Sự khác biệt giữa thất bại và thành công là giữa làm gần đúng, và làm thật đúng.

Edward Simmons

 
 
 
 
 
Tác giả: Raymond Khoury
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Last Templar
Dịch giả: Lê Trọng Nghĩa
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: phamhoai
Số chương: 90 - chưa đầy đủ
Phí download: 9 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2056 / 39
Cập nhật: 2017-05-22 09:44:48 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 47
ông Địa Trung Hải – tháng Năm năm 1291
Họ dong buồm về hướng Bắc dọc theo bờ biển suốt đêm và khi bình minh đến, chiếc thuyền rẽ về phía Tây và hướng về đảo Cyprus tìm nơi ẩn náu an toàn cho người thầy của họ ở đó.
Sau mười mấy giờ đồng hồ chấn động vừa qua ở Acre, Martin xuống dưới cố gắng nghỉ ngơi, nhưng chuyển động của con thuyền làm việc đó trở nên thật khó khăn, và hình ảnh của vị Thủ lĩnh đang hấp hối cũng như cuộc đào thoát cứ ám ảnh đầu óc anh. Martin trở lại boong thuyền vào lúc rạng đông và bàng hoàng vì những gì trông. Phía trước họ, những tia chớp sáng lòa xé rách màn đêm tối đen của một cơn bão đang tiến tới rất nhanh, có thể nghe được tiếng sấm đì đoàng từ xa dội lại trong tiếng rít của những cơn gió lạnh buốt thổi qua con thuyền. Phía sau họ, về hướng Đông, một dải mây màu tím, giận dữ cuồn cuộn dâng lên che lấp mặt trời đang lên, những tia nắng đâm thẳng lên trên trong nỗ lực vô vọng nhằm chiếu sáng bầu trời u ám kia.
Làm sao có thế như thế được? Martin nghĩ. Hai cơn bão, một chặn ở phía trước, một đuổi theo phía sau. Một lời trao đổi ngắn gọn với Hugh xác thực một điều là vị thuyền trưởng cũng chưa bao giờ chứng kiến một hiện tượng nào như vậy.
Họ đã bị mắc kẹt giữa hai cơn bão.
Gió thổi nhanh và mạnh hơn, và cùng với gió là cơn mưa bất chợt đổ xuống, lạnh buốt và nhức nhối. Cánh buồm quật dữ dội vào cột buồm, những người thủy thủ vật lộn cố gắng buộc chặt các dây nhợ, cột buồm rên rỉ oằn mình chống đỡ. Những con ngựa trong khoang thuyền không ngớt hí vang và gõ móng xuống sàn gỗ ván. Martin nhìn vị thuyền trưởng khi ông đang luống cuống tham khảo tấm bản đồ, đánh dấu vị trí hiện tại của con thuyền trước khi ra lệnh cho viên đốc công thúc đám nô lệ chèo thuyền tăng tốc độ và hét lên thật to các hướng đi mới với tay lái thuyền trong nỗ lực tuyệt vọng thoát ra khỏi hai cơn bão.
Martin đến gặp Aimard ở khoang trước mũi tàu. Người hiệp sĩ lớn tuổi hơn cũng đang quan sát hai cơn bão tiến tới với nỗi lo âu càng lúc càng tăng. “Như thể chính Thượng đế muốn biển cả nuốt chửng chúng ta vậy,” Aimard nói với Martin, mắt nhói lên vẻ bứt rứt không yên. Chẳng bao lâu, cơn bão bùng lên dữ dội xung quanh họ. Bầu trời tối sầm lại thành một màu đen kịt, biến ngày thành đêm, và gió trở thành cơn cuồng phong. Xung quanh con tàu, mặt biển đục ngầu bỗng vỡ tung thành những con sóng bạc đầu khổng lồ lao về phía họ, đập vào mạn phải đuôi tàu. Sét liên tục nối nhau lóe lên cùng với những tiếng nổ inh tai, và cơn mưa nặng hạt quất xuống con tàu như một tấm màn nước dày đặc, tách biệt con tàu với thế giới bên ngoài.
Hugh ra lệnh cho người thủy thủ trèo lên cột buồm để quan sát phía chân trời, tìm một chỗ đất liền có thể cập bến. Martin nhìn anh chàng thủy thủ lì lợm bất chấp cơn mưa xối xả leo lên cái chòi trên đỉnh cột buồm. Chiếc thuyền vẫn rẽ sóng lao đi khi những con sóng khổng lồ dồn dập đập vào nó, một vài con sóng nhô cao qua đuôi tàu và ập xuống mặt boong. Những mái chèo tự chuyển động, một số va đập vào thân tàu, số khác dữ dội quật vào những nô lệ vẫn bị xiềng xích và đang vật vã chống lại chúng, làm bị thương nhiều người, và Hugh phải ra lệnh kéo các mái chèo vào.
Chiếc thuyền bất lực tròng trành giữa những con sóng cao như núi đã hàng giờ đồng hồ thì bỗng có một tiếng động chói tai. Martin nghe như có cái gì đó vỡ ra, khi nắp cửa hầm chứa hàng phía đuôi tàu bật tung lên và dòng nước xanh thẫm tràn vào các khoang tàu. Gần như ngay lập tức, con tàu rơi vào tình trạng nguy ngập hoàn toàn khi từ phía trên vang lên âm thanh răng rắc của những thanh gỗ đang bị xé toạc. Cột buồm đã gãy tách ra, Martin nhìn lên đúng lúc cây cột buồm đổ ập xuống, đè lên ba người thủy thủ, anh chàng hoa tiêu đen đủi trong cái chòi trên đỉnh cột buồm bị văng xuống mặt biển đang sôi sùng sục.
Không còn buồm và cũng chẳng còn mái chèo, chiếc thuyền như bị phó mặc cho cơn bão và dòng nước, biển cả cuồng nộ đẩy tới đẩy lui vô mục đích. Cả ba ngày ba đêm, cơn bão vẫn không dịu đi, chiếc Falcon Temple oằn mình dưới sức mạnh tàn bạo của cơn bão, nhưng chẳng biết sao vẫn trôi nổi chưa bị vỡ thành từng mảnh. Và rồi đến ngày thứ tư, khi những cơn gió vẫn còn chưa dịu lại, một tiếng thét lẻ loi đột ngột vang lên, “Đất liền! Đất liền!” Martin nhìn ra và thấy một thủy thủ thẳng tay chỉ về phía trước, nhưng anh không thấy gì cả ngoài mặt biển đang dậy sóng. Và rồi, Martin cũng phát hiện ra: một khối đen, ở phía xa, tận đường chân trời, hầu như không thể thấy rõ.
Và rồi, chuyện đó đã xảy ra.
Thật ác nghiệt, trong khi đất liền đã ở trong tầm mắt, chiếc thuyền bắt đầu vỡ toác ra. Còn thuyền đóng bằng ván sàn, ngay cả những tấm ván đã trải qua những va đập dữ dội nhất, bây giờ cũng không chịu đựng nổi. Những tiếng kẽo kẹt inh tai được nối tiếp bởi những âm thanh giống như những tiếng nổ khi toàn bộ thân tàu vỡ ra. Sự hoảng loạn bùng lên trong đám nô lệ trèo thuyền vẫn đang bị xiềng xích, cùng lúc những con ngựa bên dưới lồng lên và kí vang một cách điên cuồng.
“Bọn nô lệ,” Hugh gầm lên. “Tháo xiềng ra trước khi chúng chết đuối!” Các thủy thủ bò vào để tháo xiềng cho họ, nhưng sự tự do của những người nô lệ thật ngắn ngủi, những dòng nước ầm ầm ùa vào thân tàu cuốn trôi tất cả bọn họ.
Hugh chẳng thể làm gì nữa để ngăn chặn cái việc không thể tránh khỏi. “Hạ thủy xuồng lớn,“ Hugh lại hét lên, “bỏ tàu” Martin lao tới giúp giữ chặt phương tiện cứu sinh duy nhất của họ và thấy Aimard xuất hiện, mang tới một cái túi da kềnh càng, đi về hướng ngược lại, về phía mũi tàu. Martin gào thét gọi tên Aimard vừa lúc một con sóng khổng lồ khác ập đến, Aimard bị cuốn ngã nhào vào buồng lái và bị ghìm cứng vào bản hải đồ, một bên ngực va mạnh vào góc bàn. Người hiệp sĩ già kêu lên đau đớn nhưng vẫn nghiến răng, cố hết sức đứng dậy, một tay ôm chặt mạng sườn. Aimard không chịu để cho Martin giúp đỡ, không chịu buông cái túi da, dù sự cồng kềnh và sức nặng của cái tũi rõ ràng chỉ làm Aimard xoay xở khó khăn hơn.
Họ chỉ đủ thời gian leo vào chiếc xuồng lớn, giờ đang nằm ngang độ c boong chiếc thuyền, và Martin chỉ kịp liếc nhìn lần cuối chiếc Falcon Temple khi rút cuộc con tàu nát tươm bị đại dương cuồng nộ nuốt chửng. Cây đà gỗ khổng lồ có một đầu là hình chạm khắc đầu một con chim ưng gãy gập như một cành cây trước sức mạnh khủng khiếp của cơn bão, và bất cứ tiếng động nào mà nó tạo ra đều bị tiếng rít điên cuồng của gió và những tiếng hí ghê rợn của lũ ngựa đang bị chìm dần át đi. Nhìn tám nhân mạng khác trên chiếc xuồng lớn, Martin nhìn thấy nỗi khiếp đảm của mình phản chiếu trong những ánh mắt trừng trừng đau buồn của họ, trong khi đó từng phần từng phần một rồi cả chiếc thuyền biến mất dưới những ngọn sóng cao như núi.
Chính những con sóng và ngọn gió cuốn họ đi, lắc lư chiếc xuồng lớn như thể nó được làm bằng giấy, nhưng ngay sau đó vị thuyền trưởng đã bố trí sáu trong chín người sống sót điều khiển mái chèo chống chọi lại những cú lắc hung bạo nhất. Trong lúc trèo, Martin chỉ ngây người nhìn về phía trước, sự mệt mỏi và tuyệt vọng đã làm chàng hiệp sĩ trẻ suy sụp. Họ bị đuổi khỏi Đất Thánh và giờ chiếc Falcon Temple cũng đã mất. Martin băn khoăn tự hỏi không biết họ sẽ sống sót được bao lâu dù có vào được đất liền. Dù có ở đâu thì bây giờ họ cũng đang rất xa quê nhà, sâu trong những lãnh thổ quân địch, và hầu như không được trang bị gì để tự vệ trước những kẻ thù trang bị nghèo nàn nhất.
Chiếc xuồng lớn lao đi như thế hàng giờ đồng hồ trước khi những con sóng hạ thấp dần độ cao, và cuối cùng thì họ thấy dải đất liền mà người canh gác đã phát hiện. Không bao lâu sau, họ kéo chiếc xuồng lớn qua sóng vỗ ven bờ, vào nơi an toàn trên một bãi cát. Cơn bão vẫn gầm rít và cơn mưa lạnh giá vẫn quất xuống làm thân thể họ đau rát, nhưng ít ra họ đã có mặt đất dưới chân mình.
Sau khi dùng kiếm phá thủng đáy xuồng, họ đẩy nó trở lại biển để không ai lang thang dọc theo mép nước ven bờ có thể phát hiện sự có mặt của họ, đại dương vẫn đang giận dữ dù mắt bão đã đi qua. Hugh bảo với mọi người là khi cơn bão ập đến thì bọn họ đang hướng về phía Bắc, và ông ta tin là chiếc Falcon Temple đã bị cuốn quanh đảo Cyprus rồi sau đó cũng bị đẩy về hướng Bắc. Căn cứ vào kiến thức và sự thông thạo của người thủy thủ, Aimard quyết định tránh vùng bờ biển trống trải, đi sâu vào đất liền trước khi ngoặt theo hướng Tây để tìm một bến cảng nào đó.
Không bao lâu sau, những ngọn đồi thấp đã che chắn bớt gió cho họ, quan trọng hơn, che chở họ khỏi ánh mắt tò mò của bất kỳ một người dân địa phương nào. Có vẻ như họ không phải đối đầu với mối nguy hiểm này; họ không thấy một người nào, không nghe thấy gì ngoài tiếng gầm rít của cơn bão. Ngay cả những loài động vật hoang dã cũng không có, rõ ràng bị đe dọa tiết khắc nghiệt nơi đây. Suốt chặng đường dài và mệt mỏi, Martin có thể nhận ra là tình trạng của Aimard đang dần xấu đi. Cú đập vào lồng ngực quả là một đòn nặng và sự tổn thương nghiêm trọng do cú ngã gây ra bắt đầu phát tác. Bề ngoài có vẻ nhưng hoàn toàn bình thản trước cơn đau đang hoàng hành trong cơ thể mình, người hiệp sĩ già tiếp tục dấn bước đầy dũng cảm, khư khư giữ lấy cái túi da cồng kềnh trong khi tay ôm chặt bên sườn đau nhức.
Khi bắt gặp một thị trấn, họ thoáng lo là có thể phải chiến đấu trong tình trạng hiện tại. Họ không chỉ bị thương và yếu ớt mà còn quá ít vũ khí. Nỗi lo sợ đó rồi cũng bị lấn át bởi niềm hy vọng có thể sẽ tìm được ít lương thực ở thị trấn đó. Và rồi cả nỗi sợ hãi lẫn hy vọng của họ đều thành ra vô căn cứ. Thị trấn bị bỏ hoang, những ngôi nhà trống rỗng. Ngay giữa trung tâm thị trấn là những dấu vết còn lại của một nhà thờ. Các bức tượng vẫn còn nguyên vẹn, nhưng mái chỉ là một khung gỗ đã cháy thành than, vẫn đang treo cao tít trên những cột đá. Khó mà nói được những hành động mạo phạm này đã xảy ra trước đây bao lâu. Chắc chắn là đã hàng tuần hoặc thậm chí hàng tháng, và có thể đã hàng năm qua.
Phía bên kia nhà thờ, một cây liễu già cao lớn rủ cành lá sum sê xuống một miệng giếng.
Thận trọng, những kẻ sống sót ngả mình trên nền đất nghỉ ngơi. Trong số tất cả bọn họ, tình trạng của Aimard là tồi tệ nhất. Đang múc nước từ giếng lên cho Aimard thì Martin bỗng nghe thấy một âm thanh, tiếng reo ngân êm ái và du dương của những chiếc chuông. Những con người tơi tả và rách nát hấp tấp tìm chỗ ẩn nấp và lặng lẽ quan sát khi một bầy dê nhỏ đi ngang qua con đường hẹp. Chẳng bao lâu, bọn dê bu quanh miệng giếng, cào bới một cách vô vọng tìm thức ăn, vài con kéo các cành liễu xuống, nhai ngấu nghiến. Người chăn dê xuất hiện, một ông lão vừa gù vừa què, theo sau là một cậu bé.
Martin liếc nhìn, Aimard gật đầu đồng ý cho Martin nắm quyền chỉ huy. Dùng tay ra hiệu, Martin cho nhóm người của mình tỏa ra phía ngoài để tiếp tục quan sát, trong lúc đó Hugh và anh tiếp tục tiến về phía ông lão, ông ta lập tức quỳ xuống, van xin họ đừng giết ông ta và thả thằng cháu ra. Giống như một số các Huynh đệ Chiến hữu của họ, Martin và Aimard biết nói một chút tiếng Ả rập. Dù vậy, phải mất một lúc lâu mới làm ông lão yên tâm và tin tưởng là mạng sống ông ta an toàn. Và phải mất lâu hơn nữa để giải thích là họ muốn mua một con dê chứ không phải chiếm đoạt bằng vũ lực. Không phải là họ có tiền hoặc những thứ đồ quý giá này nọ, nhưng họ đã cố gom góp những thứ đồ đạc quần áo linh tinh để ít ra thì cũng là một cuộc thỏa thuận trao đổi dù rằng tất cả những thứ họ gộp lại chưa đủ bằng giá trị của con dê. Trong khi ông lão chăn dê và đứa cháu phụ việc lấy nước cho bầy gia súc của họ, các hiệp sĩ xẻ thịt con dê và với một viên đá lửa, họ nhóm lửa để nướng thịt. Họ ông lão và cậu bé cùng ăn.
Hành động tử tế đó có lẽ đã cứu mạng họ.
Ông lão, người nói cho họ biết tên thị trấn là Fonsalis, rất biết ơn vì được sống sót. Cuối buổi chiều, ông lão cùng đứa cháu phụ việc và đàn gia súc lại tiếp tục lang thang. Đã no nê và sung sức trở lại, các hiệp sĩ và thủy thủ lại tiếp tục nghỉ ngơi, yên chí là họ có thể bắt đầu lại cuộc hành trình vào sáng mai.
Nhưng thời gian nghỉ ngơi của họ không được lâu.
Người hiệp sĩ đứng canh gác nghe thấy tiếng động trước tiên và báo với Martin. Có người đang chạy, đang trên đường đến. Đó là thằng bé, cháu ông lão chăn dê. Thở hổn hển và rõ ràng là rất sợ hãi, thằng bé báo tin một toán quân Mameluke[41] đang trên đường kéo đến. Ông lão đã từng gặp phải bọn chúng trước đó, bị bọn chúng cướp bóc, và biết rằng bọn chúng sẽ đến đây để lấy nước.
Họ không còn chọn lựa nào khác ngoài việc phải chiến đấu chống lại bọn Mameluke này.
Với sự hỗ trợ của Aimard, Martin nhanh chóng vạch kế hoạch cho một cuộc phục kích. Giữ khoảng cách đều nhau, mọi người sẽ theo đội hình chữ V, cánh công khai sẽ đối đầu trực diện với quân địch đang tiến đến, điểm nút là cái giếng.
Họ tận dụng những mảnh sắt đầu thừa đuôi thẹo trong ngôi nhà thờ đổ nát để bổ sung cho mớ vũ khí đơn sơ của mình và tháo cuộn dây thừng trên miệng giếng ra. Hugh và một người trong đám thủy thủ kéo sợi thừng về vị trí của mình, ở phía đầu mở của đội hình chữ V. Họ đắp đất phủ lên đoạn dây bắc ngang qua con đường mà bọn kỹ sĩ Mameluke sẽ tiến đến, và tất cả mọi người vào vị trí của mình. Khi đã chắc chắn không còn điều gì có thể làm hỏng kế hoạch của họ, Martin nấp sau giếng, cúi thấp xuống và chờ đợi.
Họ không phải chờ đợi lâu. Họ nghe thấy tiếng bọn Mameluke trước khi thấy chúng, tiếng cười nói của bọn chúng vang lên giữa không gian tĩnh lặng. Rõ ràng, những hoạt động của bọn chúng trong khu vực này đã cho bọn chúng cái cảm giác hoàn toàn chắc chắn là chúng không thể bị tấn công. Bọn Mameluke rất đáng sợ. Khoảng năm mươi năm trước đây, hàng ngàn thanh niên trẻ khu vực này đã bị bán làm nô lệ cho quốc vương Ai Cập. Kẻ thống trị lúc đó, không bao giờ tưởng tượng được hậu quả hành động của mình, đã sử dụng những thanh niên trai trẻ này để thành lập Đội Vệ binh Quốc gia và gọi họ là Mameluke, một từ Ả rập nghĩa là “bị sở hữu”. Vài năm sau, bọn Mameluke chủ mưu một cuộc đảo chính và chẳng bao lâu sau, nắm quyền cai trị Ai Cập. Bọn chúng thậm chí còn đáng sợ hơn những kẻ trước kia đã bán chúng làm nô lệ.
Trang phục và nai nịt kỹ lưỡng trong những bộ áo giáp bằng da và sắt, mỗi kỵ sĩ còn mang theo một thanh gươm dài có bao ngoài và một dao găm ở thắt lưng. Phía bên kia các quả táo yên ngựa của mỗi con ngựa là một khiên tròn, lớn, làm bằng kim loại, và những là cờ hiệu đuôi nheo đủ màu sắc gắn ở các ngọn giáo bay phấp phới trong đám bụi mù xung quanh bọn chúng.
Martin đếm. Ước lượng của thằng bé chính xác. Có hai mươi mốt tên. Martin biết hoặc tất cả bọn chúng phải chết, hoặc số phận của chính mình và các chiến hữu sẽ chấm dứt. Nếu một tên trong bọn chúng trốn thoát, nhiều tên khác sẽ quay trở lại.
Khi tên Mameluke cuối cùng đã đi qua vị trí do Hugh và một người nữa trấn giữ, Martin nghe thấy tiếng tên chỉ huy của bọn chúng tiến đến cái giếng và xuống ngựa. Từ phía sau giếng, Martin lao vọt ra, như bắn khỏi một khẩu đại bác, và nhanh chóng hạ gục cả hai tên bằng những nhát kiếm ác liệt. Nhiều tên Mameluke khác cũng đang xuống ngựa trong lúc những thủy thủ sống sót ùa ra khỏi vị trí ẩn núp, thét vang những tiếng thét chiến đấu, tấn công bọn kỵ sĩ đang sửng sốt bằng bất kỳ thứ vũ khí nào họ có trong tay. Hoàn toàn bất ngờ, vô cùng hiệu quả.
Những tên còn trên lưng ngựa, quay ngựa, thúc chúng phóng nước đại quay ngược trở lại. Khi chúng đến ngang tầm Hugh, viên thuyền trưởng nâng sợi dây kéo nó thật căng. Bọn kỵ sĩ không trông thấy sợi dây. Những con ngựa đầu tiên ngã nhào, các con khác ngã dúi dụi xô vào, bọn kỹ sĩ bị quăng quật chồng chất lên nhau một cách bất lực. Các hiệp sĩ đã sẵn sàng xông đến bọn chúng và không bao lâu, không một tên Mameluke nào sống sót ở phía đầu kia của chiến trường.
Nhưng đó chỉ là một chiến thắng nhỏ bé. Trong cuộc chiến hỗn loạn, hai thủy thủ và hai hiệp sĩ đã hy sinh. Còn lại năm người, kể cả hiệp sĩ Aimard đang bị thương.
Nhưng giờ họ đã có ngựa và vũ khí.
Đêm đó, sau khi chôn cất những người đã hy sinh, những người sống sót nằm ngủ bên cạnh tường của ngôi nhà thờ đổ nát, thay phiên nhau canh gác. Dù vậy, Martin không thể ngủ được, tâm trí vẫn rối bời, Martin rơi vào tình trạng cảnh giác quá mức với bất kỳ tiếng động và chuyển động nào.
Martin nghe có tiếng sột soạt từ bên trong nhà thờ, chỗ Aimard nằm nghỉ. Anh biết người hiệp sĩ lớn tuổi rất đau đớn và anh cũng nghe thấy tiếng ông ho ra máu nhiều lần. Martin đứng dậy, bước vào nhà thờ qua cánh cổng cháy đen. Aimard không có ở nơi Martin đã đặt ông nằm. Martin căng mắt nhìn vào bóng tối và phát hiện người hiệp sĩ lớn tuổi đang ngồi, ánh sáng từ đống lửa nhỏ lập lòe bùng lên theo từng cơn gió cuộn xuống của mái nhà trống. Tiến đến bên Aimard, Martin thấy ông đang bận viết cái gì đó. Một lá thư. Bên cạnh Aimard là một cái máy kỳ lạ, có bánh răng, Martin chưa bao giờ nhìn thấy.
Aimard ngẩng đầu nhìn lên, nhìn Martin qua ánh lửa. “Tôi cần cậu giúp chuyện này,” Aimard nói, giọng khàn khàn cáu kỉnh.
Martin ngập ngừng tiến đến, cảm thấy cơ bắp căng cứng. “Tôi có thể làm chuyện gì cho ngài?” Martin hỏi.
“Có vẻ như sức lực tôi đã cạn kiệt,” Aimard ho. “Đến đây nào.” Người hiệp sĩ lớn tuổi đứng dậy, nhấc cái túi da lên với vẻ đau đớn cùng cực, dẫn Martin vào sâu hơn trong nhà thờ đến một khu vực có nền nhà được làm bằng đá phiến, một số viên đá có khắc tên tuổi và ngày tháng. Martin nhận ra chúng là những tấm bia mộ.
“Tấm này,” Aimard thốt lên khi dừng lại trên một phiến đá có khắc chữ Romiti.
Martin chăm chăm nhìn người hiệp sĩ già vẻ dò hỏi, không biết ông định làm gì. Aimard cố nở nụ cười. “Tôi cần cậu mở tấm bia mộ lên.”
Không đợi một lời giải thích nào nữa, Martin rút gươm ra và dùng nó để nạy bật phiến đá lên.
“Cứ giữ như vậy cho tôi,” Aimard yêu cầu trong lúc quỳ xuống để nhét túi da vào cái khoảng trống tối đen kia. Khi đã xong, Aimard gật đầu với chàng hiệp sĩ trẻ. “Vậy là được rồi.” Martin cẩn thận hạ phiến đá xuống. Aimard kiểm tra lại để chắc chắn là việc làm vừa rồi của họ không để lại dấu vết nào, rồi đứng dậy và quay trở lại chỗ nằm nhỏ bé của mình, đau đớn ngả người xuống nền đất.
Martin nhìn vào bóng tối, những ý tưởng rối rắm quay cuồng trong đầu. Khi Aimard de Villiers lần đầu động viên anh gia nhập Dòng tu, Martin cảm thấy rất vinh dự và phấn khích. Suốt ba năm đầu tiên, niềm vinh dự đó rõ ràng đã được minh chứng – các Hiệp sĩ Đền Thánh quả thực là một nhóm hiệp sĩ cao quý gồm những con người vô cùng quả cảm, một lòng một dạ với Thượng Đế, với nhân loại, với Giáo hội. Nhưng giờ đây Đất Thánh đã mất, họ sẽ trở thành gì? Martin không còn thấy rõ mục đích của họ nữa.
Giờ đây những chuyện khác làm anh lo lắng lại hiện ra. Đã nhiều năm qua, Martin biết có những điều tế nhị không được nói ra trong nội bộ Dòng tu, Martin biết, từ những lần tình cờ nghe lỏm được trong các cuộc chuyện trò trao đổi rằng có sự va chạm giữa dòng Đền Thánh và Giáo hội. Ở cái nơi mà Martin nghĩ là cần có sự gắn kết bền chặt và tin tưởng thì anh lại cảm thấy mối bất đồng và ngờ vực. Nhiều đến độ Giáo hội đã không hợp tác với những yêu cầu tăng cường quân số mới đây. Do sự từ chối giúp đỡ của Giáo hội, số phận của lực lượng trấn thủ thành Acre đã được định đoạt. Phải chăng Giáo hội cố tình đặt dòng Đền vào tình thế nguy nan?
Martin nghĩ đó ngay. Chắc chắn là không.
Rồi sau đó là những cuộc họp bí mật gồm một vài thành viên cao cấp của dòng Đền do Đại Thủ lĩnh William de Beaujeu tổ chức. Những cuộc họp mà ai nấy đều trở ra với gương mặt cau có, lầm lì. Những thành viên cao cấp như Aimard de Villiers mà tính cách cởi mở và trung thực luôn làm Martin quý mến. Có một cái hộp được chạm khắc tinh tế, những lời lẽ bí ẩn giữa Aimard de Villiers và vị Đại Thủ lĩnh ngay trước khi họ bước xuống Falcon Temple. Và giờ là cái này.
Phải chăng anh không được tin tưởng?
“Martin”
Giật mình, anh quay lại đối diện với Aimard, khuôn mặt Aimard nhăn lại vì đau đớn, giọng nói thì thào, chỉ còn là tiếng làu bàu trong cổ họng.
“Tôi biết những gì hẳn đang hiện diện trong suy nghĩ của cậu. Nhưng hãy tin tôi, khi tôi nói với cậu những điều này… Có những điều cậu phải biết, những điều cậu cần phải biết, nếu Dòng tu của chúng ta sống sót. William đã giao phó cho tôi cả tri thức và trách nhiệm, nhưng…” Aimard đột ngột ngưng lại, ho sù sụ, rồi chùi miệng trước khi bắt đầu tiếp tục nói, chậm rãi. “Cuộc hành trình của tôi kết thúc ở đây, cả hai chúng ta đều biết điều đó,” Aimard đưa tay lên để ngăn những lời phản đối của Martin. “Tôi phải giao lại cái tri thức này cho anh. Anh phải hoàn thành nhiệm vụ mà tôi mới chỉ vừa bắt đầu.”
Martin thoáng cảm thấy tội lỗi vì những ý nghĩ nhỏ nhen của mình.
“Ngồi xuống đây với tôi,” Aimard nói. Và sau vài khoảnh khắc để lấy hơi, người hiệp sĩ già bắt đầu nói.
“Đã nhiều năm rồi, có một bí mật mà chỉ có một số ít người trong Dòng tu của chúng ta được biết. Ban đầu, chỉ có chín người được biết. Chưa bao giờ nhiều hơn số đó được chia sẻ tri thức này. Nó nằm ngay ở trung tâm của dòng Đền chúng ta, và nó cũng là nguồn gốc gây ra sự sợ hãi và đố kỵ của Giáo hội.”
Aimard đã nói chuyện thâu đêm. Thoạt tiên, Martin không tin, rồi anh lại cảm thấy cảm giác kinh ngạc và giận dữ đang lớn dần, nhưng vì chính Aimard là người đang kể lại điều đó cho anh, từ trong thâm tâm Martin biết câu chuyện này không thể là chuyện tưởng tượng. Nó chỉ có thể là sự thật.
Trong khi Aimard tiếp tục câu chuyện, Martin nhận thấy giọng nói của người hiệp sĩ già rất yếu ớt và ngắt quãng. Nỗi giận dữ của Martin chuyển thành sự kính sợ và rồi gần như lấn át hết mọi cảm xúc khác về tính cao quý của mục đích cao cả. Đối với Martin, Aimard như một người cha, và sự tận tụy hết mình của người hiệp sĩ già có một trọng lượng rất lớn trong mắt Martin. Từ từ nhưng chắc chắn nó đang thấm vào anh, khắc sâu vào tâm hồn anh cùng với từng lời Aimard nói.
Lúc mặt trời mọc, họ vẫn còn đang trò chuyện. Khi Aimard ngừng kể, Martin vẫn im lặng một lúc rồi lên tiếng hỏi. “Ông muốn tôi làm gì?”
“Tôi đã viết một lá thư,” Aimard trả lời. “Một lá thư phải được trao tận tay cho Đại Thủ lĩnh của Đền thờ Paris. Không một ai khác được thấy lá thư này.” Aimard trao lá thư cho Martin, anh cũng không thể đọc được lá thư. Aimard gật đầu chỉ cái thiết bị có bánh răng ở bên cạnh. “Lá thư này đã được mã hóa… để phòng trường hợp bị rơi vào tay kẻ thù.”
Aimard dừng lại liếc ra ngoài, hướng về phía những người còn lại. “Chúng ta đang ở trên lãnh thổ của quân thù và chỉ còn lại bốn người các cậu.” Aimard tiếp tục. “Chỉ ở cùng nhau cho đến khi chúng ta phải làm vậy, sau đó hãy chia thành hai cặp. Chọn hai lộ trình khác nhau để đến Paris. Tôi đã chép thêm một bản khác. Mỗi cặp sẽ giữ một bản. Hãy nhấn mạnh với những người kia tầm quan trọng của sứ mệnh, nhưng đừng, tôi khẩn cầu cậu đấy, đừng tiết lộ cái sự thật mà tôi đã kể với cậu tại nơi này, trừ phi cậu tin chắc rằng mình sắp chết.”
Martin chăm chăm nhìn người bạn lớn tuổi và hỏi. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tất cả chúng tôi đều chết trên đường đi? Chuyện gì sẽ xảy ra với Dòng tu của chúng ta?”
“Có những người khác,” Aimard trả lời. “Một số ở Paris, một số ở nơi khác. Sự thật sẽ không bao giờ mất đi.”Aimard dừng lại thở. “Chỉ có mình tôi biết một số điều trong những lá thư, dù vậy tôi nghĩ Hugh hẳn cũng đoán ra. Nhưng cậu ấy sẽ chẳng thắc mắc gì. Cậu ấy có thể không phải là Huynh đệ, nhưng là một người có lòng trung thành không thể lay chuyển. Cậu có thể tin tưởng cậu ấy, cũng như tôi đã tin tưởng cậu.”
Thò tay vào một cái túi phía trong áo chẽn da, Aimard lấy ra hai gói, mỗi gói đều được bọc lại bằng da dê tẩm dầu. “Bây giờ, cậu cầm lấy chúng. Và trao cho cặp kia một gói.”
“Trao cho Hugh ư?”
Aimard lắc đầu. “Không, Hugh không phải là thành viên của dòng Đền chúng ta, và có thể xảy ra khả năng là Đại Thủ lĩnh của Đền thờ Paris chỉ tin tưởng nếu đó là một Huynh đệ đích thực trong chúng ta. Thật ra tôi nghĩ Hugh nên là người cùng đi với cậu.”
Martin gật đầu tỏ vẻ đã hiểu, rồi hỏi. “Phần ngài thì sao?”
Aimard lại ho và đưa một tay quẹt ngang bộ râu, Martin thấy có nhiều máu trong nước bọt của Aimard. “Cho tới nay, chúng ta vẫn gặp may, nhưng chắc chắn là các cậu sẽ gặp nhiều nguy hiểm trên đường đi,” Aimard nói. “Hành trình của các cậu không thể trì hoãn vì người bệnh hay người bị thương. Không phải là sau này, và chắc chắn không phải là lúc này. Như tôi đã nói, cuộc hành trình của tôi đến đây là kết thúc.”
Nhăn mặt vì đau đớn, Aimard đưa tay sờ vào lồng ngực. “Sau tai nạn trên thuyền,” Aimard tiếp tục, “đi được đến tận nơi này là tôi đã may mắn lắm rồi. Lấy các lá thư và đi đi. Dù thế nào chăng nữa, cậu phải đến Paris. Cậu phải gánh vác nhiều trọng trách lắm đấy.”
Martin de Carmaux gật đầu, rồi vươn tay ra, ôm chặt người bạn và cũng là người thầy của mình trong vòng tay. Sau đó, anh đứng dậy bước lại chỗ những người khác và lũ ngựa đang chờ sẵn.
Martin nói với họ vài lời ngắn gọn và tất cả quay lại nhìn Aimard de Villiers, người hiệp sĩ già đón nhận ánh mặt của họ chỉ trong một lát rồi nặng nhọc đứng lên, khập khiễng bước về phía cái giếng, cầm trong tay cái thiết bị có bánh răng. Martin chỉ lặng nhìn trong lúc người bạn già của anh đập mạnh cái thiết bị kia vào bức tường đá và, từ từ, thả từng mảnh vỡ của nó vào lòng giếng.
“Cầu Chúa phù hộ cho ông,” Martin nói giọng từ tốn. “Và phù hộ cho tất cả chúng ta.”
Cầm lấy dây cương của một con ngựa, Martin nhảy lên chiếc yên ngựa lạ lẫm. Chẳng bao lâu, bốn kỵ sĩ nối đuôi nhau đi hàng dọc băng qua đống đổ nát của ngôi làng, những con ngựa không người cưỡi kéo theo phía sau, trước khi họ bắt đầu hướng về phía Tây Bắc, mù mờ về số phận của họ, không hay biết về những hiểm nguy có thể nằm phía trước, trong cuộc hành trình dài đằng đẵng đến Pháp.
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa