Thất bại lớn nhất là thất bại trong việc cố gắng.

William A. Ward

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 57
iờ đây, khi tôi chỉ còn lại một mình, tôi thông báo ý định sẽ rời khỏi
khu phòng tại Temple ngay khi hết hạn thuê nhà, đồng thời cho thuê lại trong
thời gian chờ cho tới lúc đó. Tôi lập tức dán thông báo cho thuê phòng lên
các cửa sổ; vì tôi đang mắc nợ và hầu như chẳng còn đồng nào, và bắt đầu
thực sự lo ngại về tình hình tài chính của bản thân. Tôi những muốn viết rằng
đáng lẽ tôi phải lo ngại từ trước đó nếu có đủ sức lực và sự tập trung để giúp
tôi nhìn nhận rõ ràng bất cứ thực tế nào xa hơn việc tôi đang ốm nặng. Những
lo toan căng thẳng trước đó đã cho phép tôi trì hoãn cơn bệnh chứ không phải
xua tan nó; tôi biết giờ đây nó đang tìm đến tôi, và tôi biết rất ít về những
chuyện còn lại, thậm chí còn bất cần về chúng.
Trong một hay hai ngày, tôi nằm trên trường kỷ hoặc dưới sàn - bất cứ
chỗ nào, tùy thuộc chuyện tôi tình cờ vật ra ở đâu - với cái đầu nặng như chì
và tứ chi đau nhức, không còn mục đích, không còn sinh lực. Thế rồi đến một
buổi tối có vẻ như dài lê thê, đầy ắp lo lắng và kinh hoàng; và khi vào buổi
sáng tôi cố ngồi dậy trên giường để ngẫm nghĩ về nó, tôi phát hiện ra mình
không thể làm nổi việc này.
Cho dù tôi có thực sự xuống dưới Garden Court giữa đêm khuya để lần
mò tìm cái thuyền tôi nghĩ đang ở đó hay không; cho dù tôi có từng hai hay
ba lần bừng tỉnh trên cầu thang trong cơn kinh hoàng tột độ, không hiểu mình
đã ra khỏi giường bằng cách nào hay không; cho dù có phải tôi đã bắt gặp
mình châm đèn, bị ám ảnh bởi ý nghĩ ông đang đi lên cầu thang còn đèn
chiếu sáng đã tắt hay không; cho dù tôi có bị quấy quả một cách không thể lý
giải nổi bởi những tiếng nói, tiếng cười, tiếng rên rỉ vu vơ của ai đó, và nửa
tin nửa ngờ những âm thanh ấy do chính mình tạo ra hay không; cho dù thực
sự đã có một cái lò sắt đóng kín trong một góc phòng tối tăm, và một giọng
nói đã không ngừng gọi ra rằng cô Havisham đang bị thiêu đốt trong đó hay
không - đây là những điều tôi đã cố dàn xếp với chính mình và đi đến một
trật tự nào đó trong khi nằm trên giường sáng hôm đó. Nhưng rồi làn hơi bốc
lên từ một cái lò vôi lại tới chắn giữa tôi và chúng, làm xáo trộn tất cả chúng,
và cũng chính qua làn hơi đó tôi trông thấy hai người đàn ông đang nhìn
mình.
“Các ông muốn gì?” tôi giật mình hỏi, “tôi không biết các ông.”
“Được thôi, thưa ông,” một trong hai người đáp lại, cúi xuống nắm lấy
vai tôi, “tôi dám nói đây là một vấn đề ông sẽ sớm thu xếp được, nhưng ông
đã bị bắt.”
“Món nợ là bao nhiêu?”
“123 bảng, 15 shilling, 6 penny. Của người bán đồ trang sức, tôi nghĩ
vậy.”
“Tôi cần phải làm gì?”
“Tốt hơn ông nên đến nhà tôi*,” người đàn ông nói. “Tôi có một ngôi
nhà rất dễ chịu.”
Nhà giam giữ con nợ.
Tôi cố gắng nhúc nhích dậy để mặc quần áo. Khi tôi nhìn họ lần tiếp
theo, họ đang đứng cách giường một quãng, nhìn tôi. Tôi vẫn nằm yên trên
giường.
“Các ông thấy tình trạng của tôi rồi đấy,” tôi nói. “Tôi sẽ đi cùng các
ông nếu tôi có thể; nhưng thực sự tôi không thể làm được chuyện đó. Nếu các
ông đưa tôi khỏi đây, tôi nghĩ tôi sẽ chết trên đường.”
Có lẽ họ đã trả lời, hay tranh luận về chuyện này, hay cố gắng động
viên tôi tin rằng tôi đang khá hơn đã nghĩ. Vì hai người nọ lưu lại trong ký ức
tôi chỉ nhờ vào sợi chỉ mảnh mai này, tôi không biết họ đã làm gì, ngoại trừ
việc họ đã thôi không lôi tôi đi.
Chuyện tôi lên cơn sốt và bị xa lánh, chuyện tôi đã bị bệnh tật hành hạ
khổ sở, đã thường xuyên bị mê sảng, thời gian thì dường như vô tận, chuyện
tôi đã lẫn lộn nhiều sự tồn tại khó tin khác với bản thân mình; có lúc tôi là
một viên gạch trên tường nhà, song lại cầu xin được giải thoát khỏi vị trí gây
chóng mặt nơi những người thợ xây đã đặt tôi vào; có lúc tôi là một thanh xà
sắt của một cỗ máy khổng lồ, rầm rầm quay cuồng lao qua bên trên một vực
thẳm, ấy vậy nhưng tôi lại tự cầu xin được cái máy ấy dừng lại, và phần là tôi
trong đó được tháo rời ra; chuyện tôi đã trải qua chừng ấy giai đoạn của cơn
bệnh, tất cả những chuyện ấy tôi biết được từ ký ức của chính mình, dù cũng
đã ít nhiều biết đến ngay từ khi trải qua chúng. Việc thỉnh thoảng tôi vật lộn
với những con người thực sự, tin rằng họ là những tên sát nhân, để rồi lập tức
hiểu ra họ đang muốn tốt cho mình và sau đó xỉu đi kiệt sức trên tay họ, để
yên cho họ đặt mình nằm xuống, tôi cũng biết ngay lúc đó. Nhưng, hơn tất
cả, tôi biết có một xu hướng chung thường trực ở tất cả những người đó -
những người này, khi tôi còn ốm nặng, hiện diện dưới đủ dạng biến đổi kỳ lạ
nhất của khuôn mặt con người, và thay đổi rất nhiều về kích thước - tôi muốn
nói là trên tất cả, tôi biết có một xu hướng lạ lùng ở tất cả những con người
này, đó là sớm muộn gì họ đều trở nên giống với hình dáng của Joe.
Sau khi qua khỏi giai đoạn tồi tệ nhất của cơn bệnh, tôi bắt đầu nhận
thấy trong khi tất cả những thứ khác thay đổi, chi tiết này vẫn trước sau như
một. Bất cứ ai lại gần tôi cũng vẫn biến thành Joe. Tôi mở mắt ra vào ban
đêm, và tôi thấy Joe trên chiếc ghế lớn kê cạnh giường. Tôi mở mắt ra lúc
ban ngày thì, ngồi trên bậu cửa sổ, hút tẩu bên cửa sổ mở tối mờ, tôi lại thấy
Joe. Tôi xin nước mát, và bàn tay thân thuộc đưa nó cho tôi là của Joe. Tôi
nằm lại xuống gối sau khi uống nước, và khuôn mặt nhìn tôi đầy hy vọng và
dịu dàng là khuôn mặt Joe.
Cuối cùng, đến một ngày kia, tôi lấy hết can đảm hỏi, “Có phải anh
không, Joe?”
Và giọng nói thân quen trả lời, “Còn là ai khác chứ, anh bạn.”
“Ôi Joe, anh làm em ân hận quá! Hãy giận em đi, Joe. Hãy đánh em đi,
Joe. Hãy nói cho em biết em đã vô ơn thế nào. Đừng tốt thế với em!”
Vì Joe đã thực sự tựa đầu xuống gối ngay kề bên tôi, và đưa cánh tay
vòng qua cổ tôi, vui mừng vì tôi nhận ra anh.
“Thế này nhé Pip thân mến, anh bạn,” Joe nói, “cậu và anh luôn là bạn.
Và khi nào cậu bình phục lại đủ để ra ngoài đi dạo - thật tuyệt làm sao!”
Sau đó, Joe lui ra cạnh cửa sổ, đứng quay lưng về phía tôi, đưa tay lên
lau mắt. Vì tình trạng yếu ớt vô lực đã ngăn cản không cho tôi đứng dậy tới
bên anh, tôi nằm đó, thì thầm đầy hối lỗi, “Ôi Chúa, hãy ban phước lành cho
anh ấy! Xin Chúa hãy ban phước lành cho con chiên nhân hậu này!”
Đôi mắt Joe đỏ hoe khi anh quay lại ngồi xuống bên tôi; nhưng tôi
đang nắm lấy bàn tay anh, và cả hai chúng tôi đều cảm thấy hạnh phúc.
“Đã bao lâu rồi, Joe yêu quý?”
“Ý cậu muốn hỏi cậu đã ốm bao lâu rồi ư, Pip, anh bạn?”
“Vâng, Joe.”
“Hôm nay là ngày cuối tháng Năm rồi, Pip. Mai là mồng một tháng
Sáu.”
“Và anh vẫn luôn ở đây suốt thời gian đó sao, Joe yêu quý?”
“Cũng gần như thế, anh bạn. Vì như anh nói với Biddy khi tin cậu ốm
được báo về qua một lá thư do bưu tá chuyển tới, trước kia độc thân, bây giờ
cậu ta đã kết hôn dù được trả quá bèo bọt cho bấy nhiêu đường đất phải đi và
những đôi giày phải đóng, nhưng giàu có không phải là một mục đích của cậu
ta, và hôn nhân chính là mong ước lớn lao của tái tim cậu ấy…”
“Thật vui làm sao khi được nghe anh nói, Joe! Nhưng em đã làm gián
đoạn ở chỗ anh đã nói với Biddy.”
“Anh nói,” Joe kể tiếp, “là cậu có thể đang ở giữa những người xa lạ ra
sao, rồi việc cậu và anh vẫn luôn là bạn, một chuyến tới thăm vào một thời
điểm như thế rất có thể không bị coi là không chấp nhận được. Và Biddy, cô
ấy nói, ‘Hãy tới gặp cậu ấy, đừng để mất thời gian nữa.’ Đó,” Joe nói, tóm tắt
lại với vẻ chững chạc, “là những lời của Biddy. ‘Hãy tới gặp cậu ấy, đừng để
mất thời gian nữa.’ Nói tóm lại, anh sẽ không đánh lừa cậu bao nhiêu,” Joe
nói thêm, sau một hồi nghiêm chỉnh ngẫm nghĩ, “nếu anh nói với cậu những
lời cô ấy nói là, ‘đừng để mất thêm một phút thời gian nào nữa’.”
Đến đây Joe ngừng lại, cho tôi biết cần hạn chế nói chuyện với tôi, và
tôi cần ăn chút ít vào những thời điểm được định sẵn, cho dù tôi có thấy
muốn hay không, và tôi cần phải làm theo mọi điều anh ra lệnh. Vậy là tôi
hôn lên bàn tay anh, và nằm im, trong khi anh ngồi viết một lời nhắn gửi cho
Biddy, kèm theo cả lời hỏi thăm của tôi trong đó.
Rõ ràng Biddy đã dạy Joe tập viết. Trong khi tôi nằm trên giường quan
sát anh, chuyện này khiến tôi, trong tình trạng yếu ớt của mình, bật khóc lần
nữa vì vui mừng khi anh ngồi viết những nét chữ của mình đầy tự hào. Cái
khung giường của tôi, được bỏ hết rèm mành, đã được chuyển, với tôi ở trên
đó, sang phòng khách, là nơi thoáng khí và rộng rãi nhất, thảm trải sàn được
bỏ đi, căn phòng được giữ cho luôn trong lành thông thoáng cả ngày lẫn đêm.
Ở chỗ cái bàn viết của tôi, được đẩy vào trong góc và xếp đầy trên mặt những
cái chai nhỏ, Joe lúc này đang ngồi bận bịu với công việc lớn lao của anh,
trước hết chọn lấy một cái bút từ khay đựng bút như thể đó là một cái rương
đựng những món dụng cụ to, rồi xắn hai ống tay áo lên như thể anh sắp sửa
cầm lấy một cây xà beng hay một chiếc búa tạ. Joe cần phải tựa thật chắc
xuống bàn bằng khuỷu tay trái, đưa chân phải lùi ra tận đằng sau người trước
khi anh có thể bắt đầu; và khi thực sự bắt đầu, anh viết mọi nét sổ xuống
chậm đến nỗi chúng có lẽ phải dài đến sáu foot, trong khi với mỗi nét hất lên
tôi có thể nghe thấy ngòi bút của anh kêu cành cạch. Anh có ý tưởng thật kỳ
dị cho rằng lọ mực nằm ở bên phía nó không hề nằm, và liên tục chấm bút
vào không khí, và dường như khá hài lòng với kết quả. Thỉnh thoảng, anh lại
bị vấp ngã vì một hòn cuội ngữ pháp nào đó; nhưng về tổng thể quả thực anh
làm rất tốt; và khi Joe đã ký tên xong, đồng thời cũng đã dùng hai ngón tay
trỏ chuyển giọt mực rơi cuối cùng từ tờ giấy lên đỉnh đầu, anh đứng dậy xoay
tới xoay lui quanh bàn, ngắm nghía thành phẩm của mình từ nhiều góc nhìn
khác nhau trong khi nó nằm trên đó với vẻ hài lòng vô bờ bến.
Để không làm Joe bất an bằng việc nói quá nhiều, ngay cả dù tôi đã có
thể nói được nhiều, tôi đợi đến hôm sau mới hỏi anh về cô Havisham. Anh
lắc đầu khi tôi hỏi liệu bà đã hồi phục chưa.
“Bà ấy chết rồi sao, Joe?”
“Sao nhỉ, cậu thấy đấy, anh bạn,” Joe nói với giọng quở trách theo cách
nhắm tới đó rất thận trọng từ tốn, “anh sẽ không đi xa tới mức nói như thế, vì
nói ra như thế là việc rất nghiêm trọng, nhưng bà ấy không còn…”
“Sống nữa sao, Joe?”
“Như thế là gừn thực tế hơn,” Joe nói, ”bà ấy không còn sống nữa.”
“Bà ấy có cầm cự được lâu không, Joe?”
“Xau khi cậu bị ốm, cũng gần được như cậu có thể gọi (nếu cậu coi là
thế) là một tuần,” Joe nói; anh vẫn kiên quyết đề cập đến mọi thứ một cách
thận trọng từ tốn khi nói với tôi.
“Joe yêu quý, anh có nghe nói tài sản của bà ấy ra sao rồi không?”
“Là thế này, anh bạn,” Joe nói, “có vẻ như bà ấy đã để lại phần lớn tài
sản, ý anh muốn nói là buộc chặt chúng, cho cô Estella. Nhưng bà ấy đã viết
một khoản bổ xung bằng chính tay mình chỉ một hay hai ngày trước vụ tai
nạn, để lại một khoản 4.000 bảng mát rượi cho ông Matthew Pocket. Và theo
cậu, tại sao, hơn tất cả mọi thứ, bà ấy lại để khoản 4.000 bảng mát rượi cho
ông ta hả Pip? ‘Vì những gì Pip đánh giá về ông Matthew này’ Biddy đã nói
với anh,” Joe nói, nhắc lại những lời trong bản di chúc như thể nó khiến anh
vô cùng khoan khoái, ‘đánh giá về ông Matthew này.’ Và thế là 4.000 bảng
mát rượi, Pip!”
Tôi không bao giờ khám phá nổi từ ai Joe đã suy ra cách đánh giá ước
lệ đó về nhiệt độ của 4.000 bảng; nhưng cách nói đó có vẻ khiến cho khoản
tiền trở nên lớn hơn với anh, và anh có vẻ hứng thú ra mặt khi quả quyết về
sự mát rượi của món tiền.
Câu chuyện làm tôi rất vui, và nó làm cho điều tốt đẹp duy nhất tôi
từng làm trở nên trọn vẹn. Tôi hỏi Joe liệu anh có nghe nói gì về việc những
người họ hàng khác được thừa kế ít nhiều hay không.
“Cô Sarah,” Joe nói, “bà này có 25 bảng mỗi năm để mua thuốc viên vì
mắc chứng cáu bẳn do dư mật. Cô Georgiana được 20 bảng. Bà - tên của mấy
con vật hoang dã có bướu là gì ấy nhỉ, anh bạn?”
“Lạc đà* ư?” tôi nói, băn khoăn tự hỏi vì sao anh lại muốn biết.
Tiếng Anh là Camel.
Joe gật đầu. “Bà Camels,” nghe đến đây, tôi hiểu ngay anh muốn nói
tới Camilla, “bà này được 5 bảng để mua nến lõi bấc nhằm giúp cho bà ấy
phấn chấn tinh thần lên mỗi khi thức giấc giữa đêm.”
Sự chính xác của những lời kể này đủ hiển nhiên với tôi để tôi hoàn
toàn tin tưởng vào thông tin Joe cung cấp. “Còn bây giờ, anh bạn,” Joe nói,
“cậu vẫn chưa đủ khẻ để đón nhận thêm một xẻng tin tức nữa trong hôm nay
đâu. Orlick Già, hắn đã phá cửa xông vào một tư gia.”
“Của ai vậy?” tôi hỏi.
“Không nên nói, anh thừa nhận, nhưng cách thức của hắn ầm ĩ thô lỗ
quá,” Joe nói có vẻ xin lỗi, “dẫu vậy, nhà của một người Anh là lâu đài của
anh ta, và không được phép phá cửa các lâu đài ngoại trừ vào lúc chiến tranh.
Và cho dù ông chủ nhà có khiếm khuyết gì đi nữa, trong tim ông ấy vẫn là
một người buôn ngũ cốc và hạt.”
“Vậy là nhà Pumblechook đã bị đột nhập vào sao?”
“Đúng vậy đấy, Pip,” Joe nói, “và bọn trộm đã lấy mất ngăn kéo cất
tiền của ông ấy, và chúng đã lấy cả két đựng tiền mặt của ông ấy, rồi chúng
uống rượu của ông ấy, chia nhau đồ ăn của ông ấy, rồi chúng tát vào mặt ông,
véo mũi ông, rồi chúng trói ông vào cột giường, thụi cả tá quả, rồi chúng nhét
đầy hạt giống vào mồm ông ấy để năn không cho ông hô hoán lên. Nhưng
ông biết Orlick, vậy là Orlick đang ở trong nhà tù hạt.”
Bằng cách tiếp cận này, chúng tôi đi tới việc trò chuyện không còn
kiêng khem. Tôi bình phục khá chậm, nhưng dần dà chậm mà chắc tôi bớt
yếu hơn, và Joe ở bên tôi, khiến tôi có cảm tưởng mình lại là cậu bé Pip ngày
xưa.
Vì sự chăm sóc dịu dàng của Joe thật vừa khéo với những gì tôi cần,
đến mức tôi giống như một đứa trẻ trong tay anh. Anh sẵn sàng ngồi trò
chuyện tâm tình với tôi như ngày xưa, với cùng sự chất phác, cùng vẻ che
chở khiêm nhường, khiến tôi nửa muốn tin rằng toàn bộ quãng đời tôi trải
qua kể từ sau khi rời khỏi gian bếp tuổi thơ là một trong những rối loạn tâm
trí do cơn sốt trước đó gây ra. Anh làm mọi việc cho tôi trừ việc nội trợ, để lo
phần này anh đã thuê một người phụ nữ rất tử tế, sau khi đã trả tiền và đuổi
thẳng bà thợ giặt lúc vừa đặt chân đến. “Anh cam đoan với cậu, Pip,” anh sau
đó thường nói để giải thích cho sự tự chuyên của mình, “anh phát hiện thấy
bà ta đang chọc thủng tấm đệm trên cái giường còn trống chẳng khác gì một
thùng bia, rồi moi lông vũ từ trong đó ra cho vào một cái xô đem bán. Bà ta
tiếp theo thế nào cũng chọc thủng cái đệm của cậu, lôi hết ruột nó ra trong
khi cậu vẫn nằm ở trên, rồi rần rà mang hết than đi trong những cái liễn đựng
xúp và đĩa đựng rau, lấy sạch rượu vang và rượu mạnh đi trong mấy chiếc
ủng kiểu Wellington của cậu.”
Chúng tôi cùng ngóng đợi ngày tôi có thể ra ngoài đi dạo một chuyến,
cũng giống như từng ngóng đợi ngày tôi bắt đầu học nghề. Và khi ngày đó
tới, một cỗ xe mui trần được gọi tới, Joe quấn kín người cho tôi, bế tôi trên
tay anh và mang tôi xuống nhà rồi bế tôi lên xe, như thể tôi vẫn còn là tạo vật
bé bỏng yếu ớt anh từng hào phóng ban cho sự giàu có từ bản chất cao
thượng anh sở hữu.
Rồi Joe lên xe ngồi cạnh tôi, chúng tôi cùng đi xe ra vùng đồng quê,
nơi sự sinh sôi tươi tốt của mùa hè đã lan tràn trên các tán cây, mặt cỏ, và
những mùi hương ngọt ngào của mùa hè ướp đẫm không gian. Tình cờ hôm
ấy lại là Chủ nhật, và khi tôi ngắm nhìn khung cảnh vui mắt hiện ra quanh
mình, và nghĩ chúng đã sinh trưởng và thay đổi ra sao, về cách những bông
hoa dại bé nhỏ hình thành, và tiếng hót của những con chim trở nên mạnh mẽ
hơn, qua ngày và qua đêm, dưới mặt trời và dưới các vì sao, trong khi tôi nằm
quằn quại sốt bừng bừng trên giường, và ký ức về cơn sốt quằn quại ấy tới
như một cơn sóng làm xáo trộn sự bình yên của tôi. Nhưng khi nghe thấy
tiếng chuông nhà thờ ngày Chủ nhật, và nhìn quanh thêm một chút vào phong
cảnh đẹp đẽ đang trải ra, tôi cảm thấy mình vẫn chưa biết ơn đủ - rằng tôi vẫn
còn quá yếu để thậm chí cảm nhận được điều đó - và tôi tựa đầu lên vai Joe,
như tôi từng làm rất lâu trước đây khi anh đưa tôi tới hội chợ hay các nơi
khác, và cảm giác đó quả thực là quá nhiều cho các giác quan non trẻ của tôi.
Tôi cảm thấy bình yên hơn sau một hồi, và chúng tôi trò chuyện cùng
nhau như từng làm trước đây trong lúc nằm trên bãi cỏ ở chỗ pháo đài cũ.
Không có bất cứ thay đổi nào ở Joe. Trước đây anh từng như thế nào trong
mắt tôi, bây giờ vẫn thế; vẫn trung thành, vẫn chính trực một cách giản dị
như vậy.
Khi chúng tôi quay trở lại nhà, và anh bế tôi xuống xe, rồi mang tôi -
thật dễ dàng - qua sân lên cầu thang, tôi nhớ tới ngày Giáng sinh định mệnh
đó, khi anh đã cõng tôi trên đầm lầy. Chúng tôi vẫn chưa đề cập gì tới sự thay
đổi vận hội của tôi, và tôi cũng không rõ anh đã biết đến đâu về những
chuyện gần đây xảy ra với tôi. Lúc này tôi đang vô cùng nghi ngờ bản thân,
và đặt rất nhiều niềm tin vào anh, đến mức tôi không thể cho mình câu trả lời
thật hài lòng về việc liệu tôi có nên nhắc đến nó khi anh không làm thế hay
không.
“Joe, anh đã nghe được,” tôi hỏi anh tối hôm đó, sau khi đã ngẫm nghĩ
thêm rất nhiều, trong lúc anh đứng hút tẩu bên cửa sổ, “ai là người bảo trợ
cho em chưa?”
“Anh nghe được,” Joe đáp, “rằng đó không phải là cô Havisham, anh
bạn.”
“Anh có biết người đó là ai không, Joe?”
“À! Anh nghe nói đó là người đã cử đến cái người đưa cho cậu tiền tại
quán Ba Thủy Thủ Vui Vẻ, Pip.”
“Đúng thế đấy.”
“Thật ngạc nhiên!” Joe nói, bằng giọng bình thản nhất có thể hình dung
ra.
“Anh đã nghe được là ông ấy chết rồi chưa, Joe?” tôi hỏi, ngày càng dè
dặt hơn.
“Ai cơ? Người đã gửi tiền đến ư, Pip?”
“Vâng.”
“Anh nghĩ,” Joe nói, sau khi trầm ngâm hồi lâu, nhìn với vẻ lẩn tránh
về phía bệ ngồi bên cửa sổ, “anh có nghe nói ông ấy dường như đang có vẻ
theo cách này hay cách khác rơi vào xu hướng đó.”
“Anh có nghe được gì về hoàn cảnh của ông ấy không, Joe?”
“Không có gì cụ thể, Pip.”
“Nếu anh muốn nghe, Joe…” Tôi đang bắt đầu thì Joe đứng dậy đến
bên trường kỷ nơi tôi ngồi.
“Nghe này, anh bạn,” Joe nói, cúi xuống tôi. “Luôn là những người bạn
tốt nhất; chúng ta là thế mà, phải không Pip?”
Tôi quá xấu hổ không thể trả lời anh.
“Thế thì dất tốt,” Joe nói, như thể tôi đã trả lời, “được thôi; thế là nhất
trí rồi. Vậy thì, anh bạn, tại sao lại đi vào những chủ đề mà dữa hai người bạn
như tế phải bị coi mãi mãi là khôn cần thiết chứ? Đã có đủ chuyện dữa hai
người như tế rồi, cho dù không có những thứ khôn cần thiết. Chúa ơi! Cứ
nghĩ đến chị gái tội nghiệp của cậu và những cơn tam bành của cô ấy! Và cậu
vẫn nhớ Cây Cù chứ?”
“Thực sự là có, Joe.”
“Nghe này, anh bạn,” Joe nói. “Anh đã làm những gì có thể để giữ cậu
và Cây Cù cách xa nhau ra, nhưng quyền lực của anh không phải lúc nào
cũng tương xứng với điều anh muốn làm. Vì khi chị gái tội nghiệp của cậu đã
định nện cậu, thực ra cũng có thể nói,” Joe nói theo cách lý luận ưa thích của
anh, “cô ấy định nện cả anh nữa, nếu anh lao vào chống lại chị cậu, nhưng rồi
chị cậu sẽ còn nện cậu dữ hơn vì việc đó. Anh đã để ý thấy vậy. Không phải
việc giật ria mép một người đàn ông, cũng không phải chuyện túm lấy một
người đàn ông lắc hai ba cái (với những chuyện đó anh sẵn sàng chào đón chị
cậu) khiến một người đàn ông không dám can thiệp cứu một đứa trẻ khỏi bị
trừng phạt. Nhưng khi đứa trẻ ấy bị đòn nặng hơn chỉ vì cái giật ria mép hay
lắc người kia, thì tự niên người đàn ông ấy sẽ đứng dậy tự nhủ, ‘Anh bạn làm
điều tốt đâu không thấy? Ta cam đoan với anh bạn là ta thấy phần hại’, người
đàn ông nói, ‘nhưng ta không thấy phần tốt. Vì vậy, ta mời anh bạn hãy chỉ ra
phần tốt xem’.”
“Người đàn ông nói thế sao?” tôi hỏi, trong khi Joe chờ tôi lên tiếng.
“Người đàn ông nói thế,” Joe xác nhận. “Người đàn ông đó, anh ta
đúng phải không nào?”
“Joe yêu quý, anh ta luôn luôn đúng.”
“Được rồi, anh bạn,” Joe nói, “vậy hãy tôn trọng lời cậu nói. Nếu anh
ta luôn đúng (mà nói chung anh ta rất có thể đã sai), vậy anh ta đúng khi nói
thế này: Giả sử có lúc nào đó cậu giữ kín một bí mật nho nhỏ cho mình khi
cậu còn là một cậu bé con, cậu làm thế chủ yếu vì cậu biết khả năng của J.
Gargery trong việc giữ cậu và Cây Cù cách xa nhau không hoàn toàn tương
xứng với mong muốn của anh ta. Vì thế, đừng nghĩ thêm gì về nó nữa dữa
hai chúng ta, và đừng để chúng ta bận tâm nhận xét về những chủ đề khôn
cần thiết. Biddy đã mất công rất nhiều với anh tước khi anh rời nhà (vì anh
gần như tối dạ khủng khiếp), về việc anh cần nhìn nhận nó theo cách này, và
nhìn nhận nó theo cách này, anh cần nói nó ra như thế. Cả hai việc,” Joe nói,
khá mê mẩn với cách diễn giải logic của mình, “đều đã xong, bây giờ đây là
điều một người bạn chân thật nói với cậu. Là thế này. Cậu không nên nghĩ
ngợi quá nhiều về nó, nhưng cậu nhất thiết phải dùng bữa tối, rượu vang và
uống nước của mình, và cậu phải được đưa lên giường chu đáo.”
Sự tế nhị của Joe khi dẹp bỏ chủ đề này, cũng như lòng tốt và sự khéo
léo đầy nhân hậu của Biddy - người đã nhanh chóng tìm ra tôi bằng sự khôn
ngoan của cô - đã chuẩn bị cho anh điều đó gây ấn tượng sâu đậm trong tâm
trí tôi. Nhưng liệu Joe có biết tôi đang khốn cùng đến mức nào, cũng như
việc tất cả triển vọng lớn lao của tôi đã tan thành mây khói như màn sương
mù bao phủ trên đầm lầy ở quê chúng tôi trước mặt trời hay chưa, tôi không
hiểu nổi.
Một điều nữa về Joe mà tôi không thể hiểu khi nó mới bắt đầu hình
thành, nhưng rồi về nó tôi nhanh chóng thấu hiểu một cách phiền muộn, là
điều này: Khi tôi trở nên khỏe hơn và hồi phục tốt hơn, Joe trở nên ít thoải
mái hơn với tôi. Khi tôi còn yếu ớt và hoàn toàn phụ thuộc vào anh, Joe yêu
quý đã trở lại với giọng điệu ngày xưa, gọi tôi bằng những tên gọi cũ, là “Pip,
anh bạn” thân thương, những cách gọi giờ đây vang lên đầy nhạc điệu với đôi
tai tôi. Cả tôi nữa cũng trở lại với thói quen ngày trước, và chỉ cảm thấy hạnh
phúc và biết ơn vì anh đã cho phép tôi. Nhưng, một cách âm thầm, cho dù tôi
vẫn giữ chắc lấy những thói quen của quá khứ, việc này về phía Joe bắt đầu
lỏng dần; và cho dù ban đầu băn khoăn về nó, tôi nhanh chóng bắt đầu hiểu
ra nguyên nhân chính là tôi, và lỗi hoàn toàn cũng là do tôi.
Ôi! Chẳng phải tôi đã cho Joe lý do để nghi ngờ về sự trước sau như
một của tôi, và để nghĩ trong cảnh giàu sang tôi rồi sẽ lạnh nhạt và xua đuổi
anh hay sao? Chẳng phải tôi đã khiến trái tim chân thật của Joe có lý do để
linh cảm thấy khi tôi khỏe lên, mối liên hệ của anh với tôi sẽ yếu đi, và tốt
hơn anh nên nới lỏng nó ra kịp thời và để tôi ra đi, trước khi tôi tự vùng ra
hay sao?
Tôi thấy rõ ràng sự thay đổi này vào lần thứ ba hay thứ tư tôi ra ngoài
đi dạo trong vườn Temple, tựa người lên cánh tay Joe. Chúng tôi đang ngồi
dưới ánh mặt trời ấm áp nhìn xuống dòng sông, và tôi tình cờ nói khi chúng
tôi đứng dậy:
“Xem này, Joe! Em có thể bước đi khá vững rồi. Bây giờ anh sẽ nhìn
em tự đi về.”
“Đừng có làm quá sức, Pip,” Joe nói, “nhưng tôi sẽ rất vui vì thấy ngài
bình phục, thưa ngài.”
Hai chữ cuối cùng như xát muối vào tim tôi; nhưng làm sao tôi có thể
phản đối! Tôi chỉ tự đi tới cổng vườn, rồi giả bộ yếu hơn so với thực tế, và đề
nghị Joe đỡ lấy tôi. Joe chìa cánh tay cho tôi, nhưng với vẻ nghĩ ngợi.
Về phần mình, tôi cũng đầy tâm sự; vì làm thế nào để chặn đứng sự
thay đổi đang lớn dần trong Joe là mối băn khoăn lớn trong những suy tư đầy
hối hận của tôi. Tôi không tìm cách che giấu sự thực là tôi cảm thấy xấu hổ
phải nói cho anh biết chính xác tôi đang lâm vào tình cảnh nào, tôi đã sa sút
tới mức nào; nhưng tôi hy vọng sự miễn cưỡng của tôi không hoàn toàn đáng
khinh thường. Anh sẽ muốn giúp tôi từ khoản dành dụm ít ỏi của mình, tôi
biết thế, và còn biết anh không cần phải giúp tôi, và tôi không được phép để
anh làm việc đó.
Đó là một buổi tối đầy trăn trở với cả hai chúng tôi. Nhưng trước khi
chúng tôi lên giường đi ngủ, tôi đã quyết định sẽ chờ qua ngày mai - vì ngày
mai là Chủ nhật - và sẽ bắt đầu con đường mới của mình cùng tuần lễ mới.
Đến sáng thứ Hai tôi sẽ nói với Joe về thay đổi này, tôi sẽ dẹp bỏ sang bên
chút tàn dư do dự cuối cùng, tôi sẽ nói cho anh biết những gì đang nghĩ trong
đầu (đây là điều thứ hai tôi vẫn chưa đi tới được), và tại sao tôi đã không
quyết định đi tìm Herbert, và sau đó sự thay đổi của anh sẽ bị khuất phục mãi
mãi. Trong khi tôi nghĩ thông, Joe cũng đã nghĩ thông, và dường như anh
cũng đã đi tới một quyết định cũng đồng cảm như vậy.
Chúng tôi trải qua một ngày yên ả vào Chủ nhật, và đi xe ngựa ra vùng
đồng quê, rồi tản bộ trên các cánh đồng.
“Em thấy thật biết ơn vì đã bị ốm, Joe,” tôi nói.
“Pip thân mến, anh bạn, cậu đã gần như bình phục hẳn rồi, thưa ngài.”
“Đó là một quãng thời gian thật đáng nhớ với em, Joe.”
“Với tôi cũng vậy, thưa ngài,” Joe đáp.
“Chúng ta đã có một thời gian bên nhau, Joe, mà em không bao giờ có
thể quên được. Em biết có những ngày em từng thực sự quên trong một thời
gian; nhưng em sẽ không bao giờ quên những ngày này.”
“Pip,” Joe nói, có vẻ hơi hấp tấp và bối rối, “đã từng có những niềm
vui. Và, thưa ngài thân mến, những gì từng diễn ra dữa chúng ta - từng diễn
ra.”
Đến tối, khi tôi đã lên giường, Joe đi vào phòng tôi như anh đã làm mọi
tối trong suốt quá trình bình phục của tôi. Anh hỏi liệu tôi có cảm thấy chắc
chắn cũng khỏe như hồi sáng hay không?
“Có, Joe yêu quý, cũng như thế.”
“Và luôn khẻ lên phải không anh bạn?”
“Đúng thế, Joe yêu quý, một cách đều đặn.”
Joe vỗ bàn tay to bản nhân hậu của anh lên tấm chăn ở chỗ vai tôi, rồi
nói, với giọng khàn khàn tôi nghĩ hơi nghẹn lại, “Chúc cậu ngủ ngon!”
Khi tôi thức dậy buổi sáng, thư thái và khỏe mạnh hơn, tôi quyết tâm sẽ
nói cho Joe biết tất cả, không trì hoãn. Tôi sẽ kể cho anh nghe trước bữa
sáng. Tôi sẽ mặc đồ ngay lập tức, sang phòng anh và khiến anh ngạc nhiên; vì
đây là ngày đầu tiên tôi dậy sớm. Tôi đi sang phòng anh, và anh không có ở
đó. Không chỉ anh không còn ở đó, cả rương đồ của anh cũng đã biến mất.
Tôi liền vội vàng chạy tới bàn ăn sáng, và tìm thấy một lá thư trên mặt
bàn. Dưới đây là nội dung ngắn ngủi của nó:
“Không muốn quấy quả thêm anh đã đi vỳ cậu đã khỏe lại Pip
thân mến và sẽ tốt hơn khi không có
JO.
T.B. Luôn là những người bạn tốt nhất.”
Kẹp trong lá thư là một biên lai cho những món nợ và những khoản
tiêu pha đã khiến tôi bị bắt. Cho tới tận khoảnh khắc đó, tôi đã tự phụ phỏng
đoán rằng chủ nợ của tôi đã bỏ cuộc hay đình chỉ việc thưa kiện cho tới khi
tôi bình phục hẳn. Tôi không thể ngờ Joe đã trả tiền; nhưng Joe đã trả, và
biên lai ghi tên anh.
Giờ tôi còn có thể làm gì nữa đây, ngoài đi theo anh tới cái lò rèn cũ kỹ
thân thương, và tại đó giãi bày lời thú nhận với anh, bày tỏ sự sám hối với
anh, và tại đó giải thoát đầu óc và trái tim tôi khỏi điều thứ hai còn lưu lại,
thứ đã bắt đầu như một điều mơ hồ đọng lại trong ý nghĩ của tôi rồi định hình
thành một mục tiêu chắc chắn?
Mục tiêu đó là tôi cần tới gặp Biddy, cần cho cô thấy tôi đã trở lại
khiêm nhường và ăn năn như thế nào, và tôi sẽ nói với cô tôi đã mất mọi thứ
từng hy vọng có được, sẽ nhắc lại với cô về những tâm sự thân mật của
chúng tôi vào thời gian bất hạnh đầu tiên của tôi. Sau đó tôi sẽ nói với cô,
“Biddy, anh nghĩ từng có thời em rất thích anh, khi trái tim lang bạt của anh,
thậm chí ngay cả khi nó lang thang cách xa em, từng yên ả và tốt đẹp hơn vào
bất cứ khi nào sau đó. Nếu một lần nữa em có thể thích anh dù chỉ bằng một
nửa ngày xưa thôi, nếu em có thể chấp nhận anh mà anh xin chịu mọi lỗi lầm
và thất vọng, nếu em có thể đón nhận anh như một đứa trẻ được tha thứ (và
Biddy, thực ra anh cũng hối lỗi, và cũng cần một giọng nói an ủi và một bàn
tay vỗ về như thế), anh hy vọng anh sẽ xứng đáng hơn một chút với em so
với trước đây - không nhiều, nhưng cũng là một chút. Và, Biddy, em là người
quyết định liệu anh sẽ làm việc ở lò rèn cùng Joe hay anh nên thử sức với một
công việc khác ở vùng quê này, hay chúng ta sẽ đi tới một nơi xa xôi, nơi một
cơ hội đang chờ đợi anh, nhưng anh đã gạt sang bên khi nó chào mời cho tới
khi anh biết câu trả lời của em. Và bây giờ, Biddy yêu quý, nếu em có thể nói
với anh là em sẽ đi khắp thế giới cùng anh, em chắc chắn sẽ biến nó thành
một thế giới tốt đẹp hơn cho anh, và anh thành một người đàn ông tốt hơn
cho nó, và anh sẽ nỗ lực để biến nó thành một thế giới tốt đẹp hơn cho em.”
Đó là mục tiêu của tôi. Sau thêm ba ngày hồi phục nữa, tôi trở về chốn
cũ để thực hiện nó. Và việc tôi thành công đến đâu trong chuyện này là tất cả
những gì tôi còn lại để kể.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)