Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 53
Đ
ó là một đêm tối trời, cho dù trăng tròn mọc lên trong khi tôi rời khỏi
vùng đất được rào giậu và đi vào khu đầm lầy. Quá đường viền đen của
chúng là một dải bầu trời quang đãng, hầu như chỉ vừa đủ rộng để chứa mặt
trăng to tròn đỏ quạch. Trong vài phút ngắn ngủi, mặt trăng đã vượt ra khỏi
vùng quang đãng đó, lẩn vào những đám mây tầng tầng lớp lớp đùn lên như
núi.
Có một cơn gió buồn ảo não đang thổi, và đầm lầy thật ảm đạm. Một
người xa lạ hẳn sẽ cảm thấy chúng không thể chịu nổi, và thậm chí ngay cả
với tôi chúng cũng đầy thù nghịch tới mức tôi do dự, nửa muốn buông xuôi
quay trở lại. Nhưng tôi biết chúng quá rõ, và có thể tìm thấy đường đi trong
một đêm còn tối tăm hơn nhiều, và không còn cớ gì để quay lui khi đã đi tới
đó. Vậy là sau khi đã tới đây ngược lại với mong muốn của mình, tôi tiếp tục
thách thức mong muốn để dấn bước.
Hướng đi tôi chọn không phải là hướng dẫn tới ngôi nhà của tôi từng
sống, hay hướng chúng tôi từng truy đuổi những tù nhân vượt ngục. Tôi đang
quay lưng về phía mấy chiếc tàu nhà tù ngoài xa trong khi bước đi, và cho dù
tôi có thể thấy những chấm sáng xưa cũ xa xa trên các đồi cát, tôi cần ngoái
đầu lại để nhìn chúng. Tôi cũng biết chỗ lò vôi rõ như chỗ pháo đài cũ, nhưng
chúng nằm cách nhau hàng dặm; vì thế, nếu lửa được thắp lên ở mỗi nơi vào
tối đó, sẽ có một dải đường chân trời tối om giữa hai chấm sáng.
Thoạt đầu, tôi phải đóng vài cánh cổng lại sau lưng mình, rồi thỉnh
thoảng đứng im khi những con gia súc đang nằm trên con đường đắp nổi
nhổm dậy và vụng về di chuyển xuống giữa các vạt cỏ và khóm sậy. Nhưng
sau một hồi, dường như tôi không còn bị thứ gì quấy rầy nữa.
Nửa giờ đồng hồ nữa trôi qua rồi tôi mới tới gần lò vôi. Đá vôi bị nung
kèm theo một thứ mùi nặng nề ngột ngạt, nhưng lửa đã bị dập tắt và bỏ mặc,
và không có bóng dáng người thợ nào. Ngay gần đó là một mỏ đá nhỏ. Nó
nằm ngay trên hướng đi của tôi, và đã được khai thác ngày hôm đó, vì tôi
thấy các món dụng cụ và xe cút kít để gần xung quanh.
Lại từ dưới khu mỏ đá leo lên mặt bằng của khu đầm lầy - theo lối mòn
gập ghềnh chạy ngang qua khu mỏ - tôi thấy ánh sáng trong căn nhà cũ kỹ
bên cửa cống. Tôi rảo bước, và đưa bàn tay lên gõ cửa. Vừa chờ được hồi đáp
tôi vừa đưa mắt nhìn quanh, nhận ra cửa cống đã bị bỏ hoang và hư hỏng, còn
căn nhà - làm bằng gỗ, lợp mái ngói - cũng chẳng chống đỡ được thời tiết
thêm bao lâu nữa, cho dù nếu lúc này nó vẫn làm được điều ấy, còn bùn và
các vũng lầy phủ đầy đá vôi, còn thứ hơi ngột thở của lò vôi vẫn trườn lại
phía tôi một cách ma quái, vẫn không có trả lời, và tôi lại gõ cửa. Vẫn không
có trả lời. Và tôi thử mở chốt.
Nó nhấc lên dưới bàn tay tôi, và cánh cửa mở ra. Nhìn vào trong, tôi
thấy một cây nến thắp sáng trên một cái bàn, một băng ghế, và một tấm nệm
trải trên một khung giường. Vì còn một căn gác xép phía trên, tôi gọi, “Có ai
ở đây không?” nhưng không có giọng nói nào đáp lại. Rồi tôi nhìn đồng hồ,
và lại gọi khi nhận ra đã quá chín giờ, “Có ai ở đây không?” vẫn không có
tiếng trả lời, và tôi đi ra cửa, không biết nên làm gì.
Trời bắt đầu mưa nặng hạt. Không thấy gì ngoài những thứ đã thấy, tôi
quay trở vào trong căn nhà, đứng vừa đủ dưới sự che chở của khung cửa,
nhìn ra ngoài màn đêm. Trong lúc tôi đang ngẫm nghĩ người nào đó hẹn tôi
hẳn đã mới ở đây thôi và chắc sẽ sớm quay lại, nếu không cây nến đã không
còn cháy thì chợt nảy ra ý nghĩ muốn xem bấc nến có dài không. Tôi quay
người lại để làm việc này, và đã cầm cây nến trên tay thì nó bị tắt ngóm vì
một cú sốc dữ dội; và điều tiếp theo tôi hiểu là tôi đã bị tròng vào một cái
thòng lọng chắc chắn, được quăng từ phía sau chụp xuống đầu tôi.
“Giờ thì,” một giọng nói cố nén lại khe khẽ kèm theo một câu rủa, “tao
tóm được mày rồi!”
“Cái gì thế này?” tôi hét lên, vùng vẫy. “Ai đó? Cứu, cứu, cứu!”
Không chỉ hai cánh tay tôi bị ép chặt vào hai bên sườn, mà sức ép lên
cánh tay bị bỏng làm tôi đau khủng khiếp. Đôi lúc một bàn tay đàn ông mạnh
mẽ, đôi lúc là khuôn ngực đàn ông vạm vỡ ép chặt vào miệng tôi để làm tắt
ngấm tiếng tôi la hét, và luôn đi kèm một hơi thở nóng rực kề sát tôi. Tôi
vùng vẫy vô ích trong bóng tối trong lúc bị trói chặt vào tường. “Còn bây
giờ,” giọng nói cố nén xuống khe khẽ lại cất lên kèm theo một câu rủa nữa,
“cứ thử la lên lần nữa xem, tao sẽ kết liễu mày lập tức!”
Choáng váng muốn xỉu do cơn đau từ cánh tay bị thương, hoảng loạn
vì bất ngờ, song vẫn ý thức được lời đe dọa kia có thể dễ dàng được thực thi
đến mức nào, tôi thôi không la hét nữa, mà cố tìm cách làm cho cánh tay của
mình được dễ chịu hơn dù chỉ một chút. Nhưng nó bị trói quá chặt không làm
được. Tôi có cảm giác như thể sau khi bị đốt trước đó, giờ đây nó đang bị
luộc.
Việc màn đêm bên ngoài đột nhiên biến mất, thay vào đó là bóng tối
đen kịt cho tôi hay người đàn ông đã đóng một cửa chớp. Sau khi mò mẫm
một hồi, hắn tìm được đá lửa và lưỡi thép hắn muốn, và bắt đầu đánh lửa. Tôi
căng mắt nhìn về phía các tia lửa đang bắn xuống bùi nhùi và được hắn ra sức
thổi lấy thổi để với diêm trong tay, nhưng tôi chỉ nhìn thấy đôi môi hắn, và
đầu xanh của que diêm; ngay cả những thứ đó cũng chỉ hiện lên chập chờn.
Bùi nhùi bị ẩm - cũng chẳng có gì lạ - và hết lần này tới lần khác các tia lửa
tắt ngấm.
Gã đàn ông không có vẻ gì vội vã, và lại đánh lửa tiếp với đá lửa và
lưỡi thép. Trong khi những tia lửa tóe ra sáng chói xung quanh hắn, tôi có thể
thấy hai bàn tay hắn, một chút khuôn mặt, và có thể nhận ra hắn đang ngồi
cúi người xuống mặt bàn; nhưng không gì hơn nữa. Rồi tôi lại thấy đôi môi
xanh lè của hắn thổi vào bùi nhùi, rồi một đốm lửa lóe lên, cho tôi nhìn thấy
Orlick.
Tôi không rõ mình đã trông đợi thấy ai. Tôi không hề trông đợi thấy
hắn. Thấy hắn, tôi có cảm giác mình quả thực đang dấn thân vào tình thế
hiểm nguy, và tôi chăm chú quan sát hắn.
Hắn dùng que diêm đã cháy châm cây nến một cách thận trọng, rồi
ném diêm xuống và giẫm tắt nó. Tiếp theo, hắn để cây nến lên bàn ra xa
mình, như thế hắn có thể trông thấy tôi, rồi ngồi xuống, hai cánh tay khoanh
lại trên mặt bàn và nhìn tôi. Tôi nhận ra mình đang bị trói vào một cái thang
chắc chắn dựng đứng cách tường vài inch - và được gắn cố định ở đó làm
phương tiện leo lên gác xép phía trên.
“Giờ,” hắn nói, sau khi hai chúng tôi đã quan sát nhau một lúc, “tao
tóm được mày rồi.”
“Cởi trói cho tôi. Thả cho tôi đi!”
“À!” hắn đáp lại, “tao sẽ thả cho mày đi. Tao sẽ thả cho mày đi lên mặt
trăng, tao sẽ thả cho mày đi lên các vì sao. Đến lúc thì tao sẽ thả.”
“Tại sao anh lại dụ tôi đến đây?”
“Mày không biết sao?” hắn hỏi với ánh nhìn chết chóc.
“Tại sao anh lại ập vào tôi trong bóng tối?”
“Vì tao có ý định tự làm tất cả. Một người giữ bí mật tốt hơn hai người.
A, mày là kẻ thù của tao, mày là kẻ thù của tao!”
Sự thích thú của hắn trước cảnh tượng tôi cung cấp, trong lúc hắn ngồi
đó, hai cánh tay khoanh lại để trên mặt bàn, vừa lắc đầu nhìn tôi vừa tự mỉm
cười đắc ý với chính mình, có một vẻ hiểm độc khiến tôi run rẩy. Trong khi
tôi im lặng quan sát hắn, hắn thò tay vào trong góc bên cạnh và lấy ra một
khẩu súng có báng bọc đồng thau.
“Mày biết cái này không?” hắn nói, làm như thể sẽ ngắm vào tôi. “Mày
có biết đã thấy nó ở đâu trước đây không? Nói, đồ chó sói!”
“Có,” tôi đáp.
“Mày đã làm tao mất chỗ đó. Mày đã làm thế. Nói!”
“Tôi có thể làm gì khác đây?”
“Mày đã làm điều đó, và như thế đáng ra cũng là đủ rồi, dù không có
thêm gì nữa. Làm sao mày dám chen vào giữa tao và một cô gái trẻ tao thích
hả?”.
“Tôi làm thế khi nào?”
“Có khi nào mày không làm thế chứ? Chính mày đã luôn nói xấu
Orlick Già với cô ấy.”
“Anh tự chuốc nó cho chính mình; anh tự tạo ra nó cho chính mình.
Tôi sẽ không thể làm hại gì anh, nếu anh không tự mình gây ra điều gì.”
“Mày là một thằng dối trá. Và mày sẽ tìm hết cách, bỏ ra bất cứ khoản
tiền nào để tống khứ tao khỏi vùng này, phải thế không?” hắn nói, nhắc lại
những lời tôi nói với Biddy trong lần cuối tôi nói chuyện cùng cô. “Bây giờ,
tao sẽ cho mày biết một chuyện. Với mày, chưa bao giờ chuyện tống khứ tao
ra khỏi nơi này lại đáng giá bằng tối nay. À! Cho dù có gấp hai mươi lần tất
cả tiền bạc mày có, cho đến đồng farthing bằng đồng thau cuối cùng!” Trong
khi hắn dứ dứ bàn tay to vâm về phía tôi, với miệng nhe ra như miệng hổ, tôi
cảm thấy điều hắn vừa nói quả là đúng.
“Vậy anh định làm gì tôi?”
“Tao định sẽ,” hắn nói, nện nắm đấm thật mạnh xuống bàn và bật dậy
trong khi quả đấm giáng xuống để đem đến cho nó lực lớn hơn, “tao định sẽ
lấy mạng mày!”
Hắn cúi người ra trước nhìn tôi trừng trừng, chậm rãi xòe bàn tay ra và
đưa chùi ngang qua miệng, như thể miệng hắn vừa ứa nước bọt vì tôi, rồi lại
ngồi xuống.
“Mày luôn ngáng đường Orlick Già kể từ khi mày còn là một thằng
nhóc. Mày sẽ biến khỏi con đường của anh ta vào tối hôm nay đây. Anh ta sẽ
không phải chịu đựng thêm gì vì mày nữa. Mày toi rồi!”
Tôi cảm thấy đã cận kề bên huyệt mộ. Trong giây lát, tôi hoảng loạn
nhìn quanh cái bẫy của mình tìm kiếm bất cứ cơ hội đào thoát nào; nhưng
không hề có.
“Hơn thế nữa,” hắn nói, lại khoanh tay trên mặt bàn, “tao sẽ không để
lại một mảnh giẻ rách nào của mày, tao sẽ không để lại một cái xương nào
của mày lưu lại trên mặt đất. Tao sẽ ném xác mày vào lò vôi - tao sẵn sàng
mang đến hai cái xác như thế, trên vai tao - và dân tình cứ việc tha hồ đoán gì
thì đoán về mày, họ sẽ không bao giờ biết gì hết.”
Tâm trí tôi, với sự chóng vánh không thể tin nổi, hình dung ra tất cả hệ
lụy của một cái chết như thế. Bố Estella sẽ tin tôi bỏ rơi ông, sẽ bị bắt, sẽ chết
mà vẫn buộc tội tôi; thậm chí cả Herbert cũng sẽ nghi ngờ tôi, khi cậu so sánh
lá thư tôi để lại cho cậu với thực tế là tôi chỉ ghé qua chỗ cô Havisham trong
chốc lát; Joe và Biddy sẽ không bao giờ biết tôi đã ân hận thế nào tối hôm đó,
sẽ không ai biết tôi đã đau khổ, đã chân thành đến mức nào, và tôi đã phải trải
qua nỗi thống khổ ra sao. Cái chết cận kề trước mắt thật kinh khủng, nhưng
còn kinh khủng hơn cái chết bội phần là nỗi sợ bị hiểu lầm sau khi chết. Và
dòng suy nghĩ của tôi lao đi nhanh tới mức tôi thấy mình bị cả một thế hệ
chưa ra đời khinh bỉ - các con của Estella, rồi các con của chúng - trong khi
những lời lẽ ghê tởm kia vẫn còn lưu lại trên môi hắn.
“Bây giờ, đồ chó sói,” hắn nói, “trước khi tao giết mày như bất cứ con
vật nào khác - cũng chính là cáy tao định làm và cũng vì thế tao trói mày lại -
tao sẽ ngắm nghía mày thật kỹ để thật hào hứng về mày. A, mày là kẻ thù của
tao!”
Trong đầu tôi thoáng nghĩ tới việc lại hét lên kêu cứu; cho dù không
mấy người có thể rõ hơn tôi sự heo hút của nơi này và mức độ vô vọng của
chuyện ứng cứu. Nhưng khi hắn ngồi nhìn tôi hau háu, tôi được tiếp sức nhờ
sự căm ghét đầy khinh bỉ với hắn, khiến đôi môi tôi khép chặt. Hơn tất cả, tôi
quyết tâm không van xin hắn, và sẽ chết trong khi thực hiện hành động kháng
cự cuối cùng vô vọng nào đó với hắn. Cho dù lúc ấy suy nghĩ của tôi trở nên
mềm yếu như bất kỳ người nào khác lâm vào hoàn cảnh tàn khốc tột cùng
này; trong khi tôi thành khẩn cầu xin sự tha thứ của Chúa; và nhói đau trong
tim bởi ý nghĩ tôi đã không hề nói lời từ biệt và sẽ chẳng bao giờ có thể làm
điều đó với những người tôi yêu quý, hay giãi bày lòng mình với họ, hay cầu
khẩn họ cảm thông cho những lỗi lầm khốn khổ của tôi - dù thế, nếu có thể
giết hắn, thậm chí cả khi hấp hối, chắc chắn tôi cũng sẽ làm.
Hắn đang uống rượu, đôi mắt đỏ vằn máu. Quanh cổ hắn đeo một cái
chai thiếc, như tôi vẫn hay thấy thịt và rượu được hắn đeo lên cổ ngày xưa.
Hắn kề cái chai lên miệng uống ừng ực; và tôi ngửi được mùi thứ rượu mạnh
mà tôi thấy đang làm khuôn mặt hắn đỏ lựng lên.
“Sói!” hắn nói, hai tay lại khoanh lại, “Orlick Già sẽ cho mày biết một
điều. Chính mày đã làm hại mụ chị đanh đá của mày.”
Thêm một lần nữa, tâm trí tôi, với sự chóng vánh khó tin như lúc trước,
đã tua lại toàn bộ vụ tấn công chị tôi, tình cảnh tàn tật của chị, rồi cái chết của
chị, trước khi giọng nói rề rà ngắt quãng của hắn kịp nói ra những từ này.
“Chính là mày, đồ đê tiện,” tôi thốt lên.
“Tao cho mày hay, đó là do mày gây ra - tao cho mày hay, chuyện đó
diễn ra qua mày,” hắn vặn lại, chộp lấy khẩu súng, nện báng vào khoảng
không giữa hai chúng tôi. “Tao xông tới mụ ta từ đằng sau, đúng như tao
xông tới mày tối nay. Tao cho mụ ta một cú! Tao bỏ mặc cho mụ ta chết, và
giá như có lò vôi ở gừn chỗ mụ như gừn mày bây giờ, chắc mụ ta đã không
sống lại được. Nhưng không phải Orlick Già gây ra chuyện đó; chính là mày.
Mày được cưng nựng, còn anh ta bị bắt nạt và đánh đập. Orlick Già mà bị bắt
nạt và đánh đập, hả? Giờ mày phải trả giá chuyện đó. Mày đã gây ra nó; giờ
mày phải trả giá cho nó.”
Hắn lại uống rượu, và trở nên hung dữ hơn. Qua cách hắn nghiêng
chai, tôi có thể thấy trong đó cũng không còn bao nhiêu rượu. Tôi chợt hiểu
ra hắn đang dùng những gì đựng trong cái chai đó để lấy dũng khí kết liễu tôi.
Tôi hiểu mỗi giọt chất lỏng trong đó là một giọt cuộc sống của tôi. Tôi biết
khi tôi đã bị biến thành một phần của thứ hơi chỉ vừa mới đây thôi từng trườn
về phía tôi như một hồn ma cảnh báo cho chính tôi, hắn sẽ lại làm như đã làm
sau khi tấn công chị tôi - hối hả đi ngay vào thị trấn để được trông thấy ngồi
thõng vai uống bia tại một quán bia ở đó. Dòng suy nghĩ chóng vánh của tôi
đi theo hắn vào thị trấn, hình dung ra cảnh đường phố với hắn trong đó, và so
sánh sự tương phản giữa ánh sáng, sự sống trong hình ảnh đó với đầm lầy cô
quạnh và thứ hơi trắng lan đi trên bề mặt của nó, thứ hơi tôi sẽ bị hòa tan vào.
Tôi không những có thể tóm lược lại nhiều năm trời trong khi hắn nói
ra một tá từ ấy, mà những gì hắn nói hiện lên với tôi như những bức tranh
chứ không chỉ đơn thuần là từ ngữ. Trong trạng thái kích động và lâng lâng
của bộ óc, tôi không thể nghĩ tới nơi nào mà không nhìn thấy nó, hay tới
người nào mà không thấy họ. Không thể nói quá được sự sống động của
những hình ảnh ấy, thế nhưng lúc nào tôi cũng tập trung chú ý vào chính hắn
- ai có thể không chú ý vào con hổ đang thu mình để nhào tới - đến mức tôi
biết rõ nhất cử nhất động các ngón tay hắn.
Khi hắn đã uống xong lần hai, hắn nhổm dậy khỏi băng ghế vừa ngồi,
rồi đẩy cái bàn sang bên. Tiếp theo, hắn cầm lấy cây nến, và vừa dùng bàn
tay sát nhân của mình che nến để hắt ánh sáng về phía tôi, vừa đến đứng
trước mặt tôi, nhìn tôi và khoan khoái tận hưởng cảnh tượng.
“Sói, tao sẽ cho mày biết thêm một chuyện nữa. Chính Orlick Già là
người mày vấp phải trên cầu thang tối hôm ấy.”
Tôi nhìn thấy cầu thang với những cây đèn tắt ngóm. Tôi nhìn thấy
bóng của hàng lan can cầu thang nặng nề do ánh sáng đèn lồng của người gác
đêm hắt lên tường. Tôi nhìn thấy những căn phòng tôi không bao giờ còn
thấy lại nữa; chỗ này, một cánh cửa hé mở; chỗ kia, một cánh cửa đóng lại;
và tất cả các món đồ gỗ xung quanh.
“Và tại sao Orlick Già lại ở đó? Tao sẽ cho mày biết thêm một thứ nữa,
sói. Mày và bà ta đã xua đuổi tao khỏi vùng này quyết liệt đến mức chuyện
kiếm sống dễ dàng trở nên vô vọng, vậy là tao đã làm quen với những bạn bè
mới, và những người chủ mới. Một vài người trong bọn họ viết thư cho tao
khi tao muốn họ viết - mày hiểu không? - viết những lá thư của tao, sói! Bọn
họ biết viết bằng cả năm chục thứ chữ viết tay*; bọn họ không giống thằng
lén lút như mày, chỉ viết độc một thứ chữ. Tao đã có suy nghĩ và quyết tâm
chắc chắn phải lấy mạng mày, kể từ khi mày về đây vào lần đám ma chị mày.
Khi ấy tao không tìm ra được cách nào để thịt mày an toàn, và tao đã theo dõi
hành tung mày. Vì Orlick Già đã tự nhủ với anh ta, ‘Bằng cách này hay cách
khác, ta sẽ tóm được nó!’ Gì chứ! Khi tao tìm kiếm mày, tao lại tìm ra ông
bác Provis của mày, thế nào?”
Ám chỉ những kẻ chuyên làm giấy tờ giả mạo.
Cối Xay Ven Sông, rồi Vũng Tiền và cả Bãi Bện Thừng Gỉ Đồng, tất
cả hiện lên thật rõ ràng, tường tận! Provis trong mấy căn phòng của ông, làm
ám hiệu đã trở nên vô dụng, Clara xinh đẹp, bà chủ nhà phúc hậu, ông già
Bill Barley trên giường, tất cả cùng lướt qua như thể trôi trên dòng suối đang
chảy nhanh ra biển của đời tôi!
“Mày và ông bác mày nữa! Sao chứ, tao biết mày ở nhà Gargery khi
mày còn là một con sói con bé xíu đến mức tao có thể tóm cổ mày giữa ngón
tay này và ngón cái rồi bóp mày chết queo (như tao từng nghĩ đến việc làm
thế khi tao thấy mày tha thẩn đi chơi giữa các thân cây cụt ngọn vào một
ngày Chủ nhật), và khi đó mày vẫn chưa tìm ra ông bác nào. Không, không
phải mày! Nhưng sau đó Orlick Già nghe thấy rằng ông bác Provis của mày
có vẻ từng đeo cáy xiềng sắt Orlick Già đã nhặt được, cáy xiềng bị giũa đứt ở
ngoài đằm lầy này nhiều năm trước, và anh ta đã giữ bên mình cho tới khi
dùng nó quật gục mụ chị mày, như quật một con bò đực, cũng như anh ta đã
định quật gục mày - sao nhỉ? - khi anh ta nghe thấy rằng - sao nhỉ?”
Trong tràng châm chọc hung hãn, hắn chĩa cây nến vào sát tôi đến mức
tôi phải quay mặt sang bên để tránh khỏi bị lửa táp vào.
“Ái chà!” hắn hét lên, phá lên cười, sau khi lặp lại hành động đó, “cậu
nhóc bị bỏng sợ lửa! Orlick Già biết mày bị bỏng, Orlick Già biết mày đang
định lén lút đưa ông bác Provis của mày chuồn đi, Orlick Già là kẻ thù của
mày và biết mày tối nay thế nào cũng tới! Giờ tao sẽ cho mày biết thêm một
chuyện, sói, và đó là tất cả. Có những kẻ có vai trò đối với ông bác Provis của
mày y như Orlick Già đối với mày. Lão ta cứ liệu hồn với họ, khi lão đã mất
thằng táu! Lão ta cứ liệu hồn với họ, khi không ai có thể tìm ra dù một mảnh
giẻ rách từ quần áo thằng họ hàng quý hóa của lão, hay một mẩu xương từ
xác nó. Có những người không thể và không muốn để Magwitch - phải, tao
biết cái tên này! - còn sống trên cùng miền đất với họ, và vẫn theo sát tin tức
về lão khi lão còn sống ở một miền đất khác, nơi lão không được và không
nên lén lút rời khỏi để đẩy họ vào nguy hiểm. Có nẽ chính bọn họ là những
kẻ viết năm chục thứ chữ viết tay, không giống thằng lén lút như mày, chỉ
viết độc một thứ chữ. Magwitch hãy cứ liệu hồn với Compeyson, và giá treo
cổ!”
Hắn lại chĩa ngọn nến vào tôi, làm khói xộc vào mặt mũi tôi, khiến tôi
lóa mắt trong khoảnh khắc, rồi quay tấm lưng vạm vỡ lại khi để nó trở về
bàn. Tôi nghĩ tới cầu nguyện, và đã kịp nghĩ về Joe, Biddy và Herbert trước
khi hắn quay về phía tôi lần nữa.
Có một khoảng trống chừng vài foot giữa cái bàn và bức tường đối
diện. Lúc này hắn đang thõng vai đi tới đi lui trong khoảng không gian này.
Hắn toát ra sức mạnh khủng khiếp hơn bao giờ hết khi hắn cứ đi tới đi lui như
vậy với hai bàn tay thả lỏng nặng nề hai bên người, với đôi mắt gườm gườm
nhìn tôi. Tôi không còn lại chút hy vọng nào. Bất chấp cơn hối hả nội tâm
cuồng loạn, và những hình ảnh đang ào ào tuôn chảy dữ dội trong tâm trí tôi
thay cho ý nghĩ, tôi vẫn có thể hiểu rõ ràng, nếu không phải hắn đã xác quyết
rằng chỉ trong vài khoảnh khắc nữa thôi tôi chắc chắn sẽ bốc hơi khỏi cõi đời
này mà không ai hay biết, hẳn không bao giờ hắn nói cho tôi biết những gì
vừa nói.
Đột nhiên hắn dừng lại, bật nút cái chai rồi ném nó đi. Dù cái nút rất
nhẹ, tôi vẫn nghe thấy nó rơi xuống như một cục chì. Hắn nuốt chậm rãi, từ
từ dốc cái chai lên, và lúc này không còn nhìn tôi nữa. Những giọt rượu cuối
cùng, hắn rót vào lòng bàn tay rồi liếm sạch. Sau đó, đột ngột bùng lên thật
hung bạo và chửi thề ầm ĩ, hắn ném cái chai đi và cúi xuống; và tôi thấy trong
tay hắn một cái búa bằng đá có cán dài nặng nề.
Quyết tâm tôi đã định không hề rời bỏ tôi, vì cho dù không nói ra một
lời van xin vô ích nào với hắn, tôi lấy hết sức lực hét lớn, và lấy hết sức ra
chống trả. Tôi chỉ có thể cử động đầu và hai chân, nhưng tôi đã chống cự
bằng tất cả sức mạnh có trong mình, mà cho tới lúc ấy tôi hoàn toàn không
biết đến. Cùng lúc, tôi nghe thấy những tiếng hô đáp lại, nhìn thấy những
bóng người cùng một tia sáng lao vào qua cửa, nghe thấy những giọng nói và
âm thanh hỗn độn, rồi nhìn thấy Orlick lao vụt ra khỏi một đám ẩu đả như thể
đó là một xoáy nước, gạt phắt cái bàn sang một bên và lao ra ngoài màn đêm.
Sau một hồi bất tỉnh, tôi nhận ra mình đang nằm dưới sàn, không còn
bị trói, vẫn ở chỗ cũ, đầu tựa lên đầu gối ai đó. Đôi mắt tôi nhìn chằm chặp
vào cái thang tựa sát tường khi tôi lại tỉnh - vốn đã mở ra nhìn vào nó trước
khi tâm trí tôi thấy nó - vì thế khi tỉnh lại, tôi biết mình đang ở nơi đã ngất đi.
Thoạt đầu hoàn toàn đờ đẫn, thậm chí để đưa mắt nhìn quanh đoán
chắc xem ai đang đỡ mình, tôi đang nằm đó nhìn vào cái thang thì một khuôn
mặt chen vào giữa tôi và nó. Khuôn mặt anh chàng giúp việc của Trabb!
“Tôi nghĩ ông ấy ổn cả rồi!” cậu giúp việc của Trabb nói với giọng
bình thản, “nhưng vừa nãy ông ấy hãy còn tái mét!”
Nghe thấy mấy lời này, khuôn mặt của người đỡ tôi liền cúi xuống nhìn
vào mặt tôi, và tôi thấy người đỡ mình là…
“Herbert! Chúa ơi!”
“Khẽ thôi,” Herbert nói, “Từ từ thôi, Handel. Đừng đột ngột quá.”
“Và anh bạn cũ của chúng ta, Startop!” tôi kêu lên, khi cả cậu bạn cũ
cũng cúi xuống nhìn tôi.
“Hãy nhớ điều cậu ấy sắp hỗ trợ chúng ta,” Herbert nói, “và bình tĩnh.”
Lời nhắc nhở làm tôi bật dậy, cho dù lại nằm vật xuống vì cơn đau ở
cánh tay. “Herbert, vẫn chưa quá thời điểm đó chứ, phải không? Tối nay là
tối thứ mấy rồi? Tớ đã ở đây bao lâu rồi?” Vì tôi có một linh cảm lạ lùng
mạnh mẽ rằng tôi đã nằm đây một thời gian dài - một ngày một đêm, hai
ngày hai đêm, hay còn lâu hơn nữa.
“Vẫn chưa quá thời điểm, vẫn đang là tối thứ Hai.”
“Ơn Chúa!”
“Và cậu sẽ có cả ngày mai, thứ Ba, để nghỉ ngơi,” Herbert nói. “Nhưng
cậu cứ kêu rên suốt, Handel thân mến. Cậu bị đau ở đâu hả? Cậu có đứng dậy
được không?”
“Có, có,” tôi nói, “tớ có thể đi được. Tớ không bị thương ở đâu ngoài
cánh tay đang đau kinh khủng này.”
Họ vạch cánh tay ra, và làm những gì có thể. Nó đã bị sưng phồng lên
thật khủng khiếp và tấy đỏ, và tôi hầu như không thể chịu nổi khi người khác
chạm vào nó. Nhưng họ vẫn xé khăn tay ra làm băng mới, rồi cẩn thận treo
cánh tay vào băng treo, cho tới khi chúng tôi về thị trấn và tìm được thứ
thuốc làm dịu nào đó để bôi lên nó. Chỉ sau chốc lát, chúng tôi đã đóng cửa
căn nhà tối tăm trống rỗng bên cửa cống, và lúc này đang đi ngang qua mỏ đá
trên đường trở về. Cậu nhóc giúp việc của Trabb - giờ đây đã trở thành chàng
trai trẻ to cao của Trabb - cầm đèn lồng đi trước ba chúng tôi, đó cũng chính
là ánh sáng tôi thấy rọi vào qua cửa. Nhưng lúc này trăng đã lên cao thêm
được hai giờ so với lần cuối tôi thấy nó trên bầu trời, và buổi tối, dù có mưa,
đã sáng hơn nhiều. Làn hơi trắng của lò vôi bay ngang qua chúng tôi khi
chúng tôi đi qua bên cạnh, và nếu như lúc trước tôi từng nghĩ tới một lời cầu
nguyện, giờ đây tôi lại nghĩ tới một lời tạ ơn.
Nài nỉ Herbert kể cho tôi biết làm thế nào cậu lại có thể tới cứu tôi -
điều thoạt đầu cậu nhất quyết từ chối, nhưng rồi đành chịu thua để đổi lấy
việc tôi giữ im lặng - tôi được biết trong lúc vội vã tôi đã đánh rơi lá thư để
mở lại trong phòng chúng tôi, và cậu đã tìm thấy nó ở đó khi quay về cùng
Startop mà cậu đã gặp trên phố đang trên đường tới tìm tôi, chỉ không lâu sau
khi tôi đi. Giọng điệu trong lá thư làm cậu bất an, và còn hơn thế là sự không
ăn khớp giữa nó với lời nhắn vội vã tôi để lại cho cậu.
Sự lo lắng của cậu càng ngày càng tăng lên thay vì dịu xuống, và sau
mười lăm phút cân nhắc, cậu tìm tới trạm xe cùng Startop, người tình nguyện
đi cùng cậu, để hỏi xem khi nào có chuyến xe trạm tiếp theo. Được biết
chuyến xe chiều đã đi rồi, và nhận ra cảm giác bất an của mình đã biến thành
báo động khi liên tiếp gặp phải trở ngại, cậu quyết định đi theo bằng một cỗ
xe chở thư. Vậy là Herbert cùng Startop tới nhà trọ Lợn Lòi Xanh, hoàn toàn
trông đợi sẽ gặp tôi ở đó, hay ít nhất cũng biết được tin tức về tôi; nhưng vì
không hỏi thăm được gì, hai người liền tới nhà cô Havisham, rồi mất dấu tôi
tại đó. Tiếp theo, họ quay trở lại nhà trọ (chắc hẳn vào quãng thời gian tôi
đang nghe kể phiên bản địa phương quen thuộc về câu chuyện của chính
mình) để ăn một chút và tìm ai đó dẫn đường cho họ ra đầm lầy. Tình cờ
trong số những người tha thẩn trước cổng vòm Lợn Lòi Xanh lại có mặt cậu
giúp việc của Trabb - vẫn trung thành với thói quen cũ luôn tình cờ có mặt ở
mọi chỗ cậu ta chẳng có việc gì - và cậu này có nhìn thấy tôi đi từ nhà cô
Havisham tới chỗ tôi đã dùng bữa tối. Vậy là cậu ta trở thành người dẫn
đường cho họ, và hai người bạn tôi cùng cậu đi tới căn nhà cạnh cửa cống
mặc dù theo con đường qua thị trấn tới đầm lầy mà tôi đã tránh xa. Lúc đó,
trong khi họ đi trên đường, Herbert nghĩ, cũng giống như tôi, là rất có thể nói
cho cùng tôi đã bị lôi kéo tới đó vì một chuyến đi thực sự can hệ tới an nguy
của Provis, đồng thời nghĩ thầm trong trường hợp đó sự quấy rầy có thể gây
hại, cậu liền để người dẫn đường cùng Startop chờ cạnh mỏ đá, rồi một mình
đi tiếp, bí mật vòng quanh căn nhà hai hay ba lần, cố gắng tìm hiểu xem liệu
mọi thứ bên trong có ổn hay không. Vì cậu không nghe thấy gì ngoài những
âm thanh mơ hồ của một giọng nói trầm trầm cộc cằn (đó chính là lúc tâm trí
tôi đang bận rộn), Herbert thậm chí cuối cùng còn bắt đầu hoài nghi liệu tôi
có ở đó hay không đúng lúc tôi hét lớn lên, và cậu đáp lại tiếng hét đó, ập
vào, hai người kia theo sát đằng sau.
Khi tôi kể lại cho Herbert những gì diễn ra bên trong căn nhà, cậu cho
rằng chúng tôi cần lập tức tới trước một quan tòa trong thị trấn dù đêm đã
khuya và lấy một tờ trát. Nhưng tôi vốn đã cân nhắc tới cách hành động đó,
với việc giữ chân chúng tôi tại đây hay ngăn cản chúng tôi quay về, rất có thể
sẽ tai hại cho Provis. Không ai phủ nhận khó khăn này, và chúng tôi đành từ
bỏ mọi ý nghĩ truy đuổi Orlick ngay lúc đó. Hiện tại, trong hoàn cảnh gặp
phải, chúng tôi cho rằng để thận trọng nên làm cho chuyện này có vẻ nhẹ
nhàng với anh chàng giúp việc của Trabb; tôi tin chắc cậu ta sẽ bị nỗi thất
vọng tác động mạnh nếu biết sự can thiệp của mình đã cứu tôi thoát khỏi lò
vôi. Không phải cậu ta là kẻ có bản chất tàn ác, nhưng lại quá dư thừa hiếu
động, và tính cách cậu ta muốn có sự mới lạ và phấn khích từ sự trả giá của
người khác. Khi chúng tôi chia tay, tôi đưa cho cậu ta hai guinea (thứ có vẻ
rất hợp mắt cậu ta), và nói với cậu ta là tôi rất xin lỗi từng có lúc nghĩ không
hay về cậu (điều chẳng tạo được chút ấn tượng nào với cậu ta cả).
Thứ Tư đã ở rất gần, chúng tôi quyết định trở lên London ngay tối hôm
ấy, cả ba người cùng đi trên xe thư; thế là hơn cả, vì như vậy chúng tôi đã đi
xa trước khi cuộc phiêu lưu ban đêm này bắt đầu được nhắc đến. Herbert
kiếm được một chai thuốc bôi to cho cánh tay của tôi; và nhờ nhỏ liên tục thứ
này lên nó suốt đêm, tôi có thể có vừa đủ sức mà chịu nổi cơn đau nó gây ra
trên đường đi. Trời đã sáng hẳn khi chúng tôi về đến Temple, và tôi lập tức
leo lên giường, rồi nằm trên giường cả ngày.
Trong khi tôi nằm đó, nỗi sợ bị ốm và không đủ sức khỏe cho ngày
hôm sau ám ảnh tôi ghê gớm tới mức tôi lấy làm lạ bản thân nó lại không làm
tôi tê liệt. Chắc hẳn nó đã làm được điều đó, kết hợp với những giày vò tinh
thần tôi đã phải chịu đựng, nếu không có sự căng thẳng bất thường thường
trực trong tôi vì ngày mai. Được ngóng đợi một cách đầy lo lắng, nặng trĩu
những hệ lụy, kết cục nó dẫn tới vẫn hoàn toàn ẩn kín, dù đã cận kề.
Không sự thận trọng nào có thể rõ ràng hơn việc chúng tôi tránh liên
lạc với ông hôm đó; song chính điều này lại làm tôi càng thêm bồn chồn. Tôi
giật mình trước mỗi bước chân, mỗi âm thanh, tin rằng ông đã bị phát hiện và
bắt giữ, và đây là người đưa tin đến báo cho tôi biết điều đó. Tôi thuyết phục
bản thân rằng tôi biết ông đã bị bắt; còn có gì đó trong tâm trí tôi nhiều hơn
nỗi sợ hãi hay một dự cảm; dường như biến cố ấy đã xảy ra, và một cách bí
hiểm tôi biết chuyện đó. Khi ngày hôm ấy dần trôi qua, và không tin dữ nào
tới, đến khi ngày khép lại và màn đêm buông xuống, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh
rằng mình sẽ liệt giường vì ốm trước khi buổi sáng tới đã hoàn toàn khống
chế tôi. Cánh tay bị bỏng của tôi đau giần giật, cái đầu như bị thiêu đốt của
tôi đau rần rật, và tôi có cảm tưởng mình bắt đầu mê sảng. Tôi đếm dần lên
những con số thật lớn để cho chắc mình vẫn tỉnh, và nhẩm lại những đoạn
văn xuôi và đoạn thơ tôi biết. Thỉnh thoảng, vào những quãng thời gian tạm
trốn chạy của một bộ óc đã mệt rũ, tôi ngủ thiếp đi trong khoảnh khắc hay
ngủ quên mất; thế rồi tôi lại giật mình tự nhủ, “Giờ nó đã tới rồi, và mình
đang trở nên mê sảng!”
Hai người kia để cho tôi được yên tĩnh cả ngày, và liên tục chăm sóc
cho cánh tay tôi, cho tôi uống nước mát. Bất cứ khi nào ngủ thiếp đi, tôi lại
bừng tỉnh với ý nghĩ mình đang ở trong căn nhà bên cửa cống, một thời gian
dài đã trôi qua và cơ hội cứu Provis đã lỡ mất. Đến khoảng nửa đêm, tôi rời
giường sang chỗ Herbert, tin chắc mình đã ngủ liền hai mươi bốn giờ, và
ngày thứ Tư đã trôi qua. Đó là lần vùng dậy cuối cùng của tâm trạng bồn
chồn làm tôi kiệt sức, vì sau đó tôi ngủ yên.
Sáng thứ Tư đã hé rạng khi tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Những đốm sáng
nhấp nháy trên các cây cầu đã nhạt hẳn đi, mặt trời đang lên giống như một
quầng lửa phía chân trời. Dòng sông, vẫn còn tối tăm và bí hiểm, nằm dưới
những cây cầu bắc ngang đang chuyển sang sắc xám lạnh lẽo, đây đó phía
trên điểm xuyết chút sắc màu ấm áp từ quầng lửa trên bầu trời. Trong lúc tôi
đưa mắt nhìn theo các mái nhà kề nhau san sát, với các tháp nhà thờ và chóp
mái nhọn chĩa thẳng lên bầu không khí trong trẻo lạ thường, mặt trời nhô lên
cao, và dường như một tấm mạng vừa được gỡ khỏi dòng sông, rồi hàng triệu
đốm sáng lấp lánh bừng lên trên mặt nước của nó. Cả từ tôi nữa, dường như
cũng có một tấm mạng vừa được gỡ xuống, và tôi cảm thấy khỏe khoắn, dễ
chịu.
Herbert nằm ngủ trên giường cậu, còn anh bạn học cũ của chúng tôi
nằm ngủ trên trường kỷ. Tôi không thể mặc quần áo nếu không được trợ
giúp; tôi liền nhóm lại đống lửa trong lò sưởi vẫn còn đang cháy, và chuẩn bị
ít cà phê sẵn sàng cho hai người. Đến đúng thời điểm, cả họ cũng thức dậy
khỏe khoắn, sảng khoái, và chúng tôi cùng đón nhận làn không khí buổi sáng
lạnh căm bên cửa sổ, nhìn xuống con nước thủy triều vẫn đang chảy về phía
chúng tôi.
“Khi triều xuống lúc chín giờ,” Herbert vui vẻ nói, “hãy nhìn ra tìm
kiếm chúng tôi và chuẩn bị sẵn sàng, hỡi ông bạn dưới Cối Xay Ven Sông!”