Chướng ngại chỉ đe dọa được bạn một khi bạn rời mắt khỏi mục tiêu.

Henry Ford

 
 
 
 
 
Tác giả: Alexandre Dumas
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Vingt Ans Après
Dịch giả: Anh Vũ
Biên tập: Lê Nhật Minh
Upload bìa: Lê Nhật Minh
Số chương: 129 - chưa đầy đủ
Phí download: 10 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2361 / 29
Cập nhật: 2016-07-21 22:06:14 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 81: Ba Phụ Tá Của Tổng Tư Lệnh
heo như đã thoả thuận với nhau, sau khi ra khỏi khách sạn "Đại đế Grand-Roi-Charlemagneơ", Arthos và Aramis đi về phía dinh công tước de Bouillon. Đêm tối mù mịt và mặc dầu đi vào những giờ yên tĩnh và vắng vẻ vẫn tiếp tục vang lên hàng nghìn tiếng động nó khiến một thành phố bị bao vây giật mình tỉnh dậy. Đi mỗi bước là gặp các lũy chướng ngại, ở mỗi ngách phổ xá là những sợi dây chăng, ở mỗi ngã tư là những toán quân đóng ngoài trời. Những đội tuần tra nhan nhản gặp nhau và trao đổi mật khẩu; những người đưa tin do các chỉ huy khác nhau phải đi như mắc cửi. Cuối cùng những cuộc đối thoại sôi nổi chỉ rõ sự xao xuyến nhân tâm được trao đổi giữa những dân cư hoà bình đứng ở cửa sổ với những người hiếu chiến hơn họ mang thương tích trên vai hoặc súng cầm tay chạy khắp phố phường. Đi chưa được trăm bước, Arthos và Aramis bị lính canh ở lũy chướng ngại ngăn giữ lại và hỏi mật khẩu. Các anh nói là đi đến nhà ông de Bouillon để báo cho ông biết một tin tức quan trọng, và người ta đành cho một người gọi là để đưa các anh đi vào dễ dàng, nhưng thực ra là để canh phòng các anh. Người dẫn đường đi trước và hát: "Cái ông Bouillon hiền lành Bị bệnh phong thấp nó hành" Đó là một trong những bài ca mới mẻ nhất, không biết có bao nhiêu đoạn, và mỗi người đều có phần trong đó. Đi đến gần dinh ông dờ Bouillon họ gặp một tốp ba kỵ sĩ có đủ mọi khẩu lệnh trên đời, vì họ đi chẳng có người dẫn đường và hộ tống, và khi tới các lũy chướng ngại họ chỉ cần trao đổi vài lời với những người canh gác là người ta để cho họ đi qua với tất cả sự tôn kính dành cho chức vị của họ. Trông thấy dáng vẻ họ. Arthos và Aramis dừng lại. - Ô kìa! - Aramis, nói - Bá tước có nhìn thấy không? - Có, - Arthos đáp. - Anh thấy ba kỵ sĩ đó giống ai nhỉ? - Thế cậu thấy thế nào, Aramis? - Hình như địch thủ của chúng ta. - Cậu không lầm đâu. Tôi hoàn toàn nhận ra ông Flamarens. - Còn tôi nhận ra ông de Châtillon. - Còn kỵ sĩ mặc áo choàng nâu… - Đó là giáo chủ. - Đích thân. - Quái quỉ nhỉ! - Aramis nói, - sao họ lại dám đi liều ở gần dinh Bouillon này. Arthos mỉm cười, nhưng không đáp. Năm phút sau họ gõ cửa nhà ông Bouillon. Cổng có một lính gác giống như nhà những nhân vật cao cấp; trong sân có cả một cái bốt nhỏ sẵn sàng tuân theo lệnh viên trung uý của hoàng thân de Conti. Đúng như bài hát nói, công tước de Bouillon bị bệnh phong thấp và nằm liệt giường. Mặc dầu bệnh tình như vậy không cho phép ông cưỡi ngựa từ một tháng nay, nghĩa là từ khi Paris bị bao vây, ông vẫn bảo rằng ông sẵn sàng tiếp đón bá tước de La Fère và hiệp sĩ d Herblay. Hai người bạn được dẫn đến giường ông Bouillon. Bệnh nhân nằm ở trong phòng, nhưng quanh mình đầy những trang bị nhà binh nhất. Khắp chỗ chỉ toàn bày và treo gươm kiếm súng ống, áo giáp, và ta dễ dàng thấy rằng khi nào dứt bệnh phong thấp là ông de Bouillon lập tức gây rắc rối ngay cho các kẻ thù của Nghị viện. Trong khi chờ đợi, ông nói rằng ông rất tiếc mình buộc phải nằm liệt giường. Trông thấy hai người khách, ông cố nhắc mình dậy và nhăn nhó vì đau, nhưng vẫn reo lên: - A! Xin chào các ông! Các ông sung sướng thật các ông có thể nhảy ngựa, đi lại, chiến đấu vì lợi ích của nhân dân. Còn tôi, các ông thấy đấy, tôi bị đóng đinh chặt vào giường, ái chà. Cái bệnh phong thấp quỉ quái này? - Ông lại nhăn nhó. - Cái bệnh phong thấp tệ hại này. - Thưa Đức ông, - Arthos cất tiếng, - Chúng tôi từ nước Anh về và việc quan tâm đầu tiên của chúng tôi khi tới Paris là đến hỏi thăm sức khoẻ của ngài. - Xin đa tạ các ông, xin đa tạ. - Ông quận công đáp - Sức khỏe tôi kém lắm, như các ông thấy đấy… Cái bệnh phong thấp tội nợ này! A! Các ông từ Anh trở về ư? Tôi vừa nghe tin rằng vua Charles vẫn bình an, phải không? - Thưa Đức ông, - Aramis đáp, - vua chết rồi. - Ô hay? - quận công tỏ vẻ kinh ngạc. - Bị Nghị viện kết án và chết trên đoạn đầu đài. - Không thể thế được. - Và bị hành quyết trước mắt chúng tôi. - Vậy mà ông Flamarens nói với tôi thế nào? - Ông Flamarens ư? - Aramis hỏi. - Phải, ông ta mới ở đây ra. Arthos mỉm cười và hỏi: - Cùng với hai người bạn à? - Phải cùng với hai người bạn, - Quận công đáp và nói thêm với vẻ lo ngại - Họ có gặp các ông không? - Có chứ, - Arthos đáp, - Ở ngoài phố thì phải. Và anh mỉm cười nhìn Aramis, Aramis cũng nhìn lại anh với vẻ hơi ngạc nhiên. - Thưa Đức ông - Arthos nói, - Thật ra đang đau ốm như ngài, phải hết lòng hết dạ lắm với lợi ích của Paris, ngài mới vẫn đứng đầu quân đội và sự kiên trì ấy khiến chúng tôi rất cảm phục. - Các ông ơi phải thế, chứ biết làm thế nào. Các ông cũng là một tấm gương, các ông thật là dũng cảm và tận tụy và chính nhờ các ông mà ông bạn đồng liêu thân mến của tôi, quận công de Beaufort được tự do và có thể là được cứu sống nữa. Phải biết hy sinh cho lợi ích chung chứ! Cho nên các ông thấy đấy, tôi cũng hy sinh; nhưng cũng xin thú nhận rằng tôi kiệt sức rồi; lực bất tòng tâm mà! Cái bệnh phong thấp chết tiệt này nó giết tôi! Và tôi cũng thú thật rằng nếu như triều đình chấp nhận những yêu cầu của tôi, yêu cầu thật chính đáng, bởi vì tôi chỉ yêu cầu một sự bồi thường mà ngài giáo chủ cũ đã hứa khi người ta tước mất thái ấp Sedan của tôi… Phải, tôi thú thật rằng nếu như người ta đền cho tôi những lãnh địa giá trị cũng ngang như thế, nếu như người ta bồi thưởng cái việc tôi không được hưởng thụ cái dinh địa ấy từ khi bị tước doạt, tức là từ tám năm nay, nếu như tước vị hoàng thân được ban cho người nhà tôi, và nếu ông Tuyren, em tôi, được phục chức chỉ huy, thì tôi sẽ rút lui ngay về đất đai của tôi và để mặc triều đình và nghị viện dàn xếp với nhau tuỳ họ. - Thưa Đức ông - Arthos nói, - ngài nói rất chí lý. - Ông đồng ý như vậy có phải không, bá tước de La Fère? - Hoàn toàn. - Thế còn ông hiệp sĩ D Herblay? - Nhất trí. - Thế thì, - quận công nói, - Tôi xin bảo đảm với các ông rằng đó là điều tôi sẽ chấp nhận. Lúc này triều đình đang đưa ra những kiến nghị với tôi, và chỉ còn mong tôi chấp nhận. Cho đến giờ phút này tôi vẫn từ chối. Nhưng vì rằng những người như các ông cho rằng như thế thì tôi sai lầm, và nhất là vì cái bệnh phong thấp chết tiệt này nó khiến tôi không thể làm được một chút việc gì cho lợi ích của Paris, cho nên thực tình, tôi muốn nghe lời khuyên của các ông và chấp rthận đề nghị mà ông de Châtillon vừa mới đưa ra với tôi. - Hoàng thân hãy chấp nhận đi, - Aramis nói, - Hãy chấp nhận. - Vâng, thực tình tôi cũng tiếc là chiều nay hầu như tôi đã gạt phăng lời đề nghị đó… nhưng ngày mai có hội nghị và ta sẽ xem. Hai người chào quận công. Ông nói: - Các ông về đi. Cuộc viễn du hẳn khiến các ông mệt nhọc lắm. Tội nghiệp vua Charles. Nhưng dù sao cũng có đôi phần sai sót của ông ta trong tất cả những chuyện đó. Điều an ủi chúng ta là nước Pháp không có gì phải tự trách mình trong trường hợp này, nó đã làm tất cả những gì có thể làm để cứu ông ta. - Ồ! Về điều này, - Aramis nói, - Chúng tôi đã được chứng kiến, nhất là ông Mazarin… - Thấy chưa? Tôi rất hài lòng là các ông đã làm chứng cho ông ấy; thực ra ông giáo chủ có mặt tốt, và nếu ông ấy không phải là người ngoại quốc thì có lẽ người ta cũng sẽ thừa nhận ông ấy. Ờ! Cái bệnh phong thấp quỉ quái này! Arthos và Aramis đi ra, và tới tiền sảnh rồi mà vẫn nghe thấy những tiếng kêu la của ông de Bouillon; rõ ràng là ông hoàng tội nghiệp ấy đau ghê gớm lắm. Ra khỏi cổng; Aramis hỏi Arthos: - Thế nào, anh nghĩ sao? - Về ai cơ? - Thì về ông de Bouillon! - Bạn ơi, tôi nghĩ về ông ta như bài hát của người dẫn đường cho chúng ta ấy, - Arthos đáp và lặp lại: "Cái ông Bouillon đê hèn, Bị bệnh phong thấp nó hành" - Thế cho nên, - Aramis nói, - Anh thấy đấy, tôi có hé răng chút nào về mục đích chúng ta đến đâu. - Và cậu hành động khôn ngoan đến nỗi có thể lại cho hắn bị một cơn đau nữa rồi. Thôi, ta đi đến ông de Beaufort. Và hai người bạn đi về phía dinh Vendôme. Khi họ đến nơi, chuông điểm mười giờ tối. Dinh Vendôme được canh phòng không kém và cũng phô ra vẻ mặt hiếu chiến không kém dinh Bouillon. Cũng có lính gác, có quân đứng gát ngoài sân, có súng dựng chụm, có ngựa thắng yên cương sẵn sàng. Arthos và Aramis đi vào thì hai kỵ sĩ đi ra, họ phải cho ngựa lùi lại một bước để nhường chỗ cho các anh vào. - A, a! - Aramis nói, - Các ông ơi, rành rành đêm nay là cái đêm gặp gỡ. Thú thật là chúng ta sẽ không may, vì sau khi gặp nhau quắ nhiều trong buổi tối nay, đến mai chúng ta sẽ chẳng thể gặp nhau nữa. Châtillon, vì chính là gã cùng với Flamarens vừa ở nhà quận công de Beaufort ra, đáp lại: - Ồ, về điều ấy các ông có thể yên tâm vì nếu ban đêm chúng ta không tìm nhau mà vẫn gặp nhau thì ban ngày chúng ta tìm nhau ắt là sẽ gặp nhau. - Tôi mong như vậy, ông ạ, - Aramis nói. - Còn tôi thì tôi chắc chắn, - Công tước đáp. Flamarens và Châtillon tiếp tục đi ra, còn Arthos và Aramis xuống ngựa. Hai anh vừa mới trao dây cương cho mấy tên hầu và cởi bỏ áo choàng ra, thì một người tiến lại gần dưới ánh sáng mập mờ của một ngọn đèn treo ở giữa sân, nhìn ngó các anh một lát, rồi kêu lên một tiếng kinh ngạc và vừa nhảy xổ vào vòng tay các anh vừa reo: - Bá tước de La Fère! Hiệp sĩ D Herblay! Làm thế nào mà các ông lại có mặt ở Paris đây? - Rochefort! - Hai anh cùng reo lên. - Vâng, đúng rồi. Như các ông đã biết, chúng tôi từ Vendôme tới đây được bốn năm hôm rồi và đang sửa soạn cho lão Mazarin bận rộn đây. Tôi đoán chắc rằng các ông vẫn là người của bên ta chứ? - Hơn bao giờ hết! - Thế còn quận công? - Ông ấy căm giận chủ giáo lắm. Các ông biết thắng lợi của lão đối với ông quận công thân mến của chúng ta chứ? Lão ta là ông vua thực sự của Paris, lão không thể đi ra ngoài mà không có nguy cơ bị người ta bóp cổ chết. - A, càng tốt! - Aramis nói. - Nhưng này, hãy cho tôi biết có phải Flamarens và Châtillon vừa ở đây ra không? - Phải, họ vừa mới yết kiến ông quận công. Chắc hẳn do Mazarin phái đến, nhưng họ đã thấy phải đối mặt với ai rồi, tôi dám chắc như vậy. - Vừa hay! - Arthos nói. - Nhưng liệu chúng tôi có được vinh dự vào chào điện hạ không? - Ô kìa! Vào ngay bây giờ ấy chứ! Các ông biết rằng đối với các ông lúc nào Điện hạ cũng có thể gặp được. Hãy đi theo tôi, tôi mong có vinh dự được giới thiệu các ông đấy. Rochefort đi trước. Tất cả các cửa mở ra trước ông và hai người bạn. Họ thấy ông de Beaufort sắp sửa ngồi vào bàn ăn. Hàng nghìn công việc bận rộn ban chiều đã làm chậm bữa ăn tối của ông đến lúc ấy. Nhưng mặc dầu sự nghiêm trọng của tình hình, vừa mới nghe Rochefort báo tên hai người khách, ông hoàng đang kéo ghế vào sát bàn, ăn vội đứng lên, bước tới hai người bạn và nói: - A! Xin chào mừng các ông. Các ông ăn cùng với tôi nhé. - Boisjoli, hãy bảo Noirmont là tôi có hai thực khách. Các ông biết Noimont chứ? Đó là viên đầu bếp của tôi, người kế tục cha Marteau, kẻ làm những cái bánh nước ngon tuyệt mà các ông biết đấy. Boisjoli, bảo bác ấy đưa một chiếc bánh nướng lên, nhưng không phải loại bánh đã từng làm cho La Ramée. Ơn trời, chúng ta không cần đến thang đây, dao găm hay quả lê cay đắng nữa. - Thưa Đức ông, - Arthos nói, - xin đừng làm phiền bác đầu bếp trứ danh của ngài nữa, chúng tôi biết bác ấy có tài năng phong phú đa dạng lắm. Tối nay, được Điện hạ cho phép, chúng tôi chỉ dám xin hỏi thăm sức khỏe của ngài và nhận mệnh lệnh của ngài thôi. - Ồ, về sức khỏe của tôi, các ông thấy đấy thật là tuyệt diệu. Một sức khỏe đã chịu đựng năm năm ngục tù kèm theo ông De Chavigny nữa thì có thể làm được mọi việc. Còn về mệnh lệnh cho các ông, thi xin thú thật là tôi rất lúng túng, nhân vì mỗi người đều tự mình ra lệnh cả, nếu tình trạng này tiếp diễn thì cuối cùng, tôi chẳng ra lệnh gì hết. - Thật thế ư? - Arthos nói, - Tôi tưởng rằng nghị viện trông cậy vào sự đoàn kết của các ngài. - À phải, sự đoàn kết của chúng tôi! Nghe đẹp đẽ đấy. Với quận công de Bouillon thì còn khả dĩ; ông ta bị bệnh phong thấp và chịu liệt giường, nhưng còn có cách để thông cảm với nhau được. Còn với ông d Elbeuf và lũ con trai bị thịt của ông ta ấy à… Các ông biết bài vè về quận công d Elbeuf chứ! - Thưa ngài, không ạ. - Thật ư? Ông quận công bèn cất tiếng hát: d Elbeuf và lũ con Làm loạn cả Hoàng trường. Bốn kẻ đi vênh váo d Elbeuf và lũ con Nhưng nếu ra chiến trường Tìm đâu vẻ mã thượng d Elbeuf và lũ con Nhặng xị cả Hoàng trường. Nhưng mà, - Arthos nói, - Đối với ngài chủ giáo, tôi hy vọng không phải như vậy. - A, vâng? Với ông chủ giáo thì còn tệ hơn nữa. Cầu Chúa hãy tránh cho ông những viên tư giáo bát nháo, nhất là khi họ lại mặc giáp sắt bên trong áo thày tu! Đáng lẽ ở yên trong toà giám mục của mình để làm các lễ tạ ơn mừng những chiến thắng mà chúng ta bị đánh bại, thì ông có biết ông ta làm gì không? - Không ạ. - Ông ta lập một trung đoàn mang tên ông, trung đoàn Coadjuter. Ông ta biến các trung uý và đại uý thành thống chế và các đại tá thành ông vua. - Vâng, - Aramis nói, - Nhưng đến lúc phải chiến đấu, tôi chắc rằng ông ta sẽ bám trụ ở toà giám mục. - Ồ, không phải thế đâu, D Herblay thân mến ơi, điều ấy ông lầm đấy! Khi cần chiến đấu thì ông ta chiến đấu. Thành thử do cái chết của chú ông đã cho ông cái ghế trong nghị viện, lúc nào ông ta cũng quẩn chân người ta ở nghị viện, ở hội đồng, ở trận mạc. Hoàng thân de Conti thì là tướng trong bức hoạ thôi, mà bức hoạ thế nào cơ chứ? Một ông hoàng gù lưng! Ôi, tất cả những điều đó tiến hành rất dở, các ông ạ, rất dở. Arthos đưa mắt nhìn Aramis và nói: - Thưa Đức ông, thành thử ra Điện hạ bất bình? - Bất bình ư, bá tước? Phải nói rằng Điện hạ phẫn nộ. Đến mức - Tôi không nói với người khác mà nói riêng với ông thôi nhé - Nếu như hoàng hậu thừa nhận sai lầm đối với tôi mà gọi bà mẹ tôi đang bị lưu đầy trở về, và cho tôi lấy lại chức cái tước vị đô đốc vốn là của cha tôi và người ta đã hứa ban cho tôi khi ông chết, thì tôi sẵn sàng dạy những con chó cho chúng biết sủa rằng ở Pháp còn có những tên ăn cắp lớn hơn ông Mazarin nhiều. Arthos và Aramis không chỉ đưa mắt nhìn nhau, mà còn vừa nhìn nhau vừa mỉm cười. Và dù có không gặp chăng nữa, các anh cũng đoán rằng Châtillon và Flamarens đã qua đây, cho nên các anh không nói nửa lời về sự có mặt của Mazarin ở Paris. - Thưa Đức ông, - Arthos nói, - Thế là chúng tôi thoả mãn rồi. Đến thăm Điện hạ vào giờ này, chúng tôi không có mục đích nào khác là chứng minh lòng tận tụy của chúng tôi và để thưa với ngài rằng chúng tôi sẵn sàng hầu hạ ngài như những người tôi tớ trung thành nhất. - Như những người bạn trung thành nhất, các ông ạ, như những người bạn trung thành nhất của tôi! Các ông đã chứng minh như vậy. Và nếu như sau này tôi có hoà giải với triều đình, thì tôi cũng sẽ chứng minh với các ông rằng tôi vẫn là người bạn của các ông, cũng như là bạn của mấy ông kia nữa, tên mấy ông kia là gì nhỉ? - D Artagnan và Porthos. - À, phải rồi, như vậy ông, bá tước de La Fère, và ông hiệp sĩ D Herblay, các ông hiểu cho rằng bao giờ tôi cũng hết lòng với các ông. Arthos và Aramis cúi chào và đi ra. - Arthos thân mến ơi, xin Chúa tha lỗi, tôi chắc rằng anh chỉ bằng lòng đi với tôi chẳng qua là để cho tôi một bài học phải không? - Khoan đã, bạn thân mến, - Arthos đáp, - Hãy còn thì giờ để chiêm nghiệm khi chúng ta ra khỏi nhà ông chủ giáo. Và cả hai người đi về khu Cité. Đến gần cái nôi của Paris, Porthos vàAaramis thấy phố xá ngập lụt và lại phải đi thuyền. Đã mười một giờ khuya rồi, nhưng ai cũng biết rằng đến nhà ông chủ giáo thì chẳng kể giờ giấc gì. Sự hoạt động ghê gớm của ông, tuỳ theo nhu cầu mà biến đêm thành ngày và ngày thành đêm. Toà tổng chủ giáo nhô lên từ lòng nước, và cứ theo số thuyền đậu khắp chung quanh toà nhà, ta cớ thể ngờ rằng mình không phải ở Paris mà đang ở Venise (1). Thuyền bè đi lại đan nhau khắp mọi ngả, chui sâu vào trong những mé lộ của khu Cité, hoặc đi xa ra phía Binh công xưởng hoặc những con đường Saint-Victo, và cứ bơi như trên một cái hồ lớn. Có những thuyền im lặng và bí hiểm, có những thuyền ồn ào và sáng đèn. Đôi bạn lướt giữa cái thề giới thuyền bè ấy và cập bến. Tất cả tầng trệt của toà giám mục bị ngập nước, nhưng có những cầu thang mọi kiểu lắp vào các tường. Tất cả sự biến đổi do ngập lụt là đáng lẽ vào nhà bằng của chính thì bây giờ vào bằng cửa sổ. Cũng bằng cách như vậy, đôi bạn vào gian tiền sảnh của chủ giáo. Ở đây đông đặc những đầy tớ vì có đến một tá các vị công hầu tụ tập ở phòng đợi. - Trời ơi! - Aramis nói, - Arthos hãy xem kìa! Thế này thì liệu cái lão chủ giáo hợm hĩnh ấy có vui lòng bảo chúng ta chờ đợi không? Arthos mỉm cười, nói: - Bạn thân mến ơi, cần phải xét người với tất cả những bất lợi trong tình cảnh của họ. Lúc này thì ngài chủ giáo đang là một trong số bảy tám ông vua Pháp đang ngự trị ở Paris, và ông ta có một triều đình. - Phải đấy, - Aramis nói, - Nhưng chúng ta chẳng phải là cận thần. - Cho nên chúng ta sẽ đưa tên chúng ta vào và nếu ông ta xem rồi mà không có sự trả lời thích đáng thì, được rồi chúng ta sẽ mặc ông ta với những công việc của nước Pháp và của riêng ông ấy. Bây giờ ta chì cần gọi một tên hầu ra và dúi cho nó một nửa pistol. - A! đúng rồi, - Aramis kêu lên, - Mình có lầm không nhỉ… đúng không…, đúng đấy… này ông mãnh Bazin lại đây! Lúc ấy Bazin oai vệ trong bộ y phục nhà thờ đang đi qua phòng đợi, chợt quay lại, cau mày nhìn xem kẻ nào hỗn xược gọi mình như vậy. Nhưng vừa mới nhận ra Aramis, thì con cọp bỗng trở thành con cừu và tiến lại hai nhà quý tộc mà nói: - Ô kia! Ông hiệp sĩ đấy à! Ông bà tước đấy à! Chúng tôi đang lo lắng về các ông thì cả hai ông đã về đây rồi! Ôi, gặp lại hai ông, tôi mừng quá. - Tốt lắm, tốt lắm, thày Bazin ạ, - Aramis nói, - Thôi chúc tụng thế đủ rồi. Chúng tôi muốn đến thăm ngài chủ giáo; chúng tôi vội lắm và cần gặp ngay bây giờ. - Thế nào? - Bazin nói, - ngay bây giờ ư? Những vị công hầu như các ông không phải để người ta bắt ngồi chờ. Song le trong lúc này chủ giáo đang hội đàm bí mật với ông de Bruy nào đó. - De Bruy? - Cả Arthos và Aramis cũng kêu lên. - Vâng, tôi đã trình báo ông ta đến và tôi nhớ rất rõ tên ông ta. - Ông quen biết ông ta ư? - Bazin lại nói. - Vì ông ta trùm áo choàng kín mít, đến nỗi tôi cố nhìn cũng chẳng nom thấy một góc nhỏ nào trên mặt cả. Nhưng tôi sẽ vào trình rằng các ông tới, và lần này sẽ có may mắn hơn. - Vô ích! - Aramis nói. - Chúng ta lại không gặp ông chủ giáo tối nay nữa, phải không Arthos? - Tuỳ anh thôi. - Ông ta có những việc quá quan trọng cần thương lượng với cái ông de Bruy ấy. - Thưa các ông, - Bazin nói, - Sau đấy tôi có phải trình lại rằng các ông đã tới toà giám mục không? - Không, chẳng cần đâu, - Aramis nói, - ta đi thôi, Arthos. Và hai người bạn rẽ đám đầy tớ, đi ra khỏi toà giám mục. Bazin theo sau và chứng mình tầm quan trọng của các ông chủ mình bằng những cái vái chào lia lịa. Khi xuống thuyền rồi, Arthos hỏi Aramis: - Này cậu ơi, cậu đã bắt đầu thấy chưa, rằng chứng mình sẽ chơi xỏ tất cả các vị kia nếu chúng mình bắt giữ Mazarin? - Arthos ơi, - Aramis nói, - Anh là hiện thân của sự khôn ngoan đấy. Điều đập mạnh nhất vào hai người bạn là những biến cố ghê gớm xảy ra ở nước Anh và các anh tưởng như chúng bắt tất cả châu Âu phải quan tâm thì chẳng có gì là quan trọng đối với triều đình Pháp. Thật vậy, ngoài một người vợ goá tội nghiệp và một đứa con mồ côi khóc lóc ở một xó cung Louvre thì chẳng ai tỏ ra biết rằng đã có một ông vua Charles I tồn tại và ông vua ấy vừa mới chết trên đoạn đầu đài. Đôi bạn hẹn gặp lại nhau vào mười giờ sáng hôm sau. Khi đến cổng khách sạn thì đêm đã khuya lắm, nhưng Aramis còn có vài việc thăm viếng quan trọng phải làm và đã để Arthos về một mình. Sáu giờ sáng hôm sau Arthos cũng đã đi ra ngoài và đến mười giờ họ lại gặp nhau. - Thế nào, có tin tức gì không? - Arthos hỏi. - Chẳng có gì hết. Chẳng ai trông thấy d Artagnan ở đâu, và Porthos cũng chưa xuất hiện. Thế còn anh? - Cũng chẳng có tin gì cả. -Kì lạ nhỉ? - Thật vậy, - Arthos nói, - Sự chậm trễ này là không bình thường. - Các cậu ấy đi theo đường ngắn nhất, cho nên đáng lẽ phải về trước chúng mình chứ? - Chưa kể, - Arthos nói, - Chúng ta đều biết rằng d Artagnan rất khẩn trương trong mọi công việc, không bao giờ để mất thì giờ, nhất là lại biết rằng chúng ta chờ đợi… Cậu ta tính về đây ngày mồng năm. - Mà hôm nay đã mồng chín. Tối nay là quá hạn rồi. - Cậu định thế nào, - Arthos hỏi, - Nếu tối nay vẫn chưa có tin tức gì về các bạn? - Chúa ơi! Chúng ta phải đi tìm. - Được - Arthos nói. - Nhưng còn Raoul? - Aramis hỏi. Một bóng mây thoáng qua trán Arthos. Anh nói: - Tôi cũng rất lo cho nó. Nó nhận một bức thư của hoàng thân de Condé và tới gặp ngài ở Saint-Clou, thế mà vẫn chưa trở về. - Anh không gặp bà de Chevreuse à? - Bà ta không có nhà. Còn cậu, tôi chắc thế nào cậu chẳng tạt qua bà de Longueville? - Có đấy - Aramis đáp. - Thế nào? - Bà ta cũng không có nhà, nhưng ít ra cũng để lại địa chỉ mới. - Ở đâu thế? - Thử đoán xem, tôi cá bạc nghìn đấy. - Tôi chắc rằng đêm qua cậu chia tay tôi và đến nhà bà ấy. Thế thì cậu bảo tôi làm sao mà đoán được cái bà xinh đẹp nhất và hoạt động nhất trong đám nữ Fronde ấy ở đâu lúc nửa đêm. - Bạn thân mến ơi, bà ta ở Toà thị sảnh. - Sao, ở Toà thị sảnh à? Thì ra bà ta được cử làm thị trưởng Paris ư? - Không; bà ta làm quyền hoàng hậu Paris, và do không dám vừa thoạt đầu đã đến ngự ở Hoàng cung hoặc cung điện Tuleries, bà ta đóng ở Toà thị sảnh, tại đây bà ta sẽ cho ngài quận công thân mến ấy một đứa con thừa kế trai hoặc gái. - Aramis, thế mà cậu đã không cho tôi biết tình hình này, - Arthos trách. - Ơ thật à? Thế thì tôi quên đấy. Xin lỗi nhé! - Từ giờ đến chiều tối chúng ta làm gì nào? - Arthos hỏi, - hình như ta quá rỗi rãi. - Anh quên rồi ư, chúng ta có việc ấn định sẵn rồi mà. - Về phía Charenton à, mẹ kiếp! - Theo lời hẹn của hắn, tôi hy vọng gặp tại đấy một gã Châtillon nào đó mà tôi căm ghét từ lâu. - Tại sao thế? - Arthos hỏi. - Tại vì hắn là em ruột lão Coligny nào đó. - À phải rồi, tôi quên mất. Cái lão đã tấp tểnh làm đối thủ của cậu. Hắn đã bị trừng phạt một cách tàn nhẫn vì cái tội mạo muội ấy. - Bạn thân mến ơi, kể ra như thế cũng đủ lắm cho cậu rồi. - Vâng, nhưng biết làm thế nào. Điều đó chưa đủ với tôi. Tôi là người thù dai; đó là cái điểm duy nhất khiến tôi bám vào Nhà thờ. Sau đó, Arthos ơi, mong anh hiểu rằng anh không hề bị buộc phải đi theo tôi. - Thôi đi nào - Arthos nói - Cậu đùa đấy à? - Bạn thân mến ơi, nếu anh quyết định đi với tôi thì không chậm trễ nữa. Trống đã đánh, tôi đã gặp các cỗ đại bác, đã trông thấy các nhà tư sản thị dân dàn trận trên quảng trường Toà thị sảnh; chắc chắn sắp có đánh nhau ở phía Charenton như hôm qua công tước de Châtillon đã nói. - Tôi ngỡ là, - Arthos nói, - những cuộc đàm phán đêm qua có làm thay đổi chút nảo những khuynh hướng hiếu chiến. - Phải, chắc thế, nhưng không phải vì vậy mà người ta không đánh nhau, dù là để ngụy trang cho những cuộc đàm phán. - Tội nghiệp cho những con người kia? - Arthos nói, họ đi ra chỗ chết đề người ta trả lại đất Sedan cho ông Bouillon, để người ta ban quyền tập chức đô đốc cho ông de Beaufort, và để ngài chủ giáo được phong làm giáo chủ. - Này, này, Arthos thân mến ơi, - Aramis nói, - Hãy thú nhận rằng anh chẳng tỏ ra hiền triết đến thế đâu, nếu như Raoul của anh không phải có mặt ở trong những vụ lộn xộn ấy? - Có lẽ cậu nói đúng đấy, Aramis ạ. - Vậy thì chúng ta hãy đến chỗ nào có đánh nhau, đó là một cách chắc chắn để tìm gặp d Artagnan, Porthos và cả Raoul nữa. - Chao ôi! - Arthos nói. - Này anh bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - Hãy nghe tôi, giờ đây chúng ta đang ở Pháp thì phải bỏ cái thói quen luôn luôn thở vắn than dài ấy đi. Đúng là! Thời thế thế, thế thời phải thế! Arthos, anh chẳng phải người kiếm cung nữa sao và anh làm như người tu hành ấy. Xem kìa, những nhà tư sản bảnh bao đang đi qua; trông ra dáng nhà binh đấy chứ! - Họ đi từ phố Con Cừu ra. - Trống trận đi trước, như những binh lính thực thụ. Này nhìn xem cái thằng cha kia, nó khệnh khạng, ưỡn ngực ra! - Hừ! - Grimaud thốt lên. - Cái gì? - Arthos hỏi. - Planchet, ông ạ… - Hôm qua trung uý, hôm nay đại úy. - Aramis nói, - Ngày mai chắc là đại tá, trong tám ngày nữa không chừng nó lên thống chế Pháp quốc. - Ta hãy hỏi thăm tin tức nó xem sao, - Arthos nói. Đôi bạn đến chỗ Planchet. Anh ta hãnh diện hơn bao giờ hết vì được biết đến trong khi đang thừa hành chức vụ của mình, chiếu cố giải thích cho hai nhà quý tộc rằng anh được lệnh đóng ở Hoàng trường với hai trăm người tạo thành đội hậu vệ của quân đội Paris, và khi cần sẽ tiến về phía Charenton. Do đi cùng một hướng, Arthos và Aramis hộ tống Planchet đến tận vị trí của anh ta. Planchet cho vận động khá nhanh nhẹn người của mình trên Hoàng trường và bố trí họ đằng sau một dãy dài những dân tư sản đứng ở phố và cửa ô Saint-Antoine, trong khi chờ đợi hiệu lệnh chiến đấu. - Ngày hôm nay sẽ nóng bỏng đây, - Planchet nói với giọng hiếu chiến. - Hẳn là thế, - Aramis nói, - nhưng từ đây đến chỗ quân thù còn xa. - Người ta sẽ rút ngắn khoảng cách lại, ông ạ, - một viên khu trưởng nói. Aramis chào, rồi quay lại bảo Arthos: - Tôi chẳng thiết ở lại Hoàng trường với tất cả lũ người này. Hay là chúng ta tiến lên phía trước; ta sẽ thấy rõ mọi sự hơn. - Với lại ông de Châtillon sẽ chẳng đi tìm cậu ở Hoàng trường đâu, có phải không? Nào, ta đi lên phía trước. - Thế về phía anh chẳng có vài lời cần nói với ông Flamarens hay sao? - Bạn ơi, tôi đã có một quyết định là chỉ rút kiếm ra khi cùng bất đắc dĩ. - Từ bao giờ vậy? - Từ khi tôi rút dao găm. - A, được lắm? Lại một kỷ niệm về ông Mordaunt. - Này, bạn thân mến ơi, anh chỉ có nước ăn năn hối hận vì đã giết chết cái thằng ấy. Với nụ cười buồn bã chỉ anh mới có, Arthos đặt một ngón tay lên miệng mà nói: - Suỵt! Đừng nói đến Mordaunt nữa, kẻo mang hoạ đấy. Rồi Arthos nhằm hướng Charenton mà phóng, đi theo cửa ô, rồi thung lũng Fêcamp đen đặc những thị dân vũ trang. Aramis đi theo sau anh nửa thân ngựa. Chú thích: (1) Thành phố xây dựng trên mắt nước, là một thắng cảnh ở nước Ý.
Hai Mươi Năm Sau Hai Mươi Năm Sau - Alexandre Dumas Hai Mươi Năm Sau