Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 49
C
ho lá thư của cô Havisham vào túi để nó có thể biện hộ cho việc tôi
sớm xuất hiện trở lại ở Satis, trong trường hợp tính khí hay thay đổi khiến bà
chủ nhà tỏ ra ngạc nhiên khi tôi xuất hiện, tôi lại quay về thị trấn bằng xe
trạm ngay hôm sau. Nhưng tôi xuống xe ở nhà trạm nằm giữa chặng đường,
ăn sáng tại đó rồi đi bộ quãng đường còn lại; vì tôi muốn lặng lẽ vào thị trấn
theo những con đường vắng vẻ, rồi rời khỏi đó theo cách tương tự.
Ngày đã gần tàn khi tôi đi ngang qua những con đường nhỏ vắng lặng
đằng sau phố High. Những đống đổ nát ở nơi từng có thời là khu nhà ăn và
vườn của các tu sĩ ngày trước, và những bức tường vững chãi còn lại giờ đây
trở thành một phần của các nhà kho và chuồng ngựa khiêm tốn cũng lặng lẽ
gần như các vị tu sĩ dưới mồ của họ. Tiếng chuông chùm của nhà thờ lớn
ngân lên thành một âm thanh vừa buồn bã vừa xa cách hơn bất cứ lúc nào
trước đây, trong lúc tôi hối hả dấn bước để tránh bị để ý; cũng như thế, tiếng
cây đàn ống cũ vọng tới tai tôi nghe như tiếng nhạc tang; và những con quạ,
trong khi bay lượn quanh tòa tháp xám xịt và đậu xuống đung đưa trên những
thân cây trơ trụi của khu vườn tu viện, dường như đang nói với tôi nơi này đã
thay đổi, và Estella đã rời đi mãi mãi.
Một phụ nữ lớn tuổi, người tôi từng biết qua là người hầu sống trong
ngôi nhà phụ nằm phía bên kia sân sau, đi ra mở cổng. Cây nến đã thắp sáng
được để trong lối đi tối tăm phía trong nhà, hệt như ngày trước, và tôi cầm lấy
nó leo lên cầu thang một mình. Cô Havisham không có trong phòng riêng của
bà, mà đang ở trong căn phòng lớn hơn ở bên đối diện đầu cầu thang. Nhìn
qua cửa vào sau khi đã gõ cửa vô ích, tôi thấy bà đang ngồi cạnh lò sưởi trên
một chiếc ghế rách tướp, sát bên ngọn lửa lom đom trên đám tro tàn, chăm
chú ngắm nhìn nó.
Làm như thường lệ, tôi bước vào, đứng tựa vào cái lò sưởi cũ, ở chỗ bà
có thể nhìn thấy tôi khi ngước mắt lên. Từ con người bà toát lên vẻ cô đơn tột
độ, khiến tôi cũng phải thấy mủi lòng cho dù bà đã cố ý gây ra cho tôi một
vết thương sâu hơn những gì tôi có thể buộc tội bà. Trong lúc tôi đứng đó
thương hại bà chủ nhà, đồng thời nghĩ về chuyện theo thời gian tôi cũng đã
trở thành một phần trong vận hội suy tàn của ngôi nhà này, bà nhìn thấy tôi.
Bà nhìn chăm chăm, và khẽ nói, “Có phải là thực không?”
“Là tôi, Pip đây. Ông Jaggers vừa chuyển thư của bà cho tôi hôm qua,
và tôi đã tới ngay.”
“Cảm ơn cậu. Cảm ơn.”
Trong lúc bê một cái ghế rách tướp khác tới bên lò sưởi và ngồi xuống,
tôi nhận thấy một biểu cảm mới mẻ trên khuôn mặt bà chủ nhà, như thể bà sợ
tôi.
“Ta muốn,” bà nói, “nói tiếp về chuyện cậu đã nhắc đến với ta lần
trước khi cậu tới đây, và cho cậu thấy ta không phải hoàn toàn là đá. Nhưng
có lẽ hiện tại cậu chẳng bao giờ tin nổi có chút nhân tính nào trong trái tim ta,
phải vậy không?”
Khi tôi nói vài lời an ủi, bà chìa bàn tay phải run run ra, như thể định
chạm vào tôi; nhưng bà đã rút lại ý định đó trước khi tôi kịp hiểu ra cử chỉ
của bà hay biết nên đón nhận nó thế nào.
“Cậu từng nói, thay mặt bạn cậu, là cậu có thể cho ta biết cách để làm
điều gì đó có ích và tử tế. Một điều cậu rất muốn được thực hiện, đúng vậy
không?”
“Một điều tôi rất muốn được thực hiện.”
“Là gì vậy?”
Tôi bắt đầu giải thích với bà câu chuyện bí mật về việc giúp Herbert trở
thành thành viên quản trị. Tôi chưa đi xa được mấy với câu chuyện này thì từ
ánh mắt của bà tôi có thể thấy bà đang suy nghĩ theo một cách mơ hồ rời rạc
về tôi chứ không phải những gì tôi nói. Có vẻ là như vậy; vì khi tôi ngừng lời,
phải một lúc rồi bà mới tỏ vẻ đã nhận ra điều đó.
“Có phải cậu ngừng lời,” bà lên tiếng hỏi, với vẻ e sợ tôi như lúc trước,
“vì cậu quá căm ghét ta nên không thể chịu đựng được phải nói chuyện với
ta?”
“Không, không,” tôi trả lời, “sao bà lại có thể nghĩ vậy chứ, cô
Havisham! Tôi ngừng lại vì tôi nghĩ bà không theo dõi những gì tôi nói.”
“Có lẽ là vậy,” bà đáp, đưa một bàn tay áp lên đầu. “Hãy bắt đầu lại, và
để ta nhìn vào một thứ khác. Đợi đã! Giờ hãy nói cho ta biết đi.”
Bà đặt bàn tay lên cây gậy chống với thái độ kiên quyết đôi lúc khá
quen thuộc với bà, rồi nhìn vào ngọn lửa với vẻ buộc bản thân phải chú ý. Tôi
tiếp tục giải thích, kể cho bà hay tôi đã định hoàn tất việc đó bằng tiền của
mình như thế nào, nhưng đã phải thất vọng ra sao. Phần này của dự định (tôi
nhắc nhở bà) bao gồm những vấn đề tôi không thể đưa vào lời giải thích của
mình, vì chúng là những bí mật nghiêm trọng của người khác.
“Được rồi!” bà nói, gật đầu tán thành, nhưng không hề nhìn tôi. “Và
cần có thêm bao nhiêu tiền để hoàn tất việc đó?”
Tôi rất sợ phải nói ra, vì đó là một khoản tiền lớn. “Chín trăm bảng.”
“Nếu ta đưa cậu tiền cho chuyện này, cậu sẽ giữ bí mật cho ta như cậu
giữ bí mật của chính mình chứ?”
“Cũng tận tụy như thế.”
“Và tâm trí cậu sẽ được bình an hơn?”
“Bình an hơn rất nhiều.”
“Bây giờ cậu bất hạnh lắm sao?”
Bà đưa ra câu hỏi này, vẫn không nhìn tôi, nhưng với giọng đầy cảm
thông thật lạ lẫm. Tôi không thể trả lời ngay khoảnh khắc đó, vì không thể
nói nên lời. Bà tựa cánh tay trái ngang lên trên đầu cây gậy chống, rồi nhẹ
nhàng úp trán lên đó.
“Tôi đang ở cách hạnh phúc quá xa, cô Havisham; nhưng tôi có những
nguyên nhân khác để bất an ngoài những gì bà biết. Chúng là những bí mật
tôi đã nhắc tới.”
Một lát sau, bà chủ nhà ngẩng đầu lên, và lại nhìn vào ngọn lửa.
“Cậu thật cao thượng khi nói với ta cậu có những nguyên nhân khác để
phiền muộn. Có đúng thế không?”
“Hoàn toàn đúng.”
“Ta chỉ có thể giúp đỡ cậu bằng cách giúp bạn cậu thôi sao? Hãy coi
chuyện đó như đã xong xuôi, chẳng lẽ không còn điều gì ta có thể làm cho
chính cậu ư?”
“Không gì hết. Tôi cảm ơn bà vì đã hỏi điều đó. Tôi còn cảm ơn bà hơn
vì cái cách bà đưa ra câu hỏi đó. Nhưng không có gì hết.”
Cô Havisham lập tức đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh căn phòng hoang
tàn tìm thứ gì đó để viết. Trong phòng không có thứ cần tìm, bà liền lấy trong
túi ra một tập những tấm thẻ ghi chép bằng ngà voi thếp vàng đã bạc màu, và
dùng cây bút chì đựng trong một cái hộp thếp vàng cũng đã bạc màu đeo trên
cổ bà để viết.
“Cậu vẫn giữ quan hệ thân thiết với ông Jaggers chứ?”
“Cũng khá thân. Hôm qua tôi vừa dùng bữa với ông ấy.”
“Đây là yêu cầu ông ấy đưa cho cậu món tiền đó, để cậu tùy ý sử dụng
cho bạn cậu mà không có trách nhiệm phải hoàn lại. Ta không giữ tiền ở đây;
nhưng nếu cậu muốn ông Jaggers không biết gì về chuyện này, ta sẽ gửi tiền
cho cậu.”
“Cảm ơn bà, cô Havisham; tôi không hề có gì phản đối việc nhận tiền
từ ông ấy.”
Bà đọc cho tôi nghe những gì bà đã viết; tất cả được viết trực tiếp và rõ
ràng, hiển nhiên nhằm tránh cho tôi bất cứ nghi ngờ nào về chuyện thủ lợi
thông qua việc nhận tiền. Tôi nhận tập thẻ ghi chép từ tay bà, và bàn tay đó
lại run rẩy, và còn run rẩy hơn nữa khi bà tháo sợi dây chuyền dùng để gắn
hộp đựng bút chì và đặt nó lên bàn tay tôi. Bà làm tất cả chuyện này trong khi
không hề nhìn tôi.
“Tên ta được ghi trên tờ đầu tiên. Nếu có lúc nào đó cậu có thể ghi
dưới tên ta, ‘Tôi tha thứ cho bà ấy’, cho dù rất lâu sau khi trái tim đã tan vỡ
của ta biến thành tro bụi, làm ơn hãy làm như thế!”
“Cô Havisham,” tôi nói, “tôi có thể làm điều đó ngay bây giờ. Đã có
những sai lầm đau đớn; và cuộc đời tôi đã là một cuộc đời mù quáng, vô ơn;
và tôi quá cần đến sự tha thứ và chỉ bảo hơn là cay nghiệt với bà.”
Cô Havisham quay mặt về phía tôi lần đầu tiên kể từ lúc bà ngoảnh mặt
tránh đi, và trước sự kinh ngạc của tôi, mà thậm chí tôi còn có thể thêm vào
cả nỗi kinh hoàng, bà quỳ gối xuống dưới chân tôi; với hai bàn tay khép lại
giơ lên phía tôi giống như thể, khi trái tim khốn khổ của bà còn trẻ trung, tươi
tắn và lành lặn, chúng hẳn đã từng thường xuyên giơ lên trời khi bà ở bên mẹ
mình.
Phải chứng kiến bà, với mái tóc bạc trắng và khuôn mặt hốc hác, quỳ
dưới chân mình khiến cả người tôi choáng váng. Tôi khẩn khoản xin bà hãy
đứng lên, và đưa tay ra giúp bà đứng dậy; nhưng bà chỉ nắm lấy bàn tay tôi ở
gần tầm với nhất, áp đầu lên nó và khóc. Trước đây tôi chưa từng thấy bà nhỏ
một giọt nước mắt, và với hy vọng sự giải tỏa có thể giúp bà nhẹ nhõm, tôi
cúi xuống bà mà không nói gì. Lúc này bà không còn quỳ gối nữa, mà đã phủ
phục xuống sàn.
“Ôi!” bà nấc lên tuyệt vọng. “Ta đã làm gì thế này! Ta đã làm gì!”
“Cô Havisham, nếu bà muốn nói tới những gì bà đã làm khiến tôi tổn
thương, hãy cho phép tôi trả lời. Rất ít. Trong bất cứ hoàn cảnh nào rồi tôi
cũng sẽ yêu cô ấy. Có phải cô ấy kết hôn rồi không?”
“Phải.”
Đó là một câu hỏi không cần thiết, vì một sự trống vắng mới mẻ trong
ngôi nhà trống vắng đã cho tôi hay điều đó.
“Ta đã làm gì! Ta đã làm gì!” Cô Havisham vặn vẹo hai bàn tay, vò
mái tóc bạc trắng của mình, rồi nấc lên nhắc đi nhắc lại. “Ta đã làm gì thế
này!”
Tôi không biết nên trả lời ra sao, hay an ủi bà thế nào. Tôi biết quá rõ
bà đã làm một việc đáng buồn khi nhận về nuôi một đứa trẻ dễ bị tác động để
nhào nặn thành hình dạng cho phép hận thù điên cuồng, tình yêu bị chối bỏ
và niềm kiêu hãnh bị tổn thương của bà được báo thù. Nhưng tôi cũng biết rõ
không kém khi đóng cửa với ánh sáng ban ngày, bà đã đóng lại còn nhiều
hơn thế; sống tách biệt, bà đã cách ly chính mình khỏi hàng nghìn nguồn ảnh
hưởng tự nhiên lành mạnh; trong cảnh cô độc phiền muộn, tâm hồn bà đã trở
thành bệnh hoạn, như mọi tâm hồn đang, đã hay sẽ đi ngược lại trình tự đã
được đấng Tạo hóa của chúng vạch ra. Và liệu tôi có thể nhìn bà không chút
cảm thông hay không khi chứng kiến sự trừng phạt bà phải chịu trong cảnh
suy tàn của bà, trong sự lạc lõng tột độ của bà với trái đất này, nơi bà đang
phải sống, trong vẻ muộn phiền phù phiếm đã trở thành một chứng cuồng dại,
cũng giống như những sự phù phiếm dưới vỏ bọc của chuộc tội, của ăn năn,
của sự đáng khinh, hay những hình thức phù phiếm kỳ quái khác vẫn bị
nguyền rủa trên thế giới này?
“Cho tới tận khi cậu nói chuyện với con bé hôm ấy, và cho tới tận khi
ta thấy ở cậu tấm gương cho ta nhìn thấy những gì chính ta từng cảm thấy, ta
không hề biết mình đã làm gì. Ta đã làm gì vậy! Ta đã làm gì vậy!” Và cứ thế
lặp lại, hai mươi, rồi năm mươi lần, Ta đã làm gì vậy!
“Cô Havisham,” tôi nói, sau khi tiếng than vãn của bà lắng xuống, “bà
có thể loại bỏ tôi khỏi tâm trí và lương tâm của bà. Nhưng Estella là một
trường hợp khác, và nếu bà có thể sửa chữa lại ít nhiều những điều sai trái
mình đã gây ra khi ngăn cách một phần bản chất tự nhiên khỏi cô ấy, làm
điều đó sẽ tốt hơn ngồi than vãn về quá khứ suốt cả trăm năm.”
“Phải, phải, ta biết thế. Nhưng, Pip - chàng trai đáng mến!” Có sự đồng
cảm chân thành đầy nữ tính dành cho tôi trong sự trìu mến mới mẻ này của
bà. “Chàng trai đáng mến! Hãy tin điều này: khi con bé mới đến, ta chỉ định
bụng sẽ cứu nó khỏi nỗi khổ như của ta. Thoạt đầu, ta không có ý gì khác.”
“Được rồi, được rồi!” tôi nói. “Tôi hy vọng là vậy.”
“Nhưng dần dần khi con bé lớn lên, và hứa hẹn sẽ rất đẹp, ta bắt đầu
làm những điều xấu xa hơn, và với những lời tán tụng, những món đồ trang
sức, những lời dạy, cũng như với con người ta luôn hiện diện trước mặt nó,
kèm theo một lời cảnh báo và viện đến những bài học ta gặp phải, ta đã đánh
cắp mất trái tim của nó, và thay bằng băng giá.”
“Đáng lẽ,” tôi không đừng được bèn lên tiếng, “tốt hơn nên để lại cho
cô ấy một trái tim tự nhiên, cho dù có bị tổn thương hay tan nát đi chăng
nữa.”
Nghe tới đây, cô Havisham ngẩn ngơ nhìn tôi một hồi, rồi lại nấc lên,
Ta đã làm gì!
“Nếu cậu biết toàn bộ câu chuyện của ta,” bà nài nỉ, “chắc cậu sẽ có
chút đồng cảm với ta và hiểu ta hơn.”
“Cô Havisham,” tôi trả lời, cố gắng nhẹ nhàng hết mức có thể, “tôi tin
tôi có thể nói là tôi có biết câu chuyện của bà, và đã biết nó từ lần đầu tiên tôi
rời khỏi nơi này. Nó đã khiến tôi thương cảm sâu sắc, và tôi hy vọng mình
hiểu được nó cũng như ảnh hưởng nó gây ra. Liệu những gì đã diễn ra giữa
chúng ta có cho tôi bất cứ lý do nào để hỏi bà một câu liên quan tới Estella
không? Không phải về hoàn cảnh hiện tại của cô ấy, mà khi cô ấy lần đầu
tiên tới đây?”
Bà đang ngồi dưới sàn, với hai cánh tay đặt lên chiếc ghế rách tướp,
đầu tựa vào chúng. Bà chăm chú nhìn thẳng vào tôi khi tôi nói ra những lời
vừa rồi, và đáp, “Cậu cứ nói.”
“Estella là con của ai vậy?”
Bà lắc đầu.
“Bà không biết sao?”
Cô Havisham lại lắc đầu.
“Nhưng ông Jaggers đã đưa cô ấy đến đây, hay cử người đưa đến?”
“Ông ấy đưa nó đến đây.”
“Bà có thể cho tôi biết chuyện ấy xảy ra thế nào không?”
Bà trả lời bằng giọng thì thầm khe khẽ, thận trọng: “Ta đã giam mình
trong những căn phòng này một thời gian dài (ta không rõ là lâu đến mức nào
nữa; cậu cũng biết đồng hồ trong này chỉ thời gian thế nào rồi) khi ta nói với
ông ấy muốn có một cô bé con để nuôi nấng, yêu thương và cứu vớt khỏi số
phận của ta. Ta gặp ông ấy lần đầu tiên khi ta mời ông ấy tới giúp ta biến nơi
này thành một nơi cô lập; vì ta đã đọc được về ông ấy trên báo trước khi ta và
thế giới đoạn tuyệt. Ông ấy nói với ta sẽ tìm xem có đứa trẻ mồ côi nào như
thế không. Đến một buổi tối, ông ấy mang con bé đang ngủ say về đây, và ta
đặt tên cho con bé là Estella.”
“Tôi có thể biết hồi đó cô ấy mấy tuổi không?”
“Hai hay ba tuổi. Bản thân nó không biết gì ngoài chuyện nó mồ côi và
được ta nhận nuôi.”
Đã quá chắc chắn về việc người phụ nữ kia chính là mẹ Estella, tôi
không cần thêm bằng chứng nào nữa để xác lập thực tế ấy trong đầu mình.
Nhưng theo tôi nghĩ, với bất cứ bộ óc nào, mối liên hệ ở đây cũng đã rõ ràng
và trực quan.
Tôi còn có thể hy vọng làm gì thêm nữa với việc kéo dài cuộc trò
chuyện này đây? Tôi đã thành công trong việc giúp Herbert, cô Havisham đã
kể cho tôi biết tất cả những gì bà biết về Estella, tôi đã nói và làm những gì
có thể để an ủi bà. Chúng tôi có chia tay với những lời nào khác nữa cũng
chẳng còn gì quan trọng; chúng tôi chia tay.
Trời đã chạng vạng khi tôi xuống cầu thang ra với bầu không khí tự
nhiên. Tôi gọi người phụ nữ đã mở cổng khi tôi vào, cho hay tôi vẫn chưa
quấy quả bà ngay mà sẽ đi vòng quanh nhà trước khi ra về. Vì tôi có một dự
cảm sẽ không bao giờ trở lại đây nữa, và cảm thấy ánh hoàng hôn đang tắt
dần rất thích hợp cho lần cuối cùng tôi ngắm nhìn nó.
Men theo đống vỏ thùng bị bỏ mặc tôi từng bước lên trên cách đây đã
lâu lắm, và trên đó mưa đã trút xuống suốt bao năm, làm chúng mục nát ở
nhiều chỗ, để lại những vũng lầy và vũng nước nhỏ trên những vỏ thùng vẫn
còn đứng vững, tôi lần bước tới khu vườn bị bỏ hoang. Tôi đi vòng quanh nó;
vòng qua góc vườn nơi Herbert và tôi đã quyết đấu với nhau; vòng qua những
lối đi nơi Estella và tôi từng dạo bước. Tất cả thật lạnh lẽo, thật cô quạnh, thật
ảm đạm làm sao!
Đi qua xưởng ủ bia trên đường trở ra, tôi nâng then cài gỉ sét của cánh
cửa nhỏ ở đầu xưởng thông ra vườn, rồi đi qua cửa. Tôi ra khỏi đó theo cửa
đối diện - giờ đã trở nên khó mở, vì chất gỗ ẩm đã long ra và trương nở, các
bản lề đã xộc xệch, và khung cửa đã mọc ngổn ngang đầy nấm - khi tôi ngoái
đầu nhìn lại. Một ký ức trẻ con bỗng lóe lên sống động một cách kỳ lạ trong
khoảnh khắc diễn ra cử chỉ vặt vãnh đó, và tôi tưởng như vừa thấy cô
Havisham bị treo trên xà. Ấn tượng đó mạnh đến nỗi tôi đứng dưới thanh xà
rùng mình từ đầu đến chân trước khi biết đó chỉ là tưởng tượng - cho dù chắc
chắn tôi đã ở đó được một lát.
Vẻ tang tóc của nơi này vào lúc ấy, cùng với nỗi kinh hoàng mà ảo giác
đó gây ra, cho dù chỉ trong thoáng chốc, khiến tôi cảm thấy một nỗi sợ hãi
không sao mô tả nổi khi tôi đi ra ngoài giữa các cánh cổng gỗ để mở ở nơi tôi
từng vò đầu bứt tóc sau khi Estella đã vò nát trái tim tôi. Đi tiếp tới sân trước,
tôi ngập ngừng không biết nên gọi người phụ nữ để ra về qua cánh cổng khóa
trái bà có giữ chìa khóa, hay trước hết lên lầu để đoan chắc cô Havisham vẫn
an toàn và khỏe mạnh như lúc tôi rời khỏi bà. Tôi làm theo lựa chọn thứ hai
và đi lên lầu.
Tôi nhìn vào căn phòng nơi tôi đã rời khỏi bà, và thấy bà ngồi trên
chiếc ghế rách tướp cạnh lò sưởi, kề sát bên ngọn lửa, lưng quay về phía tôi.
Vào khoảnh khắc rụt đầu lại để lặng lẽ ra về, tôi trông thấy một quầng lửa lớn
vụt bùng lên. Cũng vào khoảnh khắc ấy, tôi thấy bà chạy về phía mình, gào
thét thất thanh, với một quầng lửa cháy rực bao khắp quanh bà, và bùng lên
cao ít nhất gấp đôi chiều cao bà.
Tôi đang mặc một chiếc áo khoác dài có vạt kép, và đang vắt trên cánh
tay một cái áo choàng dày nữa. Tôi cởi chúng ra, lấy chúng quấn quanh
người bà, đẩy bà xuống và phủ chúng lên trên bà; tôi giật tấm khăn trải bàn
lớn từ trên bàn xuống với cùng mục đích, và cùng với nó lôi xuống đống mục
nát ở giữa bàn cũng như mọi thứ ghê tởm trú ngụ trong đó; rồi chúng tôi vật
lộn dưới sàn như hai kẻ thù một mất một còn, và tôi càng trùm kín bà, cô
Havisham lại càng la hét cuồng loạn và muốn vùng ra hơn - việc tất cả những
chuyện kể trên đã xảy ra, tôi chỉ biết thông qua kết quả, chứ không hề qua bất
cứ điều gì tôi cảm thấy hay nghĩ, hay biết mình đã làm. Tôi không biết gì cho
tới khi biết rằng chúng tôi đang ở dưới sàn cạnh cái bàn lớn, và những tàn lửa
còn sáng lập lòe đang lơ lủng trong không khí mù mịt khói, tất cả những gì
còn lại của thứ chỉ mới một khoảnh khắc trước thôi còn là bộ đồ cô dâu bạc
màu của cô Havisham.
Thế rồi tôi nhìn quanh và trông thấy đám bọ dừa và nhện bị quấy quả
đang cuống cuồng chạy ra xa trên sàn, còn những người hầu đang từ cửa lao
vào cùng tiếng la hét lạc giọng. Tôi vẫn giữ chặt bà xuống bằng tất cả sức lực
của mình, như thể đó là một tù nhân muốn đào tẩu; và tôi thậm chí ngờ rằng
chẳng rõ mình có biết được bà là ai, hay tại sao chúng tôi đã vật lộn, hay
chuyện bà đã bị lửa bén vào, hay ngọn lửa đã lan ra, cho đến khi tôi nhìn thấy
những mảnh tro tàn từng là trang phục của bà giờ không còn sáng lập lòe mà
rơi xuống quanh chúng tôi như một cơn mưa đen kịt.
Cô Havisham đã bất tỉnh, và tôi sợ phải di chuyển, hay thậm chí chạm
vào bà. Người ta gọi trợ giúp, và tôi đỡ lấy bà cho tới khi trợ giúp tới, như thể
tôi đã tưởng tượng một cách vô lý (tôi nghĩ mình đã tưởng tượng thế thật) là
nếu tôi buông bà ra, ngọn lửa sẽ bùng lên trở lại và thiêu cháy bà. Khi đứng
dậy sau lúc bác sĩ ngoại khoa cùng những người khác đã tới cứu chữa cho bà
chủ nhà, tôi kinh ngạc nhận ra cả hai bàn tay mình đều bị bỏng; vì tôi không
hề biết được chuyện này thông qua cảm giác.
Kết quả kiểm tra cho thấy bà đã bị những vết thương nghiêm trọng,
song bản thân chúng còn xa mới bị coi là vô vọng; nguy hiểm nằm chủ yếu ở
cơn sốc tinh thần. Theo chỉ dẫn của ông bác sĩ ngoại khoa, đồ trải giường của
bà được đưa vào phòng và rải ra trên chiếc bàn lớn, một nơi thật tình cờ lại
rất thích hợp cho việc băng bó các vết thương cho bà. Khi tôi lại thấy bà một
giờ sau đó, quả thực bà đã nằm đúng chỗ tôi từng thấy bà gõ gậy lên và nói
bà sẽ nằm xuống một ngày nào đó.
Cho dù toàn bộ trang phục của bà đều đã cháy trụi, như người ta cho
tôi hay, cô Havisham vẫn có chút gì đó của dáng vẻ một hồn ma cô dâu trước
đây; vì người ta đã dùng bông quấn lên người bà tới tận cổ, và khi bà nằm đó
với một tấm ga trắng phủ hờ lên trên, dáng vẻ hồn ma của một thứ đã từng
tồn tại và đã thay đổi vẫn lưu lại trên bà.
Hỏi chuyện đám người hầu, tôi được biết Estella đang ở Paris, và tôi
nhận được lời hứa từ ông bác sĩ là ông này sẽ viết thư cho cô ngay vào
chuyến xe bưu vụ tiếp theo. Tôi nhận lấy phần thông báo cho gia đình cô
Havisham; tôi dự định chỉ báo cho ông Matthew Pocket và để ông toàn quyền
làm như ý mình về phần thông báo cho những người còn lại. Tôi làm việc
này vào hôm sau thông qua Herbert ngay khi tôi trở vào thị trấn.
Tối hôm ấy, có một lúc bà nói một cách tỉnh táo về những gì đã xảy ra,
cho dù với vẻ cuồng loạn khủng khiếp. Đến gần nửa đêm, lời nói của bà bắt
đầu trở nên lộn xộn; sau đó, nó dần dà chỉ còn là vô số lần bà nói với giọng
nghiêm trang khe khẽ, “Ta đã làm gì!” Và rồi, “Khi con bé mới đến, ta chỉ
định bụng sẽ cứu nó thoát nỗi khổ như của ta.” Rồi sau đó, “Hãy cầm lấy cái
bút chì và viết dưới tên ta, ‘Tôi tha thứ cho bà ấy!’ ” Bà không bao giờ thay
đổi thứ tự của ba câu kể trên, nhưng đôi khi bỏ mất một chữ ở câu này hay
câu kia; không bao giờ thay vào bằng một chữ khác, mà luôn để một khoảng
trống trước khi chuyển sang chữ tiếp theo.
Vì tôi không giúp được gì tại đây, đồng thời do ở gần nhà hơn, lại có lý
do cấp thiết để lo lắng và e sợ, đến mức cả cơn mê sảng của bà cũng không
thể xua được chúng ra khỏi tâm trí, tôi quyết định trong đêm là sẽ trở về bằng
chuyến xe trạm lúc sáng sớm, đi bộ chừng một dặm, rồi được xe đón lên ở
bên ngoài thị trấn. Vì thế, vào lúc khoảng sáu giờ sáng, tôi cúi xuống cô
Havisham và áp môi lên môi bà, trong khi chúng vẫn mấp máy, không hề
ngừng lại khi được chạm vào, “Hãy cầm lấy cái bút chì và viết dưới tên ta,
Tôi tha thứ cho bà ấy!”