Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 56
Ông nằm trong tù, rất ốm yếu, trong suốt quãng thời gian từ khi bị truy
tố ra tòa cho tới thời điểm diễn ra phiên Đại hình.
Ông bị gãy hai xương sườn, chúng làm tổn hại đến một bên phổi của
ông, khiến ông hô hấp rất đau đớn và khó khăn, tình trạng này nặng lên theo
từng ngày. Do hậu quả của tổn thương, ông nói khẽ đến mức hầu như không
nghe được; vì vậy ông nói rất ít. Nhưng ông luôn sẵn sàng lắng nghe tôi; và
nói với ông và đọc cho ông những gì tôi biết ông cần phải nghe trở thành bổn
phận hàng đầu trong cuộc sống của tôi.
Do quá đau yếu không ở lại trong nhà tù thông thường, sau ngày đầu
tiên ông được chuyển tới bệnh xá. Việc này cho tôi cơ hội ở bên ông mà nếu
không thì đã không thể nào có. Và nếu không vì tình trạng ốm yếu, chắc hẳn
ông đã bị còng xích, vì ông bị coi là một kẻ vượt ngục bướng bỉnh, và không
còn là những gì nữa.
Cho dù tôi gặp ông hằng ngày, nhưng lần nào cũng chỉ trong một thời
gian ngắn; vì thế, những khoảng thời gian cách xa nhau liên tục diễn ra đều
đủ dài để những thay đổi dù là nhỏ nhất trong tình trạng thể chất của ông lưu
lại cả trên khuôn mặt. Tôi không nhớ nổi từng thấy bất cứ thay đổi nào theo
hướng tốt lên; ông đang suy kiệt, và dần trở nên mỗi ngày một yếu ớt tiều
tụy, kể từ ngày cánh cửa nhà tù sập xuống sau lưng ông.
Thái độ cam chịu hay phó mặc ông thể hiện ra là của một người đã kiệt
sức. Đôi lúc, từ thái độ của ông hay một hai từ thì thầm ông nói ra, tôi có cảm
giác ông đang ngẫm nghĩ về câu hỏi liệu trong hoàn cảnh tốt hơn thì ông có
thể là một người tốt hơn hay không. Nhưng ông không bao giờ tự biện minh
cho mình bằng cách bóng gió theo hướng đó, hay cố uốn chỉnh quá khứ khỏi
hình hài vĩnh cửu của nó.
Hai hay ba lần trong khi tôi có mặt, tình cờ một người trong số những
người được giao nhiệm vụ canh giữ ông ám chỉ đến tiếng tăm bất hảo của
ông. Khi đó một nụ cười lại lướt qua khuôn mặt ông, và ông đưa mắt nhìn tôi
đầy tin tưởng, như thể ông tin chắc tôi đã thấy chút dấu hiệu chuộc lỗi nhỏ
nhoi ở ông, thậm chí từ trước đây rất lâu, khi tôi còn là một cậu bé con. Với
những người còn lại, ông rất nhún nhường và hối lỗi, và tôi chưa từng thấy
ông phàn nàn.
Khi phiên Đại hình tới, ông Jaggers đã can thiệp để phiên tòa xử
Magwitch được hoãn tới phiên Đại hình tiếp theo. Điều này rõ ràng được
thực hiện với sự tin chắc là ông không thể sống lâu đến thế, và bị từ chối.
Phiên tòa diễn ra lập tức, và khi ông bị điệu ra trước vành móng ngựa, ông
phải ngồi trên một cái ghế. Không ai phản đối chuyện tôi lại gần ghế bị cáo từ
phía ngoài và nắm lấy bàn tay ông chìa ra cho tôi.
Phiên tòa rất ngắn ngủi và rõ ràng. Tất cả những gì có thể nói cho ông
đều được nói - ông đã tạo lập thói quen lao động chuyên cần ra sao, và đã
phát đạt một cách hợp pháp và đáng trọng thế nào. Nhưng không gì có thể
xóa đi sự thật ông đã trở về, và giờ có mặt ở đó trước sự hiện diện của thẩm
phán và bồi thẩm đoàn. Không thể nào xét xử ông về chuyện đó mà có phán
quyết nào khác hơn là có tội.
Vào thời ấy, người ta có lệ (như tôi biết được từ trải nghiệm khủng
khiếp tại phiên Đại hình đó) dành một ngày cuối cùng để tuyên án và tạo ấn
tượng cuối cùng bằng bản án tử hình. Nếu không nhờ vào hình ảnh không thể
phai mờ mà ký ức giờ đây đang trưng ra trước mắt tôi, tôi thật khó lòng tin
nổi, ngay cả khi viết ra những lời này, là tôi đã chứng kiến ba mươi hai người
đàn ông và phụ nữ bị đưa ra trước thẩm phán để cùng nhận mức án đó. Xếp
đầu tiên trong ba mươi hai người đó là ông; được phép ngồi khi nghe tuyên
án, để ông có thể hít thở đủ nhiều nhằm giữ lại sự sống trong người.
Toàn bộ cảnh tượng ấy lại bắt đầu với đủ màu sắc sống động của thời
khắc ấy, cho tới tận những giọt mưa tháng Tư trên các khung cửa sổ tòa án,
lấp lánh trong những tia nắng của mặt trời tháng Tư. Bị dồn lại trên khu vực
bị cáo, trong khi tôi vẫn đứng bên ngoài ở góc khu vực đó, nắm lấy bàn tay
ông trong tay tôi, là ba mươi hai người cả đàn ông và phụ nữ; một số đầy
thách thức, một số choáng váng vì kinh hoàng, một số nức nở khóc, một số
đưa tay ôm lấy mặt, một số rầu rĩ nhìn chằm chằm ra phía trước. Trong số các
phạm nhân nữ vang lên những tiếng kêu thét chói tai; nhưng chúng đã bị dập
tắt ngay, và sau đó im lặng được lập lại. Các quận trưởng* với những sợi xích
to và những bó hoa của họ, những công dân tầm thường khác và những con
quái vật, những kẻ xướng danh, dẫn chỗ, cả một khán phòng đông chật người
- một đám đông khán giả chẳng khác gì tại nhà hát - chăm chú dõi theo, trong
khi ba mươi hai tội nhân và ngài thẩm phán nghiêm trang đối diện với nhau.
Sau đó, ngài thẩm phán nói với các phạm nhân. Trong số những kẻ khốn khổ
đứng trước mình, người ông cần chỉ riêng ra để đặc biệt nói đến là một kẻ
gần như từ thời thơ ấu đã có những hành vi chống lại luật pháp; kẻ này, sau
nhiều lần bị tống tù và trừng phạt, cuối cùng đã bị kết án khổ sai nhiều năm;
và cũng kẻ đó, trong những hoàn cảnh đầy bạo lực và liều lĩnh, đã đào tẩu rồi
bị tuyên án lại thành lưu đày chung thân. Con người khốn khổ ấy trong một
thời gian dường như đã nhận ra những lầm lỗi của mình khi được cách xa
khỏi nơi diễn ra những hành vi phạm tội trước đó, và đã sống một cuộc sống
bình yên, lương thiện. Nhưng trong một khoảnh khắc định mệnh, buông thả
theo những thiên hướng và tính cách mà sự dung dưỡng chúng trong thời
gian dài đã biến kẻ đó thành một tai họa cho xã hội, con người ấy đã rời khỏi
nơi chốn dành cho sự bình yên và sám hối của y, và đã trở lại đất nước nơi y
bị đặt ngoài vòng pháp luật. Ngay lập tức bị tố giác tại đây, y đã lẩn tránh
thành công các đại diện của pháp luật trong một thời gian, nhưng khi bị bắt
trong khi đang tìm cách bỏ trốn, y đã chống cự lại họ, và - chỉ y là người rõ
nhất do cố ý hay trong cơn liều lĩnh mù quáng - đã gây ra cái chết của người
tố giác y, kẻ biết đầu đuôi con đường làm ăn của y. Hình phạt được tuyên cho
tội y trở lại miền đất đã loại trừ y là Tử hình, và trường hợp của y là trường
hợp rất nghiêm trọng, y nên chuẩn bị sẵn sàng cho Cái chết.
Dịch chữ Sheriff, trong đoạn này chỉ đại diện tư pháp của Hoàng gia tại một vùng của nước Anh, xứ
Wales và Bắc Ireland. Trong đoạn này Dickens miêu tả họ mặc lễ phục với những sợi xích lớn gắn
trên để trang trí, biểu tượng cho quyền uy, và cầm những bó hoa để ngăn họ khỏi mùi khó chịu của
nhà tù và toà án thời ấy.
Mặt trời đang chiếu vào qua các khung cửa kính lớn của tòa án, xuyên
qua những giọt nước mưa lấp lánh đọng lại trên kính, tạo ra một luồng sáng
rộng giữa ba mươi hai bị cáo và ngài thẩm phán, kết nối cả hai phía với nhau,
và có lẽ nhắc nhở vài người trong công chúng dự khán việc cả hai phía sẽ ra
trình diện, với sự bình đẳng tuyệt đối, trước vị Thẩm phán vĩ đại hơn, Người
biết tất cả, và không thể sai lầm. Đứng lên trong khoảnh khắc, một khuôn mặt
tạo thành vệt tối nổi bật lên giữa luồng sáng này, người tù nói, “Thưa tòa, tôi
đã nhận án tử hình của mình từ đấng Toàn năng, nhưng tôi xin cúi mình cam
chịu bản án của ngài,” và lại ngồi xuống. Im lặng ngự trị một lúc, rồi ngài
thẩm phán tiếp tục với những gì ông cần nói với các tội nhân còn lại. Sau đó,
tất cả họ đều bị chính thức kết tội, và một số phải có người dìu ra ngoài, một
số dửng dưng bước ra với vẻ can đảm bất phục, vài người gật đầu chào công
chúng, hai ba người bắt tay nhau, và có cả những người khác nhai những mẩu
cây có vị ngọt họ đã vặt lấy từ những cái cây mọc quanh tòa. Ông là người
cuối cùng rời phòng xử án, vì cần có người dìu dậy khỏi ghế, và phải đi rất
chậm; và ông nắm lấy bàn tay tôi trong khi những tội nhân khác bị giải đi,
còn công chứng đứng dậy (để vuốt lại trang phục cho chỉnh tề, như thể họ
đang ở nhà thờ hay nơi nào khác) và chỉ trỏ vào người này người kia trong
đám tội nhân, nhiều nhất là vào ông và tôi.
Tôi chân thành hy vọng và cầu nguyện rằng ông có thể chết trước khi
văn bản của quan tòa được thảo ra; nhưng sợ rằng ông sẽ sống lâu hơn, tối
hôm ấy tôi bắt đầu viết một bản thỉnh cầu gửi lên Bộ trưởng Nội vụ, trình bày
rõ mọi điều tôi biết về ông, cũng như việc ông quay về nước vì tôi. Tôi viết lá
đơn thống thiết và chân thành hết mức có thể; và khi đã viết xong rồi gửi nó
đi, tôi viết tiếp những đơn thỉnh cầu khác tới các nhân vật quyền lực mà tôi
hy vọng là những người khoan dung nhất, và thảo cả một đơn gửi cho chính
nhà vua. Trong những ngày và đêm tiếp sau hôm ông bị kết án, tôi không hề
nghỉ ngơi ngoài những lúc ngủ thiếp đi trên ghế, mà hoàn toàn đắm mình vào
những lời thỉnh cầu kể trên. Và sau khi đã gửi chúng đi, tôi không thể rời xa
khỏi những nơi chúng được gửi tới, mà cảm thấy như thể chúng sẽ có nhiều
hy vọng và ít vô vọng hơn nếu tôi ở gần chúng. Trong tâm trạng bứt rứt vô lý
này cùng nỗi đau giày vò trong tâm trí, tôi lang thang qua các con phố, nấn ná
quanh các cơ quan và tòa nhà nơi tôi để lại các đơn thỉnh nguyện. Vào giờ
này, những con phố buồn thiu của khu Tây London trong một tối mùa xuân
lạnh lẽo, bụi bặm, với những dãy nhà lạnh lùng đóng kín và những dãy đèn
đường dài, tất cả kết hợp lại trong mắt tôi quả là một cảnh tượng rầu rĩ.
Những cuộc vào thăm hằng ngày tôi có thể dành cho ông giờ đây bị rút
ngắn lại, và ông bị giam giữ nghiêm ngặt hơn. Nhìn thấy, hay tưởng tượng ra,
rằng tôi bị nghi ngờ có ý định mang thuốc độc cho Magwitch, tôi yêu cầu
được khám người trước khi ngồi xuống cạnh giường ông, và nói với người
canh tù là tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trấn an ông ta là tôi chỉ có một
mục đích duy nhất. Không ai tỏ ra khắc nghiệt với ông hay với tôi. Người
canh tù luôn quả quyết với tôi ông đang yếu đi, và một số tù ốm khác trong
phòng, cũng như một số tù nhân khác làm hộ lý chăm sóc cho họ (những kẻ
phạm pháp, nhưng không phải không có từ tâm, ơn Chúa!) cũng luôn đồng
tình như vậy.
Từng ngày trôi qua, tôi thấy ông ngày càng nằm nhiều hơn điềm tĩnh
nhìn lên trần nhà quét vôi trắng, với khuôn mặt vắng bóng sinh khí cho tới
khi vài lời tôi nói làm nó sáng bừng lên trong khoảnh khắc, rồi sau đó chút
sinh khí ấy lại tắt lịm đi. Đôi lúc, ông gần như không thể nói được hoặc nói
rất khó khăn, những lúc như thế ông sẽ trả lời tôi bằng cách siết nhẹ lấy bàn
tay tôi, và dần tôi trở nên hiểu rất rõ ý ông muốn bày tỏ.
Được mười ngày thì tôi thấy một thay đổi lớn hơn ở ông so với trước
đó. Đôi mắt ông nhìn về phía cửa, và sáng lên khi tôi bước vào.
“Chàng trai thân mến,” ông nói trong khi tôi ngồi xuống bên giường:
“Tôi cứ nghĩ cậu đến muộn. Nhưng tôi biết cậu không thể đến muộn.”
“Vừa đúng giờ thôi,” tôi nói. “Tôi đã đợi ngoài cổng.”
“Cậu vẫn luôn đợi ngoài cổng; phải không nào, chàng trai thân mến?”
“Đúng thế. Không thể để mất một khoảnh khắc nào.”
“Cảm ơn cậu, chàng trai thân mến, cảm ơn cậu. Chúa ban phước lành
cho cậu! Cậu đã không bao giờ bỏ rơi tôi, chàng trai thân mến.”
Tôi im lặng nắm chặt bàn tay ông, vì tôi không thể quên mình từng có
ý bỏ mặc ông.
“Và điều tuyệt vời hơn cả,” ông nói, “là cậu đã đối xử thân tình hơn với
tôi kể từ khi tôi chìm dưới một đám mây đen, hơn là khi mặt trời còn chiếu
sáng. Đó là điều tuyệt vời hơn cả.”
Ông nằm ngửa trên giường, khó nhọc thở. Dù ông có làm gì, và dù ông
yêu quý tôi, ánh sáng cứ thỉnh thoảng lại rời bỏ khuôn mặt ông, và một lớp
màng buông xuống trên cái nhìn điềm tĩnh hướng lên trần nhà quét vôi trắng.
“Hôm nay ông có đau nhiều không?”
“Tôi không phàn nàn về cơn đau nào cả, chàng trai thân mến.”
“Ông chưa bao giờ phàn nàn.”
Ông đã nói những lời cuối cùng của mình. Ông mỉm cười, và tôi hiểu ý
nghĩa cử chỉ của ông khi ông muốn cầm lấy bàn tay tôi và đặt nó lên ngực
mình. Tôi để nó ở đó, và ông lại mỉm cười, áp cả hai bàn tay lên bàn tay tôi.
Thời gian được cho phép kết thúc khi chúng tôi đang như thế; nhưng
khi nhìn quanh, tôi thấy ông giám đốc nhà tù đứng sau lưng mình, và ông khẽ
nói, “Cậu chưa cần phải ra đâu.” Tôi cảm ơn ông chân thành, và hỏi, “Tôi có
thể nói với ông ấy được không, nếu ông ấy vẫn còn nghe được?”
Ông giám đốc đứng tránh ra bên, và ra hiệu bảo người canh tù ra ngoài.
Sự thay đổi này, dù được thực hiện không một tiếng động, đã lấy đi tấm
mạng che phía trên ánh mắt bình yên nhìn lên trần nhà quét vôi trắng, và ông
nhìn tôi đầy trìu mến.
“Magwitch thân mến, cuối cùng thì bây giờ nhất định tôi phải nói với
ông. Ông hiểu những gì tôi nói chứ?”
Một cái ép nhẹ lên bàn tay tôi.
“Ông từng có một đứa con, mà ông rất yêu thương rồi đánh mất.”
Một cái ép mạnh hơn lên bàn tay tôi.
“Cô ấy còn sống, và tìm thấy những bạn bè quyền thế. Bây giờ cô ấy
còn sống. Cô ấy là một quý bà và rất xinh đẹp. Và tôi yêu cô ấy!”
Với nỗ lực yếu ớt cuối cùng, hẳn đã vô lực nếu tôi không nương theo
và hỗ trợ cho nó, ông nâng bàn tay tôi lên môi mình hôn. Sau đó, ông nhẹ
nhàng để nó đặt trở lại lên ngực mình, đặt hai bàn tay ông áp lên nó. Ánh mắt
bình yên hướng lên trần nhà quét vôi trắng quay trở lại, rồi tắt phụt, và đầu
ông lặng lẽ gục xuống ngực.
Nhớ lại những gì chúng tôi đã đọc cùng nhau, tôi nghĩ tới hai con
người đã đi vào Temple để cầu nguyện, và tôi biết không có từ nào tốt hơn tôi
có thể nói bên giường ông, ngoài “Lạy Chúa, hãy nhân từ với con người tội
lỗi này!”