Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 55
N
gày hôm sau, ông bị đưa tới tòa vi cảnh, và chắc hẳn đã bị đưa ra xử
ngay lập tức nếu không cần phải triệu một cựu cai tù từng làm việc trên con
tàu nhốt tù nơi Magwitch đã một lần đào thoát đến để nhận diện ông. Không
ai nghi ngờ chuyện đó; nhưng Compeyson, kẻ từng định đảm nhiệm việc này
đã bị rơi xuống sông chết đuối, và tình cờ lúc đó tại London lại không có bất
cứ cai ngục nào có thể đưa ra bằng chứng được yêu cầu. Tôi đã tới thẳng nhà
riêng gặp ông Jaggers ngay khi về đến nơi sau một đêm để đề nghị ông trợ
giúp, và ông Jaggers, đại diện cho người tù, đã không thừa nhận gì. Đó là lựa
chọn duy nhất; vì ông nói với tôi phiên xử sẽ kết thúc sau năm phút khi nhân
chứng có mặt, và sẽ không sức mạnh nào trên đời có thể ngăn được nó chống
lại chúng tôi.
Tôi bày tỏ với ông Jaggers nguyện vọng của mình muốn giữ kín không
để ông biết gì về số phận tài sản của ông. Ông Jaggers rất bất bình và tức giận
với tôi vì đã “để nó lọt kẽ tay”, và nói chúng tôi cần làm đơn thỉnh nguyện
ngay lập tức, và trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải cố giành lại ít nhiều
món tài sản. Nhưng ông không giấu giếm tôi rằng, cho dù có thể có nhiều
trường hợp việc tịch biên tài sản sẽ không được thi hành, song khó có khả
năng vụ này sẽ là một trường hợp như thế. Tôi hiểu điều đó quá rõ. Tôi
không có quan hệ họ hàng gì với kẻ bị bắt, hay liên hệ với ông bằng bất cứ
mối quan hệ nào có thể được thừa nhận; ông đã không để lại bút tích hay văn
bản nào dành tài sản cho tôi trước khi bị bắt, còn làm thế bây giờ sẽ chỉ vô
ích. Tôi không có quyền gì, và cuối cùng đi tới quyết định, và kể từ đó luôn
chấp nhận quyết định đó, rằng trái tim tôi sẽ không bao giờ phải trĩu nặng với
nhiệm vụ vô vọng là xác lập một quyền nào với món tài sản kia.
Dường như có lý do để cho rằng kẻ trình báo bị chết đuối đã hy vọng
có được phần thưởng từ gia tài bị tịch biên này, và đã tìm hiểu được khá
nhiều điều chính xác về chuyện làm ăn của Magwitch. Khi xác hắn được tìm
thấy, cách nơi hắn chết nhiều dặm và bị biến dạng khủng khiếp đến mức hắn
chỉ được nhận dạng nhờ những thứ có trong túi, những ghi chú vẫn còn đọc
được, được cất trong một cái hộp hắn cầm theo. Trong số giấy tờ này có tên
của một ngân hàng tại New South Wales, nơi có một khoản tiền được gửi, và
chứng thư của một số miếng đất có giá trị đáng kể. Tất cả những thông tin
này đều nằm trong một danh sách mà Magwitch, đang ở trong tù, đã đưa cho
ông Jaggers, liệt kê các tài sản ông cho rằng tôi sẽ thừa kế. Con người khốn
khổ, cuối cùng thì việc không biết gì cũng có ích cho ông; ông không bao giờ
nghi ngờ việc khoản thừa kế của tôi đã được an toàn với sự giúp đỡ của ông
Jaggers.
Sau ba ngày trì hoãn, trong khoảng thời gian đó công tố Hoàng gia chờ
đợi sự xuất hiện của nhân chứng từ con tàu nhốt tù, nhân chứng đã tới, và
hoàn tất vụ điều tra dễ dàng. Magwitch bị truy tố phải ra tòa trong phiên Đại
hình tiếp theo, sẽ diễn ra sau một tháng nữa.
Chính trong quãng thời gian đen tối này của cuộc đời tôi, vào một buổi
tối Herbert về nhà có vẻ rất buồn phiền, và nói:
“Handel thân mến, tớ sợ rằng tớ sẽ sớm phải rời xa cậu.”
Vì người hợp tác với bạn tôi đã chuẩn bị cho tôi sẵn sàng để đón nhận
tin, tôi đã tỏ ra ít ngạc nhiên hơn cậu nghĩ.
“Công ty sẽ để lỡ một cơ hội tốt nếu tớ từ chối đi Cairo, và tớ e là tớ
buộc phải đi, Handel, khi cậu cần đến tớ nhất.”
“Herbert, tớ sẽ luôn cần cậu, vì tớ sẽ luôn yêu quý cậu; nhưng vào lúc
này mức độ tớ cần cậu cũng không hề lớn hơn bất cứ lúc nào khác.”
“Cậu sẽ rất cô độc.”
“Tớ không có thời gian để nghĩ tới điều đó,” tôi nói. “Cậu biết là tớ
luôn ở bên ông ấy toàn bộ lượng thời gian được phép, và tớ đáng ra cần ở bên
ông ấy cả ngày nếu tớ có thể. Và khi tớ không ở bên ông ấy, cậu biết là mọi ý
nghĩ của tớ đều dành cho ông ấy.”
Tình cảnh khủng khiếp Magwitch bị đẩy vào quá tàn khốc với cả hai
chúng tôi, đến mức chúng tôi không thể nói về nó bằng từ ngữ cụ thể hơn.
“Anh bạn thân mến,” Herbert nói, “hãy để viễn cảnh chia tay đã cận kề
của chúng ta - vì thời điểm ấy đã rất gần rồi - là lý do biện hộ cho tớ khi làm
phiền cậu về bản thân cậu. Cậu đã nghĩ về tương lai của mình chưa?”
“Chưa, vì tớ luôn sợ phải nghĩ về bất cứ tương lai nào.”
“Nhưng cậu không thể gạt nó đi được; thực ra, Handel thân mến,
không được phép gạt nó đi. Tớ mong bây giờ cậu sẽ cân nhắc về nó cùng tớ,
bằng vài lời bạn bè thân tình thôi.”
“Tớ sẽ làm,” tôi nói.
“Chi nhánh này của công ty tớ, Handel, bọn tớ cần phải có…”
Tôi thấy vì tế nhị cậu đang cố tránh từ chính xác, vậy là tôi nói, “Một
trợ lý.”
“Một trợ lý. Và tớ hy vọng hoàn toàn có khả năng người đó có thể
vươn lên (như một trợ lý mà cậu biết từng vươn lên) để trở thành một thành
viên quản trị. Bây giờ, Handel, nói tóm lại, anh bạn thân mến, cậu sẽ tới chỗ
tớ chứ?”
Có điều gì đó thật chân thành và nhiệt tình đầy cuốn hút với nó sau khi
nói, “Bây giờ, Handel,” như thể đó là sự khởi đầu nghiêm trang của một đoạn
mào đầu diễn văn công chuyện đầy điềm gở, cậu đột ngột từ bỏ giọng điệu
đó, chìa hai bàn tay chân thật của cậu ra, và nói như một cậu học sinh.
“Clara và tớ đã bàn đi bàn lại mãi về chuyện đó,” Herbert nói tiếp, “và
cô bé yêu dấu ấy mới tối nay thôi vừa nài nỉ tớ, với đôi mắt ướt nhòe, hãy nói
với cậu rằng nếu cậu chấp nhận sống cùng bọn tớ khi cô ấy và tớ đến với
nhau, cô ấy sẽ làm hết sức để giúp cậu hạnh phúc, và thuyết phục người bạn
của chồng cô rằng anh ấy cũng là bạn cô. Chúng ta sẽ sống rất vui vẻ với
nhau, Handel!”
Tôi chân thành cảm ơn cô, chân thành cảm ơn bạn tôi, nhưng nói tôi
vẫn chưa thể chắc chắn về chuyện sẽ tới làm cùng cậu như cậu đã tử tế đề
nghị. Thứ nhất, tâm trí tôi đang quá bận rộn để có thể cân nhắc rõ ràng được
việc này. Thứ hai… Phải! Thứ hai, có một điều gì đó mơ hồ vẫn còn lưu
luyến trong tâm trí tôi và sẽ được nói đến vào ngay gần đoạn kết của câu
chuyện kể mộc mạc này.
“Nhưng nếu cậu nghĩ, Herbert, là cậu có thể, trong khi không gây bất
cứ tổn hại nào cho việc kinh doanh của cậu, để mở câu hỏi này trong ít
lâu…”
“Trong bao lâu cũng được,” Herbert thốt lên. “Sáu tháng, một năm!”
“Không lâu đến thế đâu,” tôi nói. “Nhiều nhất là hai hay ba tháng.”
Herbert rất vui khi chúng tôi bắt tay nhất trí với thỏa thuận và nói cậu
bây giờ có thể đủ can đảm để cho tôi biết cậu tin sẽ phải lên đường vào cuối
tuần.
“Còn Clara?” tôi hỏi.
“Cô bé yêu dấu,” Herbert đáp, “sẽ hiếu thảo chăm sóc bố cô ấy chừng
nào ông lão còn sống; nhưng ông ấy sẽ không trụ được mấy nữa đâu. Bà
Whimple cho tớ hay ông lão chắc chắn sắp ra đi rồi.”
“Không phải tớ muốn nói ra một điều vô cảm,” tôi nói, “nhưng ông ta
không thể làm được gì tốt hơn việc đó.”
“Tớ e là phải thừa nhận như vậy,” Herbert nói, “và sau đó tớ sẽ quay
lại đón cô bé yêu dấu, rồi cô bé yêu dấu và tớ sẽ lặng lẽ tìm đến nhà thờ gần
nhất. Hãy nhớ nhé! Vị hôn thê đáng được ban phước lành của tớ không có gia
đình thân thích nào, Handel thân mến, và chưa bao giờ nhìn qua cuốn sách
đỏ*, và chẳng hề biết gì về ông nội cô ấy. Thật may làm sao cho cậu con trai
của mẹ tớ!”
Sách về các tước vị, phẩm trật.
Đến thứ Bảy tuần đó, tôi chia tay Herbert - đầy ắp những hy vọng xán
lạn, nhưng buồn và áy náy vì phải rời xa tôi - khi cậu trèo lên một chiếc xe
chở thư ra cảng biển. Tôi rẽ vào một quán cà phê viết vài dòng cho Clara, cho
cô biết bạn tôi đã lên đường, chuyển tình yêu của cậu tới cô hết lần này tới
lần khác, sau đó quay về nhà mình, một nơi cô quạnh - nếu nó xứng đáng với
cái tên đó; vì giờ đây nó không còn là nhà với tôi, và tôi chẳng có nhà ở bất
cứ nơi đâu nữa.
Trên cầu thang, tôi gặp Wemmick đang đi xuống sau khi không thành
công trong việc gõ cửa nhà tôi. Tôi đã không gặp riêng ông kể từ sau hồi kết
tai họa của cuộc chạy trốn bất thành; và ông đã tới, với tư cách riêng tư và cá
nhân, để nói vài lời giải thích liên quan tới thất bại đó.
“Tay Compeyson đã quá cố ấy,” Wemmick nói, “đã từng bước tìm ra
sự thật về phân nửa những giao dịch thường xuyên với Magwitch những việc
tôi biết đều là do tôi đã nghe được từ miệng của ông ta (một số trong đám
người của ông ta luôn gặp phải rắc rối với pháp luật). Tôi luôn lắng tai nghe
trong lúc vờ như không nghe, cho tới khi tôi nghe được ông ta đang vắng
mặt, và tôi nghĩ đó chính là thời điểm tốt nhất để ông ta thực hiện âm mưu.
Bây giờ tôi chỉ có thể đoán hành động vắng mặt là một phần trong mưu toan
của ông ta, một kẻ rất thông minh, quá quen với việc lừa đảo chính những
công cụ của mình. Tôi hy vọng cậu không trách cứ tôi chứ, cậu Pip? Tôi tin
chắc tôi đã cố giúp cậu, bằng cả trái tim.”
“Tôi tin chắc vào điều đó, Wemmick, như ông có thể tin là vậy, và tôi
chân thành cảm ơn ông về tất cả sự quan tâm và tình bạn.”
“Cảm ơn cậu, cảm ơn cậu rất nhiều. Đó là một chuyện thật tệ,”
Wemmick vừa nói vừa gãi đầu, “và tôi cam đoan với cậu đã lâu lắm rồi tôi
không bị qua mặt như thế. Cứ nghĩ đến việc mất đi nhiều tài sản có thể mang
theo người đến thế. Ôi Chúa ơi!”
“Điều tôi nghĩ tới, Wemmick, là người chủ sở hữu tội nghiệp của món
tài sản.”
“À phải, chắc rồi,” Wemmick nói. “Tất nhiên, chẳng thể nào phản đối
cậu thấy buồn cho ông ấy, và tôi sẵn lòng tự mình bỏ ra năm bảng để đưa ông
ấy ra khỏi nơi đó. Nhưng điều tôi nhìn đến là thế này. Vì tay Compeyson quá
cố ấy đã biết từ trước việc Magwitch trở về, và quyết tâm đến vậy trong việc
tố cáo ông ấy, tôi không nghĩ có thể cứu được Magwitch. Trong khi đó, chắc
chắn đã có thể cứu tài sản có thể mang theo người. Đó là sự khác nhau giữa
tài sản và người sở hữu, cậu không thấy sao?”
Tôi mời Wemmick lên nhà, uống một ly rượu rum pha nước cho đỡ
mệt trước khi đi bộ về Walworth. Ông nhận lời mời. Trong khi vị khách đang
uống phần đồ uống khiêm tốn của mình, ông nói, không hề mào đầu gì trước,
và sau khi có vẻ khá bối rối:
“Cậu nghĩ sao về việc tôi định nghỉ một ngày vào thứ Hai, cậu Pip?”
“Sao chứ, tôi đoán ông chưa từng làm điều đó trong mười hai tháng
vừa qua.”
“Trong mười hai năm vừa qua thì đúng hơn,” Wemmick nói. “Phải, tôi
sẽ nghỉ một ngày. Hơn thế nữa; tôi sẽ đi dạo. Hơn thế nữa; tôi sẽ mời cậu đi
dạo cùng tôi.”
Tôi đang định kiếm cớ từ chối vì vào lúc đó tôi chỉ có thể là một người
đồng hành chán ngán thì Wemmick đã nhanh hơn tôi.
“Cậu Pip, tôi biết những mối bận tâm của cậu,” ông nói, “và tôi biết
cậu không được khỏe. Nhưng nếu cậu vui lòng nhận lời tôi sẽ ghi nhận điều
đó như một biểu hiện của lòng tốt. Sẽ không phải là một chuyến đi dài, và đi
từ sớm. Hãy nói là nó có thể làm cậu bận bịu (bao gồm cả ăn sáng trên đường
đi) từ tám đến mười hai giờ. Cậu có thể linh động cố gắng thu xếp chứ?”
Ông đã giúp tôi quá nhiều vào những thời điểm khác nhau, và đây chỉ
là một sự đền đáp rất khiêm tốn dành cho ông. Tôi nói có thể thu xếp được -
sẽ thu xếp - và Wemmick rất phấn khởi trước sự ưng thuận của tôi, đến mức
tôi cũng thấy vui lây. Theo đề nghị cụ thể của ông, tôi được hẹn tới gặp ông
tại Lâu Đài lúc tám giờ rưỡi sáng thứ Hai, sau đó chúng tôi chia tay.
Đúng hẹn, tôi rung chuông cửa Lâu Đài vào sáng thứ Hai, và được đích
thân Wemmick ra đón, tôi thấy ông có vẻ cứng nhắc hơn bình thường, và
đang đội một cái mũ bóng hơn trên đầu. Trong nhà có hai ly đựng rum pha
sữa được chuẩn bị trước, và hai cái bánh quy. Người Già hẳn đã dậy từ sớm,
vì khi liếc mắt về phía phòng ngủ của ông cụ, tôi thấy giường trống không.
Khi chúng tôi đã lót dạ xong với rum pha sữa và bánh quy, và chuẩn bị
ra ngoài đi bộ với phần chuẩn bị sức lực đó đã yên ổn trong người, tôi khá
ngạc nhiên khi thấy Wemmick cầm lấy một cái cần câu và gác lên vai. “Sao
vậy, chúng ta không đi câu mà!” tôi nói. “Không,” Wemmick đáp, “nhưng tôi
thích đi dạo cùng một cái cần câu.”
Tôi nghĩ chuyện này thật lạ; tuy vậy, tôi vẫn không nói gì, và chúng tôi
lên đường. Chúng tôi đi về phía Camberwell Green, và khi tới đó, Wemmick
đột nhiên nói:
“Ô kìa! Một nhà thờ đây rồi!”
Chẳng có gì quá ngạc nhiên về chuyện đó; song một lần nữa, tôi lại khá
kinh ngạc khi nghe ông nói như thể đang bị kích động bởi một ý tưởng sáng
chói.
“Chúng ta vào trong đi!”
Chúng tôi vào trong, Wemmick để cần câu của ông lại ngoài cửa, và
đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Cùng lúc, Wemmick thò tay vào trong túi áo
khoác lấy thứ gì đó gói trong giấy ra.
“Ô kìa!” ông nói. “Đây là một đôi găng tay! Hãy xỏ chúng vào thôi!”
Vì đó là một đôi găng da màu trắng, và cái thùng thư đang mở rộng ra
đến cực hạn, lúc này tôi bắt đầu rất nghi ngờ. Những nghi ngờ của tôi đã tăng
lên thành sự chắc chắn khi tôi thấy Người Già bước vào từ một cửa ngách,
tháp tùng một quý cô.
“Ô kìa!” Wemmick nói. “Đây là cô Skiffins! Chúng ta hãy cử hành một
hôn lễ nào.”
Cô gái kín đáo vẫn mặc trang phục như bình thường, ngoại trừ việc lúc
này cô đã thay đôi găng da màu lục bằng một đôi găng trắng. Người Già cũng
chuẩn bị một nghi lễ tương tự trước bàn thờ thần Hymen*. Tuy nhiên, ông
lão đã gặp phải khó khăn nghiêm trọng khi xỏ găng tay vào, đến nỗi
Wemmick thấy cần thiết phải để ông cụ tựa lưng vào một cây cột, sau đó tự
mình vòng ra sau cái cột mà kéo đôi găng tay lên, trong khi tôi, về phần
mình, giữ lấy quanh hông ông lão, để ông có thể đứng vững và an toàn. Nhờ
vào sáng kiến thông minh này, đôi găng của ông cụ được xỏ vào chỉn chu
hoàn hảo.
Vị thần Hy Lạp quản việc hôn nhân.
Sau đó ông mục sư và người phụ lễ xuất hiện, chúng tôi được sắp xếp
theo hàng trước ban thờ định mệnh. Tiếp tục trung thành với vẻ làm như thực
hiện tất cả không có chuẩn bị gì, tôi nghe thấy Wemmick tự nói với mình khi
ông lấy thứ gì đó từ trong túi áo gi lê ra trước khi hôn lễ bắt đầu, “Ô kìa! Đây
là một cái nhẫn!”
Tôi vào vai phù rể cho chú rể; trong khi một người phụ nữ bé nhỏ tập
tễnh vốn là người phụ trách việc mở cửa dẫn vào hàng ghế cầu nguyện ở nhà
thờ đội một cái mũ mềm như của trẻ con giả bộ là bạn tri kỷ của cô Skiffins.
Trách nhiệm dẫn cô dâu đến trước bàn thờ được ủy thác cho Người Già, điều
này khiến ông mục sư bất bình một cách không hề có chủ ý, và chuyện đó
xảy ra thế này. Khi ông ta nói, “Ai sẽ dẫn người phụ nữ này tới để được kết
hôn với người đàn ông này?” ông lão, chẳng biết chúng tôi có mặt tại đây để
cử hành nghi lễ gì, đứng vui vẻ cười hết cỡ trước mười điều giới luật. Thấy
thế, ông mục sư nhắc lại, “Ai sẽ dẫn người phụ nữ này tới để được kết hôn
với người đàn ông này?” Vì ông lão vẫn tỏ vẻ thờ ơ đáng kính nhất trên đời,
chú rể liền hét lên bằng giọng đã thành lệ, “Nào, Bố Già, bố biết mà; ai dẫn
cô dâu?” Đến đây, Người Già đáp lại một cách cực kỳ nhanh nhẹn, và trước
khi nói ông là người dẫn cô dâu không quên thêm, “Được rồi, John, được rồi,
con trai!” Và ông mục sư ngừng lại với vẻ mặt sa sầm trước chuyện này, đến
nỗi trong chốc lát tôi đã thoáng nghi ngờ liệu đám cưới có được diễn ra trọn
vẹn ngày hôm đó không.
Tuy vậy, hôn lễ cũng được hoàn tất, và khi chúng tôi ra khỏi nhà thờ,
Wemmick mở nắp đậy chậu nước rửa tội ra, bỏ đôi găng trắng của ông vào
trong đó, rồi đậy cái nắp lại. Bà Wemmick, lưu tâm nhiều hơn tới tương lai,
cho đôi găng trắng của mình vào túi và thay lại đôi găng màu lục. “Bây giờ,
cậu Pip,” Wemmick nói, đắc thắng gác cần câu lên vai khi chúng tôi ra ngoài,
“cho phép tôi hỏi cậu liệu có ai có thể cho rằng đây là một bữa tiệc cưới
không!”
Bữa sáng đã được đặt tại một quán rượu nhỏ vui vẻ nằm cách đó chừng
một dặm, trên triền đất nhô lên sau khoảng rừng; và tại đó có một bàn chơi
bagaten trong phòng, phòng khi chúng tôi muốn thư giãn đầu óc sau nghi lễ
nghiêm trang. Thật thú vị khi thấy bà Wemmick không còn gỡ cánh tay
Wemmick ra khi nó tìm đến đặt lên người mình, mà ngồi trên một chiếc ghế
có tựa lưng cao kê sát tường, không khác gì một cây đàn violoncello trong
hộp, chấp nhận được ôm lấy như thể nhạc cụ đầy âm điệu kia hẳn sẽ làm.
Chúng tôi có một bữa sáng tuyệt vời, và khi có ai đó tại bàn từ chối
món nào đó, Wemmick liền nói, “Phục vụ theo hợp đồng, mọi người biết
đấy; không cần ngại!” Tôi nâng cốc uống mừng đôi vợ chồng mới cưới, chúc
sức khỏe Người Già, chúc phúc cho Lâu Đài, chào cô dâu trước khi cáo từ, cố
làm cho mình trở nên dễ chịu hết mức tôi có thể.
Wemmick đi xuống tiễn tôi ra cửa, và một lần nữa tôi lại bắt tay ông,
chúc ông có nhiều niềm vui.
“Cảm ơn cậu!” Wemmick nói, xoa xoa hai bàn tay. “Cô ấy là một
người nuôi gà tuyệt vời, cậu không tưởng tượng được đâu. Cậu sẽ có ít trứng,
và hãy tự mình đánh giá lấy. Tôi muốn nói với cậu chuyện này, cậu Pip!” ông
gọi tôi lại, và hạ giọng khe khẽ. “Làm ơn hiểu cho đây hoàn toàn là một cảm
xúc Walworth.”
“Tôi hiểu. Không được nhắc đến ở Little Britain,” tôi nói.
Wemmick gật đầu. “Sau những gì cậu đã làm hôm trước, tốt hơn ông
Jaggers không nên biết gì về nó. Ông ấy có thể nghĩ bộ óc tôi đã bị mềm yếu
đi hay điều gì đó tương tự.”