Mỗi con người có 03 loại tính cách: tính cách anh ta phô bày, tính cách anh ta có, và tính cách anh ta nghĩ anh ta có.

Alphonse Karr

 
 
 
 
 
Tác giả: Athur Hailey
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: “The Money Changers”
Dịch giả: Vũ Đình Phòng
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 58 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 266 / 9
Cập nhật: 2020-06-28 13:34:23 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
ự khai thông xuất hiện vào đúng lúc Miles Eastin ít ngờ đến nhất. Hai ngày trước đây, buồn rầu chán nản, anh đã tin rằng cam chịu cảnh sống nô lệ ở câu lạc bộ Hai con Bảy này sẽ chẳng dẫn đến đâu, mà chỉ nhấn anh chìm sâu vào vũng bùn tội lỗi. Anh đã luôn nghĩ đến chuyện rồi sẽ phải trở lại cái nhà tù địa ngục kia. Anh đã tâm sự điều đó với Juanita vào tối Thứ bảy. Cuộc tình của hai người mỹ mãn đã phần nào làm dịu đi tâm trạng bi quan của Miles.
Thế rồi cuối buổi chiều Thứ hai, tại câu lạc bộ Hai Con Bảy, viên quản trị trưởng Nathanson cho người gọi Miles xuống, bưng đồ ăn thức uống lên cho đám người đang sát phạt nhau trên tầng ba.
Lúc Miles bước vào phòng Nathanson thì trong đó đang có hai người nữa: tên cá mập Ominsky và một gã lực lưỡng Miles đã mấy lần gặp ở câu lạc bộ và có biệt hiệu là "Gấu”. Biệt hiệu này hoàn toàn thích hợp với gã: dáng đi nặng nề nhưng cử chỉ chân tay lại mềm mại, nhanh nhẹn, khiến gã gợi lên một sức mạnh của loài thú vật hoang dã.
Miles cũng đã nhận xét thấy mọi người trong câu lạc bộ này rất nể gã. Lần nào đến câu lạc bộ Hai Con Bảy, gã cũng ngồi một chiếc Cadillac cực kỳ sang. Rõ ràng lái xe và tên tháp tùng đều là hộ vệ của gã.
Nathanson có vẻ lo lắng khi nói với Miles:
- Miles, tôi vừa thưa với hai ngài Marino và Ominsky là cậu làm việc ở đây rất chu đáo. Hai ggài muốn giao cho cậu một việc...
Ominsky?Người Nga" lạnh lùng ngắt lời tên quản lý:
- Anh ra ngoài kia đợi.
- Vâng, thưa ngài. - Viên quản lý đáp rồi vội vã di nhanh ra ngoài.
Ominsky nói với Miles:
- Ngoài xe đang có một lão già. Người của ông Marino đây sẽ giúp cậu một tay để khiêng lão lên một phòng bên cạnh phòng cậu. Nhưng cậu cẩn thận? Không được để ai nhìn thấy lão. Cậu phải canh gác lão, không lúc nào được rời lão. Nếu lúc nào cậu phải đi đâu trong chốc lát, cậu phải cẩn thận khoá kỹ cửa. Nếu lão xổng, cậu phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.
- Nếu cần thiết tôi có được dùng vũ lực không?- Miles lo lắng hỏi.
- Cậu sẽ không phải dùng đâu.
Marino "Gấu” chen vào bằng cái giọng the thé, trái ngược với tấm thân đồ sộ của gã.
- Lão già không còn sức đâu mà cưỡng lại cậu nữa. Cậu phải nhớ rằng bọn tôi rất cần đến lão cho nên liệu mà đối xử tử tế với lão. Nhưng không được cho lão uống một giọt rượu nào hết. Lão sẽ năn nỉ, lạy van cậu nhưng cậu không được cho lão uống bất cứ thứ gì. Rõ chứ?
- Rõ. - Miles nói. - Ông ta nốc đầy bụng rồi chứ gì?
- Lão đang say khướt cò bợ. - Lão Ominsky nói.
- Lão mê man. Cậu hãy trông nom lão và làm cho lão tỉnh dần. Trong thời gian lão ở đây, cậu không được làm thứ gì khác. Mọi công việc cậu tạm ngừng, hoàn toàn tập trung vào trông nom lão. Nếu cậu làm tốt, ta sẽ chuyển tiền công vào tài khoản của cậu.
- Tôi sẽ cố gắng hết sức. - Miles nói. - Tên ông ta là gì? Tôi cũng cần phải biết tên ông ta để gọi chứ?
Hai tên tội phạm đưa mắt nhìn nhau rất nhanh, rồi Ominsky nói:
- Gọi lão là Danny. Cậu chỉ cần biết như thế.
Lát sau tên lái xe kiêm hộ vệ nhổ nước bọt, nhăn mặt nói:
- Lão này xông lên cái mùi tởm quá.
Y với tên hộ vệ thứ hai của Marino "Gấu” cùng Miles nhìn một thân hình nằm bất động, co quắp trên ghế sau chiếc xe hơi đậu trước cửa câu lạc bộ.
- Tôi sẽ lau rửa cho ông ta. - Miles nhăn mặt nói. Mùi uế tạp xông lên làm anh ngạt thở. - Nhưng hai anh phải giúp tôi đưa ông ta lên trên kia.
Tên khỉ đột thứ hai nói:
- Nào, nhanh lên.
Y cúi xuống kéo tấm thân nằm bất động ra ngoài.
Tên lái xe khỉ đột thứ nhất giúp y. Trong ngõ hẻm tối nên Miles chỉ nhìn thấy mờ mờ một chòm tóc hoa râm, cặp má hóp tái xanh, lởm chởm râu ria không cạo cặp mắt nhắm nghiền, cái miệng há hốc với hai cái lợi không có răng. Quần áo trên người ông ta chỉ là những mảnh giẻ bẩn thỉu.
- Lão ta chết mất rồi! - tên lái xe kiêm hộ vệ kêu lên.
Nhưng đúng lúc đó ông già đột nhiên nôn oẹ, bắn cả vào người Miles. Tên khỉ đột cười nhăn nhở:
- Lão còn sống?
Thấy Miles nhăn mặt, gã nói thêm:
- Chịu khó, mày!
Ba người khiêng lão già say rượu vào sảnh rồi theo cầu thang phụ phía trong lên tầng bốn. Miles đã cầm sẵn chìa khoá, mở một phòng trống. Gian phòng y hệt phòng của anh: cũng có một tủ, một giường cá nhân, hai ghế tựa và một giá gỗ treo trên tường. Miles nhìn gian phòng rồi bảo hai tên khỉ đột:
- Trông nhé!
Anh chạy xuống nhà, lấy một tấm ni lông đem lên, trải lên giường. Xong xuôi, anh cùng hai tên khỉ đột đặt ông già say rượu lên đó.
- Giao cậu đấy, Milesy! - tên lái xe kiêm hộ vệ nói với Miles, rồi quay sang tên khỉ đột thứ hai: - Chuồn thôi.
Sau khi chúng đi rồi, Miles cố chịu mùi hôi thối nồng nặc, cởi áo quần ông già. Ông ta như đang trong cơn choáng. Anh lau người cho ông ta, lau khô. Xong, anh nâng người ông ta lên, rút tấm ni lông ra, để ông ta nằm trên giường, đắp tấm khăn trải lên người cho ông ta.
Đúng lúc đó ông già cựa quậy, ú ớ rồi lại nôn thốc nôn tháo. Miles lại phải một phen lau cọ và cuối cùng ông già nằm duỗi chân trên giường, có vẻ đã dễ chịu hơn đôi chút.
Lúc cởi áo quần ngoài cho ông già, Miles đã quăng số áo quần đó lên sàn nhà. Bây giờ anh lấy số áo quần đó định nhét vào hai túi ni lông để mai đem giặt. Nhưng lúc lấy các thứ trong túi ra, Miles thấy hàm răng giả, chiếc lược, đôi kính đeo mắt rất dầy, một bút máy bằng vàng và một bút chì máy cùng bộ: Rất nhiều chìa khoá cùng móc vào chiếc vòng và... ba tấm thẻ tín dụng Keycharge, cuối cùng là chiếc ví dầy cộm đựng rất nhiều tiền.
Miles cọ rửa hàm răng giả, bỏ vào một lọ nước để ở đầu giường. Anh đặt cái kính bên cạnh lọ rồi xem xét số tiền cũng như ba tấm thẻ tín dụng. Ba tấm thẻ này đề tên ba người khác nhau: Fred W. Riordan, R.K.Bennett và Alfred Shaw. Mặc dù họ tên khác nhau nhưng chữ ký thì rõ ràng lại do một bàn tay ký. Miles xem ngày cấp thẻ và ngày hết hạn, thấy cả ba tấm thẻ vẫn còn hạn. Trông có vẻ thẻ thật.
Bây giờ Miles xem đến ví tiền. Trong ví có một bằng lái xe bọc chất dẻo đã vàng ố. Miles lôi tấm bằng lái ra vì thấy có thứ gì đó cộm bên dưới, thì ra một bằng lái thứ hai và một bằng lái thứ ba. Ba tên người trên bằng lái trùng khớp với ba tên người trên thẻ tín dụng Keycharge, và ba tấm ảnh cũng giống hệt nhau.
Miles chăm chú xem xét kỹ thêm. Cả ba tấm thẻ tín dụng và ba bằng lái xe này đều là của ông già đang nằm mê man kia. Anh trút hết tiền trong ví ra đếm, định trước khi đưa cất dưới phòng quản trị cũng cần biết chính xác là bao nhiêu. Số tiền khá lớn: năm trăm mười hai đô la, gồm nửa là tiền hai mươi đô la mới cứng. Anh chú ý đến những tờ này, sờ vào lớp giấy, xem kỹ các hình in trên đó. Rồi anh liếc nhìn ông già; ông ta vẫn còn mê man.
Miles bèn rón rén ra hành lang, sang phòng mình, lấy kính lúp để xem cho rõ hơn. Anh không lầm. Đây là tiền giả, giống hệt những tờ anh đã mua của tên lái xe, cũng tại câu lạc bộ Hai Con Bảy này cách đây một tuần lễ.
Miles suy nghĩ. Những tờ giấy bạc giả này và ba tấm bằng lái xe rất có thể cùng sản xuất ở một nơi, giống như tấm bằng lái xe gã LaRocca đã lấy cho anh để đi Louisville. Và như vậy thì ba tấm thẻ tín dụng Keycharge kia hẳn cũng là thẻ giả?... Vậy là anh đã lần ra được đầu sợi dây dẫn anh đến mục tiêu ông Nolan Wainwright đang cần tìm. Tim anh đập mạnh. Miles ghi vào một mảnh giấy những nhận xét của anh về các tấm thẻ tín dụng Keycharge giả cũng như các bằng lái xe giả. Vừa làm anh vừa liếc nhìn ống già đang ngủ mê mệt xem ông ta có thức giấc không. Cuối cùng anh tắt đèn, đi ra, khoá bên ngoài rồi đem chiếc ví xuống kho của Nathanson.
Đêm đó Miles chỉ ngủ thấp thỏm, vẫn thường xuyên nhìn qua khe cửa phòng anh mà anh để mở hé, sang cửa phòng ông già kia mà anh đã khoá bên ngoài rất cẩn thận. Anh đồng thời tự hỏi ông già say rượu kia là ai, đóng vai trò như thế nào ở đây. Quan hệ giữa ông ta với lão Ominsky "Người Nga" và gã Marino "Gấu” ra sao? Tại sao chúng chở ông ta đến câu lạc bộ này? Gã Marino "Gấu” có nói câu: “Bọn tôi rất cần đến lão", tức là đến ông già này. Câu đó có nghĩa thế nào?
Rồi Miles thiếp ngủ và thức dậy lúc mờ sáng.
Anh nhìn đồng hồ, bẩy giờ kém mười lăm. Anh rửa mặt, cạo râu, mặc quần áo. Bên phòng kia không thấy có tiếng động nào. Anh ra hành lang, mở cửa phòng đó, thấy Danny đã trở mình, thay đổi tư thế nhưng vẫn ngủ mê mệt. Lão ngáy nhè nhẹ. Miles nhấc hai túi ni lông đựng quần áo, ra, khoá cửa lại rồi xuống nhà. Hai mươi phút sau anh lên, bưng theo khay điểm tâm cho ông già có tên là Danny kia, gồm trứng, thịt rán và cà phê đặc. Anh lay vai đánh thức ông già:
- Danny! Ông dậy đi!
Không thấy tiếng trả lời. Miles lay mạnh hơn.
Cuối cùng ông già mở mắt, lo lắng nhìn rồi lại nhắm ngay. Ông ta càu nhàu:
- Bước đi ngay! Ta chưa định xuống địa ngục đâu!
Miles nói:
- Tôi không phải quỷ sứ dưới địa ngục. Hai ông Ominsky "Người Nga" và Marino "Gấu” dặn tôi trông nom cho ông. Tôi là bạn của ông thôi.
Cặp mắt ướt lại mở.
- Bọn ác quỷ lại tìm thấy ta hẳn? Chúng luôn luôn tóm ta.
Ông già đột nhiên nhăn nhó mặt mày, ôm đầu:
- Cái đầu khốn khổ này hành hạ ta quá lắm!
- Tôi đem cà phê lên cho ông đây. ông uống đi sẽ thấy trong người dễ chịu. - Miles đỡ nách dìu ông già ngồi dậy, rồi đặt khay điểm tâm lên đùi ông.
Ông già nhắp vài ngụm cà phê rồi lại nhăn mặt.
Đột nhiên ông tươi mặt lên nói:
- Này cậu! Nếu cậu muốn giúp cho ta chóng lại sức không gì bằng cho ta tý tửu. Cậu cầm lấy tiền đây, ông đưa mắt nhìn khắp gian phòng như tìm gì.
- Tôi đã cất ví tiền của ông trong két sắt dưới tầng một của câu lạc bộ, từ tối hôm qua.
- Câu lạc bộ? Vậy ra đây là Hai Con Bẩy?
- Đúng thế.
- Bọn họ đã đưa ta đến đây một lần. Vậy tức là cậu biết ta có tiền rồi chứ? Vậy cậu chạy xuống quầy, lấy cho ta một chai...
- Không được.- Miles nói. - Cả tôi với ông đều không được uống.
- Cậu đừng ngại. - ông già nhìn Miles bằng cặp mắt láu lỉnh. - Bốn mươi đô la cho một chai loại nhỏ, không được sao?
- Không được.- Miles nói. - Đấy là lệnh cấm.
Ngưng lại một chút, anh dấn tới luôn.
- Nếu tôi trả bằng những tờ hai mươi đô la của ông, tôi sẽ bị tóm cổ.
Như bị điện giật, ông già Danny ngẩng phắt đầu nhìn Miles vẻ lo lắng:
- Ai bảo cậu là...
Ông ta ngưng bặt, lại đưa tay lên ôm đầu, nhăn nhó.
- Cũng phải có ai kiểm lại số tiền trong ví của ông chứ. Thì tôi đã làm chuyện đó.
- Đấy là tiền tốt. Những tờ hai mươi đô la cũng như những tờ giấy bạc khác. - Ông già nói bằng giọng không lấy gì làm mạnh mẽ lắm.
- Đúng là tốt. - Miles nói. Ít khi tôi thấy những tờ giấy bạc in đẹp như vậy. Kho bạc nhà nước cũng không in giỏi như thế.
Mặc dù lo lắng, nghi ngại, ông già Danny cũng vẫn tò mò:
- Chà, xem chừng cậu cũng thạo xem xét giấy bạc đấy nhỉ?
- Trước khi vào tù tôi đã từng làm ở nhà băng.
Im lặng một lát rồi ông già nói:
- Vậy tại sao cậu chui vào tù?
- Tội ăn cắp, biển thủ. Hiện nay tôi chỉ được thả theo chế độ quản thúc.
Thái độ ông già Danny nhẹ nhõm hơn rất nhiều.
- Vậy chắc cậu là tay tài ba. Nếu không, cậu đã chẳng làm công cho hai thằng cha "Gấu” và "Người Nga".
- Đúng thế! Bây giờ thì ông cũng nên lấy lại tỉnh táo. Ông xuống dưới kia tắm hơi nhé? Tôi đưa ông đi.
- Ta không cần tắm hơi, cậu bé. Thứ ta cần bây giờ là một ngụm chất cay. Một ngụm thôi. Ta hứa sẽ không uống đến ngụm rưỡi. Cậu giúp một lão già chứ?
- Ông vừa uống một trận bí tỉ rồi còn gì. Ông mà uống thêm nữa thì nguy đấy.
- Thì ra cậu là thằng không tim! - Ông già càu nhàu.
Phớt lờ mọi lời cằn nhằn của ông già, Miles vẫn chăm sóc ông tỷ mẩn như chăm sóc đứa trẻ. Anh choàng cho ông tấm áo khoác dài mặc trong nhà rồi đưa ông xuống tầng dưới, qua các ngăn tắm hơi vào đến ngăn trong cùng, cởi áo ra cho ông rồi đặt ông nằm lên một cái bàn mát-xa và bắt đầu xoa bóp cho ông kỹ càng. Lúc này là sáng sớm nên câu lạc bộ vắng vẻ hầu như không có khách nào.
Tắm hơi và làm mát-xa xong, Miles lại đưa ông già Danny lên tầng bốn. Ông già bây giờ hiền lành, ngoan ngoãn, vừa nằm xuống giường, ông thiếp ngủ ngay. Khác với dáng vẻ tối hôm qua, hôm nay trông ông có vẻ hiền lành, thậm chí tiên cốt. Chưa biết ông là ai, nhưng Miles đã bắt đầu thấy mến ông. Anh thắt khăn bông xuống dưới gáy, cạo râu cho ông.
Xong xuôi anh khoá cửa phòng để ông ngủ rồi trở về phòng của mình, lấy sách ra đọc rồi cũng ngủ thiếp luôn.
- Ê, Milesy! Dậy thôi! - tiếng LaRocca hét lên ngoài cửa.
Miles chồm dậy, ra mở cửa. LaRocca đứng ở đó.
Y nói:
- Mang cho cậu áo quần của lão khọm!
Y nói và trỏ chiếc vali các tông dưới chân.
- Ông Ominsky bảo tôi mang lên cho cậu đấy.
Thì ra trong tù cũng như ở đây, thằng cha LaRocca này đều làm chân phái viên cho bọn chúng.
Miles vội vã thọc tay vào túi, thấy chìa khoá phòng lão già Danny vẫn còn trong đó. Anh vươn vai đứng đậy, vã nước lên mặt cho tỉnh táo rồi đi theo hắn.
Anh cùng hắn ra hành lang, sang mở cửa phòng bên cạnh. Thấy hai người mới vào, lão già Danny ngẩng đầu nhìn. Tuy mặt còn xanh xao và dáng còn mỏi mệt, trông lão đã có vẻ tươi tỉnh hơn. Lão đã lắp răng giả và đeo kính lên mắt.
- Ê, lão già vô tích sự, ông còn định phản thùng chúng tôi nữa hay không đấy?
Ông già Danny khinh bỉ nhìn tên mặt chồn bụng phệ:
- Anh thừa biết ta không phải loại vô tích sự. Ta chỉ có vài cái tật nhỏ giống như mọi người khác,- rồi ông trỏ chiếc va li. - Anh mang quần áo đến cho ta hẳn? Vậy thì làm nốt đi. Treo lên.
LaRocca cười:
- Xem chừng lão đã sống lại rồi đấy. Milesy khá lắm.
Miles nói:
- Cậu ở đây một lát nhé, LaRocca. Mình đi kiếm cái đèn chiếu nắng, làm cho ông già này da xẫm lại đôi chút.
- Được.
- Nhưng mình muốn nói với cậu câu này.- Miles nói khẽ rồi bước ra. LaRocca ra theo. Miles khép cửa lại nói khẽ:
- Mình vẫn chưa hiểu thế này là sao, ông già kia là ai vậy?
- Một lão già khốn kiếp, có vậy thôi. Thỉnh thoảng lão lại dở chứng, bỏ trốn và thế là bọn tao phải đi tìm. Cuối cùng đều thấy lão đang ngồi nốc rượu tì tì ở một cái quán nào đấy.
- Trốn? Nhưng lão trốn khỏi đâu?
LaRocca bật ngửa đầu nhìn Miles vẻ nghi ngờ, giống hệt cách hắn nhìn anh một tuần trước đây.
- Hừm? Mày lại mắc lại cái bệnh dò hỏi đủ thứ đấy hả? Thế hai ông "Gấu” và "Người Nga" bảo mày thế nào?
- Chỉ bảo tên lão già kia là Danny, có vậy thôi.
- Nếu họ bảo mày có thế, nghĩa là mày chỉ nên biết có thế.
LaRocca ra rồi, Miles đem đèn chiếu tia cực tím vào, đặt chiếu vào người ông già Danny chừng nửa giờ. Ông ta suốt ngày chỉ nằm vạ vật, ngủ li bì. Chập tối Miles lại bưng bữa ăn tối lên. Ông già Danny ăn rất ngon miệng bữa ăn đầy đủ lần đầu tiên ở đây, sau hai mươi tư tiếng đồng hồ.
Sáng hôm sau, Thứ tư, Miles lại chăm sóc ông ta y hệt hôm qua: sáng sớm tắm hơi rồi mát-xa, sau đó chiếu tia cực tím. Rồi hai người ngồi đánh cờ. Ông già khá khôn ngoan và sức hai bên cân bằng.
Thấy đã yên dạ, ông già Danny không giấu giếm là ông rất hài lòng về sự chăm sóc chu đáo của Miles. Chiều hôm đó, ngày thứ hai ông ở câu lạc bộ Hai Con Bẩy, ông bắt đầu muốn nói chuyện.
- Hôm qua, thằng cha LaRocca kể là cậu em hiểu rất nhiều về tiền bạc.
- Ôi, với ai hắn cũng kể ra như thế.
Miles đáp và giải thích cho ông già hiểu rằng vốn tính tò mò, anh thích thú nghiên cứu các loại tiền.
Do những hiểu biết phong phú của anh về các loại tiền, mà đám tù trong nhà giam chú ý đến anh.
Ông già Danny đưa ra vài câu hỏi, rồi nói:
- Nếu không phiền cậu, ta muốn lấy lại số tiền.
- Tôi xuống đó lấy ngay bây giờ, nhưng tôi vẫn phải khoá cửa nhốt ông ở đây.
- Nếu cậu lo tôi uống rượu thì khỏi. Chuyện ấy đã qua rồi. Ta chỉ cần thỉnh thoảng làm một trận rồi thôi. Bây giờ thì vài tháng liền ta không uống cũng chẳng sao.
- Càng hay? - Miles nói rồi khoá cửa lại.
Lúc anh quay lên đưa trả chiếc ví cho Danny, ông già bày tất cả những tờ giấy bạc lên giường, chia ra làm hai tập: những tờ giấy hai mươi đô la một bên và những tờ giấy bạc khác một bên. Những tờ bên này đều nhầu nát, bẩn thỉu. ông ta lấy trong tập thứ hai này ba tờ mười đô la đưa Miles:
- Đây là tiền tôi trả cho cậu, công cậu giữ hàm răng giả và kính cho ta, rồi lại cạo râu, dội đèn cực tím cho ta nữa.
- Không cần đâu, ông Danny.
- Cầm lấy cho ta vui lòng. Đây là tiền thật. Bây giờ ta muốn hỏi cậu một câu.
- Ông hỏi đi.
- Làm sao cậu biết được những tờ hai mươi đô này là giả?
- Thoạt đầu tôi chỉ đoán chứ chưa dám chắc. Sau lấy kính lúp ra soi, tôi mới thấy những vân trên hình tổng thống Andrew Jackson không nét.
- Ông già Danny gật đầu công nhận:
- Đúng thế. Nhà máy in tiền của chính phủ dùng bản thép, còn những tờ giấy này dùng máy sao photocopy. Nhưng nếu là bàn tay lão luyện thì có thể làm rất tốt.
- Những tờ giấy này đúng là của bàn tay rất lão luyện. Trông chúng giống hệt như tiền thật.
Ông già cười mãn nguyện:
- Còn chất giấy thì cậu thấy sao?
- Giấy thì làm quá giỏi, tôi không phân biệt được. Người ta thường xem tiền thật hay giả bằng cách sờ vào mặt giấy. Nhưng những tờ này thì sờ không thấy khác một chút nào hết.
- Sợi bông nguyên chất đấy. Tám mươi tám gam. Đa số người ta cho rằng không thể kiếm ra chất giấy đúng như tiền thật, nhưng họ lầm. Đã định tìm thì tất sẽ có cách kiếm được ra.
Miles nói:
- Nếu ông cũng quan tâm đến vấn đề này thì tôi có mấy cuốn sách ở phòng tôi, ngay bên cạnh. Trong số sách đó có một cuốn rất đặc biệt, do Cục an ninh Liên bang ấn hành.
- "Bạn có biết tiền của bạn không?" - Ông già Danny cười khúc khích hỏi. Nhưng đấy chính là sách dạy cách làm tiền giả. Tuy nhằm mục đích để mọi người nhanh chóng phát hiện tiền giả, nhung cuối cùng lại thành sách dạy làm tiền giả. Bởi trong đó nêu lên những đặc điểm của tiền giả, tức là chỉ cho bọn làm tiền giả những chỗ chưa tốt của chúng để chúng khắc phục. Thậm chí trong đó có rất nhiều ảnh minh hoạ.
- Ông nói đúng.- Miles nói.
Ông già Danny không nhịn được, cười phá lên.
- Và chính phủ Liên bang Hoa Kỳ cho không mọi người! Cậu chỉ cần gửi thư đến Washington xin là lập tức họ gửi về biếu cậu một cuốn. Tay làm tiền giả cỡ siêu đẳng, tên là Mike Landress, đã viết rằng không một tên làm tiền giả nào bỏ qua được cuốn "Bạn có biết tiền của bạn không?"
- Nhưng thằng cha Landress ấy đã bị tóm cổ.
- Đúng, bởi y đi cộng tác với những đứa ngu xuẩn không có tài tổ chức.
- Ông Danny này, tôi thấy ông có vẻ am hiểu cái trò này đấy.
- Cũng hơi biết một chút.- Ông già Danny lấy trên giương ra hai tờ giấy bạc, một thật một giả. Ông so sánh và tỏ ra mãn nguyện.
- Cậu biết không, giấy bạc Mỹ là thứ dễ bắt chước và dễ in nhất? Mẫu mã được nghĩ ra từ thế kỷ trước, nghĩa là vào cái thời buổi ta chưa có khả năng làm giả chúng. Nhưng từ đó đến nay kỹ thuật đã tiến bộ rộng khắp. Kỹ thuật in offset có chất lượng cao đã đánh bại kiểu làm bản kẽm theo lối chấm. Có chất liệu tốt kèm với sự kiên nhẫn và loại bỏ một số sơ suất, bất cứ một người khéo tay đôi chút nào cũng có thể tạo nên một tờ bạc giả mà chỉ chuyên gia lành nghề mới phát hiện nổi.
- Tôi có nghe nói như vậy. Nhưng người ta sản xuất nhiều tiền giả lắm không?
Cậu hỏi đánh trúng vào hào hứng của ông già Danny. Ông ta thích thú kể:
- Thật ra không ai biết mỗi năm được in ra bao nhiêu tiền giả. Nhưng phải nói là con số rất lớn. Chính phủ công bố là khoảng ba mươi triệu đô la, nhưng chỉ ba triệu được lưu hành. Đấy là con số của chính phủ. Người ta chỉ biết một điều con số ấy đã bị thu nhỏ hoặc phóng to tuỳ theo từng tác giả. Chính phủ thì có khuynh hướng nói bớt đi. Riêng tôi ước tính thì khoảng bẩy mươi triệu đô la mỗi năm được tung ra thị trường. Thậm chí có thể tới một tỷ đô la.
- Theo tôi rất có thể đến con số ấy,- Miles nói.
Anh nhớ lại tỷ lệ tiền giả phát hiện được ở nhà băng và anh biết rất nhiều tiền giả không ai phát hiện ra.
- Cậu biết thứ giấy gì khó làm giả nhất không?
- Không.
- Ngân phiếu du lịch của Hãng American Express. Cậu biết tại sao không?
Miles lắc đầu.
- Vì chúng được in bằng phẩm xanh gọi là “bleu de Prusse". Thứ mầu này trên thực tế không chụp được, do đó cũng không in lại bằng offset được. Ai có đôi chút hiểu biết về nghề in đều không dại gì mất thời giờ cố làm giả thứ đó. Cho nên các ngân phiếu của Hãng American Express bảo đảm hơn tiền giấy Hoa Kỳ.
- Tôi nghe nói kho bạc Hoa Kỳ sắp phát hành loại giấy bạc mới có mầu sắc khác nhau tuỳ mệnh giá của chúng, giống như ở Canada.
- Đúng thế. Người ta đã in rất nhiều và cất ở Kho bạc. Loại giấy bạc này khó làm giả hơn giấy bạc hiện nay.
Ông già Dauny cười láu lỉnh nói tiếp:
- Những loại giấy bạc hiện nay vẫn còn tiếp tục được lưu thông trên thị trường một thời gian nữa. ít nhất thì cũng đến lúc tôi không còn sống trên thế gian này.
Miles lặng lẽ ghi nhớ tất cả những điều anh vừa nghe. Lát sau anh nói:
- Ông đã hỏi tôi bao nhiêu câu; ông Danny, và tôi đã trả lời, vậy bây giờ cho tôi hỏi ông một câu.
- Hỏi đi. Tôi sẽ cố trả lời.
- Ông là ai? Ông làm nghề gì?
Ông già suy nghĩ, tay xoa cầm, mắt chăm chú nhìn Miles. Cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra trong đầu ông cũng thể hiện qua cặp mắt ông: có nên thận trọng không. Cuối cùng ông quyết định.
Tôi đã bẩy mươi ba tuổi và tôi làm ở nhà in từ lúc còn trẻ. Không có ai giỏi về kỹ thuật in hơn tôi. Thật ra đấy không phải kỹ thuật mà là nghệ thuật.
Ông trỏ những tờ hai mươi đô la trên giường:
- Tác phẩm của tôi đấy. Chính tôi đã làm các tấm offset và in chúng. Miles lại hỏi:
- Ông in cả bằng lái xe và thẻ tín dụng?
- So với tiền thì hai thứ ấy chỉ là trò trẻ con. Còn nếu cậu muốn biết thì tôi xin trả lời: cũng chính tôi in chúng.
Nhà Băng Nhà Băng - Athur Hailey Nhà Băng