Books are the glass of council to dress ourselves by.

Bulstrode Whitlock

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 52
ừ Little Britain, với tấm séc trong túi, tôi đi tới chỗ anh trai cô
Skiffins, người kế toán; và anh trai cô Skiffins, người kế toán, tới thẳng Hãng
Clarriker đưa Clarriker tới gặp tôi, vậy là tôi có được sự hài lòng lớn lao khi
hoàn tất cuộc giao dịch ấy. Đây là điều duy nhất tốt đẹp tôi từng làm, cũng là
điều duy nhất trọn vẹn tôi từng làm, kể từ lúc tôi bắt đầu biết được về những
triển vọng được hưởng gia tài vĩ đại của mình.
Clarriker cho tôi biết vào dịp đó là công việc làm ăn của hãng anh ta
đang tiến triển đều đặn, và hiện tại anh ta sắp có thể thiết lập một chi nhánh
nhỏ ở phương Đông, điều rất cần thiết cho việc mở rộng kinh doanh, và
Herbert, với tư cách thành viên quản trị mới, sẽ là người đảm nhiệm việc phụ
trách chi nhánh đó. Tôi nhận ra mình vừa chuẩn bị chia tay cậu bạn thân,
thậm chí dù tình hình của riêng tôi thì đã ổn định hơn. Và đến lúc này, quả
thực tôi cảm thấy dường như chiếc neo cuối cùng của tôi đang rời khỏi chỗ
bám của nó, và không mấy chốc nữa tôi sẽ bị cuốn theo gió và sóng.
Nhưng vẫn còn sự an ủi trong niềm vui Herbert sẽ mang theo về nhà
vào một buổi tối và kể cho tôi nghe những thay đổi này, không hề ngờ rằng
cậu chẳng cho tôi biết điều gì mới mẻ, rồi sẽ phác họa ra những bức tranh bay
bổng về chính cậu dẫn Clara Barley tới miền đất Nghìn lẻ một đêm, và cả tôi
cùng tới đó với hai người họ (kèm một đoàn lạc đà, tôi tin là vậy), rồi tất cả
chúng tôi cùng đi ngược sông Nile và chiêm ngưỡng các kỳ quan. Dù không
hề tin tưởng vào phần dành cho tôi trong những kế hoạch huy hoàng ấy, tôi
vẫn cảm thấy con đường của Herbert đang nhanh chóng được dọn quang, và
ông lão Bill Barley chỉ cần bám chặt lấy món rum kèm hạt tiêu của ông ta là
cô con gái sẽ sớm được chăm lo một cách đầy hạnh phúc.
Giờ chúng tôi đã bước sang tháng Ba. Cánh tay trái của tôi, cho dù
không phát lộ triệu chứng xấu nào, vẫn cần quá nhiều thời gian, theo đúng
trình tự của tự nhiên, để lành lại, vì thế tôi vẫn chưa thể mặc áo khoác vào
người. Cánh tay phải đã bình phục tương đối ổn thỏa; bị biến dạng, nhưng có
thể sử dụng khá bình thường.
Vào một sáng thứ Hai, khi Herbert và tôi đang ăn sáng, tôi nhận được
lá thư dưới đây từ Wemmick theo đường bưu cục.
“Walworth. Đốt thư này ngay sau khi đọc. Vào đầu tuần, hay hãy nói là
thứ Tư, cậu có thể làm điều cậu biết rồi đấy, nếu cảm thấy có đủ sức để thử.
Giờ hãy đốt ngay.”
Khi tôi đã đưa lá thư này cho Herbert xem và ném nó vào lửa - nhưng
sau khi cả hai chúng tôi đã thuộc lòng nội dung - chúng tôi ngẫm nghĩ xem
nên làm gì. Vì tất nhiên giờ đây không thể giữ kín chuyện tôi bị thương khỏi
mắt người khác được nữa.
“Tớ đã nghĩ đi nghĩ lại rồi,” Herbert nói, “và tớ nghĩ tớ biết một cách
hay hơn là thuê một người chở thuyền trên sông Thames. Hãy nhờ Startop.
Một chàng trai tử tế, một tay chèo điêu luyện, quý mến chúng ta, nhiệt tình và
cao thượng.”
Tôi đã nghĩ tới cậu ta hơn một lần.
“Nhưng cậu sẽ nói cho cậu ấy biết nhiều đến mức nào, Herbert?”
“Chỉ cần nói với cậu ấy rất ít thôi. Hãy cứ để cậu ấy cho rằng đây chỉ
đơn thuần là một trò đồng bóng khác người, nhưng là một trò khác người bí
mật, cho tới khi ngày đó tới: đến lúc ấy cho cậu ta biết có lý do khẩn cấp để
cậu đưa Provis ra nước ngoài. Cậu đi cùng ông ấy chứ?”
“Tất nhiên rồi.”
“Đi đâu?”
Với tôi, trong nhiều lần ngẫm nghĩ đầy lo âu dành cho việc này trước
đó, dường như chẳng quan trọng chúng tôi sẽ hướng tới cảng nào - Hamburg,
Rotterdam, Antwerp - địa điểm cụ thể chẳng mấy ý nghĩa, miễn là Provis ở
ngoài nước Anh. Bất cứ con tàu hơi nước ngoại quốc nào chúng tôi bắt gặp
và có thể cho chúng tôi lên tàu đều phù hợp. Tôi vẫn luôn đề ra cho bản thân
là sẽ đưa ông xuống thật xa phía hạ lưu sông bằng thuyền; chắc chắn là quá
xa mé dưới Gravesend, một vị trí sống còn hay xảy ra lùng soát hay xét hỏi
nếu có nghi ngờ bị khuấy động. Vì các tàu hơi nước ngoại quốc sẽ rời
London vào lúc con nước lên, kế hoạch của chúng tôi là xuôi dòng trong lần
thủy triều xuống trước đó, ẩn nấp tại một nơi nào đó yên tĩnh cho tới khi có
thể chèo ra một chiếc tàu. Thời điểm một chiếc tàu sẽ có mặt tại nơi chúng tôi
ẩn nấp, cho dù đó là chỗ nào, có thể được tính toán khá sát, nếu chúng tôi tìm
hiểu trước.
Herbert tán thành toàn bộ chuyện này, và chúng tôi lập tức ra ngoài sau
bữa sáng để tiến hành cuộc tìm hiểu. Chúng tôi xác định được có một chiếc
tàu hơi nước đi Hamburg rất có thể sẽ thích hợp nhất cho mục đích của chúng
tôi, và tập trung chú ý chủ yếu vào chiếc tàu đó. Nhưng chúng tôi cũng ghi lại
những chiếc tàu nước ngoài khác sẽ rời London vào cùng con nước đó, và hài
lòng khi đã biết được tường tận hình dạng màu sắc của từng chiếc. Sau đó,
chúng tôi chia tay trong vài giờ: tôi lập tức đi thu xếp những hộ chiếu cần
thiết; Herbert đi tìm Startop tại nơi ở của cậu này. Cả hai chúng tôi đều thực
hiện được điều muốn làm mà không gặp khó khăn gì, và khi chúng tôi gặp lại
nhau lúc một giờ để báo những gì đã hoàn tất, về phần mình tôi đã có trong
tay các hộ chiếu, còn Herbert đã gặp được Startop, cậu này còn ở trên mức
sẵn sàng tham dự nhiều.
Chúng tôi thỏa thuận là Herbert cùng Startop sẽ chèo đôi mái chèo, còn
tôi cầm lái; vị khách của chúng tôi sẽ ngồi im lặng; vì tốc độ không phải là
mục đích của chúng tôi, chúng tôi cần chèo đủ xa. Chúng tôi cũng thỏa thuận
Herbert sẽ không nên quay về nhà ăn tối trước khi tới Cối Xay Ven Sông vào
đêm đó; và cậu không nên tới đó vào tối ngày mai, thứ Ba; cậu cần chuẩn bị
để Provis đi xuống cầu thang dẫn xuống sông nằm sát ngôi nhà khi ông thấy
chúng tôi lại gần, hôm thứ Tư, và không sớm hơn; và mọi thỏa thuận với ông
cần được thu xếp xong vào tối thứ Hai đó; tiếp theo, ông không nên liên hệ
với bất cứ ai theo bất cứ cách nào cho tới khi chúng tôi đưa ông lên thuyền.
Sau khi cả hai chúng tôi đã nhớ kỹ những biện pháp đề phòng này, tôi
quay về nhà.
Khi mở cửa ngoài căn hộ của chúng tôi bằng chìa khóa tôi mang theo,
tôi thấy có một lá thư trong hộp, gửi cho tôi; một lá thư rất bẩn thỉu, cho dù
viết không đến nỗi tệ. Lá thư được cầm tới (tất nhiên, vì tôi đã rời khỏi nhà)
và có nội dung như sau:
“Nếu ông không sợ tới chỗ các đầm lầy ngày xưa vào tối nay hay
tối mai lúc chín giờ, và tới chỗ căn nhà nhỏ cạnh cửa cống cạnh
lò vôi, tốt hơn ông nên tới. Nếu ông muốn biết tin tức liên quan
tới bác Provis của ông, ông càng tốt hơn nữa nên tới và không
cho ai biết, và tới ngay. Ông phải tới một mình. Mang theo thư
này trong người.”
Tôi đã có quá đủ thứ để lo lắng trong tâm trí trước khi nhận được lá thư
lạ lùng này. Tôi không rõ giờ nên làm gì nữa. Và điều tồi tệ nhất là tôi cần
quyết định thật nhanh, nếu không sẽ nhỡ mất chuyến xe trạm chiều cho phép
tôi về quê đúng thời gian vào tối nay. Tôi không thể nghĩ tới chuyện đi đâu
vào tối mai, vì như thế quá gần thời điểm cuộc chạy trốn. Và một lần nữa, từ
những gì tôi biết, tin tức được nhắc tới trong thư rất có thể ảnh hưởng lớn tới
chính cuộc chạy trốn.
Nếu có đủ thời gian để cân nhắc, tôi tin chắc mình vẫn đi. Hầu như
không có chút thời gian nào để cân nhắc - đồng hồ cho tôi biết xe trạm sẽ
khởi hành sau nửa giờ nữa - tôi quyết tâm đi. Chắc hẳn tôi đã không đời nào
đi nếu không có mấy từ nhắc tới Bác Provis. Chi tiết này, xuất hiện sau lá thư
của Wemmick và công cuộc chuẩn bị bận rộn lúc sáng, đã thay đổi hẳn cán
cân.
Trong lúc vội vàng hối hả, thật quá khó để nắm được rõ ràng nội dung
của gần như bất cứ lá thư nào, vì vậy tôi đã phải đọc lại lời nhắn bí hiểm nọ
thêm hai lần nữa, trước khi lời nhắc nhở giữ bí mật trong thư một cách máy
móc len lỏi vào trong đầu. Chấp nhận yêu cầu này theo cùng cách máy móc
như thế, tôi dùng bút chì viết lại một lời nhắn cho Herbert, cho cậu hay vì tôi
đột xuất phải đi xa không biết trong bao lâu, tôi quyết định tạt nhanh về quê
rồi trở lên ngay để biết chắc tình hình sức khỏe cô Havisham. Sau đó, tôi chỉ
còn vừa đủ thời gian để mặc áo khoác, khóa cửa căn hộ rồi tới trạm xe ngựa
theo các lối tắt. Nếu vẫy xe ngựa và đi theo các phố chính, chắc tôi đã nhỡ
chuyến; đi theo cách tôi chọn, tôi bắt kịp cỗ xe đúng lúc nó vừa ra khỏi sân
nhà trạm. Tôi là hành khách duy nhất trong xe, xóc nẩy người lên với hai
chân ngập trong cỏ khô đến đầu gối khi kịp định thần trở lại.
Tôi thực sự không còn giữ được tỉnh táo kể từ lúc nhận được lá thư; nó
đã làm tôi bối rối cực độ sau cả buổi sáng hối hả. Quãng thời gian hối hả vội
vã lúc sáng đã rất tuyệt; vì sau khi đợi chờ Wemmick một thời gian dài trong
lo âu, cuối cùng ám hiệu của ông cũng tới thật ngạc nhiên. Và lúc này tôi bắt
đầu tự hỏi mình tại sao lại có mặt trên cỗ xe trạm, và nghi ngờ liệu tôi có đủ
lý do để xuất hiện tại đó hay không, đồng thời ngẫm nghĩ liệu tôi có nên lập
tức xuống xe quay trở lại và nhất thiết không bao giờ để ý đến những lời nhắn
nặc danh nữa, tóm lại tôi đã trải qua tất cả các cung bậc mâu thuẫn và do dự
mà theo tôi hiếm có người đang bối rối vội vã nào lại chưa từng trải qua. Dẫu
vậy, những từ nhắc đến tên Provis đã khuất phục tất cả. Tôi lý luận đúng như
tôi vừa lý luận mà không nhận ra - nếu có thể coi đó là lý luận - rằng nếu có
gì không hay xảy ra với ông vì tôi không đi, tôi sẽ khó lòng tha thứ được cho
mình!
Trời đã tối trước khi xe tới nơi, và chuyến đi dường như thật dài và ảm
đạm với tôi, người chỉ có thể nhìn thấy rất ít quãng đường từ trong xe, và
không thể ra ngoài trong tình trạng thương tật như hiện tại. Tránh nhà trọ Lợn
Lòi Xanh, tôi ghé lại một nhà trọ không mấy tiếng tăm trong thị trấn, gọi chút
đồ ăn tối. Trong lúc đồ ăn được chuẩn bị, tôi tới Satis hỏi thăm tình hình cô
Havisham; bà vẫn còn rất nguy kịch, cho dù được coi đã ít nhiều khá lên.
Nhà trọ tôi chọn từng có thời là một phần của một tu viện cũ, và tôi ăn
tối trong một căn phòng chung nhỏ hình bát giác, giống như bồn nước rửa tội.
Vì tôi không thể tự cắt đồ ăn tối cho mình, ông chủ nhà trọ già với cái đầu hói
nhẵn bóng giúp tôi làm việc đó. Chuyện này dẫn chúng tôi tới chỗ trò chuyện
với nhau, ông lão tử tế đến mức mang chính câu chuyện về tôi ra mua vui cho
tôi - tất nhiên với chi tiết rất phổ biến cho hay Pumblechook chính là người
bảo trợ đầu tiên của tôi và là người tạo dựng nên vận hội cho tôi.
“Ông có biết anh chàng trẻ tuổi đó không?” tôi hỏi.
“Biết không ư!” ông chủ nhà trọ nhắc lại. “Biết từ khi cậu ta… còn bé
tẹo.”
“Cậu ta có từng quay lại nơi này không?”
“À, cậu ta có quay lại,” ông chủ nhà nói, “gặp những bạn bè danh giá
của mình, thỉnh thoảng, và lạnh lùng quay lưng lại với chính người đã tạo nên
cậu ta.”
“Là người nào vậy?”
“Người tôi đã nói tới,” ông chủ nhà nói. “Ông Pumblechook.”
“Cậu ta có còn vô ơn với ai khác không?”
“Không nghi ngờ gì nữa, cậu ta sẽ làm thế nếu có thể,” ông chủ nhà
đáp, “nhưng cậu ta không thể. Và vì sao? Vì mình Pumblechook đã làm tất cả
cho cậu ta.”
“Ông Pumblechook đã nói vậy sao?”
“Nói vậy!” ông chủ nhà đáp. “Ông ấy chẳng cần phải nói vậy.”
“Nhưng ông ấy có nói vậy không?”
“Nghe ông ấy nói về chuyện đó sẽ khiến máu người ta cũng phải biến
thành giấm trắng, thưa ông,” ông chủ nhà nói.
Tôi thầm nghĩ, “Ấy thế nhưng Joe, Joe yêu quý, anh chẳng bao giờ nói
về chuyện đó. Joe luôn cam chịu và đầy tình thương, anh chẳng bao giờ phàn
nàn. Cả em cũng không, Biddy hiền hậu!”
“Có vẻ vụ tai nạn đã ảnh hưởng đến khẩu vị của cậu,” ông chủ quán
nói, đưa mắt nhìn cánh tay băng bó dưới áo khoác của tôi. “Hãy thử món gì
mềm hơn vậy.”
“Không, cảm ơn ông,” tôi trả lời, rời khỏi bàn ăn tới ngồi bên lò sưởi.
“Tôi không thể ăn thêm gì nữa. Làm ơn dọn đi.”
Tôi chưa bao giờ thấy thấm thía về sự vô ơn của mình với Joe như
thông qua kẻ mạo danh to mồm Pumblechook. Ông ta càng dối trá càng khiến
Joe chân thực hơn; ông ta càng nhỏ mọn, Joe càng cao thượng hơn.
Trái tim tôi cảm thấy ê chề một cách sâu sắc và vô cùng đích đáng
trong khi tôi ngồi tư lự trước ngọn lửa trong chừng một giờ đồng hồ hoặc
hơn. Tiếng chuông đồng hồ làm tôi bừng tỉnh, nhưng không phải khỏi tâm
trạng chán ngán và sự ân hận, và tôi đứng dậy, nhờ buộc chặt áo khoác quanh
cổ rồi ra ngoài. Trước đó tôi đã lục túi tìm lá thư để có thể xem qua nó lần
nữa; nhưng tôi không thể tìm được nó, và bất an nghĩ chắc nó đã bị đánh rơi
xuống đống cỏ khô trên xe trạm. Tuy nhiên, tôi biết rất rõ điểm hẹn là căn
nhà nhỏ cạnh cửa cống kề bên lò vôi ngoài đầm lầy, và thời điểm là chín giờ.
Lúc này tôi thẳng bước tới đầm lầy, vì không còn thời gian để lãng phí nữa.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)