Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 54
Đ
ó là một ngày cuối Tháng Ba khi mặt trời chiếu sáng nóng ấm và gió
thổi lạnh ngắt; khi thời tiết là mùa hè ngoài nắng và mùa đông trong bóng
râm. Chúng tôi mang theo áo khoác dài, còn tôi cầm theo một cái túi. Trong
tất cả của nả trần tục của mình, tôi chỉ mang theo vài thứ cần thiết đựng trong
túi. Tôi sẽ đi đâu, sẽ làm gì, hay khi nào trở về, là những câu hỏi tôi hoàn
toàn không biết câu trả lời; mà tôi cũng không bận tâm về những câu hỏi này,
vì tất cả đều tập trung vào lo cho an toàn của Provis. Tôi chỉ băn khoăn trong
thoáng chốc, khi dừng lại trên ngưỡng cửa và ngoái lại nhìn, liệu lần tiếp theo
tôi nhìn thấy những căn phòng này sẽ trong hoàn cảnh khác biệt thế nào, nếu
như quả thực còn có lần đó.
Chúng tôi thong thả đi xuống cầu thang từ Temple dẫn xuống sông, rồi
nhẩn nha đứng trên đó, như thể chưa dứt khoát quyết định có xuống sông hay
không. Tất nhiên, tôi đã cẩn thận lo liệu để chiếc thuyền ở trạng thái sẵn sàng
với mọi thứ đâu vào đấy. Sau một màn trình diễn tỏ vẻ ngần ngừ nho nhỏ,
chẳng được ai chứng kiến ngoài hai hay ba sinh vật lưỡng cư vốn thuộc về
cái cầu thang dẫn lên Temple, ba chúng tôi xuống thuyền và rời bến; Herbert
chèo đằng mũi, còn tôi cầm lái. Lúc đó là khoảng thời gian con nước lên cao
nhất - tám giờ rưỡi.
Kế hoạch của chúng tôi như sau. Thủy triều bắt đầu rút từ lúc chín giờ,
và sẽ còn tiếp tục di chuyển cùng chiều với chúng tôi cho tới lúc ba giờ,
chúng tôi dự định sẽ vẫn đi tiếp sau đó, khi thủy triều bắt đầu lên trở lại thì sẽ
chèo ngược con nước cho tới tối. Đến khi đó thì hẳn chúng tôi đã tới chỗ
những khúc sông dài uốn cong ở mạn dưới Gravesend, giữa Kent và Essex,
nơi dòng sông mở rộng và vắng vẻ, nơi có rất ít dân cư sống bên bờ sông, chỉ
thỉnh thoảng có một quán rượu nằm lẻ loi rải rác, chúng tôi có thể chọn một
nơi như thế làm chỗ nghỉ. Chúng tôi dự định nghỉ tại đó cả đêm. Con tàu hơi
nước đi Hamburg và con tàu hơi nước đi Rotterdam sẽ khởi hành từ London
vào khoảng chín giờ sáng thứ Năm. Chúng tôi cần biết phải chờ đón chúng
vào thời gian nào tùy thuộc vào vị trí chúng tôi có mặt, và sẽ đón con tàu đầu
tiên; như vậy, nếu vì lý do nào đó không được lên tàu, chúng tôi vẫn còn một
cơ hội nữa. Chúng tôi đã biết những dấu hiệu nhận biết của mỗi tàu.
Tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm vì cuối cùng cũng bắt tay vào thực
hiện dự định đến mức tôi thấy khó hình dung ra tình trạng của mình chỉ vài
giờ trước đó. Không khí tươi mới, ánh mặt trời, những hoạt động trên sông,
và chính dòng sông đang chuyển động - con đường đang chạy cùng chúng
tôi, dường như đồng cảm với chúng tôi, thúc giục chúng tôi, cổ vũ chúng tôi
tiến tới - giúp tôi khoan khoái với hy vọng mới. Tôi cảm thấy ngại ngùng khi
ít hữu dụng đến thế trên thuyền; nhưng quả là hiếm có tay chèo nào cừ hơn
hai cậu bạn tôi, và họ chèo với nhịp đều đặn chắc chắn kéo dài suốt cả ngày.
Vào thời đó, lượng tàu hơi nước chạy trên sông Thames ít hơn nhiều so
với mức độ hiện tại, và những con thuyền chèo tay có số lượng lớn hơn hẳn.
Số lượng sà lan, tàu chở than chạy buồm và tàu buôn ven biển có lẽ cũng
bằng bây giờ; nhưng số tàu hơi nước, cả lớn lẫn nhỏ, thì chưa bằng một phần
mười hay một phần hai mươi hiện tại. Dù vẫn còn sớm, đã có rất nhiều
thuyền chèo đôi chạy theo đủ hướng sáng hôm ấy, và vô số sà lan đang xuôi
dòng theo thủy triều xuống; việc di chuyển trên sông giữa các cây cầu trên
một con thuyền không mái che là chuyện dễ dàng và phổ biến hơn nhiều vào
thời ấy so với bây giờ; và chúng tôi xuôi dòng giữa rất nhiều thuyền nhẹ và
đò đang nhanh nhẹn lướt đi.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đi quá cầu London cũ, rồi chợ
Billingsgate cũ với những chiếc thuyền đánh bắt hào và những chiếc tàu Hà
Lan, rồi Tháp Trắng và cổng Những Kẻ Phản Nghịch*, và chúng tôi chen vào
giữa dòng tàu thuyền xuôi ngược. Có thể bắt gặp ở đây những chiếc tàu hơi
nước từ Leith*, Aberdeen và Glasgow* đang nhận hàng và dỡ hàng, và trông
cao lừng lững trên mặt nước khi chúng tôi đi qua bên cạnh; chỗ này là hàng
chục chiếc tàu buồm chở than, với phu xúc than lao xuống khỏi bệ trên boong
làm đối trọng cho lượng than được đưa lên và sau đó đổ qua mạn xuống các
sà lan; chỗ này, đang nằm yên thả neo, là con tàu hơi nước ngày mai sẽ khởi
hành đi Rotterdam, chúng tôi để ý quan sát nó thật kỹ; và kia là con tàu ngày
mai đi Hamburg, chúng tôi vừa chèo qua dưới rầm néo buồm ở mũi nó. Và
lúc này tôi, đang ngồi đằng lái, có thể nhìn thấy, với nhịp tim đập nhanh hơn,
Cối Xay Ven Sông và cầu thang từ sông dẫn lên đó.
Cổng đường thủy dẫn vào Tháp London, nơi được dùng làm nhà tù hoàng gia một thời gian dài. Có
nhiều tù nhân bị đưa vào tháp London theo cổng này thời triều đại Tudor, trong đó có hoàng hậu
Anne Boleyn và tể tướng Thomas Moore.
Cảng của Edinburgh, thủ phủ Scotland.
Aberdeen và Glasgow là hai cảng ở Scotland.
“Ông ấy ở đó chưa?” Herbert hỏi.
“Vẫn chưa.”
“Được! Ông ấy không được xuống cho tới khi đã thấy bọn mình. Cậu
có thấy tín hiệu của ông ấy không?”
“Ngồi đây nhìn không rõ lắm; nhưng tớ nghĩ có thấy rồi. - Giờ thì tớ
thấy ông ấy rồi! Dừng chèo, cả hai cậu. Nhẹ nhàng thôi, Herbert. Thu mái
chèo vào!”
Chúng tôi chỉ khẽ chạm vào cầu thang trong khoảnh khắc, và ông
xuống thuyền, rồi chúng tôi lại chèo đi. Ông mang theo một chiếc áo khoác
thủy thủ và một cái túi vải bạt màu đen; và trông ông giống một hoa tiêu trên
sông hết mức mà trái tim tôi có thể ao ước.
“Chàng trai thân mến!” ông nói, quàng cánh tay lên vai tôi trong khi
ngồi xuống. “Chàng trai trung thành, khá lắm. Cảm ơn cậu, cảm ơn cậu!”
Lại len lỏi giữa dòng tàu thuyền, len vào rồi lách ra, tránh những chuỗi
xích hoen gỉ, những bó dây cáp đã sờn bằng sợi lai dầu, những cái phao nổi
bập bềnh, làm chìm xuống trong thoáng chốc những mảnh giỏ vỡ nổi lập lờ,
làm dạt những mảnh lỗ và phoi bào trên mặt nước, tách rời những đám váng
than, chúng tôi đi qua dưới đầu mũi tàu tạc hình John xứ Sunderland đang há
miệng diễn thuyết cho các cơn gió (như nhiều vị John khác cũng từng làm),
Betsy xứ Yarmouth* với khuôn ngực rắn chắc và đôi mắt tròn xoe lồi trợn
trừng nhô ra khỏi đầu đến hai inch; đi qua trước những chiếc búa trong xưởng
đóng tàu, những lưỡi cưa trong xưởng gỗ, những cỗ máy đang nện xuống thứ
gì đó không rõ, những chiếc máy bơm đang vận hành trên những con tàu rò
nước, các trục tời đang hoạt động, những con tàu rời bến hướng ra biển, và
những sinh vật biển không nhận dạng nổi đang gào thét nguyền rủa phía trên
các thành tàu và những chiếc xuồng, qua tất cả - để rồi cuối cùng tới quãng
sông thưa vắng hơn, nơi thủy thủ trên các tàu có thể cất các đệm chắn vào,
không còn phải luồn lách trên vùng nước đông nghịt với chúng hai bên thành
tàu, nơi những cánh buồm xếp hờ lại có thể căng ra đón gió.
John và Betsy là tên hai con tàu. Tàu John đăng ký ở Sunderland còn Betsy ở Yarmouth.
Từ chỗ cầu thang nơi chúng tôi đón ông lên thuyền trở đi, tôi đã cảnh
giác nhìn quanh tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào cho thấy chúng tôi bị nghi ngờ.
Tôi không hề thấy gì. Chắc chắn lúc trước chúng tôi đã không bị, và vào lúc
này cũng chắc chắn như vậy không hề bị bất cứ chiếc thuyền nào để ý hay
bám theo. Nếu có bất cứ chiếc thuyền nào chờ sẵn chúng tôi, chắc chắn tôi đã
lái thuyền vào bờ và buộc nó phải đi tiếp hay bộc lộ ý định của mình. Nhưng
chúng tôi vẫn được bình yên di chuyển không gặp phải sự phiền nhiễu nào.
Ông đã mặc chiếc áo khoác thủy thủ, và như tôi nói lúc trước, trông có
vẻ như một phần tự nhiên của khung cảnh. Điều đáng chú ý (nhưng có lẽ
cuộc sống cùng khổ ông phải trải qua chính là lý do tạo ra điều đó) là ông lại
có vẻ ít lo lắng hơn bất cứ ai trong ba chúng tôi. Ông không hề dửng dưng, vì
ông có nói với tôi hy vọng được sống để thấy quý ông của ông trở thành một
trong những quý ông cao sang nhất ở một quốc gia ngoại quốc; theo như tôi
hiểu, ông không định sẽ bị động buông xuôi; song ông không hề có khái niệm
về chuyện đón nhận hiểm nguy khi mới đi được nửa đường. Khi nó tới trước
mặt ông, ông sẽ đối đầu với nó, nhưng nó cần phải tới đã, trước khi ông nhọc
công lo nghĩ.
“Chàng trai thân mến, nếu cậu biết,” ông nói với tôi, “cảm giác được
ngồi ở đây bên chàng trai thân mến của tôi và hút thuốc sau từng ấy ngày liên
tục bị giam giữa bốn bức tường là thế nào, chắc cậu sẽ ghen tị với tôi. Nhưng
cậu không thể biết nó là thế nào.”
“Tôi nghĩ tôi biết niềm vui của tự do,” tôi trả lời.
“À,” Provis nói, nghiêm nghị lắc đầu. “Nhưng cậu không thể biết rõ
bằng tôi. Chàng trai thân mến, cậu cần phải trải qua cảnh nằm sau song sắt và
ổ khóa để biết nó rõ bằng tôi - nhưng tôi sẽ không tỏ ra thấp kém đâu.”
Tôi cảm thấy thật mâu thuẫn khi vì bất cứ ý tưởng nhất quán nào đó,
ông lại có thể đặt tự do, thậm chí cả tính mạng của mình vào vòng nguy
hiểm. Nhưng tôi chợt nghĩ có lẽ tự do không kèm hiểm nguy là thứ gì đó quá
xa lạ với cuộc sống thực ông đã trải qua nên không thể có ý nghĩa giống như
với ai khác. Tôi đoán cũng không sai là mấy, vì sau một lát hút thuốc, ông
nói:
“Cậu thấy đấy, chàng trai thân mến, khi tôi còn ở nơi đó, ở đầu kia thế
giới, tôi luôn mong ngóng về đầu này; thật tẻ nhạt khi phải sống ở đó, bất
chấp chuyện tôi đã trở nên giàu có. Tất cả mọi người biết Magwitch, và
Magwitch có thể tới, Magwitch có thể đi, mà không ai phải đau đầu vì anh ta.
Người ta không dễ dãi đến thế với tôi ở đây, chàng trai thân mến - và chí ít sẽ
không thể như thế nếu họ biết tôi đã ở đâu.”
“Nếu tất cả suôn sẻ,” tôi nói, “ông sẽ lại hoàn toàn tự do và an toàn sau
vài giờ nữa.”
“Được,” ông đáp lại, hít một hơi thật dài, “tôi hy vọng là thế.”
“Và nghĩ vậy?”
Ông đưa tay qua mạn thuyền nhúng bàn tay xuống nước rồi nói, đồng
thời mỉm cười với vẻ hiền hậu không còn mới mẻ với tôi:
“À, tôi đoán là tôi nghĩ vậy, chàng trai thân mến. Chúng ta khó lòng có
thể yên tĩnh và thoải mái hơn vào lúc này được. Nhưng - có nẽ đây là một
dòng chảy quá nhẹ nhàng và thư thái, theo như tôi thấy - tôi vừa nghĩ trong
khi hút thuốc là chúng ta cũng khó nhìn thấy trước được vài giờ tới chẳng
kém gì nhìn thấy đáy dòng sông tôi vừa lùa tay xuống. Chúng ta cũng không
thể nắm giữ được con nước của nó nhiều hơn mức tôi có thể nắm được chỗ
nước này. Và nó đang chảy qua các ngón tay tôi và biến mất, cậu thấy đấy!”
và ông giơ bàn tay nước đang nhỏ giọt lên.
“Nếu không nhìn vẻ mặt ông, tôi cứ nghĩ ông đang hơi nản lòng,” tôi
nói.
“Không hề, chàng trai thân mến! Nó xuất phát từ dòng nước quá bình
yên, và tiếng rẽ nước ở mũi thuyền tạo ra một thứ âm thanh êm dịu như nhạc
lễ ngày Chủ nhật vậy. Ngoài ra có lẽ tôi cũng đã hơi già quá rồi.”
Ông đưa cái tẩu trở lại lên miệng, vẻ mặt không chút xao động, ngồi đó
hoàn toàn bình thản và hài lòng như thể chúng tôi đã ra khỏi nước Anh. Thế
nhưng ông luôn sẵn sàng tuân theo một lời khuyên như thể đã ở trong sự kinh
hoàng thường trực; vì khi chúng tôi tạt vào bờ để lấy vài chai bia mang xuống
thuyền và ông dợm bước ra, tôi ngỏ ý là tôi nghĩ ông sẽ an toàn nhất nếu ở lại
chỗ đang ngồi, và ông nói, “Cậu nghĩ vậy sao, chàng trai thân mến?” và lặng
lẽ ngồi xuống.
Không khí trên sông khá lạnh, song hôm đó là một ngày rạng rỡ, ánh
nắng thật tươi vui. Thủy triều rút xuống thật nhanh, tôi cẩn thận để ý để
không lỡ mất chút nào, và những nhịp chèo đều đặn đưa chúng tôi tiến lên rất
chóng vánh. Dần dà, theo mức độ khó lòng nhận ra được, khi con nước
xuống, chúng tôi ngày càng xa dần các khoảng rừng và ngọn đồi lân cận, và
ngày càng tiến sâu vào giữa hai bên bờ sông đầy bùn lầy, song thủy triều vẫn
rút cùng chiều với chúng tôi khi chúng tôi đi quá Gravesend, trong lúc vị
khách của chúng tôi quấn kín người trong chiếc áo choàng, tôi cố ý lái thuyền
đi qua cách trạm Hải Quan nổi chừng một đến hai thân thuyền, và cách đủ xa
để đón được dòng chảy cùng hai con tàu chở người di cư và dưới mũi một
chiếc tàu vận tải lớn với những người lính đứng trên boong trước nhìn xuống
chúng tôi. Ngay khi thủy triều bắt đầu chững lại, những chiếc tàu đang thả
neo bắt đầu đu đưa, rồi lập tức tất cả chúng đều dập dềnh lắc lư, còn những
chiếc tàu muốn tận dụng đợt triều lên mới để đi lên thượng lưu bắt đầu đổ
dồn thật đông về phía chúng tôi, chúng tôi cố đi thuyền sát bờ, tránh xa vùng
thủy triều lên mạnh hết mức có thể, đồng thời cẩn thận tránh những dải cát
ngầm và các bãi bùn ven bờ.
Hai tay chèo của chúng tôi vẫn còn khỏe, nhờ thỉnh thoảng để mặc cho
chiếc thuyền trôi theo dòng thủy triều trong một hay hai phút, do đó thời gian
mười lăm phút tạm nghỉ chứng tỏ vừa đủ mức hai cậu mong muốn. Chúng tôi
ghé vào bờ giữa mấy tảng đá trơn trượt trong lúc ăn uống với những món đồ
mang theo, đồng thời quan sát xung quanh. Nơi này cũng giống vùng quê
đồng lầy của tôi, bằng phẳng và đơn điệu, với một đường chân trời ủ rũ; trong
khi dòng sông uốn khúc cứ trôi, còn những cái phao nổi to trên sông không
ngừng chuyển động theo, mọi thứ khác dường như đứng im lặng lẽ. Vì lúc
này những chiếc tàu cuối cùng đã vòng ra khuất sau chỗ thấp cuối cùng
chúng tôi đi qua; và chiếc sà lan màu lục cuối cùng chở đầy rơm với một
cánh buồm nâu cũng đã theo sau; và một vài sà lan chở đồ dằn tàu, có hình
dạng như sự bắt chước vụng về đầu tiên của một đứa trẻ khi tạo ra một cái
thuyền, nằm ngập trong bùn; và một nhà đèn nhỏ thấp bè báo hiệu có bãi cát
ngầm dựng trên cọc trần, đứng xiêu vẹo trên mặt bùn dựa vào các cọc và xà
chống; những cây cọc trơn nhẫy nhô lên khỏi bùn, những tảng đá nhầy nhụa
ngoi lên khỏi bùn, những mốc bờ và mốc thủy triều đỏ quạch nhô ra khỏi
bùn, và một bến thuyền cũ cùng một tòa nhà cũ không còn mái đang sụp dần
xuống bùn, mọi thứ quanh chúng tôi chỉ là tù đọng và bùn sình.
Chúng tôi lại chèo đi, và đi thêm xa nhất có thể. Việc chèo thuyền giờ
đây trở nên khó nhọc hơn, song Herbert và Startop vẫn kiên trì, miệt mài
chèo, chèo mãi cho tới khi mặt trời xuống thấp. Đến lúc ấy, dòng sông đã
nâng chúng tôi lên một chút, vì vậy chúng tôi có thể nhìn quá bờ sông. Có thể
thấy mặt trời đỏ ối, hạ xuống sát bờ, giữa một quầng mờ mờ đỏ tím đang
nhanh chóng thẫm dần thành màu đen; và vẫn còn đó đầm lầy bằng phẳng; và
ngoài xa là nền đất nhô cao lên, giữa chúng và chúng tôi dường như không có
chút sự sống nào, ngoài một con mòng ủ dột thỉnh thoảng xuất hiện trên tiền
cảnh.
Vì màn đêm đang nhanh chóng buông xuống, còn mặt trăng, đã quá kỳ
tròn, sẽ không mọc sớm, chúng tôi liền cùng bàn bạc một chút; chỉ rất ngắn,
vì rõ ràng lựa chọn của chúng tôi là nghỉ lại ở tửu quán nằm đơn độc đầu tiên
chúng tôi có thể tìm thấy. Vậy là hai người chèo thuyền lại một lần nữa ra sức
chèo, còn tôi nhìn quanh tìm kiếm bất cứ thứ gì trông giống một ngôi nhà.
Chúng tôi cứ thế đi tiếp, không nói gì nhiều, thêm bốn hay năm dặm tẻ ngắt
nữa. Trời rất lạnh, và một con tàu chở than chạy qua sát bên chúng tôi, ánh
lửa trên khoang tỏa sáng và bốc khói, trông giống như một ngôi nhà ấm áp.
Lúc này màn đêm đã tối đen cho tới sáng; và nguồn sáng chúng tôi có được
dường như tới từ trên sông hơn là từ bầu trời, khi những mái chèo khỏa
xuống nước chỉ chạm phải hình phản chiếu của vài vì sao lác đác.
Vào thời điểm ảm đạm này, tất cả chúng tôi tất nhiên đều bị ám ảnh bởi
ý tưởng đang bị bám theo. Trong lúc thủy triều lên, dòng nước thỉnh thoảng
lại đập vào bờ không theo quy luật đều đặn nào; và mỗi khi một âm thanh
như thế vang lên, người này hay người khác trong chúng tôi chắc chắn sẽ giật
mình nhìn về nước quá bình yên, và tiếng rẽ nước ở mũi thuyền tạo ra một
thứ âm thanh êm dịu như nhạc lễ ngày Chủ nhật vậy. Ngoài ra có lẽ tôi cũng
đã hơi già quá rồi.”
Ông đưa cái tẩu trở lại lên miệng, vẻ mặt không chút xao động, ngồi đó
hoàn toàn bình thản và hài lòng như thể chúng tôi đã ra khỏi nước Anh. Thế
nhưng ông luôn sẵn sàng tuân theo một lời khuyên như thể đã ở trong sự kinh
hoàng thường trực; vì khi chúng tôi tạt vào bờ để lấy vài chai bia mang xuống
thuyền và ông dợm bước ra, tôi ngỏ ý là tôi nghĩ ông sẽ an toàn nhất nếu ở lại
chỗ đang ngồi, và ông nói, “Cậu nghĩ vậy sao, chàng trai thân mến?” và lặng
lẽ ngồi xuống.
Không khí trên sông khá lạnh, song hôm đó là một ngày rạng rỡ, ánh
nắng thật tươi vui. Thủy triều rút xuống thật nhanh, tôi cẩn thận để ý để
không lỡ mất chút nào, và những nhịp chèo đều đặn đưa chúng tôi tiến lên rất
chóng vánh. Dần dà, theo mức độ khó lòng nhận ra được, khi con nước
xuống, chúng tôi ngày càng xa dần các khoảng rừng và ngọn đồi lân cận, và
ngày càng tiến sâu vào giữa hai bên bờ sông đầy bùn lầy, song thủy triều vẫn
rút cùng chiều với chúng tôi khi chúng tôi đi quá Gravesend, trong lúc vị
khách của chúng tôi quấn kín người trong chiếc áo choàng, tôi cố ý lái thuyền
đi qua cách trạm Hải Quan nổi chừng một đến hai thân thuyền, và cách đủ xa
để đón được dòng chảy cùng hai con tàu chở người di cư và dưới mũi một
chiếc tàu vận tải lớn với những người lính đứng trên boong trước nhìn xuống
chúng tôi. Ngay khi thủy triều bắt đầu chững lại, những chiếc tàu đang thả
neo bắt đầu đu đưa, rồi lập tức tất cả chúng đều dập dềnh lắc lư, còn những
chiếc tàu muốn tận dụng đợt triều lên mới để đi lên thượng lưu bắt đầu đổ
dồn thật đông về phía chúng tôi, chúng tôi cố đi thuyền sát bờ, tránh xa vùng
thủy triều lên mạnh hết mức có thể, đồng thời cẩn thận tránh những dải cát
ngầm và các bãi bùn ven bờ.
Hai tay chèo của chúng tôi vẫn còn khỏe, nhờ thỉnh thoảng để mặc cho
chiếc thuyền trôi theo dòng thủy triều trong một hay hai phút, do đó thời gian
mười lăm phút tạm nghỉ chứng tỏ vừa đủ mức hai cậu mong muốn. Chúng tôi
ghé vào bờ giữa mấy tảng đá trơn trượt trong lúc ăn uống với những món đồ
mang theo, đồng thời quan sát xung quanh. Nơi này cũng giống vùng quê
đồng lầy của tôi, bằng phẳng và đơn điệu, với một đường chân trời ủ rũ; trong
khi dòng sông uốn khúc cứ trôi, còn những cái phao nổi to trên sông không
ngừng chuyển động theo, mọi thứ khác dường như đứng im lặng lẽ. Vì lúc
này những chiếc tàu hướng đó. Đôi chỗ, dòng chảy đã khoét vào bờ sông tạo
thành một cái vũng nhỏ, và tất cả chúng tôi đều cảnh giác với những chỗ như
thế, và quan sát chúng đầy lo lắng. Thỉnh thoảng, một trong số chúng tôi lại
khẽ nói, “Cái gì đang gợn lên thế nhỉ?” Hay một người khác, “Đằng kia có
phải là một chiếc thuyền không?”
Và sau đó, chúng tôi liền rơi vào sự im lặng nặng nề, và tôi sẽ ngồi bồn
chồn nghĩ những chiếc mái chèo chợt trở nên ầm ĩ khác thường khi cọ vào
giá tựa của chúng.
Cuối cùng, chúng tôi nhìn thấy ánh đèn và một mái nhà, và ngay sau đó
chạy thuyền dọc theo một bến thuyền nhỏ xếp bằng những tảng đá được nhặt
về từ ngay quanh đó. Để ba người còn lại trên thuyền, tôi bước lên bờ, và
nhận ra ánh sáng xuất phát từ cửa sổ của một quán rượu. Đây là một nơi khá
nhem nhuốc bẩn thỉu, và tôi dám chắc chẳng xa lạ gì với những kẻ giang hồ
du đãng; nhưng trong bếp đang có một bếp lửa cháy rực, có trứng và thịt
muối để ăn, và nhiều loại rượu để uống. Nơi này cũng có hai phòng ngủ kê
hai giường - “chỉ có vậy thôi,” ông chủ nhà nói. Trong quán chẳng còn ai
ngoài ông chủ, vợ ông ta, và một gã tóc muối tiêu, người gác bến thuyền nhỏ,
nhớp nháp bẩn thỉu như thể ông ta cũng từng là mốc đánh dấu thủy triều
xuống.
Với người trợ giúp này, tôi lại quay xuống thuyền, và tất cả chúng tôi
cùng lên bờ, mang theo mái chèo, đuôi lái và sào móc kéo thuyền cùng tất cả
các món đồ khác, và kéo thuyền lên cạn để qua đêm. Chúng tôi ăn một bữa
ngon lành bên bếp lửa, rồi chia nhau vào các phòng ngủ: Herbert và Startop
dùng một phòng, tôi và Provis dùng phòng còn lại. Chúng tôi thấy không khí
trong cả hai phòng đều đã được cẩn thận cách ly kỹ lưỡng với bên ngoài, như
thể không khí nguy hiểm chết chóc cho sự sống vậy; và dưới gầm giường có
nhiều quần áo bẩn và hộp bìa cứng hơn số lượng tôi có thể nghĩ gia đình chủ
nhà sở hữu. Nhưng dẫu vậy, chúng tôi vẫn tự coi mình may mắn, vì chúng tôi
không thể tìm được chỗ nào hẻo lánh hơn thế.
Trong lúc chúng tôi đang thoải mái ngồi sưởi bên bếp lửa sau bữa ăn,
người gác bến thuyền - lúc ấy đang ngồi trong góc và đang đi cái đôi giày to
tướng mà vừa xong trong lúc chúng tôi ăn phần trứng và thịt muối của mình
ông ta đã trưng ra như những hiện vật thú vị kiếm được từ chân một thủy thủ
chết đuối dạt vào bờ - hỏi tôi xem chúng tôi có thấy một chiếc thuyền bốn
mái chèo đi ngược lên theo thủy triều không? Khi tôi trả lời là không, ông ta
nói chắc hẳn lúc ấy chiếc thuyền nọ đang đi xuôi xuống hạ lưu, nhưng rồi
“cũng bị thủy triều kéo ngược lên” khi rời bến.
“Chắc hẳn họ đã đổi ý vì lý do nào đó,” người gác bến thuyền nói, “và
đi xuôi xuống.”
“Ông nói là một chiếc thuyền bốn mái chèo phải không?” tôi hỏi.
“Một chiếc bốn chèo,” người gác bến thuyền nói, “và hai người ngồi
không.”
“Họ có lên bờ ở đây không?”
“Chúng ghé vào, mang theo một cái bình đá hai gallon để mua ít bia.
Tôi hẳn đã rất vui nếu được tự mình đầu độc chỗ bia ấy,” người gác bến nói,
“hay bỏ vào đó thứ gì đấy thật dữ.”
“Vì sao?”
“Tôi biết vì sao,” người gác bến nói. Ông ta nói bằng thứ giọng ọc ạch
như thể đã bị không ít bùn chui vào trong cổ họng.
“Ông ấy cho rằng,” ông chủ nhà lên tiếng, đó là một người đàn ông
trầm ngâm yếu đuối với một mắt nhạt màu, và dường như tin cậy người gác
bến của mình rất nhiều, “ông ấy cho rằng họ là thứ người giả mạo.”
“Tôi biết tôi nghĩ gì,” người gác bến nhận xét.
“Ông nghĩ họ là hải quan chứ gì, Jack?” ông chủ nhà nói.
“Đúng thế,” người gác bến đáp.
“Vậy ông nhầm to rồi, Jack.”
“TÔI Ư!”
Cùng ý nghĩa bất định của câu trả lời ấy và sự tự tin vô biên vào quan
điểm của mình, người gác bến tháo một chiếc giày to tướng đang đi ra, nhòm
vào bên trong nó, gõ vài viên đá từ trong đó rơi xuống sàn bếp, rồi lại xỏ vào
chân. Ông ta làm vậy với bộ dạng của một kẻ thấy mình quá có lý tới mức có
thể cho phép mình làm bất cứ điều gì.
“Ồ, vậy theo ông bọn họ đã làm gì với những cái cúc áo* của mình hả,
Jack?” ông chủ nhà hỏi, hơi khẽ lắc lư người.
Đồng phục của nhân viên hải quan thời đó có cúc áo đặc trưng.
“Làm gì với cúc áo của bọn chúng à?” người gác bến vặn lại. “Ném
suống sông. Nuốt tửng. Reo chúng xuống đất để thu lấy những cây xà lách bé
tẹo. Làm gì với cúc áo của chúng!”
“Đừng có sửng cồ lên thế chứ, Jack,” ông chủ nhà quở trách với thái độ
phiền muộn thống thiết.
“Một tay nhân viên hải quan biết phải làm gì với cúc áo của hắn,”
người gác bến nói, nhắc lại cái từ đáng tởm kia với sự khinh bỉ tột bậc, “khi
chúng gây trở ngại cho hắn. Bốn tay chèo và hai kẻ ngồi thuyền sẽ không lởn
vởn lượn qua lượn lại, ngược lên với một đợt thủy triều rồi xuôi xuống theo
đợt thủy triều khác, cả thuận chiều hay ngược chiều, mà lại không dính dáng
gì đến hải quan.” Nói xong, ông ta khinh khỉnh bỏ ra ngoài; còn ông chủ nhà,
không còn ai để trả lời, cảm thấy không thể tiếp tục theo đuổi chủ đề nọ được
nữa.
Cuộc trò chuyện làm tất cả chúng tôi bất an, và riêng tôi thì cực kỳ bất
an. Cơn gió não nề đang rì rầm quanh ngôi nhà, thủy triều đang vỗ vào bờ
sông, và tôi có cảm giác chúng tôi đang bị nhốt trong lồng và bị đe dọa. Một
chiếc thuyền bốn mái chèo rình rập quanh đây theo cách thức bất thường đến
nỗi gây chú ý như vậy quả là một tình tiết tồi tệ tôi không tài nào rũ bỏ được.
Khi đã thúc được Provis lên giường nghỉ, tôi cùng hai người bạn ra ngoài
(đến lúc này Startop đã biết rõ tình hình của sự việc) và bàn bạc một lần nữa.
Liệu chúng tôi nên lưu lại đây tới tận gần thời điểm tàu hơi nước đến, nghĩa
là khoảng một giờ chiều, hay chúng tôi nên rời bờ từ sáng sớm là câu hỏi
được chúng tôi bàn đến. Tựu trung lại, chúng tôi cho rằng lựa chọn hay hơn
là lặng im nán lại đây cho tới khoảng một giờ trước khi tàu hơi nước chạy
qua, sau đó rời bờ chèo đi theo sau nó, và dễ dàng dạt theo thủy triều. Quyết
định sẽ làm theo cách này xong, chúng tôi trở vào nhà lên giường ngủ.
Tôi nằm xuống với hầu hết quần áo mặc nguyên trên người, và ngủ yên
trong vài giờ. Khi tôi bừng tỉnh, gió đã nổi to, và biển hiệu của quán (hình
Con tàu) đang kêu cọt kẹt đập qua đập lại, làm phát ra những tiếng động làm
tôi giật mình. Nhẹ nhàng ngồi dậy, vì Provis vẫn đang nằm ngủ say, tôi nhìn
ra ngoài cửa sổ. Nó trông ra bến thuyền nơi chúng tôi đã kéo con thuyền của
mình lên, và khi đôi mắt tôi dần quen với ánh sáng của mặt trăng bị mây che,
tôi nhìn thấy hai người đang nhìn vào trong thuyền. Họ đi qua dưới cửa sổ,
không nhìn vào thứ gì khác, và họ không đi xuống lối dẫn ra bờ sông, nơi tôi
có thể thấy vắng tanh, mà băng qua đầm lầy về phía Nore*.
Bãi cát ở cửa sông Thames, nơi sông Thames đổ ra biển Bắc.
Phản ứng đầu tiên của tôi là định gọi Herbert dậy, chỉ cho cậu thấy hai
người đang rời đi. Nhưng vì nghĩ lại trước khi tới được chỗ phòng cậu, căn
phòng nằm ở sau nhà và kề sát phòng tôi, là cậu cùng Startop đã có một ngày
vất vả hơn tôi nhiều và đang rất mệt, tôi liền bỏ ý định này. Quay trở lại cửa
sổ phòng mình, tôi có thể thấy hai người kia đi trên đầm lầy. Tuy nhiên, trong
điều kiện ánh sáng như lúc đó, tôi nhanh chóng mất dấu họ, và cảm thấy rất
lạnh, tôi liền nằm xuống ngẫm nghĩ về việc vừa xảy ra rồi lại ngủ thiếp đi.
Chúng tôi thức dậy sớm. Trong lúc cả bốn người chúng tôi cùng đi tới
đi lui trước bữa sáng, tôi nghĩ tốt nhất nên kể lại những gì đã thấy. Một lần
nữa, người chúng tôi che chở lại là người ít lo lắng nhất. Rất có thể mấy
người nọ là người của Hải Quan thật, ông bình thản khẽ nói, và họ không bận
tâm gì đến chúng tôi đâu. Tôi tự thuyết phục mình rằng đúng là như vậy - vì
thực ra cũng dễ là thế. Tuy nhiên, tôi đề nghị là ông và tôi sẽ đi bộ cùng nhau
tới một chỗ ngoài xa chúng tôi có thể trông thấy, và chiếc thuyền sẽ đón
chúng tôi tại đó, hoặc gần chỗ đó nhất có thể được, vào khoảng giữa trưa.
Cách này được coi là một biện pháp thận trọng hợp lý, và không lâu sau bữa
sáng Provis cùng tôi lên đường mà không nói gì ở quán rượu.
Ông hút tẩu thuốc trong lúc chúng tôi bước đi, thỉnh thoảng lại dừng
bước để siết vai tôi. Người khác chắc sẽ đoán tôi mới là kẻ đang gặp nguy
hiểm chứ không phải ông, và ông đang trấn an tôi. Chúng tôi nói rất ít. Khi
chúng tôi tới gần điểm định trước, tôi khẩn khoản đề nghị ông nán lại ở một
chỗ kín đáo, trong khi tôi đi trước dò xét; vì hai người bí ẩn đã đi theo hướng
này lúc đêm.
Ông đồng ý, và tôi tiếp tục đi một mình. Ở ngoài sông tại địa điểm đó
không có chiếc thuyền nào, cũng không có bất cứ chiếc thuyền nào neo gần
đó, và chẳng hề có bất cứ dấu vết nào là hai người kia từng lên bờ tại đó.
Nhưng tất nhiên lúc này nước triều đang lên cao, và rất có thể còn một số dấu
chân chìm dưới nước.
Khi Provis nhìn ra từ chỗ ẩn mình ngoài xa và thấy tôi đang vẫy mũ ra
hiệu bảo ông tới, ông liền đến chỗ tôi, và chúng tôi cùng đợi ở đó; khi thì
nằm xuống bờ sông, quấn mình trong áo khoác, khi thì đi đi lại lại cho ấm
người, cho tới khi thấy chiếc thuyền của chúng tôi chèo đến. Chúng tôi dễ
dàng lên thuyền, chèo ra tìm chiếc tàu hơi nước. Lúc đó đã là một giờ kém
mười, và chúng tôi bắt đầu nhìn quanh tìm kiếm làn khói của nó.
Nhưng phải quá một giờ rưỡi chúng tôi mới nhìn thấy khói của chiếc
tàu, và chẳng bao lâu sau thấy đằng sau nó làn khói của một chiếc tàu hơi
nước khác. Trong khi chúng đang chạy lại hết tốc độ, chúng tôi chuẩn bị sẵn
sàng hai chiếc túi, và nhân lúc đó nói lời chia tay với Herbert và Startop. Tất
cả chúng tôi cùng bắt tay nhau thật chân thành, và cả mắt tôi lẫn mắt Herbert
đều không được khô cho lắm, khi tôi thấy một chiếc thuyền bốn mái chèo từ
bờ lao vụt ra chỉ cách chúng tôi một quãng ngắn phía trước, và chèo theo
cùng hướng.
Cho tới lúc này, chúng tôi vẫn còn cách làn khói của chiếc tàu hơi nước
một quãng bờ sông, do khúc uốn cong của dòng sông và gió thổi trên sông;
nhưng lúc này đã có thể thấy rõ chiếc tàu đang tiến lại. Tôi gọi Herbert và
Startop giữ vững vị trí của chúng tôi trước thủy triều, để chiếc tàu có thể thấy
chúng tôi đang đứng yên đợi nó, và tôi đề nghị Provis ngồi yên, khoác áo
choàng kín người. Ông vui vẻ trả lời, “Hãy tin tôi, chàng trai thân mến” và
ngồi im như tượng. Trong lúc đó, chiếc thuyền bốn mái chèo, được điều
khiển rất khéo léo, đã chèo ngang qua trước chúng tôi, để chúng tôi tới chỗ
nó, rồi áp sát bên mạn. Để chừa lại vừa đủ khoảng trống cho mái chèo hoạt
động, nó tiếp tục nằm song song với chúng tôi, thả trôi khi chúng tôi thả trôi,
và chèo một hai nhịp khi chúng tôi chèo một hai nhịp. Trong số hai người
không chèo thuyền, một người giữ đuôi lái, nhìn chúng tôi chăm chú - cũng
hệt như tất cả các tay chèo; người không chèo thuyền nọ cũng khoác áo
choàng kín người tương tự như Provis, và dường như đang co rúm người lại,
thì thầm chỉ dẫn gì đó với người cầm lái trong khi nhìn chúng tôi. Trên cả hai
chiếc thuyền, không ai nói tiếng nào.
Sau vài phút, Startop có thể nhận ra chiếc tàu hơi nước thứ nhất là tàu
nào, và nói với tôi “Hamburg” bằng giọng rất khẽ, vì chúng tôi đang ngồi đối
diện nhau. Chiếc tàu tiến lại gần chúng tôi rất nhanh, và tiếng những chiếc
guồng của nó đập nước vang lên mỗi lúc một to hơn. Tôi cảm thấy như thể
bóng chiếc tàu đã hoàn toàn trùm lên chúng tôi thì chiếc thuyền kia gọi chúng
tôi. Tôi trả lời.
“Các người có một kẻ lưu đày trốn về nước bên đó,” người đàn ông giữ
đuôi lái nói. “Đó chính là kẻ đang khoác áo choàng kín người. Tên hắn là
Abel Magwitch, hay còn gọi là Provis. Tôi biết rõ hắn, và kêu gọi hắn đầu
hàng, còn các người hãy hợp tác.”
Cùng lúc đó, không hề đưa ra chỉ dẫn nào có thể nghe rõ cho thủy thủ
đoàn của mình, ông ta lái chiếc thuyền cập mạn chúng tôi. Họ đã chèo dấn
lên phía trước một nhịp thật đột ngột, thu mái chèo lại, lao chéo góc tới chặn
đường chúng tôi và kề sát vào mạn chúng tôi trước khi chúng tôi biết họ đang
làm gì. Sự việc gây xôn xao lớn trên boong chiếc tàu hơi nước, và tôi nghe
thấy họ gọi chúng tôi, nghe thấy những lời yêu cầu ngừng guồng lại, rồi nghe
thấy chúng ngừng hoạt động, song vẫn cảm thấy chiếc tàu lao tới ập xuống
chúng tôi không gì cản nổi. Cùng lúc, tôi thấy người cầm lái chiếc thuyền kia
chộp tay lên vai người tù của ông ta, và cả hai chiếc thuyền xoay tròn theo
sức đẩy của thủy triều, và thấy tất cả thủy thủ trên boong chiếc tàu hơi nước
đang chạy về phía mũi tàu khá hối hả. Song cũng cùng trong khoảnh khắc đó,
tôi nhìn thấy người tù đứng bật dậy, cúi xuống chuồi qua người bắt giữ mình,
và giật lấy cổ áo choàng của kẻ đang ngồi thu mình trong lòng thuyền. Cũng
trong khoảnh khắc ấy, tôi thấy khuôn mặt người nọ lộ ra, đó là khuôn mặt kẻ
đào tẩu còn lại ngày xưa. Không những thế, vào khoảnh khắc đó, tôi thấy
khuôn mặt này ngật ra sau choáng váng, trắng bệch ra với vẻ kinh hoàng tôi
sẽ không bao giờ quên được, và nghe thấy một tiếng la lớn trên boong chiếc
tàu hơi nước, một tiếng ùm thật lớn trên mặt nước, và cảm thấy chiếc thuyền
đang chìm xuống bên dưới mình.
Chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi dường như phải vật lộn với
cả nghìn trục cối xay và cả nghìn chớp sáng chói lòa; khoảnh khắc đó trôi
qua, tôi được kéo lên chiếc thuyền bốn mái chèo. Herbert đã ở trên đó,
Startop cũng thế; nhưng thuyền của chúng tôi đã chìm, và hai kẻ đào tẩu ngày
trước đã biến mất.
Với những tiếng la hét trên boong chiếc tàu hơi nước, tiếng hơi nước
của nó xả ra phì phì dữ dội, cùng với chuyển động của chiếc tàu và của chúng
tôi, thoạt đầu tôi không thể phân biệt được đâu là trời đâu là nước, đâu là bờ
bên này đâu là bờ bên kia; nhưng thủy thủ đã nhanh chóng cho thuyền thẳng
hướng, và sau khi chèo mạnh vài nhịp lên trước, dừng chèo lại, mỗi người
đều im lặng chăm chú quan sát mặt nước đằng sau. Ngay sau đó, một vật thể
sẫm màu hiện ra trên mặt nước, đang nương theo thủy triều di chuyển về phía
chúng tôi. Không ai lên tiếng, nhưng người cầm lái giơ tay lên, và tất cả tay
chèo cùng nhẹ nhàng chèo lui lại, giữ cho chiếc thuyền đi thẳng tới chỗ vật
thể nọ. Khi nó lại gần hơn, tôi nhận ra đó là Magwitch, đang bơi, nhưng
không phải một cách tự do. Ông được kéo lên thuyền và ngay lập tức bị còng
ở cổ tay và cổ chân.
Chiếc thuyền được giữ đứng yên, và cuộc tìm kiếm im lặng, chăm chú
trên mặt nước lại tiếp tục. Song lúc này chiếc tàu hơi nước đi Rotterdam đang
tới, và có vẻ không hiểu chuyện gì xảy ra, nó chạy tới rất nhanh. Khi nó được
gọi và dừng lại, cả hai chiếc tàu hơi nước đều thả trôi xa dần khỏi chúng tôi,
còn chúng tôi dập dềnh lên xuống trong vùng đuôi nước nhiễu động. Cuộc
tìm kiếm tiếp tục cho đến rất lâu sau khi mặt nước đã lặng trở lại, còn hai
chiếc tàu đã đi khuất; song tất cả đều biết bây giờ nó đã trở thành vô vọng.
Cuối cùng, chúng tôi bỏ cuộc, ghé vào sát bờ, hướng tới chỗ quán rượu
chúng tôi mới rời khỏi trước đó không lâu, nơi chúng tôi được đón tiếp với vẻ
ngạc nhiên không ít. Tại đây, tôi có thể chăm sóc ít nhiều cho Magwitch - giờ
đây không còn Provis nữa - người đã bị mấy vết thương rất nặng trên ngực và
một vết rách sâu trên đầu.
Ông cho tôi hay ông tin mình đã chui qua bên dưới đáy chiếc tàu hơi
nước, và bị đập vào đầu khi nổi lên. Vết thương trên ngực (khiến cho việc hô
hấp của ông trở nên cực kỳ đau đớn) ông nghĩ đã bị khi va vào thành chiếc
thuyền bốn mái chèo. Ông nói thêm ông không giả bộ gì về chuyện đã làm
hay không làm gì với Compeyson, ngoài việc vào khoảnh khắc ông đưa tay
chộp lấy áo choàng của hắn để nhận diện hắn, tên đê tiện đã loạng choạng
đứng dậy và loạng choạng lùi lại, rồi cả hai người họ cùng ngã lộn ra khỏi
thuyền, lúc ấy việc ông (Magwitch) đột ngột bị lôi khỏi thuyền chúng tôi,
cũng như cố gắng của người bắt giữ ông nhằm níu ông lại trên thuyền đã
khiến chúng tôi bị lật. Magwitch thì thầm với tôi là hai người họ đã chìm
xuống trong khi hung dữ ghì chặt lấy nhau trong tay, và đã xảy ra một cuộc
vật lộn dưới nước, rồi ông vùng ra được, ngoi lên mặt nước và bơi đi.
Tôi chưa bao giờ có bất cứ lý do nào để nghi ngờ tính xác thực của
những điều ông đã kể với tôi. Người sĩ quan cầm lái chiếc thuyền bốn mái
chèo cũng kể lại tương tự về việc hai người kia rơi xuống nước.
Khi tôi đề nghị ông sĩ quan cho phép thay quần áo ướt cho người tù
bằng cách mua bất cứ món đồ thừa nào tôi có thể kiếm được tại quán rượu
đó, ông này lập tức đồng ý: ông chỉ nói là ông ta phải thu lại mọi thứ người tù
có trên người. Vậy là cái ví từng nằm trong tay tôi chuyển sang tay ông sĩ
quan. Ông ta còn cho phép tôi đi cùng người tù tới London; song từ chối cho
phép hai bạn tôi có đặc ân tương tự.
Người gác bến tại quán Con tàu được cho biết người chết đuối đã chìm
xuống ở đâu, và nhận lời tìm kiếm thi thể ở những nơi nó rất có thể dạt vào
bờ nhất. Tôi thấy dường như ông ta quan tâm hơn khi nghe là cái xác có đi
tất. Có vẻ đã phải cần đến chừng một tá người chết đuối để phục trang hoàn
chỉnh cho ông ta; và đó rất có thể là lý do vì sao các món đồ khác nhau trong
trang phục của ông ta lại đang ở vào mức độ mục nát khác nhau.
Chúng tôi ở lại quán rượu cho tới khi thủy triều lên trở lại, sau đó
Magwitch bị giải xuống thuyền. Herbert và Startop sẽ quay về London theo
đường bộ sớm nhất có thể. Chúng tôi có một cuộc chia tay buồn rầu, và khi
ngồi xuống bên Magwitch, tôi cảm thấy đó là chỗ của mình từ đó về sau
chừng nào ông còn sống.
Vì giờ đây cảm giác ghê sợ ông trong tôi đã hoàn toàn tan biến; và
trong con người bị săn lùng, thương tích đầy mình, bị còng xích đang nắm
lấy bàn tay tôi trong bàn tay ông, tôi chỉ thấy một con người đã muốn bảo trợ
cho tôi, người đã dành cho tôi những tình cảm đầy trìu mến, biết ơn và hào
phóng một cách thủy chung trong suốt nhiều năm. Tôi chỉ thấy ở ông một con
người tử tế hơn nhiều so với những gì tôi đã đối xử với Joe.
Hơi thở của ông trở nên khó khăn, đau đớn hơn khi màn đêm buông
xuống, và ông thường xuyên không kìm nổi tiếng rên. Tôi cố gắng đỡ lấy ông
bằng cánh tay tôi có thể sử dụng để ông có được tư thế dễ chịu; nhưng thật
khủng khiếp khi phải nghĩ rằng tận trong lòng, tôi không thể lấy làm buồn vì
ông bị thương nặng, vì không nghi ngờ gì nữa, đó là cách tốt nhất để ông từ
giã cõi đời. Tôi không có chút nghi ngờ nào về việc vẫn còn đủ người vẫn
còn sống có thể nhận diện ông và sẵn sàng làm việc đó. Tôi không thể hy
vọng ông sẽ được xử nhẹ tay. Ông từng bị nhìn nhận theo cách tiêu cực nhất
trong phiên tòa xử mình, rồi sau đó lại vượt ngục và bị xử lần nữa, sau đó tiếp
tục lén quay về nước trong khi thụ án lưu đày chung thân, đồng thời cũng là
người gây ra cái chết của người đã khiến ông bị bắt.
Trong khi chúng tôi quay về theo hướng của mặt trời đang lặn mà
chúng tôi đã để lại sau lưng mới chỉ hôm qua, và dòng hy vọng của chúng tôi
dường như đã chảy ngược hoàn toàn, tôi nói với ông tôi cảm thấy buồn phiền
ra sao khi nghĩ tới việc ông đã về nước vì tôi.
“Chàng trai thân mến,” ông đáp, “tôi hoàn toàn hài lòng vì đã mạo
hiểm. Tôi đã gặp chàng trai của tôi, và cậu ấy có thể trở thành một quý ông
mà không cần đến tôi.”
Không. Tôi đã nghĩ về chuyện này, trong lúc chúng tôi ngồi cạnh nhau
ở đó. Không. Không kể suy nghĩ của tôi, giờ đây tôi đã hiểu điều Wemmick
ám chỉ. Tôi thấy trước được một khi bị tuyên án, tất cả tài sản của ông sẽ bị
chính quyền tịch thu.
“Nghe này, chàng trai thân mến,” ông nói. “Tốt nhất bây giờ một quý
ông không nên để thiên hạ biết có quan hệ với tôi. Hãy chỉ tới gặp tôi như thể
cậu tới đó hoàn toàn tình cờ cùng Wemmick. Hãy ngồi ở nơi tôi có thể thấy
cậu khi tôi được yêu cầu xưng tội lần cuối cùng, và tôi không đòi hỏi gì hơn
nữa.”
“Tôi sẽ không bao giờ không ngồi bên ông,” tôi nói, “khi tôi được cho
phép ở cạnh ông. Có Chúa chứng giám, tôi sẽ chân thành với ông đúng như
ông đã chân thành với tôi!”
Tôi cảm thấy bàn tay ông run rẩy khi nắm lấy bàn tay tôi, và ông quay
mặt đi trong lúc nằm dưới đáy thuyền, và tôi lại nghe thấy âm thanh ngày xưa
trong cổ họng ông - giờ đây đã dịu đi, như tất cả phần còn lại của con người
ông. Thật tốt vì ông đã nhắc tới chuyện này, vì nó nhắc nhở tôi về điều nếu
khác đi có lẽ tôi đã không nghĩ đến cho tới khi quá muộn - ông không bao giờ
được biết những hy vọng làm giàu cho tôi mà ông hằng nuôi dưỡng đã tiêu
tan như thế nào.