Love is a puzzle posed by the emotions and not likely to be solved by reason.

Anon

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 48
uộc gặp thứ hai trong hai cuộc gặp được nhắc đến trong chương trước
xảy ra chừng một tuần sau cuộc gặp thứ nhất. Tôi lại để chiếc thuyền của
mình ở bến tàu bên dưới cầu London; thời điểm sớm hơn một giờ vào buổi
chiều, và do không quyết định được nên dùng bữa ở đâu, tôi đã lang thang lên
tận Cheapside, và đang tản bộ dọc theo con phố, chắc chắn là nhân vật vô
công rồi nghề nhất tại chốn bận rộn này, thì một bàn tay to bản của ai đó vừa
bắt kịp đặt lên vai tôi. Đó là bàn tay của ông Jaggers, và ông này di chuyển
nó xuống theo cánh tay tôi.
“Pip, vì chúng ta đang đi cùng hướng, anh và tôi có thể đi cùng nhau.
Anh đang đi đâu vậy?”
“Tới Temple, tôi nghĩ vậy,” tôi đáp.
“Anh không biết mình đi đâu sao?” ông Jaggers hỏi.
“À,” tôi đáp, lấy làm vui có một lần chiếm thế thượng phong trong đối
đáp với ông luật sư, “tôi không biết, vì tôi vẫn chưa quyết định xong.”
“Anh đang đi ăn phải không?” ông Jaggers hỏi. “Tôi đoán cậu cũng
không ngại thừa nhận thế, phải không?”
“Không,” tôi đáp, “tôi không ngại phải thừa nhận điều đó.”
“Và vẫn chưa có hẹn?”
“Tôi cũng không ngại phải thừa nhận là tôi chưa có hẹn.”
“Nếu vậy,” ông Jaggers nói, “hãy tới dùng bữa với tôi.”
Tôi đang định thoái thác thì ông nói thêm, “Wemmick sẽ tới”. Vậy là
tôi đổi lời thoái thác thành nhận lời - vài từ đầu tiên tôi mới kịp nói ra có thể
phục vụ tốt cho cả hai mục đích - và chúng tôi cùng đi dọc theo Cheapside và
rẽ sang Little Britain trong khi ánh sáng được thắp lên lung linh trong các
khung cửa sổ cửa hàng, và những người thắp đèn đường, hầu như chẳng tìm
được đủ chỗ để đặt thang giữa dòng người buổi chiều hối hả, đang tất bật đi
tới đi lui, chạy ra chạy vào, làm mở ra trong màn sương mù đang buông
xuống nhiều con mắt đỏ rực hơn số con mắt trắng dã tòa tháp chụp bên ngoài
cây nến lõi bấc tại Hummums của tôi có thể làm mở ra trên bức tường ma
quái.
Trong văn phòng tại Little Britain, vẫn diễn ra các nghi thức viết thư,
rửa tay, dập nến và khóa két luôn khép lại một ngày làm việc. Trong lúc tôi
đứng im lìm bên lò sưởi của ông Jaggers, ngọn lửa bập bùng trong lò làm hai
khuôn mặt đúc khuôn trên giá trông như thể đang chơi một trò ú tim ma quái
với tôi. Cùng lúc, hai cây nến văn phòng xoàng xĩnh làm bằng mỡ đang lờ
mờ soi sáng ông Jaggers trong khi ông luật sư ngồi viết trong góc được trang
hoàng bằng những giọt mỡ chảy xuống đông cứng lại như những tấm vải
liệm bẩn thỉu, như thể để tưởng nhớ tới một đội ngũ khách hàng đã bị treo cổ.
Cả ba chúng tôi cùng đi trên một cỗ xe ngựa thuê tới phố Gerrard. Và
ngay khi chúng tôi tới nơi, bữa ăn được mang ra phục vụ. Cho dù ở đó không
thể nghĩ tới chuyện nhắc nhở dù chỉ bóng gió mơ hồ tới những cảm nghĩ ở
Walworth của Wemmick, song tôi chẳng có gì phản đối việc thỉnh thoảng lại
đưa mắt nhìn ông một cách thân thiện. Nhưng chỉ vô hiệu. Ông luôn đưa mắt
nhìn ông Jaggers mỗi khi ngẩng nhìn lên, và tỏ ra khô khan, xa cách với tôi
đến mức như thể có hai Wemmick sinh đôi, và tôi đang gặp nhầm người
trong cặp song sinh ấy.
“Ông đã gửi lá thư đó của cô Havisham cho ông Pip chưa, Wemmick?”
ông Jaggers hỏi không lâu sau khi chúng tôi bắt đầu dùng bữa.
“Chưa, thưa ngài,” Wemmick đáp, “nó vừa đến theo đường bưu điện
khi ngài đưa ông Pip vào văn phòng. Nó đây.” Ông đưa lá thư cho ông chủ
của mình thay vì cho tôi.
“Một lời nhắn gồm hai dòng, Pip,” ông Jaggers nói khi đưa nó cho tôi,
“được cô Havisham gửi cho tôi vì bà ấy không rõ địa chỉ của anh. Bà ấy nói
với tôi muốn gặp anh về một việc vặt anh đã nhắc đến với bà ấy. Anh sẽ đi
chứ?”
“Có,” tôi nói, đưa mắt nhìn xuống lá thư, những gì ghi trên đó chính
xác đúng là vậy.
“Anh định khi nào sẽ đi?”
“Tôi có một chuyện gấp,” tôi vừa nói vừa liếc nhìn Wemmick, người
đang nhét cá vào trong cái thùng thư, “khiến tôi không được chắc chắn về
thời gian của mình. Tôi nghĩ sẽ đi ngay.”
“Nếu cậu Pip định đi ngay,” Wemmick nói với ông Jaggers, “cậu ấy
không cần viết thư trả lời, ông biết đấy.”
Đón nhận những lời trên như lời cảnh báo tốt nhất đừng trì hoãn, tôi
quyết định sẽ đi ngay hôm sau, và nói như vậy. Wemmick uống cạn một ly
rượu vang, và nhìn với vẻ hài lòng rõ ràng về phía Jaggers, nhưng không hề
nhìn tôi.
“Vậy đấy, Pip! Anh bạn Nhện của chúng ta,” ông Jaggers nói, “đã ngả
bài của mình. Cậu ta đã thắng ván bài.”
Tôi cũng chỉ biết cố gắng vờ tán thành.
“Chà! Cậu ta là một chàng trai hứa hẹn - theo cách của cậu ta - song rất
có thể cậu ta sẽ có được mọi thứ diễn ra theo cách của mình. Cuối cùng kẻ
mạnh hơn sẽ thắng, nhưng trước hết cần tìm ra kẻ mạnh hơn đã. Nếu cậu ta
bắt đầu động tay động chân mà đánh cô gái…”
“Chắc ông không nghiêm chỉnh nghĩ rằng anh ta côn đồ tới mức đó
chứ, ông Jaggers?” tôi ngắt lời ông luật sư trong khi cả khuôn mặt lẫn trái tim
đều nóng bừng.
“Tôi đâu có nói vậy, Pip. Tôi đang đưa ra một trường hợp. Nếu cậu ta
bắt đầu đánh cô gái, rất có thể cậu ta sẽ giành được sức mạnh về phía mình;
còn nếu lại là một vấn đề trí tuệ, chắc chắn cậu ta sẽ thất bại. Sẽ thật khó để
phán đoán một người như cậu ta sẽ trở nên thế nào trong hoàn cảnh như vậy,
vì hai khả năng đều có thể.”
“Liệu tôi có thể hỏi chúng là gì không?”
“Một người như anh bạn Nhện của chúng ta,” ông Jaggers trả lời,
“hoặc áp bức người khác hoặc quỵ lụy khúm núm. Cậu ta có thể quỵ lụy và
làu bàu, hay quỵ lụy và không làu bàu; nhưng hoặc áp bức người khác hoặc
quỵ lụy. Thử hỏi Wemmick xem ông ấy nghĩ sao.”
“Hoặc áp bức, hoặc quỵ lụy,” Wemmick nói, và không hề quay sang
tôi.
“Và giờ hãy nâng cốc vì bà Bentley Drummle,” ông Jaggers vừa nói
vừa cầm một cái bình cổ thon đựng rượu vang hảo hạng từ giá đồ ăn, rồi rót
rượu cho chúng tôi và chính ông, “và mong sao câu hỏi về việc ai sẽ có được
uy quyền tối cao sẽ ngã ngũ theo cách làm người phụ nữ đó hài lòng! Sẽ
chẳng bao giờ có sự hài lòng cho cả người phụ nữ và người đàn ông. Nào,
Molly, Molly, Molly, Molly, hôm nay cô mới lề mề làm sao chứ!”
Người hầu gái đang ở ngay cạnh vị chủ nhà để bày đĩa xuống bàn khi
ông nói với bà. Khi người phụ nữ thu tay khỏi cái đĩa, bà cũng lùi lại một hai
bước, bối rối khe khẽ nói vài lời xin lỗi. Và một cử chỉ từ các ngón tay của bà
trong lúc bà nói làm tôi chú ý.
“Có chuyện gì vậy?” ông Jaggers hỏi.
“Không có gì. Chỉ là chủ đề chúng ta vừa nói đến,” tôi đáp, “có phần
đau đớn với tôi.”
Cử động các ngón tay của bà quản gia trông giống như động tác đan.
Bà đứng nhìn ông chủ, không hiểu mình đã được tự do rời đi, hay ông vẫn
còn điều gì đó cần nói và sẽ gọi bà lại nếu bà rời đi. Ánh mắt bà rất chăm
chú. Hiển nhiên tôi đã nhìn thấy đôi mắt và đôi bàn tay hệt thế này vào một
dịp đáng nhớ mới gần đây!
Ông luật sư cho bà quản gia lui ra, và bà lặng lẽ rời khỏi phòng. Nhưng
bà vẫn hiện diện trước mặt tôi rõ mồn một như còn đang đứng đó. Tôi nhìn
vào đôi bàn tay nọ, tôi nhìn vào đôi mắt nọ, tôi nhìn vào mái tóc mượt mà; và
tôi so sánh chúng với đôi bàn tay kia, đôi mắt kia, mái tóc kia mà tôi biết rõ,
rồi với những gì có lẽ chúng sẽ trở thành sau hai mươi năm chịu đựng một
người chồng hung bạo và một cuộc sống bão tố. Tôi nhìn lại lần nữa vào hai
bàn tay và đôi mắt đó của bà kiêm quản gia, và nghĩ về cảm giác không lý
giải nổi đã đến với tôi khi lần cuối cùng tôi bước đi - không chỉ có một mình
- trong khu vườn tàn tạ và khu xưởng ủ bia bị bỏ hoang. Tôi nghĩ đến chuyện
cũng cảm giác này đã trở lại khi tôi thấy một khuôn mặt đang nhìn tôi và một
bàn tay vẫy tôi từ khung cửa sổ xe ngựa trạm; và việc nó đã trở lại thêm lần
nữa, lóe lên trong tôi như một tia chớp, khi tôi ngồi trong xe ngựa - không chỉ
có một mình - và đi qua một quầng sáng bất chợt xuất hiện trên một con phố
tối tăm. Tôi nghĩ tới một mắt xích liên hệ đã dẫn tới lần nhận diện ở nhà hát,
cũng như việc một mối liên hệ như thế, vốn thiếu vắng trước đây, giờ đây đã
được cung cấp cho tôi, khi tôi tình cờ chuyển từ tên Estella sang những ngón
tay đang làm cử chỉ đan và đôi mắt chăm chú. Và tôi cảm thấy hoàn toàn
chắc chắn rằng người phụ nữ này chính là mẹ Estella.
Ông Jaggers đã thấy tôi cùng Estella, và khó có khả năng không thấy
những cảm xúc tôi không hề tìm cách che giấu. Ông gật đầu khi tôi nói chủ
đề có phần đau đớn với tôi, vỗ lên lưng tôi, rót rượu vang thêm lần nữa, rồi
tiếp tục ăn tối.
Bà quản gia chỉ xuất hiện trở lại thêm hai lần nữa, và cũng chỉ lưu lại
trong phòng một lát, còn ông Jaggers có vẻ rất khắc nghiệt với bà. Nhưng hai
bàn tay bà chính là hai bàn tay Estella, đôi mắt bà là đôi mắt Estella, và nếu
bà có xuất hiện trở lại thêm một trăm lần nữa, tôi cũng không thể thêm chắc
chắn hay ít chắc chắn hơn về việc niềm tin của mình là chính xác.
Buổi tối hôm đó thật buồn tẻ, vì Wemmick uống phần vang của ông,
mỗi khi được rót cho, như thể đó là công việc - cũng hệt như cách hẳn ông
nhận lương của mình khi đến kỳ - mắt nhìn vào ông chủ của ông, luôn ngồi
trong trạng thái sẵn sàng thường trực cho một cuộc đối thoại. Còn về lượng
rượu vang, cái thùng thư của ông cũng dửng dưng và sẵn sàng như bất cứ
thùng thư nào khác khi đón đợi lượng thư tín của nó. Theo như tôi thấy,
người đàn ông này từ đầu đến cuối vẫn là người kia trong hai anh em sinh
đôi, và chỉ có bề ngoài là giống với Wemmick của Walworth.
Chúng tôi cáo từ ông chủ nhà sớm, rồi cùng nhau ra về. Ngay khi
chúng tôi còn đang mò mẫm tìm mũ của mình giữa kho ủng của ông Jaggers,
tôi đã cảm thấy người tôi quen trong cặp song sinh đang trở lại; và chúng tôi
mới đi xuống phố Gerrard về hướng Walworth chưa được sáu yard thì tôi đã
nhận ra mình đang bước đi cạnh đúng người đó, còn người kia trong hai anh
em song sinh đã bốc hơi vào không khí ban đêm.
“Được rồi!” Wemmick nói. “Thoát rồi! Ông ấy là một người tuyệt vời,
không có ai khác sánh bằng; nhưng tôi cảm thấy mình đang bị siết chặt cứng
như ốc vít khi ngồi ăn cùng ông ấy - và tôi dùng bữa thoải mái hơn khi được
nới ốc vít lỏng ra.”
Tôi cảm thấy đây là một cách mô tả hay cho tình huống đó, và nói với
ông như vậy.
“Tôi sẽ chẳng đời nào nói ra điều đó với bất cứ ai ngoài cậu,” ông trả
lời. “Tôi biết những gì được nói ra giữa cậu và tôi sẽ không lan xa hơn nữa.”
Tôi hỏi ông đã bao giờ gặp con gái nuôi của cô Havisham, cũng chính
là bà Bentley Drummle, hay chưa. Ông trả lời là chưa. Để tránh quá đường
đột, sau đó tôi chuyển sang nói về Người Già và cô Skiffins. Ông có vẻ khá
ngượng ngùng khi tôi nhắc đến cô Skiffins, và dừng lại trên phố để hỉ mũi,
kèm theo một cái lắc lư đầu cùng vẻ khoa trương không hoàn toàn vắng bóng
chút kiêu hãnh ngấm ngầm.
“Wemmick,” tôi nói, “ông còn nhớ từng nói với tôi, từ trước khi tôi
đến nhà riêng ông Jaggers lần đầu, là hãy để ý đến người quản gia không?”
“Thật thế sao?” ông đáp. “À, tôi dám ngờ mình đã làm thế thật. Quỷ
bắt tôi đi,” ông đột nhiên nói thêm, “tôi biết mình đã làm thế. Tôi thấy mình
vẫn chưa hoàn toàn được nới ốc vít.”
“Ông gọi bà ấy là một con thú hoang bị thuần phục.”
“Còn cậu gọi bà ấy là gì?”
“Cũng thế thôi. Ông Jaggers đã thuần phục bà ấy thế nào, Wemmick?”
“Đó là bí mật của ông ấy. Bà ta đã ở cùng ông ấy nhiều năm rồi.”
“Tôi ước gì ông có thể kể cho tôi biết câu chuyện về người phụ nữ này.
Tôi rất muốn biết về nó. Ông biết những gì được nói ra giữa ông và tôi sẽ
không lan đi xa hơn.”
“À!” Wemmick đáp, “tôi không biết về chuyện của bà ấy - nghĩa là tôi
không biết tất cả. Song những gì biết tôi sẽ kể cho cậu hay. Chúng ta đang ở
trong tư cách cá nhân và riêng tư, tất nhiên rồi.”
“Tất nhiên.”
“Khoảng hai mươi năm trước, người phụ nữ đó bị xét xử tại Old Bailey
vì tội giết người, và được tha bổng. Bà ấy hồi đó là một phụ nữ trẻ xinh xắn,
và tôi tin bà ấy mang ít nhiều dòng máu Di gan trong người. Dù thế nào đi
nữa, nó cũng đủ nóng khi tức giận, như cậu có thể hình dung ra.”
“Nhưng bà ấy đã được tha bổng.”
“Ông Jaggers bào chữa cho bà ấy,” Wemmick nói tiếp, ánh mắt đầy
ngụ ý, “và xử trí vụ đó theo một cách rất đáng kinh ngạc. Đó là một vụ tuyệt
vọng, và hồi đó ông ấy mới ở những ngày đầu sự nghiệp, và đã bào chữa vụ
đó thành công trong sự ngưỡng mộ của mọi người; trên thực tế, gần như có
thể nói phiên tòa ấy đã làm nên danh tiếng cho ông. Ông ấy tự mình tới làm
việc tại đồn cảnh sát hết ngày này qua ngày khác trong suốt nhiều ngày, tranh
đấu chống lại thậm chí cả việc đưa ra xét xử; rồi tại tòa, nơi ông ấy không thể
tự mình bào chữa, ngồi tư vấn cho người luật sư, và - như mọi người đều biết
- cung cấp toàn bộ lý lẽ biện hộ. Nạn nhân bị sát hại là một phụ nữ - một phụ
nữ lớn hơn bị cáo đến mười tuổi, và to khỏe hơn nhiều. Đó là một vụ ghen
tuông. Cả hai người phụ nữ đều sống khá lang thang, và người đàn bà hiện
đang ở phố Gerrard này đã kết hôn từ khi còn rất trẻ, nhảy qua cán chổi* như
chúng ta vẫn nói, với một người đàn ông lang thang từ rất trẻ, và là một cơn
cuồng phong thực sự khi nổi cơn ghen. Người đàn bà bị giết - một người
tương hợp hơn với người đàn ông nếu xét về tuổi tác - được tìm thấy đã chết
trong một nhà kho gần Hounslow Heath. Đã có vật lộn dữ dội, có lẽ là một
cuộc ẩu đả. Người đàn bà bị bầm tím, xây xát và y phục bị xé rách, rồi cuối
cùng bị bóp cổ đến nghẹt thở. Và không có bằng chứng hợp lý để nghi ngờ
cho bất cứ ai ngoài người phụ nữ này, và ông Jaggers đã bào chữa dựa chủ
yếu trên việc bà ấy không có khả năng thực hiện hành vi giết người như thế.
Cậu có thể tin chắc,” Wemmick vừa nói vừa đặt ngón tay lên ống tay áo tôi,
“hồi đó ông ấy không bao giờ nhắc gì đến sức mạnh hai bàn tay của bà ấy
như thỉnh thoảng vẫn nói tới bây giờ.”
Thế kỷ 19, ở Anh từng có tục kết hôn bằng cách nhảy qua một cái cán chổi và chia tay thì nhảy
ngược lại. Ở đây ám chỉ một cuộc hôn nhân không chính thức, không được pháp luật thừa nhận.
Tôi đã kể cho Wemmick nghe chuyện ông luật sư cho chúng tôi xem
hai cổ tay người hầu gái vào bữa ăn tối đó.
“À, thưa quý ông!” Wemmick nói tiếp, “Thực ra - thực ra, cậu không
thấy sao? - người phụ nữ này được mặc đồ rất khéo léo từ khi bị bắt để trông
có vẻ yếu ớt hơn nhiều so với thực tế; đặc biệt, người ta còn nhớ hai ống tay
áo bà ấy luôn được tính toán sao cho hai cánh tay trông có vẻ khá mảnh mai.
Bà ấy chỉ có một hai vết bầm tím trên người - với một kẻ sống lang thang thì
có là gì - nhưng hai mu bàn tay bà lại bị cào rách, và câu hỏi đặt ra là, Có
phải do móng tay không? Đến lúc đó, ông Jaggers liền chứng minh người phụ
nữ đã phải chật vật len lỏi qua rất nhiều bụi gai cao chưa đến mặt; nhưng bà
ấy lại không thể lách qua được mà không chạm tay vào; mà thật ra người ta
tìm thấy những mảnh gai đó trên da bà và đưa ra làm bằng chứng, cũng như
khi khám nghiệm hiện trường, những bụi gai đó được phát hiện là đã bị ai đó
lách qua, và có những mảnh rách từ váy của người phụ nữ và những vết máu
nhỏ dính lại ở đôi chỗ. Nhưng lý lẽ táo bạo nhất ông ấy đưa ra là cái này: khi
đó người ta đang định xác lập, như bằng chứng cho sự ghen tuông của người
phụ nữ, là bà ấy bị nghi ngờ đã điên cuồng sát hại đứa con của mình với
người đàn ông kia - lúc ấy chừng ba tuổi - vào cùng thời điểm xảy ra vụ án
mạng để trả thù ông ta. Ông Jaggers lập luận thế này: ‘Chúng tôi nói đây
không phải vết móng tay mà là vết gai cào, và chúng tôi đã chỉ cho các vị
thấy những bụi gai. Các vị nói chúng là vết móng tay, và các vị dựng lên giả
thiết cô ta hãm hại đứa con của mình. Các vị phải chấp nhận mọi hệ quả của
giả thiết ấy. Theo những gì chúng tôi biết, có thể bị cáo đã hãm hại đứa con
của mình, và đứa trẻ khi túm chặt lấy cô ta rất có thể đã cào xước bàn tay bị
cáo. Thế thì sao? Các vị không xử người phụ nữ này vì giết hại đứa con của
cô ta; sao các vị không làm thế đi? Về trường hợp này, nếu các vị nhất định
coi đó là những vết cào, chúng tôi xin nói, theo những gì chúng tôi biết, các
vị có thể phải giải thích về chúng, nếu giả thiết, vì giá trị của chúng, rằng các
vị đã không tưởng tượng ra chúng!’ Nói tóm lại, Pip,” Wemmick nói, “ông
Jaggers quá mạnh mẽ so với bồi thẩm đoàn, và bọn họ đành chịu thua.”
“Và bà ấy đã làm người hầu cho ông ấy suốt từ dạo đó?”
“Phải; nhưng không chỉ có vậy,” Wemmick nói. “Bà ấy bắt đầu làm
việc cho ông ấy ngay sau khi được tha bổng hoàn toàn bị thuần phục giống
như bây giờ. Kể từ hồi đó đúng là bà ấy đã được dạy dỗ vài điều về bổn phận
của mình, nhưng bà ấy đã bị thuần phục ngay từ đầu.”
“Ông còn nhớ đứa bé là trai hay gái không?”
“Người ta nói rằng đó là một bé gái.”
“Ông không còn gì để nói với tôi tối nay nữa chứ?”
“Không gì nữa. Tôi đã nhận thư của cậu và hủy nó đi. Không gì nữa.”
Chúng tôi vui vẻ chào tạm biệt nhau, và tôi quay về nhà mang theo
thêm chuyện mới để nghĩ ngợi, trong khi chưa hề được giải thoát khỏi những
mối bận tâm cũ.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)