chỗ của mình, họ đập lại cảnh sát. Thông thường, một cảnh sát sẽ trả lời với một cái dùi cui, nhưng những công nhân hợp đồng này lại có được mối quan tâm đặc biệt, rõ ràng là những vị thánh chẳng bao giờ tình nguyện ba năm dưới địa ngục. Bên cạnh đó, cảnh sát thì lại quá đông. Họ không bao giờ tới được toa của Arkady và họ đã bị đuổi ra ô tô. Vị trưởng sân ga xua Chuchin sang một bên, và một lần nữa những người điều hành tàu lại diễn vở kịch câm lặng chạy lên chạy xuống sân chờ tàu. Con tàu rướn mình và Chuchin cùng với vị trưởng sân ga trượt qua. Mái vòm sắt của sân chờ tàu nhường chỗ cho những cuộn khói và những hàng rào mắt cáo của các nhà máy quốc phòng và đất trời phương Bắc Moscow. Con tàu vẫn đang tăng tốc khi tới ga tiếp theo, chẳng chậm lại trước những ánh mắt khinh khỉnh hiền lành của những hành khách đi làm ở đó, cuộn rung lên với sự cố gắng ngay sân chờ của lực lượng cảnh sát, rít lên tiếng còi đầu máy. Tạm biệt, Moscow. Arkady hít một hơi thật sâu, bầu không khí chẳng đến nỗi tồi cho lắm.
Con tàu cũng đặc biệt, loại cũ kỹ nhất và bẩn thỉu nhất mà Bộ Giao thông Vận tải từng khai quật. Toa tàu đã bị phá phách quá nhiều lần và quá lâu tới mức chẳng còn gì để mà làm xấu đi hay ăn cắp nữa. Bên cạnh đó, chả có khoảng trống nào để mà xê dịch. Mười lăm người đàn ông trên bốn chiếc giường gỗ và trên sàn, khuỷu tay của người này lại va vào khuỷu tay người bên cạnh. Người lái tàu đã tự khóa mình trong toa cuối cùng của ông ta cho hành trình. Đây khó mà là cách nhanh nhất để tới Leningrad. Hãng vận chuyển Mũi tên đỏ tới từ ga Leningrad và mất cả nửa ngày. Con tàu này, trên hành trình từ ga Savelovsky, chở những chiếc xe cổ đại mà báo chí gọi là những công nhân cần phải cải tạo, đi mất hai mươi tiếng đồng hồ. Người trưởng tàu có cái ấm đun của riêng mình, có bánh mì cứng và mứt trong thiên đường của ông ta. Ở toa của Arkady, họ tung ra những bao thuốc lá và những chai vodka. Trần tàu ngập đầy khói. Có ai đó bảo anh uống một ngụm, anh đồng ý và mời lại một điếu thuốc.
Gã đàn ông với chai rượu là Ossetian, giống với Stalin - mập, lùn và đen, với cùng một kiểu lông mày, ria mép và đôi mắt cận lòi.
“Thi thoảng, họ nhét những tay chỉ điểm lên đây, anh biết đấy,” anh ta nói với Arkady. “Đôi khi họ lại cố để bắt anh và đưa anh trở lại. Điều chúng ta làm là tóm lấy tên chỉ điểm và cắt cổ hắn.”
“Không có tên chỉ điểm nào trên chuyến tàu này,” Arkady nói. “Họ không muốn các anh trở lại. Các anh đang đi tới đúng cái nơi mà họ muốn các anh tới.”
Đôi mắt của Ossetian sáng long lanh. “Chết tiệt, anh nói đúng!”
Những bánh xe lăn suốt buổi chiều và buổi tối. Iksa, Dmitrov, Verilki, Savelovo, Kalazin, Kasin, Sonkovo, Krasnii Cholm, Pestovo. Chẳng có lý do gì để không uống cả. Họ đang bỏ lại phía sau không chỉ một ngày mà là ba năm cuộc đời. Thà làm chai cồn hơn là vodka. Đó là những đôi mắt và đôi tay tài năng, và có bao nhiêu thứ ngôn ngữ? Đó là một toa đa quốc gia. Một tay tham ô người Mỹ - một sự miêu tả thừa thãi với một số người. Một cặp cướp đường người Turkistan. Một gã bắt cóc từ Mary’s Grove. Một tên trai bao từ Yalta với cặp kính mát và làn da rám nắng.
“Mày đang giấu gì trong áo khoác thế?” Tên trai bao hỏi.
Arkady có chiếc túi đồ lấy được từ căn nhà, khẩu súng của anh, thẻ căn cước của anh và của gã nhân viên KGB mà Kirwill đấm đến chết. Không ai dám hỏi Kirwill câu đó, nó là câu hỏi mà một tên thợ săn hỏi con mồi của mình.
“Một bộ sưu tập những con cầu gai bé xíu từ Biển Đen,” Arkady nói.
Anh uống chifir. Chifir là một loại trà đặc không chỉ gấp đôi hay gấp mười mà là gấp hai mươi lần. Ở nhiều trại, một kẻ chết đói có thể làm ba ngày liên tục với một vài tách trà chifir. Arkady cần phải tỉnh táo. Khoảnh khắc anh mơ màng ngủ là anh sẽ bị cướp. Da anh trở nên lạnh bởi adrenaline. Tuy vậy, anh phải suy nghĩ bình tĩnh. Đã có kẻ nào đó giết Misha. Unmann, gã bù nhìn? Arkady đã để hụt hắn hai lần. Vậy thì cái cảnh báo giết người ấy là sao? Tại sao Iamskoy lại liều đưa cảnh sát vào? Trừ khi vị công tố viên đã dọn sạch căn nhà mà những nạn nhân ở công viên Gorky đã từng sống trong đó. Trừ khi ông ta cảm thấy chắc chắn rằng viên thanh tra của mình sẽ chết khi đang cố trốn khỏi việc bị bắt giữ. Hoặc là ông ta có thể bị tuyên bố là điên rồ rồi. Có thể ông ta đã thế thật.
Một ai đó có một cái đài bán dẫn đưa tin báo về sự chuẩn bị cho ngày Quốc tế Lao động ở Vladivostok.
“Những mỏ sắt không quá tệ,” một cựu binh nói. “Nếu anh làm ở mỏ vàng, họ nhét một cái máy hút chân không vào mông anh ngay khi anh bước chân ra khỏi mỏ.”
Có một thông cáo về việc chuẩn bị ngày Quốc tế Lao động ở Baku.
“Quê tôi,” Ossetian nói với Arkady. “Tôi đã giết một người ở đó. Tôi hoàn toàn vô tình.”
“Tại sao anh nói với tôi?”
“Anh có một khuôn mặt vô tội.”
Công cuộc chuẩn bị cho ngày Quốc tế Lao động từ khắp nơi trên thế giới. Màn đêm ở bên ngoài đã che phủ bóng toa tàu. Arkady mở hé ô cửa kính, anh có thể ngửi thấy mùi cánh đồng được cày màu đen và đầy mùn qua lớp tuyết mùa đông.
Anh nhớ Misha. Điều gây tò mò là anh có thể nghe thấy tiếng người bạn của mình như thể anh ta vẫn còn sống và đang bình luận về những người trên chuyến tàu: “Hiện tại, đây là tất cả những gì về Chủ nghĩa Cộng sản, tập hợp mọi người lại với nhau. Có một chút giống với Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, anh chỉ không phải thay quần áo nhiều lần. Hiện tại, ở Armeni, có một người đàn ông định giảm cân. Hoặc anh ta chỉ có thể chia làm hai giống như một con amip và trở thành hai gã Armeni. Anh ta sẽ được trả công gấp đôi. Tôi sẽ không bỏ qua một người Armeni. Hãy nhìn gã trai bao kìa. Chúng ta đã nói với nhau về Hamlet, nói về Caesar, chúng ta đang nhìn vào một người đàn ông có làn da rám nắng cuối cùng trong đời của anh ta. Giờ, đó là một bi kịch. Arkady, anh có đồng ý rằng tất cả một chút điên rồ không?”
Chai vodka cạn. Khi con tàu dừng lại để nghỉ uống nước ở một thị trấn nhỏ - không có gì ngoài một cái ga và con phố có duy nhất một bóng đèn - những công nhân bước xuống tàu và lao vào cửa hàng của thị trấn trong khi một cặp cảnh sát đứng canh trong vô vọng. Khi những kẻ cướp quay trở lại, chuyến tàu lại tiếp tục lăn bánh.
Kaboza, Chvojnaja, Budogosc, Posadnikovo, Kolpino. Leningrad, Leningrad, Leningrad. Bình minh buổi sáng hé lên con tàu chạy trên những dây hội tụ. Ánh bình minh được phản chiếu lấp lánh trên Vịnh Phần Lan. Con tàu đi vào một thành phố đầy những chiếc cặp táp và những kênh đào, một thành phố màu xám với những đôi mắt đỏ vì thiếu ngủ.
Khi con tàu dừng lại vào ga Phần Lan, Arkady nhảy xuống trong khi nó còn đang di chuyển, vẫy vẫy tấm thẻ KGB màu đỏ lấy được từ gã bị Kirwill đấm chết. Quốc ca vang lên từ trên loa. Đó là ngày trước ngày Quốc tế Lao động.
Án Mạng Ở Công Viên Gorky Án Mạng Ở Công Viên Gorky - Martin Cruz Smith Án Mạng Ở Công Viên Gorky