Never lend books, for no one ever returns them; the only books I have in my library are books that other folks have lent me.

Anatole France

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 58
in về việc vận hội lớn lao của tôi bị sụp đổ tan tành đã lan tới nơi tôi
ra đời và vùng quanh đó trước khi tôi về đến quê. Tôi phát hiện ra cả nhà trọ
Lợn Lòi Xanh đều đã biết tin, và nhận thấy nó đã gây nên một thay đổi lớn
lao trong thái độ đón tiếp của nhà trọ. Trong khi Lợn Lòi Xanh đã nỗ lực để
giành được thái độ hài lòng của tôi bằng sự ân cần niềm nở hết mực khi tôi
trở nên giàu có, Lợn Lòi Xanh giờ đây lại vô cùng lạnh nhạt với chủ đề đó
khi tôi không còn tiền bạc.
Trời đã tối khi tôi tới nơi, và mệt nhoài với cuộc hành trình mà trước
đây tôi vẫn thường trải qua rất dễ dàng. Nhà trọ Lợn Lòi Xanh không thể dẫn
tôi vào phòng ngủ quen thuộc của tôi, lúc này đã có người thuê (rất có thể là
ai đó đang có triển vọng hưởng gia tài), mà chỉ có thể dành cho tôi một chỗ
ngủ rất tuềnh toàng giữa những con bồ câu và xe thư ngoài sân. Nhưng tại
chỗ ngủ ấy, tôi cũng có được giấc ngủ ngon chẳng kém gì trong căn phòng tốt
nhất Lợn Lòi Xanh có thể dành cho tôi, và những giấc mơ tôi có cũng ngang
hàng như trong phòng ngủ thượng hạng.
Đến sáng sớm, trong khi bữa sáng của tôi đang được chuẩn bị, tôi rẽ
qua Satis. Có những tờ thông báo in được dán trên cổng và những mảnh thảm
treo ngoài cửa sổ, thông báo một phiên bán đấu giá đồ gỗ và đồ dùng nội thất
vào tuần sau. Bản thân ngôi nhà sẽ được bán như nhà cũ để lấy vật liệu và
phá dỡ xuống. Chữ LÔ 1 được ghi bằng những nét vôi nguệch ngoạc trên
xưởng ủ bia; LÔ 2 trên phần nhà chính đã bị đóng kín cửa từ lâu. Những lô
khác được đánh dấu trên những phần khác của tòa nhà, giàn cây thường xuân
đã bị giật xuống lấy chỗ cho các ghi chú, phần lớn nó nằm lẫn lộn trong đất
bụi và đã bắt đầu vàng úa. Bước vào trong qua cánh cổng để mở trong
khoảnh khắc và nhìn quanh mình với vẻ lúng túng của một người lạ chẳng có
việc gì ở đây, tôi nhìn thấy người trợ lý của nhà đấu giá đang bước đi trên các
vỏ thùng bộng, đếm số lượng chúng để ghi vào catalog, bút cầm trên tay, ông
ta đang dùng chiếc xe đẩy tôi vẫn hay đẩy đi trong lúc ngân nga bài hát về
Clem Già làm bàn viết tạm thời.
Khi quay lại với bữa sáng của mình trong phòng uống cà phê của nhà
trọ Lợn Lòi Xanh, tôi bắt gặp ông Pumblechook đang trò chuyện với chủ nhà.
Ông Pumblechook (ngoại hình ông chẳng hề được cải thiện vì cuộc phiêu lưu
đêm muộn) đang đợi tôi, và nói với tôi bằng những lời sau đây:
“Chàng trai trẻ, ta lấy làm tiếc phải thấy cậu tụt xuống thấp. Nhưng còn
có thể trông đợi gì khác đây! Còn có thể trông đợi gì khác đây!”
Vì ông ta chìa bàn tay ra với vẻ tha thứ đầy cao thượng, và cũng vì tôi
đang bị trận ốm làm suy nhược và không đủ sức để đôi co, tôi đành bắt tay
ông.
“William,” ông Pumblechook nói với người hầu bàn, “hãy bày một cái
bánh nướng lên bàn. Và đặt nó lên bàn này! Đặt nó lên bàn này!”
Tôi cau mày ngồi xuống ăn sáng. Ông Pumblechook đứng bên cạnh tôi
và rót trà cho tôi - trước khi tôi kịp với tới ấm trà - với bộ dạng của một
người ban ơn quyết tâm trọn vẹn đến cùng.
“William,” ông Pumblechook lên tiếng đầy tang thương, “cho muối
vào. Vào những thời điểm vui vẻ hơn,” ông ta nói với tôi, “ta nghĩ cậu từng
dùng đường nhỉ? Và cậu có dùng sữa không? Có dùng. Đường và sữa.
William, mang một suất cải xoong đến đây.”
“Cảm ơn ông,” tôi cắt ngang, “nhưng tôi không ăn cải xoong.”
“Cậu không ăn cải xoong,” ông Pumblechook đáp, thở dài và gật đầu
vài lần, như thể ông ta đã trông đợi chuyện này, và như thể việc không chịu
ăn cải xoong gắn liền với sự suy sụp của tôi. “Phải. Thứ rau đơn sơ của đất.
Không. Anh không cần mang tới nữa, William.”
Tôi tiếp tục ăn bữa sáng, và ông Pumblechook tiếp tục đứng bên cạnh
tôi, nhìn trừng trừng như mắt cá, thở phì phò ầm ĩ, như ông ta vẫn làm như
thế.
“Chỉ hơn da bọc xương một chút!” ông Pumblechook trầm ngâm thành
tiếng. “Ấy vậy mà khi cậu ta từ đây ra đi (tôi có thể nói với lời ban phước của
tôi), tôi đã để ra trước mặt cậu ta bữa ăn khiêm tốn của tôi, như một con ong,
cậu ta từng tròn trịa như một quả đào vậy!”
Những lời này nhắc cho tôi nhớ sự khác biệt kỳ diệu giữa bộ dạng
khúm núm của ông ta khi ông ta vừa chìa tay cho tôi lúc tôi gặp vận hội mới
vừa nói, “Cho phép tôi?” và vẻ khoan dung đầy phô trương ông ta ngay lúc
này đang thể hiện với cùng năm ngón tay béo múp ấy.
“Hà!” Ông ta tiếp tục, đưa bánh mì và bơ cho tôi. “Và cậu sẽ tới chỗ
Joseph?”
“Có Chúa chứng giám,” tôi nói, không đừng được nổi nóng, “tôi đi đâu
thì có liên quan gì tới ông? Hãy để cái ấm trà ấy được yên.”
Đây là cách dở nhất tôi chọn, vì nó đem lại cho Pumblechook cơ hội
ông ta muốn.
“Phải, chàng trai trẻ,” ông ta vừa nói vừa bỏ tay ra khỏi quai món đồ
kia, lùi một hai bước xa khỏi bàn tôi, và lên tiếng dành cho ông chủ nhà trọ
và anh chàng hầu bàn ngoài cửa, “Ta sẽ để cho cái ấm trà được yên. Cậu có
lý, chàng trai. Ít nhất một lần cậu cũng có lý. Ta đã quên mất bản thân khi ta
quan tâm đến thế tới bữa sáng của cậu, cũng như mong muốn thân thể của
cậu, kiệt quệ vì tác hại tàn phá của tính hoang đàng, được hồi sức nhờ thứ
thực phẩm tốt lành của cha ông cậu. Và dẫu vậy,” Pumblechook nói, quay
sang ông chủ nhà trọ và người hầu bàn, rồi duỗi thẳng cánh tay chỉ vào tôi,
“đây chính là cậu ta, người tôi từng cùng chơi đùa vào những ngày thơ ấu
hạnh phúc của cậu ta! Đừng nói với tôi là không thể; tôi xin nói với các vị
đây chính là cậu ta!”
Một tràng rì rầm từ hai người kia đáp lại. Anh chàng hầu bàn có vẻ đặc
biệt chấn động.
“Chính là cậu ta,” Pumblechook nói, “người tôi từng chở đi trên cái xe
của tôi. Chính cậu ta là người tôi từng chứng kiến được nuôi lớn lên bằng tay.
Chính cậu ta là em người chị gái gọi tôi bằng bác họ, và tên người chị ấy là
Georgiana Maria như được mẹ đặt cho, hãy để cậu ta chối bỏ điều đó đi nếu
cậu ta có thể!”
Anh chàng hầu bàn dường như đoan chắc tôi không thể chối bỏ điều
đó, và việc này làm cho trường hợp của tôi có vẻ thật tệ hại.
“Chàng trai trẻ,” Pumblechook nói, lắc lắc cái đầu với tôi theo cách
quen thuộc ngày trước, “cậu sắp đến chỗ Joseph. Cậu hỏi ta việc cậu đi đâu
thì có liên quan gì tới ta? Ta xin nói với cậu, thưa quý ngài, cậu sẽ tới chỗ
Joseph.”
Người hầu bàn ho khẽ, như thể khiêm tốn mời tôi hãy ăn xong bữa.
“Bây giờ,” Pumblechook nói, và tất cả với vẻ phẫn nộ tột độ của người
nói ra nhân danh phẩm giá những điều hoàn toàn thuyết phục và xác đáng, “ta
sẽ nói cho cậu biết cần nói gì với Joseph. Ở đây có ông chủ nhà trọ Lợn Lòi
Xanh đang hiện diện, được biết rõ và tôn trọng trong thị trấn này, và đây là
William, họ của bố anh ta là Potkins nếu ta không lầm.”
“Không đâu, thưa ông,” William nói.
“Trước sự chứng kiến của họ,” Pumblechook nói tiếp, “ta sẽ nói với
cậu, chàng trai trẻ, những gì cần nói với Joseph. Cậu hãy nói, ‘Joseph, hôm
nay em đã gặp người ban ơn cho em đầu tiên, người tạo lập nên vận hội cho
em. Em sẽ không nói ra cái tên nào cả, Joseph, nhưng mọi người vẫn vui lòng
gọi ông như thế trong thị trấn, và em đã gặp người ấy.’ ”
“Tôi xin thề là tôi không gặp ông ấy ở đây,” tôi nói.
“Cứ nói thế đi,” Pumblechook vặn lại. “Hãy nói là cậu đã nói thế, và
thậm chí cả Joseph cũng sẽ phải kinh ngạc.”
“Đến đây thì ông đã quá nhầm lẫn về anh ấy rồi,” tôi nói. “Tôi biết rõ
hơn ông.”
“Cậu hãy nói,” Pumblechook tiếp tục, “ ‘Joseph, em đã gặp con người
đó, và con người đó không hề trách móc gì anh, không hề trách móc gì em.
Ông biết tính anh, Joseph, và quá quen với sự dốt nát bướng bỉnh của anh; và
ông biết tính em, Joseph, và ông biết sự vô ơn của em. Phải, Joseph’ cậu hãy
nói,” đến đây Pumblechook lắc đầu và vung vẩy tay, “ ‘ông biết sự thiếu hụt
hoàn toàn lòng biết ơn thông thường của con người ở em. Ông biết điều đó,
Joseph, rõ hơn ai hết. Anh không biết điều đó, Joseph, vì không có lý do để
phải biết, nhưng người đó thì có.’ ”
Vẫn biết ông ta là kẻ khoác lác tự phụ, song tôi vẫn thực sự kinh ngạc
khi thấy ông ta lại đủ mặt dày để nói như thế với tôi.
“Cậu hãy nói, ‘Joseph, ông dành cho em một lời dạy cô đọng, mà bây
giờ em sẽ nhắc lại. Ông đã nhìn thấy ngón tay của Chúa trong việc em bị rơi
trở lại cảnh thấp hèn. Ông biết được ngón tay ấy khi ông thấy nó, Joseph, và
thấy rất rõ. Ngón tay ấy chỉ vào dòng chữ này, Joseph. Trả giá vì sự vô ơn với
người ban ơn cho hắn đầu tiên, người tạo lập nên vận hội cho hắn. Nhưng
người đó nói ông không hối tiếc những gì đã làm, Joseph. Không hề. Làm
những việc đó là đúng, là tử tế, là nhân từ, và ông sẽ còn làm lại nữa.’ ”
“Thật đáng tiếc,” tôi nói đầy khinh miệt khi kết thúc bữa sáng bị cắt
ngang, “là người đó đã không nói ông ta đã làm và sẽ còn làm lại nữa những
gì.”
“Ông chủ của Lợn Lòi Xanh!” Lúc này Pumblechook chuyển sang nói
với ông chủ nhà, “và William! Tôi không có gì phản đối các vị nhắc lại
chuyện này, dù là ở đâu trong thị trấn, nếu các vị muốn làm thế, rằng làm
những việc đó là đúng, là tử tế, là nhân từ, và tôi sẽ còn làm lại nữa.”
Với mấy lời đó, kẻ mạo nhận bắt tay cả hai người kia với bộ dạng thật
đặc biệt rồi rời khỏi nhà trọ; để lại tôi kinh ngạc nhiều hơn vui mừng về
những phẩm chất của “những việc đó” mơ hồ này. Chẳng sau ông ta bao lâu,
tôi cũng rời nhà trọ, và khi đi xuôi xuống phố High, tôi trông thấy ông ta
đang kể lể (không nghi ngờ gì nữa, vẫn về cùng chủ đề) ở trước cửa hàng của
mình với một nhóm người được lựa chọn, những người này tưởng thưởng
cho tôi vài cái liếc mắt không mấy có cảm tình khi tôi đi ngang qua ở bên kia
phố.
Nhưng tôi chỉ có thể vui hơn khi được tìm đến với Biddy và Joe, sự
khoan dung cao cả của hai người càng rạng rỡ hơn trước đây, nếu có thể hình
dung ra như thế, đối lập với kẻ mạo nhận to mồm này. Tôi từ tốn tiến về phía
họ, vì đôi chân tôi vẫn còn yếu, nhưng với tâm trạng ngày càng nhẹ nhõm
hơn khi tôi đến gần họ hơn, cùng cảm giác bỏ lại sự hợm hĩnh giả dối ở lại
sau lưng ngày càng xa hơn.
Thời tiết tháng Sáu thật tuyệt vời. Bầu trời xanh ngắt, những con chiền
chiện bay vút lên thật cao trên cánh đồng lúa mì xanh mướt, tôi cảm thấy cả
vùng đồng quê đẹp và bình yên hơn xa những gì tôi từng biết cho tới lúc ấy.
Nhiều bức tranh vui vẻ về cuộc sống tôi sẽ trải qua tại đó, cũng như về thay
đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn sẽ đến với tính cách tôi khi tôi có một tâm
hồn chỉ lối với đức tin chân thật và sự sáng suốt giản dị tôi biết rõ ở kề bên,
nâng bước tôi đi. Chúng đánh thức dậy trong tôi một cảm xúc dịu dàng hơn;
vì trái tim tôi đã dịu lại nhờ chuyến trở về, và một thay đổi như thế đã diễn ra,
làm tôi cảm thấy như một người vất vả lê đôi chân trần tìm về nhà sau chuyến
đi xa, một người đã lang bạt suốt nhiều năm trời.
Tôi chưa bao giờ thấy lớp học nơi Biddy làm cô giáo; nhưng con
đường nhỏ quanh co tôi đã chọn để vào làng vì sự vắng lặng của nó dẫn tôi đi
ngang qua nơi này. Tôi thất vọng nhận ra hôm nay là ngày nghỉ; không có
đứa trẻ nào ở đó, và ngôi nhà của Biddy đóng cửa. Vài ý tưởng đầy hy vọng
được thấy cô bận rộn trong bổn phận hằng ngày của mình trước khi cô trông
thấy tôi đã xuất hiện trong đầu tôi giờ đây tan biến.
Nhưng lò rèn cũng chỉ cách đó một quãng ngắn, và tôi đi về phía đó
dưới những cây chanh lá cam dịu mắt, lắng tai tìm kiếm tiếng quai búa của
Joe. Rất lâu sau khi đáng ra tôi đã phải nghe thấy nó, và thật lâu sau khi tôi
tưởng đã nghe thấy âm thanh này để rồi hiểu ra đó chỉ là tưởng tượng, tất cả
vẫn lặng im. Những cây chanh vẫn kia, những cây táo gai vẫn kia, những cây
dẻ cũng vậy, lá của chúng vẫn xào xạc thật hài hòa khi tôi dừng bước lắng
nghe; nhưng tiếng quai búa của Joe hoàn toàn vắng bóng trong làn gió giữa
mùa hè.
Gần như hoảng sợ phải nhìn thấy lò rèn trong tầm mắt mà không biết vì
sao, cuối cùng tôi cũng nhìn thấy nó, và thấy nó đóng cửa. Không hề có ánh
lửa, không có những tàn lửa bắn tung tóe, không có tiếng bễ ầm ầm; tất cả
đều im ắng, đóng kín.
Nhưng ngôi nhà thì không hề vắng vẻ, và căn phòng khách dường như
đang được sử dụng, vì có những tấm rèm trắng treo trên cửa sổ, và khung cửa
sổ để mở, tươi vui với đầy hoa trang trí. Tôi nhẹ nhàng đi về phía nó, định
ngó vào trong thì Joe và Biddy xuất hiện đứng trước mặt tôi, tay trong tay.
Thoạt đầu, Biddy kêu lên như thể cô nghĩ đó là hồn ma của tôi, nhưng
chỉ một khoảnh khắc sau cô đã ở trong vòng tay tôi. Tôi bật khóc khi nhìn
thấy cô, và cô cũng khóc khi thấy tôi; tôi, vì trông cô thật tươi tắn, vui vẻ; còn
cô, vì tôi trông thật suy nhược, xanh xao.
“Biddy yêu quý, trông em diện quá!”
“Đúng thế, Pip yêu quý.”
“Joe nữa, trông anh bảnh quá!”
“Phải, Pip thân mến, anh bạn.”
Tôi nhìn cả hai người, từ người này sang người kia, rồi sau đó:
“Hôm nay là ngày cưới của em!” Biddy reo lên đầy hạnh phúc, “và em
kết hôn cùng Joe!”
Hai người đưa tôi vào bếp, và tôi gục đầu xuống mặt chiếc bàn gỗ
thông. Biddy cầm một bàn tay tôi đưa lên môi, và bàn tay an ủi của Joe đặt
trên vai tôi. “Em yêu quý, cậu ấy vẫn chưa đủ khỏe để đón nhận ngạc nhiên,”
Joe nói. Và Biddy nói, “Em đáng ra phải nghĩ tới chuyện đó, Joe yêu quý,
nhưng em hạnh phúc quá.” Cả hai người đều mừng rỡ vô hạn khi gặp lại tôi,
đều rất tự hào khi gặp tôi, đều rất xúc động khi tôi tới gặp họ, rất vui vì tôi đã
tình cờ có mặt để giúp ngày vui của hai người trọn vẹn!
Ý nghĩ đầu tiên là cảm giác biết ơn vô hạn vì tôi đã chưa một lần tâm
sự hy vọng cuối cùng đã tiêu tan này của mình cho Joe. Đã bao lần, trong khi
anh đang ở bên tôi khi tôi ốm, những lời ấy đã ngập ngừng trên môi tôi! Việc
anh biết về nó hẳn đã trở thành không tránh khỏi, nếu anh nán lại với tôi chỉ
thêm một giờ đồng hồ nữa!
“Biddy yêu quý,” tôi nói, “em đã có người chồng tốt nhất trên toàn thế
giới, và nếu em có thể chứng kiến cảnh anh ấy ở bên giường anh, hẳn em
sẽ… Nhưng không, em không thể yêu anh ấy nhiều hơn em đã yêu được.”
“Đúng vậy, quả thật là em không thể,” Biddy nói.
“Và, Joe yêu quý, anh đã có được người vợ tốt nhất trên toàn thế giới,
và cô ấy sẽ giúp anh được hạnh phúc đúng như anh xứng đáng được, Joe yêu
quý, nhân hậu, cao thượng!”
Joe nhìn tôi, đôi môi run run, và thẳng thắn đưa ống tay áo lên lau mắt.
“Cả Joe và Biddy, vì hai người đã tới nhà thờ hôm nay, và đang tràn
ngập tình yêu và lòng nhân ái với cả nhân loại, xin hãy đón nhận lời cảm ơn
khiêm nhường của em vì tất cả những gì hai người đã làm cho em, và tất cả
những gì em đã đáp lại thật tồi tệ! Và khi em nói em sẽ ra đi trong vòng một
giờ nữa, vì không bao lâu nữa em sẽ ra nước ngoài, và em sẽ không bao giờ
ngơi nghỉ cho đến khi đã làm việc để kiếm đủ món tiền hai người đã giúp cứu
em tránh khỏi nhà tù, và đã gửi lại nó cho hai người, Joe và Biddy yêu quý,
xin đừng nghĩ rằng, cho dù nếu em có thể hoàn lại nó cả nghìn lần nhiều hơn,
em cũng không thể coi mình đã trả được dù chỉ một farthing món nợ em nợ
hai người, hay em sẽ làm như thế nếu có thể!”
Cả hai đều cảm động trước những lời tôi nói, và đều xin tôi đừng nói
thêm gì nữa.
“Nhưng em phải nói thêm nữa. Joe yêu quý, em hy vọng anh sẽ có
những đứa con để yêu thương, và rồi sẽ có một đứa bé ngồi trong góc lò sưởi
này vào một đêm mùa đông, đứa nhỏ có lẽ sẽ nhắc anh nhớ tới một đứa bé
khác đã mãi mãi rời khỏi đó. Đừng kể với nó, Joe, rằng em đã vô ơn; đừng kể
với nó, Biddy, rằng anh đã hẹp hòi bất công; hãy chỉ kể với đứa trẻ là em trân
trọng cả hai người, vì cả hai đều thật tốt và chân thành, và vì đó là con của
hai người, em muốn nói sẽ là tự nhiên thôi nếu đứa bé ấy lớn lên thành một
người tốt hơn em thật nhiều.”
“Anh sẽ không,” Joe nói, từ sau ống tay áo của anh, “nói với nó điều gì
như thế hết, Pip. Cả Biddy cũng không. Và sẽ không ai khác nói.”
“Và bây giờ, cho dù em biết hai người đã làm thế rồi trong trái tim
nhân hậu của hai người, làm ơn hãy nói với em, cả hai, là hai người tha thứ
cho em! Làm ơn cho em được nghe hai người nói những từ đó, để em có thể
mang theo âm thanh của chúng đi với mình, và khi đó em có thể tin hai người
tin tưởng em, nghĩ tốt hơn về em trong tương lai!”
“Ôi Pip yêu quý, anh bạn,” Joe nói. “Chúa biết là anh đã tha thứ cho
cậu rồi, nếu anh có bất cứ điều gì để tha thứ!”
“Amen! Và Chúa biết là em cũng thế!” Biddy nói theo.
“Bây giờ, hãy cho phép em lên gác ngắm nhìn căn phòng nhỏ của em,
và nán lại đó một mình vài phút. Và sau đó, khi em đã ăn và uống cùng hai
người, hãy đi cùng em tới tận chỗ bàn tay chỉ đường, Joe và Biddy yêu quý,
trước khi chúng ta nói lời tạm biệt!”
Tôi bán đi tất cả những gì tôi có, dành ra nhiều nhất có thể để dàn xếp
một thỏa thuận với các chủ nợ của tôi - những người này cho tôi đủ thời gian
để thanh toán toàn bộ các khoản nợ - rồi ra nước ngoài đến làm cùng Herbert.
Một tháng sau, tôi đã rời khỏi nước Anh, và hai tháng sau tôi đã trở thành trợ
lý tại Clarriker & Co., rồi bốn tháng sau đó, tôi đảm nhiệm toàn bộ trách
nhiệm lần đầu tiên cho một cuộc giao dịch. Vì thanh xà gác trên trần phòng
khách tại Cối Xay Ven Sông lúc đó đã thôi rung lên dưới những tiếng gầm gừ
của ông lão Bill Barley và được yên thân, còn Herbert lên đường về nước để
kết hôn cùng Clara, tôi được giao một mình phụ trách Chi nhánh Phương
Đông cho tới khi cậu đưa cô cùng trở lại.
Nhiều năm nữa trôi qua rồi tôi mới trở thành một thành viên quản trị
của công ty; nhưng tôi sống vui vẻ cùng Herbert và vợ cậu, và sống một cách
cần kiệm, trang trải các món nợ, và thường xuyên liên lạc thư từ với Biddy và
Joe. Phải tới tận khi tôi trở thành thành viên quản trị thứ ba của công ty,
Clarriker mới tiết lộ bí mật của tôi cho Herbert; nhưng lúc đó anh này tuyên
bố là bí mật về tư cách thành viên của Herbert đã đè nặng đủ lâu lên lương
tâm của anh ta, và anh ta nhất thiết phải nói ra. Vậy là anh ta kể lại mọi
chuyện, và Herbert cảm động cũng như kinh ngạc, và cậu cùng tôi cũng
không vì việc giấu giếm lâu ngày đó mà trở thành những người bạn ít thân
thiết hơn. Tôi cũng không được phép để bạn đọc suy đoán rằng chúng tôi sẽ
có lúc là một công ty lớn, hay chúng tôi kiếm được hàng núi tiền. Chúng tôi
không tham gia vào các hoạt động kinh doanh lớn, nhưng chúng tôi có thanh
danh tốt, và làm ăn có lãi, kinh doanh rất tốt. Chúng tôi mắc nợ rất nhiều thái
độ năng nổ sẵn sàng luôn lạc quan của Herbert, đến mức tôi vẫn thường tự
hỏi làm thế trước đây tôi lại có ý nghĩ là cậu thiếu năng lực, cho tới khi tôi
được khai sáng một ngày kia khi ngẫm lại rằng rất có thể sự thiếu năng lực ấy
chưa hề bao giờ tồn tại ở cậu, mà là ở tôi.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)