Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 59
Đ
ã mười một năm rồi tôi chưa một lần tận mắt trông thấy Joe hay
Biddy - dù họ vẫn thường xuyên hiện diện trong tâm trí tôi ở phương Đông.
Vào một buổi tối tháng Mười hai, tôi nhẹ nhàng đặt bàn tay lên then cài cửa
căn bếp cũ, một hay hai giờ sau khi trời tối. Tôi chạm vào nó thật nhẹ để
không bị nghe thấy, và nhìn vào trong không bị trông thấy. Ngồi kia, hút tẩu
thuốc của anh ở chỗ cũ bên lò sưởi trong bếp, vẫn khỏe mạnh tráng kiện như
xưa, dù tóc đã hơi ngả xám, là Joe; và kia, được ngăn vào trong góc nhờ chân
Joe, đang ngồi trên chính cái ghế đẩu bé xíu của tôi nhìn vào ngọn lửa, là -
chính tôi!
“Anh chị đặt tên cháu là Pip để nhớ đến cậu đấy, anh bạn,” Joe vui vẻ
nói khi tôi ngồi xuống một cái ghế đẩu nữa bên cạnh cậu bé (nhưng tôi
không
vò tóc nó), “và anh chị hy vọng nó sẽ lớn lên ít nhiều giống cậu, và anh chị
nghĩ đúng là thế thật.”
Cả tôi cũng nghĩ vậy, và tôi dẫn cậu bé ra ngoài đi dạo một vòng sáng
hôm sau, chúng tôi trò chuyện với nhau rất nhiều, hiểu nhau đến hoàn hảo.
Và tôi dẫn cháu tới nghĩa địa nhà thờ, đặt cậu bé lên một tấm bia mộ ở đó, và
từ trên vị trí cao này, cậu bé chỉ cho tôi biết đâu là tấm bia thiêng liêng dành
tưởng nhớ Philip Pirrip, con chiên đã quá cố của giáo khu này, và Cả
Georgiana, Vợ của Người Ở Trên.
“Biddy,” tôi nói, khi tôi trò chuyện với chị sau bữa tối, trong lúc cô con
gái nhỏ nằm ngủ trong lòng chị, “chị nhất định phải trao Pip cho tôi vào một
ngày nào đó; hay cho mượn cũng được, bằng bất cứ cách nào.”
“Không, không,” Biddy dịu dàng nói. “Cậu cần phải lấy vợ đi.”
“Herbert và Clara cũng nói thế, nhưng tôi không nghĩ mình sẽ lập gia
đình, Biddy. Tôi đã quá quen sống cùng nhà họ rồi, vì thế chuyện đó khó
lòng xảy ra được. Tôi cũng gần trở thành một anh chàng độc thân quá lứa
rồi.”
Biddy nhìn xuống con chị, và đưa bàn tay nhỏ xíu của cháu lên môi, rồi
áp bàn tay nhân hậu của bà mẹ mà chị vừa dùng để cầm lấy nó lên tay tôi. Có
điều gì đó trong cử chỉ này, cũng như từ chiếc nhẫn cưới của Biddy đang ấn
nhẹ lên tay tôi, nói ra nhiều điều chẳng kém gì những lời hùng biện.
“Pip yêu quý,” Biddy nói, “cậu chắc cậu không còn nghĩ đến cô ấy nữa
chứ?”
“Ồ không, tôi nghĩ là không, Biddy.”
“Hãy nói với tôi như một người bạn thân lâu năm. Cậu đã quên hẳn cô
ấy chưa?”
“Biddy yêu quý, tôi chưa quên bất kỳ thứ gì từng có một vị trí quan
trọng trong đời mình, và rất ít thứ từng có vị trí như thế. Những giấc mộng
khốn khổ đó, như tôi từng gọi nó như thế, đã hoàn toàn kết thúc rồi, Biddy,
hoàn toàn kết thúc rồi!”
Dẫu vậy, tôi biết, trong khi nói ra những lời này, tôi vẫn bí mật dự định
tới thăm lại địa điểm của ngôi nhà ngày trước, một mình, vì cô. Phải, bất chấp
tất cả. Vì Estella.
Tôi đã nghe nói cô có một cuộc sống vô cùng bất hạnh, và đã ly thân
với chồng, kẻ đối xử với cô rất tàn nhẫn, và đã trở nên khá tiếng tăm như là
sự pha trộn của kiêu căng, bủn xỉn, tàn bạo và bần tiện. Và tôi cũng đã nghe
nói đến cái chết của chồng cô, một tai nạn xảy ra do anh ta đối xử tàn bạo với
một con ngựa. Sự giải thoát này đến với cô chừng hai năm trước; và như tôi
đoán, hẳn cô đã tái giá.
Bữa ăn chiều sớm tại nhà Joe cho phép tôi có dư dả thời gian để đi bộ
tới nơi đó trước khi trời tối hẳn mà không cần vội vã khi trò chuyện với
Biddy. Nhưng vì nấn ná dọc đường ngắm nhìn những cảnh vật cũ và nghĩ về
những ký ức cũ, khi tôi tới nơi ngày đã gần tàn.
Giờ đây không còn ngôi nhà, không còn xưởng ủ bia, không còn công
trình nào sót lại, ngoại trừ bức tường của khu vườn cũ. Khoảng đất đã phá
bằng được rào lại bằng một hàng rào cục mịch, và khi nhìn qua nó, tôi thấy
một phần đám cây thường xuân ngày trước đã đâm rễ trở lại, và đã mọc lên
xanh tốt trên một đống đổ nát thấp tè vắng lặng. Một cánh cổng trên bờ rào
mở he hé, tôi đẩy mở hẳn nó ra, và đi vào trong.
Một màn sương mù lạnh lẽo bàng bạc đã buông xuống lúc chiều, và
mặt trăng vẫn chưa lên để xua tan nó. Nhưng những vì sao đang tỏa sáng phía
trên màn sương mù, và trăng đang lên dần, còn buổi đêm cũng không quá tối.
Tôi có thể lần bước theo nơi mỗi phần của ngôi nhà cũ từng tọa lạc, cũng như
vị trí của xưởng ủ bia, của những cánh cổng, của đống vỏ thùng bộng. Tôi đã
làm thế, và đang nhìn dọc theo lối đi vắng tanh trong vườn, thì trông thấy một
thân hình cô độc trong đó.
Người nọ tỏ ra biết sự có mặt của tôi khi tôi tiến lại. Bóng người đó
đang di chuyển về phía tôi, nhưng giờ lại đứng im. Khi lại gần hơn, tôi thấy
bóng người đó là một phụ nữ. Khi tôi lại gần hơn nữa, bóng người này đang
định quay đi thì dừng lại để tôi bắt kịp. Rồi người phụ nữ kia ngập ngừng như
thể rất ngạc nhiên và khẽ gọi tên tôi, và tôi kêu lên:
“Estella!”
“Em đã thay đổi rất nhiều. Em rất ngạc nhiên anh vẫn nhận ra em.”
Sự tươi tắn trong vẻ đẹp của cô quả thực đã mất đi, nhưng vẻ cao quý
và vẻ quyến rũ không thể mô tả bằng lời của nó vẫn còn đó. Thu hút này của
nó trước đây tôi đều đã thấy; điều trước đây tôi chưa bao giờ thấy, đó là ánh
long lanh giờ đây trở nên buồn hơn, dịu dàng hơn trong đôi mắt từng kiêu
hãnh; điều trước đây tôi chưa bao giờ cảm thấy là cái chạm thân thiện của
bàn tay vốn trước đây hoàn toàn vô cảm.
Chúng tôi ngồi xuống một băng ghế gần đó, và tôi nói, “Sau bao nhiêu
năm, thật lạ là chúng ta lại gặp nhau như thế này, Estella, ở đây, tại nơi chúng
ta lần đầu tiên gặp nhau! Em có hay trở lại đây không?”
“Em chưa bao giờ trở lại đây kể từ dạo đó.”
“Anh cũng vậy.”
Trăng bắt đầu lên cao, và tôi chợt nghĩ tới ánh mắt bình yên nhìn lên
trần nhà quét vôi trắng của một người đã ra đi. Trăng bắt đầu lên cao, và tôi
nhớ đến cái ép nhẹ lên bàn tay tôi khi tôi nói ra những lời cuối cùng ông nghe
thấy trên đời.
Estella là người tiếp theo lên tiếng phá vỡ sự im lặng kéo dài sau đó
giữa chúng tôi.
“Em vẫn thường xuyên hy vọng và định quay trở lại, nhưng rồi bị ngăn
trở bởi nhiều hoàn cảnh. Chốn xưa, chốn xưa tội nghiệp!”
Màn sương mù bàng bạc bắt đầu bị những làn ánh trăng đầu tiên chạm
vào, và cũng những tia sáng ấy chiếu lên những giọt nước mắt lăn xuống từ
đôi mắt Estella. Không hề biết tôi đã nhìn thấy chúng, và cố khống chế bản
thân để kìm chúng lại, cô khẽ nói:
“Trong lúc đi dạo bên trong, anh có tự hỏi vì sao nơi này lại bị bỏ trong
điều kiện như hiện tại không?”
“Có chứ, Estella.”
“Khu đất thuộc về em. Đây là tài sản duy nhất em chưa phải từ bỏ. Mọi
thứ khác đã dần dần rời khỏi tay em, nhưng em đã giữ lại nơi này. Nó là chủ
đề cho cuộc kháng cự kiên quyết duy nhất em từng làm trong suốt những năm
khốn khổ đó.”
“Nơi này sẽ được xây lại chứ?”
“Cuối cùng sẽ là thế. Em tới đây để chia tay nó trước khi nó thay đổi.
Còn anh,” cô nói, với giọng nói đầy quan tâm thật xúc động dành cho một kẻ
lang thang, “anh vẫn sống ở nước ngoài chứ?”
“Vẫn vậy.”
“Và thành đạt, em chắc vậy phải không?”
“Anh làm việc rất cần mẫn cho một cuộc sống vừa đủ, và vì thế - phải,
anh thành đạt.”
“Em vẫn hay nghĩ về anh,” Estella nói.
“Thật thế sao?”
“Gần đây, rất thường xuyên. Đã có một quãng thời gian dài khắc nghiệt
khi em giữ cách xa khỏi mình ký ức về thứ em đã ruồng bỏ khi em không hề
biết giá trị của nó. Nhưng kể từ khi bổn phận của em không còn xung khắc
với việc chấp nhận ký ức ấy, em đã dành cho nó một chỗ trong trái tim
mình.”
“Em vẫn luôn giữ một chỗ trong trái tim anh,” tôi trả lời. Và chúng tôi
lại im lặng cho tới khi cô lên tiếng.
“Em không hề nghĩ,” Estella nói, “là em sẽ được chia tay anh khi chia
tay nơi này. Em rất mừng được làm như thế.”
“Mừng khi lại chia tay sao, Estella? Với anh, chia ly là một điều đau
khổ. Với anh, ký ức về lần chia tay cuối cùng của chúng ta vẫn luôn đầy
phiền muộn và đau khổ.”
“Nhưng anh đã nói với em,” Estella trả lời rất tha thiết, “ ‘Mong Chúa
ban phước lành cho em, mong Chúa tha thứ cho em!’ Và nếu anh có thể nói
với em như thế khi đó, anh sẽ không do dự nói thế với em vào lúc này - lúc
này, khi sự giày vò đã mạnh hơn mọi dạy dỗ, và đã dạy cho em hiểu trái tim
anh từng cảm thấy thế nào. Em đã bị vùi dập và hành hạ, nhưng - em hy vọng
- để trở nên tốt hơn. Hãy ân cần và tử tế với em như anh đã từng trước đây,
và hãy nói với em chúng ta là bạn.”
“Chúng ta là bạn,” tôi nói, đứng dậy và cúi xuống cô khi cô đứng dậy
khỏi băng ghế.
Và sẽ tiếp tục là bạn khi xa nhau,” Estella nói.
Tôi cầm lấy bàn tay cô trong bàn tay mình, và chúng tôi cùng rời khỏi
nơi đổ nát ấy; và giống như màn sương mù buổi sáng từng dâng lên cao cách
đây đã lâu khi tôi rời khỏi lò rèn lần đầu tiên, lúc này màn sương mù buổi tối
cũng đang dâng lên cao, và trong cả vùng sáng bình yên trải rộng nó để lộ ra
với tôi, tôi không thấy cái bóng nào của một cuộc chia tay nữa với cô.
Hết