You practice mindfulness, on the one hand, to be calm and peaceful. On the other hand, as you practice mindfulness and live a life of peace, you inspire hope for a future of peace.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Jeff Edwards
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Quang11
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Saigon Vĩnh cửu
Số chương: 60 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1178 / 7
Cập nhật: 2017-04-18 08:47:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 52 - Uss Towers (Ddg-103) Vịnh Bengal Thứ Tư, 3 Tháng 12, 00:29 Giờ Địa Phương
ó một khoảng thời gian vĩnh hằng một cách kỳ quái khi mà mọi thứ dường như xảy ra như trong phim quay chậm vậy. Silva có thể nghe tiếng viên sĩ quan phòng Lái trên loa 1-MC, ra lệnh cho mọi người chuẩn bị va chạm. Có ai đó đang yêu cầu được cập nhật về tình huống của quả Viper cuối cùng. Trên màn ảnh Aegis, phù hiệu đỏ của quả phi đạn địch đang nhập vào cái vòng tròn màu xanh lơ tượng trưng cho chiếc USS Towers.
Silva đang đứng cạnh Đại Tá Bowie, vài thước phía sau chiếc ghế của viên TAO và không có thứ gì ở gần bên cho nàng bám vào cả.
Bowie bám vào một xà ngang bên trên đầu, còn Silva quay sang một cột thép từ sàn lên trần, nằm bên phải của nàng. Hai tay nàng bám quanh cột, đầu cúi xuống và hai gối hơi khụy xuống, cố gắng làm theo tư thế chuẩn bị chống va chạm mà mọi thủy thủ đều được học qua, nhưng ít ai nghĩ sẽ phải dùng đến.
Thế rồi cái giây dài đằng đẳng ấy cũng qua đi, và dòng chảy thời gian từ mức chảy chậm rì lại tăng vọt thành một tốc độ điên cuồng.
Sóng xung kích cắt ngang qua phòng hành quân CIC như một cơn bão táp và không gian đột nhiên đầy những mảnh vụn, những mẩu thi thể bay tứ tung và những tiếng kêu gào của những kẻ bị thương và hấp hối. Mọi đồ vật không được gắn chặt trong phòng, mọi cây viết, cuốn sổ và tách cà-phê lập tức vọt lên không và bay đi từ phía chỗ phi đạn nổ với cùng tốc độ với sóng xung kích.
Các vị trí làm việc của hệ thống SLQ-32 ở khu vực Chiến Tranh Điện Tử và các màn ảnh ra-đa hấp thụ và làm giảm một phần lực lượng của vụ nổ. Nhiều bàn ra-đa bị giật ra khỏi các giá lắp ráp, màn ảnh nổ tung thành những chùm mưa thủy tinh, các mảnh thủy tinh bắn sâu vào mặt và thân thể của các nhân viên ra-đa.
Hai tay của Silva bị kéo tuột khỏi cột thép. Nàng bị bắn vào một tấm bản ghi nhận tình hình, mạnh đến nỗi lớp kính dày bị rạng nứt. Cú va chạm làm nàng ngất ngư. Một bên đầu của nàng đập mạnh vào khung sắt của tấm bản. Nàng gục xuống sàn tàu, mê man.
Nước từ hệ thống làm mát cho thiết bị xịt tung tóe từ những vết nứt trên ống. Nhiều giây điện bị chập mạch, làm máy cắt điện bật lên. Đèn trên trần tắt phụt và trong một khoảng thời gian ngắn, máu me và hỗn loạn diễn ra trong bóng tối hoàn toàn.
Rồi đèn khẩn cấp chạy bằng pin được kích hoạt tự động, đem lại ánh sáng đỏ mờ cho cả căn phòng điêu tàn.
Các màn ảnh Aegis lớn đều tối đen. Phần đông các trạm làm việc còn lại đều có ánh đèn cảnh báo vàng và đỏ nhấp nháy, cho biết các trình độ hư hỏng cả về vật chất lẫn điện tử.
Silva nằm ngửa, ngắm nhìn các vùng sáng và tối chen lẫn kỳ dị trên trần phòng: ánh đèn khẩn cấp, lúc sáng lúc mờ vì những lọn khói từ vụ nổ, các ánh nhấp nháy của đèn cảnh báo và bóng người thấp thoáng đang lần mò trong bóng tối. Không khí mang nặng mùi hóa chất cháy, mùi dây điện bị chảy tan và mùi da thịt cháy nám.
Dường như có lửa cháy gần đâu đây, nhưng điều ấy không có gì là quan trọng trong trí óc mù mờ của Silva. Đến một lúc nào đó, nàng chợt nhận ra là tay áo bên trái của nàng đang ngún lửa. Vải áo là loại chống lửa và có vẻ nó đang chống lửa thật. Bằng không, cả cánh tay áo của nàng đã bốc lửa ngùn ngụt rồi.
Dần dần nàng ý thức ra là nàng cần phải ngồi dậy. Có nhiều chuyện còn cần nàng làm mà. Nhưng mà nàng không cách nào nhớ được đó là những chuyện gì.
Tai nàng vẫn còn lùng bùng vì vụ nổ, nhưng nàng có thể nghe được những tiếng người cuống quít vang lên trong các loa treo trên trần phòng. Báo cáo. Hỏi han về thiệt hại. Yêu cầu mệnh lệnh. Không ai có vẻ như chú ý gì đến các lời nói ấy cả.
Đầu nàng gục sang bên trái và nàng chợt nhận ra mình đang nhìn vào một người nằm nghiêng trong một vũng máu. Mặt hắn có vẻ quen thuộc. Nàng đã từng thấy hắn ở đâu rồi. Có thể nàng đã từng quen biết hắn, hay sao đó…
Không. Không phải thế. Nàng biết hắn mà. Đây chính là Bowie. Đại Tá Bowie.
Cái ý nghĩ mạch lạc duy nhất ấy, sự nhận diện đơn giản và cơ bản ấy chính là tia lửa làm nhen nhóm lại ý thức của Silva. Nàng lại bắt đầu tiếp nhận và xử lý các dữ liệu thông tin. Thế giới lại trở nên rõ ràng và cùng lúc ấy, sự đau đớn cũng trở về, trong đầu nàng, nơi hai bên sườn nàng và ở cổ tay trái nữa. Bầm dập tại nhiều chỗ hơn là nàng có thể đếm và nàng đã chảy máu ở thái dương bên trái nữa, nhưng dường như không có thứ gì bị gãy cả.
Nàng cố gắng chống tay ngồi lên và lập tực phải đánh giá lại, khi một cơn đau quặn cả bao tử lan lên từ cổ tay trái của nàng. OK, có lẽ cổ tay đã gãy rồi.
Silva lăn người qua bên phải, chống đầu gối và tay phải còn nguyên vẹn xuống. Bên trái của phòng hành quân CIC có vài đám cháy và cả khu vực ấy mờ khói. Trong khi Silva đang nhìn, ba hay bốn thủy thủ xông tới các đám lửa với những ống CO2 chữa cháy, phun những luồng khí carbonic trắng để dập lửa.
Silva đang gồng người để chuẩn bị đứng lên thì có động tĩnh làm nàng ngưng lại. Bowie đang vẫy nàng bằng ngón trỏ bên phải một cách yếu ớt.
Nàng nhìn hắn kỹ hơn. Vùng sàn tàu quanh hắn đầy chất lỏng đậm màu. Cánh tay trái của hắn ghì chặt vào ngực, lòng bàn tay ấn mạnh vào một chỗ gần xương ức. Lớp vải áo của hắn lấm tấm những lỗ thủng nhỏ và, nếu xét bằng số lượng máu đang chảy qua các ngón tay của hắn, bên dưới bàn tay của hắn có một lỗ thủng còn to hơn nữa.
Mắt hắn dán chặt vào mắt của Silva. Nàng có thể thấy rõ điều ấy cho dù dưới ánh sáng đỏ mờ nhạt của đèn khẩn cấp.
Nàng lết nhanh đến gần hắn, hai đầu gối trượt đi trên sàn tàu ướt nhảy. Khi nàng đã đến gần, nàng đưa bàn tay không bị thương đến và cố gắng giúp hắn đè chặt lên vết thương nơi ngực.
Nàng thử kêu to, nhưng âm thanh như kẹt bên trong cổ họng nàng. Nàng nuốt nước miếng và thử lại lần nữa. “Y tá! Tôi cần y tá ở đây!”
Nàng không ngước mắt đi khỏi vết thương của Bowie, cố gắng giúp hắn làm chậm chảy máu.
Nàng lại hô lên, tiếng của nàng to một cách bất ngờ. “Hạm trưởng bị thương rồi! Cho y tá đến đây ngay, ngay bây giờ!”
Nàng bắt đầu nhìn quanh, cố tìm một thứ gì có thể dùng làm băng gạc tạm thời. Bất cứ thứ gì để thấm máu cho đến khi cứu hộ đến nơi.
Có cái gì đó chạm vào vai nàng. Nàng nhìn xuống và kịp thấy bàn tay phải của Bowie trợt khỏi cánh tay nàng và rơi xuống sàn. Môi hắn đang nhấp nháy.
Silva nhìn hắn bằng một ánh mắt mà nàng hi vọng là đầy trấn an. “Đừng nói gì cả, Jim ạ. Cứ nghỉ ngơi một chút đi. Y tá sẽ đến ngay thôi.”
Bowie lẩm bẩm và một dòng máu chảy ra từ khóe môi hắn. Tiếng hắn chỉ lớn hơn lời thì thào một chút. “Gần hơn…”
Silva cúi xuống cho đến khi mặt nàng chỉ còn cách mặt hắn vài phân.
Mí mắt của Bowie sụp xuống. Khi chúng mở ra lại, chúng chuyển động chậm chạp như thể hành động mở mắt cũng khiến hắn phải sử dụng ý chí nhiều lắm.
“Tàu là của cô rồi…” Hắn nói. “Tàu là…”
Thế rồi có người quỳ gối xuống bên kia của Bowie. Những bàn tay nhanh nhẹn và rành nghề tìm tòi xem thân thể của Bowie còn mang vết thương nào khác hay không.
“Cứ ấn mạnh như thế đi, thưa cô.” Một tiếng nói vang lên. “Tôi sẽ sẵn sàng băng bó ngay thôi.”
Silva vẫn nhìn vào mắt Bowie nên nàng không thấy mặt của gã y tá. Gã kêu to, “Tôi cần một chiếc cáng ở nơi này và hai người khiêng! Stat (ND: từ chuyên môn trong giới y khoa có nghĩa ‘ngay lập tức’)!”
Hai tay của gã lục lọi trong một túi vải xanh, móc ra một hộp băng được bọc trong giấy khử trùng màu nâu. “Sắp xong rồi,” gã nói, “vài giây nữa thôi.”
Bowie rên lên và chậm rãi chớp mắt. “Tàu là của cô đó, Kat.” Hắn nói nhỏ. “Cô là…”
Hắn ho mạnh và hít một hơi đau đớn. “Cô bây giờ là hạm trưởng rồi…”
Silva lắc đầu. “Không đâu, Jim. Anh sẽ khỏe mà. Anh sẽ…”
“Không!” Bowie gắt. Tiếng nói của hắn nửa như tiếng rên và nửa như gầm gừ. Mắt hắn rực lên một cách hung dữ mà Silva chưa từng thấy nơi hắn.
Các ngón tay của viên y tá lôi bàn tay của Silva đi, làm việc nhanh chóng để nhét một xấp bông dày vào cái lỗ thủng nơi ngực của viên đại tá.
“Đây là… mệnh… lệnh… sau cùng… của tôi…” Bowie khò khè. “Cô đảm nhiệm chỉ huy! Đảm…”
Tiếng hắn nhỏ dần vào im lặng và hắn thả ra một hơi thở thật chậm và dài. Hắn không hít vào lần nào nữa.
Viên ý ta hô to. “Khiêng cán! Đến đây! Tôi cần giúp đỡ!”
Và rồi có người khác cũng quỳ xuống, chen vào bên cạnh Silva trên sàn tàu trơn máu.
Gã y tá nhìn vào ánh mắt của Silva. “Hạm trưởng ơi! Chúng tôi cần một chút chỗ, OK, thưa cô?”
Silva gật đầu và lết đầu gối lùi lại cho đến khi nàng có đủ chỗ để lồm cồm đứng lên.
Đầu nàng nhức nhối vì cái hành động quá nhanh ấy và nàng lảo đảo vài giây trước khi đứng vững vàng. Thị lực của nàng lờ mờ, một phần vì sự đau nhức và một phần vì dòng lệ đột nhiên dâng lên và chảy ròng xuống đôi má.
Nàng chớp mắt đánh tan lệ và loạng choạng bước vài bước đến nơi làm việc của viên TAO. “Máy thông tin của anh vẫn hoạt động chứ?”
Viên TAO ngớ ngẩn gật đầu.
Silva chỉ vào máy nghe choàng đầu của gã. “Cho tôi nói qua 1-MC đi.”
Viên sĩ quan Tác Chiến nhìn nàng, liếc qua nơi các y tá đang cuống quít cứu chữa cho vị hạm trưởng đã ngã xuống. Rồi gã lại nhìn qua Silva, bấm ba nút liên tiếp và đưa dụng cụ tai nghe choàng đầu qua cho nàng.
Silva không để ý đến tai nghe. Nàng chỉ nâng ống vi âm lên miệng và bấm nút nói. Khi nàng cất tiếng, tiếng nói của nàng vang lên khắp nơi trên chiến hạm.
“Toàn thể thủy thủ đoàn nghe đây, đây là Trung tá Katherine Elizabeth Silva. Tôi có trách nhiệm đau buồn cho mọi người biết là Đại Tá Bowie bị thương rồi. Ông ấy…” Nàng dừng lời một giây, tìm cách diễn đạt những từ kế tiếp.
Nàng lại bấm nút nói. “Chiếu theo mệnh lệnh chính thức từ Chỉ Huy Trưởng Ban Nhân Sự Hải Quân và chiếu theo lệnh từ miệng của Đại Tá Bowie, kể từ lúc này tôi đảm nhiệm quyền chỉ huy chiếc chiến hạm này.”
Nàng hít vào một hơi và nói tiếp. “Trận đánh này vẫn chưa kết thúc và chúng ta cũng chưa bị loại khỏi vòng chiến. Tôi hoàn toàn có niềm tin với chiến hạm này và với mỗi người nam và nữ trong thủy thủ đoàn. Bây giờ… Chúng ta hãy đứng thẳng dậy và tiến trở vào vòng chiến!”
Nàng thả nút nói ra và đảo mắt quanh phòng. Mọi gương mặt trong phòng hành quân CIC đều hướng về phía nàng. Nàng nhìn thấy khuôn mặt nàng đang tìm và gật đầu với Thượng sĩ Kenfield. “Này, Đồng Ruộng Mênh Mông… Hát cho chúng ta một bài đi nào.”
Mặt gã thủy thủ này bầm dập và đầy máu, nhưng môi gã từ từ hé ra, mỉm cười ngượng ngập. “Có phải là mệnh lệnh không, thưa cô?”
“Chứ còn gì nữa!” Silva nói.
Gã thủy thủ đứng thẳng người hơn, vai căng ra. “Aye-aye, Hạm trưởng!” Gã đằng hắng, hít một hơi đầy buồng phổi và rống to tiếng rống bất khuất của phiến quân (* 44, nguyên bản Rebel yell) quen thuộc của gã.
Chiến hạm đã bị thương. Nhiều thành viên trong phòng hành quân CIC đã chết hay bị thương. Vài đám cháy nhỏ vẫn còn bộc phát ở nhiều nơi trong phòng và viên hạm trưởng Bowie anh dũng và yêu quý đã bị mang ra khỏi phòng trên một chiếc cáng. Nhưng mà mỗi người còn khả năng hoạt động đều phụ họa theo tiếng rống của gã Đồng Ruộng Mênh Mông. Tiếng gào xung trận của phiến quân dường như làm không gian chấn động, biến thành tiếng biểu lộ cho sự kiên quyết, can đảm và thách thức.
Cái này thật sự là không chuyên nghiệp rồi. Thật là ngớ ngẩn. Nhưng thật là tuyệt vời.
Hạm trưởng Silva quét đi vài giọt lệ nơi mắt bằng bàn tay còn nguyên vẹn, nói. “Được rồi, mọi người. Chúng ta hãy xông lên đá mạnh vào đít chúng nào!”
Chú Thích:
(44) Rebel Yell, tương truyền là tiếng gào xung trận của quân đội phản loạn miền Nam trong cuộc nội chiến Nam Bắc của Mỹ, thế kỹ 19. Tiếng gào này nghe nói bắt nguồn từ chiến sĩ da đỏ. Ngày nay, người ta chỉ dùng phiên bản của Hollywood, nghe đại loại như “Diii-Haaa!” hoặc “Diii-Hooo!”. Tuy nhiên, Thư Viện của Quốc Hội Mỹ còn lưu trữ phiên bản được thu âm từ một cựu chiến binh quân đội miền Nam vào năm 1936 lúc ông cụ đã hơn 80 tuổi. Theo phiên bản này, Rebel Yell nghe như “Uuuu.. Huuuu… Uuuu… Huuu…” kéo dài man dại. Phiên bản Hollywood vẫn được sử dụng rộng rãi để bày tỏ niềm phấn khích.
Lưỡi Kiếm Của Thần Shiva Lưỡi Kiếm Của Thần Shiva - Jeff Edwards Lưỡi Kiếm Của Thần Shiva