A book that is shut is but a block.

Thomas Fuller

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 45
ời khỏi cổng khu Temple ngay sau khi đọc lời cảnh báo, tôi hối hả đi
nhanh nhất có thể tới phố Fleet, tìm được một xe ngựa thuê còn chạy muộn ở
đây và đi xe tới khách sạn Hummums ở Covent Garden. Vào thời ấy, luôn có
thể tìm được chỗ ngả lưng tại đây vào bất kể giờ nào trong đêm, và người gác
cửa, chào đón tôi vào ngưỡng cửa luôn rộng mở của mình, thắp cây nến ở vị
trí tiếp theo trên cái giá của ông ta, rồi chỉ đường cho tôi tới thẳng căn phòng
trọ nằm tiếp theo trên danh sách phòng trống mà ông ta quản lý. Đó là một
gian phòng mái vòm nằm ngay tầng trệt đằng sau nhà, bên trong kê một cái
giường bốn trụ quái đản hống hách, chiếm kín cả không gian bên trong, với
một chân đặt bừa vào lò sưởi, một chân khác chiếm chỗ ngay trên ngưỡng
cửa, chèn ép nghẹt thở cái giá kê chậu rửa bé nhỏ khốn khổ với bộ dạng oai
vệ chính đáng.
Vì tôi đã yêu cầu thứ gì đó thắp sáng ban đêm, trước khi rời đi, người
gác cửa đã mang vào cho tôi một cây nến lõi bấc đúng kiểu cũ kỹ từ những
thời đoan chính xa xưa - một món đồ trông như hồn ma của một cây gậy
chống, sẵn sàng gãy gập khi bị chạm vào, chẳng bao giờ có thể soi sáng nổi
cái gì, và được quản thúc biệt lập dưới đáy của một cái tháp cao bằng thiếc có
lỗ tròn khoét trên thành, tạo nên những con mắt mở trừng trừng trên tường.
Khi đã leo lên giường, nằm đó với đôi chân đau ê ẩm, mệt nhừ và khổ sở, tôi
nhận ra tôi cũng bất lực trong việc bắt đôi mắt mình nhắm lại chẳng kém gì
trong việc khép lại những con mắt của gã Argus* ngu ngốc kia. Và cứ như
vậy, trong màn đêm u ám chết chóc, chúng tôi trừng trừng nhìn vào nhau.
Một người khổng lồ trăm mắt trong thần thoại Hy Lạp, lúc nào cũng chỉ nhắm năm mươi mắt, ở đây
Pip ám chỉ cái lồng đèn bằng thiếc.
Một buổi tối mới buồn thảm làm sao! Đầy lo lắng, ảm đạm, dài đằng
đẵng! Có một thứ mùi không mấy hiếu khách trong phòng, xuất phát từ bồ
hóng lạnh ngắt và bụi nóng rực; và trong khi ngước nhìn lên các góc màn treo
trên đầu mình, tôi chợt nghĩ không biết sẽ có bao nhiêu nhặng xanh từ các
hàng thịt, sâu tai từ ngoài chợ và dòi từ vùng nông thôn đang tụ họp trên đó,
nằm chờ mùa hè tiếp theo. Chuyện này làm tôi băn khoăn liệu có con nào
trong chúng rơi xuống hay không, rồi sau đó tôi tưởng tượng cảm thấy có thứ
gì đó nhè nhẹ rơi xuống mặt mình - một bước ngoặt không mấy dễ chịu của
suy nghĩ, nhắc nhở tới một mối nguy cơ còn khó chịu hơn đang tiếp cận theo
lưng tôi. Khi tôi đã nằm thức một lát, những giọng nói kỳ lạ đầy ắp trong sự
im lặng bắt đầu vang lên rõ rệt. Nhà vệ sinh thì thầm, lò sưởi thở dài, cái giá
nhỏ kê chậu rửa kêu tí tách, và thỉnh thoảng một dây đàn ghi ta lại ngân lên
trong ngăn tủ com mốt. Cùng lúc đó, những con mắt trên tường chuyển sang
một thông điệp mới, và trong từng con mắt đang trừng trừng tròn xoe đó tôi
đều thấy viết, “ĐỪNG QUAY VỀ NHÀ.”
Cho dù những tưởng tượng và âm thanh ban đêm bâu chặt nhan nhản
quanh tôi có là gì đi nữa, chúng chưa bao giờ quên nhắc “ĐỪNG QUAY VỀ
NHÀ”. Lời cảnh báo này len lỏi vào bất cứ điều gì tôi nghĩ tới, hệt như cảm
giác đau đớn âm ỉ trong người. Trước đó không lâu, tôi đã đọc được trên báo
chuyện một quý ông giấu tên đã tới nghỉ qua đêm ở Hummums, đã leo lên
giường, đã hủy hoại bản thân, và đã bị tìm thấy sáng hôm sau trong vũng
máu. Tôi chợt nghĩ chắc hẳn ông ta đã qua đêm ở đúng gian phòng mái vòm
tôi đang nghỉ lại, đoạn vội rời khỏi giường kiểm tra để đảm bảo không có vết
màu đỏ nào trên đó; rồi tôi mở cửa nhìn ra lối đi, phấn chấn với sự đồng hành
của một đốm sáng đằng xa, gần đó tôi biết người gác cửa đang ngủ gật.
Nhưng trong suốt quãng thời gian này, tại sao tôi không được quay về nhà,
chuyện gì đã xảy ra ở nhà, và khi nào tôi nên quay về nhà hay liệu Provis có
an toàn ở nhà hay không là những câu hỏi không ngừng quấy quả tâm trí tôi,
đến mức người ta phải cho rằng trong đó không còn chỗ cho bất cứ chủ đề
nào khác. Ngay cả khi tôi nghĩ về Estella, về cách chúng tôi chia tay mãi mãi
ngày hôm đó, khi tôi nhớ lại hoàn cảnh cuộc chia tay, nhớ lại cái nhìn và
giọng nói của cô, cử chỉ các ngón tay khi cô đan - ngay cả khi đó tôi vẫn theo
đuổi, ở đây, ở kia, khắp mọi nơi, lời khuyên thận trọng, Đừng quay về nhà.
Cuối cùng, khi tôi ngủ thiếp đi vì mệt lả cả về thể xác lẫn tinh thần, nó trở
thành một động từ mơ hồ mông lung tôi cần phải chia. Mệnh lệnh thức, thì
hiện tại: Bạn đừng về nhà, đừng để anh ta về nhà, chúng ta đừng về nhà, bạn
hay các bạn đừng về nhà, đừng để họ về nhà. Rồi có lẽ: tôi có lẽ không,
không thể, không muốn, không nên về nhà; cho tới khi tôi cảm thấy mình
đang loạn trí và quay đầu trên gối, lại nhìn sang những lỗ tròn đang mở trừng
trừng trên tường.
Tôi đã yêu cầu được gọi dậy lúc bảy giờ; vì rõ ràng tôi cần gặp
Wemmick trước khi gặp bất cứ ai khác, và cũng rõ ràng không kém rằng đây
là một trường hợp trong đó chỉ được phép trông cậy vào các ý kiến tại
Walworth của ông. Ra khỏi gian phòng đó quả là điều nhẹ nhõm sau buổi tối
khốn khổ tại đó, và tôi không cần nghe đến tiếng gõ cửa thứ hai để bật dậy
khỏi cái giường khó chịu.
Các tháp canh của Lâu Đài hiện ra trong tầm mắt tôi lúc tám giờ. Tình
cờ đúng lúc ấy cô hầu bé nhỏ cũng đang tiến vào tòa pháo đài đem theo hai ổ
bánh mì nóng, tôi liền đi qua cổng, băng qua cầu rút cùng cô gái, và thế là
xuất hiện không lời thông báo trước mặt Wemmick trong lúc ông ta đang pha
trà cho mình và Người Già. Một cánh cửa đang mở cho phép nhìn thấy Người
Già trên giường.
“Xin chào, cậu Pip!” Wemmick lên tiếng. “Vậy là cậu đã quay về
nhà?”
“Vâng,” tôi đáp, “nhưng tôi không vào nhà.”
“Tốt rồi,” ông vừa nói vừa xoa tay. “Tôi để lại một lời nhắn cho cậu tại
mỗi cổng vào khu Temple để chắc ăn. Cậu đi vào theo cổng nào?”
Tôi cho ông hay.
“Tôi sẽ vòng qua các cổng khác trong ngày hôm nay và hủy các lời
nhắn,” Wemmick nói, “một nguyên tắc tốt là không bao giờ để lại bằng
chứng tài liệu nếu cậu có thể, vì cậu không biết khi nào nó có thể bị đưa ra
chống lại mình. Tôi sẽ cho phép mình tự tiện một chút với cậu. Cậu vui lòng
nướng cái xúc xích này cho Người Già được chứ?”
Tôi nói tôi sẽ rất vui được làm việc đó.
“Vậy thì cô có thể đi làm việc của cô rồi, Mary Anne,” Wemmick nói
với cô hầu bé nhỏ. “Như thế chúng ta được ở riêng với nhau, cậu không thấy
sao, cậu Pip?” vị chủ nhà nháy mắt nói thêm khi cô gái đi khuất.
Tôi cảm ơn ông về sự quan tâm và thận trọng của ông, rồi cuộc trò
chuyện giữa hai chúng tôi diễn ra với giọng khe khẽ trong khi tôi nướng xúc
xích cho Người Già còn ông phết bơ lên bánh mì của Người Già.
“Bây giờ, cậu Pip, cậu biết đấy,” Wemmick nói, “cậu và tôi hiểu nhau.
Chúng ta đang ở trong tư cách riêng tư và cá nhân, và trước hôm nay, chúng
ta đã từng tham gia vào một giao ước bí mật rồi. Ý kiến chính thức là một
chuyện. Chúng ta đang ở ngoài chính thức.”
Tôi chân thành tán đồng. Tôi đang rất bồn chồn, đến mức làm cái xúc
xích của Người Già cháy bùng lên như một ngọn đuốc và phải loay hoay thổi
tắt lửa đi.
“Tôi tình cờ nghe được vào sáng hôm qua,” Wemmick nói, “khi đang ở
một nơi tôi từng dẫn cậu đến - ngay cả giữa cậu và tôi, tốt nhất không nên
nhắc đến những cái tên khi có thể tránh được…”
“Như thế tốt hơn nhiều,” tôi nói. “Tôi hiểu ông.”
“Tại đó, tôi tình cờ nghe được vào sáng hôm qua,” Wemmick nói,
“rằng một người nào đó không hoàn toàn không liên quan gì tới thuộc địa, và
không phải không sở hữu tài sản có thể mang theo người - tôi không biết
người đó thực sự là ai - chúng ta sẽ không nhắc tên nhân vật này…”
“Không cần thiết,” tôi nói.
“… người đã gây ra một chút xáo trộn ở một phần nào đó của thế giới
nơi có tương đối nhiều người tới, không luôn luôn vì ý thích của họ, và cũng
không hoàn toàn không dính dáng tới chi phí của chính phủ…”
Mải quan sát khuôn mặt vị chủ nhà, tôi gần như biến món xúc xích của
Người Già thành pháo hoa, và chuyện này đã làm sao nhãng rất nhiều sự tập
trung của cả tôi lẫn Wemmick làm tôi phải lên tiếng xin lỗi.
“… vì biến mất khỏi nơi đó, và không còn ai biết về tung tích. Sau
chuyện này,” Wemmick nói, “những phỏng đoán được đưa ra, những giả
thiết được hình thành. Tôi cũng nghe nói nơi cậu sống ở Garden Court trong
khu Temple đã bị theo dõi, và có thể sẽ lại bị theo dõi.”
“Bị ai theo dõi cơ?” tôi hỏi.
“Tôi không muốn đi vào chuyện đó,” Wemmick lảng tránh, “nó có thể
xung đột với các trách nhiệm chính thức. Tôi nghe được chuyện đó, cũng như
từng có lúc nghe thấy nhiều chuyện kỳ lạ khác ở cùng nơi đó. Tôi sẽ không
nói với cậu chuyện này dựa trên thông tin nhận được. Tôi nghe được nó.”
Vừa nói, ông vừa cầm cây xiên nướng và xúc xích từ tay tôi, rồi bày
bữa sáng cho Người Già ngay ngắn lên một cái khay nhỏ. Trước khi để khay
xuống trước mặt cụ, ông đi vào phòng Người Già cầm theo một chiếc khăn
ăn trắng bóc sạch sẽ, buộc cái khăn vào dưới cằm ông bố, đỡ ông lão dậy, đội
cái mũ ngủ vào một bên đầu ông lão, đem đến cho Người Già dáng vẻ khá
ngang tàng. Rồi Wemmick cẩn thận đặt bữa sáng xuống trước mặt bố, và nói,
“Bố vẫn ổn cả chứ, Bố Già?” Người Già liền hân hoan trả lời, “Ổn cả, John,
con trai, ổn cả!” Vì dường như được ngầm hiểu là Người Già không ở trong
trạng thái có thể giới thiệu với người ngoài, do đó cần được coi như vô hình,
tôi liền giả bộ hoàn toàn không biết những việc kể trên.
“Việc theo dõi tôi ở nơi tôi sống này (điều tôi từng có lần có lý do để
nghi ngờ),” tôi nói với Wemmick khi ông quay lại, “không thể tách rời khỏi
nhân vật ông đã nhắc đến, đúng vậy không?”
Wemmick trông có vẻ rất nghiêm trọng. “Tôi không thể đảm bảo về
chuyện đó, theo những gì tôi biết. Ý tôi là tôi không thể nói lúc đầu là vậy.
Nhưng hoặc đã là như thế, hoặc sẽ là, hay có nguy cơ là vậy.”
Vì thấy rõ vị chủ nhà bị lòng trung thành với Little Britain kiềm chế
không cho nói ra hết những gì ông có thể, cũng như tôi cũng cảm kích hiểu
rằng ông đã đi xa khỏi nguyên tắc của mình đến thế nào để tiết lộ những gì đã
nói, tôi không thể gặng ép ông hơn nữa. Nhưng sau một hồi trầm ngâm trước
lò sưởi, tôi nói với ông sẽ hỏi ông một câu, ông có thể trả lời hoặc không tùy
theo ông nghĩ làm thế nào là đúng, và tôi tin chắc lựa chọn của ông là đúng
đắn. Vị chủ nhà dừng ăn sáng, khoanh tay lại, mân mê hai ống tay áo sơ mi
(quan điểm về sự thoải mái trong nhà của ông là ngồi xuống mà không cần
mặc áo khoác), ông gật đầu một lần ra hiệu cho tôi đặt câu hỏi.
“Ông có từng nghe nói tới một người có tính cách xấu xa, tên thật là
Compeyson không?”
Vị chủ nhà trả lời bằng một cái gật đầu nữa.
“Người này còn sống?”
Thêm một cái gật đầu.
“Có phải ông ta ở London không?”
Wemmick dành cho tôi một cái gật đầu nữa, ép chặt cái thùng thư lại
một cách thái quá, dành cho tôi cái gật đầu cuối cùng, rồi tiếp tục dùng bữa
sáng.
“Bây giờ,” Wemmick nói, “khi việc đặt câu hỏi đã xong,” ông nhấn
mạnh và nhắc lại mấy lời này để chỉ dẫn cho tôi, “tôi đi tới những gì đã làm,
sau khi nghe được những gì đã nghe. Tôi tới Garden Court tìm cậu; không
tìm được cậu, tôi tới Hãng Clarriker để tìm Herbert.”
“Và ông tìm thấy cậu ấy?” tôi hỏi, cực kỳ lo lắng.
“Và tôi tìm thấy cậu ấy. Không nhắc tới bất cứ cái tên hay đi vào bất cứ
chi tiết nào, tôi nói để cậu ấy hiểu nếu cậu ấy biết có ai đó - Tom, Jack hay
Richard - đang sống tại chỗ ở của các cậu hay gần đó, tốt hơn cậu ấy nên đưa
vị Tom, Jack hay Richard kia đi ngay trong khi cậu đang không có nhà.”
“Chắc cậu ấy rất bối rối về điều cần phải làm?”
“Cậu ấy rất bối rối về chuyện cần làm gì; hơn thế nữa, vì tôi đã cho cậu
ấy biết quan điểm của tôi là sẽ không an toàn nếu lúc này tìm cách đưa Tom,
Jack hay Richard đi quá xa. Cậu Pip, tôi sẽ nói cho cậu biết một chuyện.
Trong hoàn cảnh hiện tại, không có nơi nào là một thành phố lớn khi cậu đã ở
trong nó. Đừng lộ diện quá sớm. Hãy nằm yên. Đợi cho mọi thứ lắng xuống
trước khi tìm cách ló ra nơi trống trải, cho dù là ra nước ngoài.”
Tôi cảm ơn vị chủ nhà vì những lời khuyên giá trị, rồi hỏi Herbert đã
làm gì?
“Cậu Herbert,” Wemmick nói, “sau khi thẫn thờ trong nửa giờ đồng
hồ, đã nảy ra một kế hoạch. Cậu ấy kể cho tôi một bí mật là cậu ấy đang theo
đuổi một cô gái trẻ, mà hẳn là cậu cũng biết, có ông bố liệt giường. Ông bố
này, vốn từng làm thủ quỹ trên tàu, nằm trên giường bên một cửa sổ có bệ
vòng cung lồi ra ngoài, nơi ông có thể quan sát các con tàu giương buồm
ngược xuôi trên sông. Chắc là cậu đã quen cô gái trẻ này rồi, đúng không?”
“Trực tiếp thì chưa,” tôi nói.
Sự thật là cô luôn phản đối tôi như một kẻ đồng hành hoang đàng
chẳng đem lại gì tốt đẹp cho Herbert, và khi Herbert lần đầu muốn giới thiệu
tôi với cô, cô đã đón nhận đề nghị một cách lạnh nhạt đến mức Herbert cảm
thấy có trách nhiệm trình bày thực tế của chuyện này với tôi, dự kiến đợi một
thời gian ngắn trước khi tôi làm quen với cô gái. Khi bắt đầu bí mật thúc đẩy
vận hội của Herbert, tôi đã có thể chịu đựng được chuyện này với sự thản
nhiên vui vẻ: cậu bạn tôi và vị hôn thê của cậu, về phần họ, tự nhiên không
mấy nóng lòng kéo thêm một người thứ ba vào thế giới riêng tư của họ; và vì
thế, cho dù tôi tin chắc mình đã khá lên nhiều trong đánh giá của Clara, và dù
cô và tôi đã từ lâu thường xuyên trao đổi những lời hỏi thăm và những món
quà lưu niệm qua sự trung gian của Herbert, tôi vẫn chưa bao giờ gặp mặt cô.
Song tôi không làm Wemmick bận tâm về những chi tiết này.
“Ngôi nhà với bậu cửa sổ vòng cung lồi ra đó,” Wemmick nói, “nằm
ngay bên bờ sông, ở quãng giữa Limehouse và Greenwich, và dường như chủ
nhà là một bà góa rất đáng kính có một tầng lầu có đủ đồ đạc để cho thuê,
như cậu Herbert cho tôi hay, mà tôi nghĩ làm nơi ở tạm thời cho vị Tom, Jack
hay Richard kia thì phải? Tôi thấy cách này rất tốt vì ba lý do tôi sẽ cho cậu
hay. Có nghĩa là: thứ nhất. Nơi này hoàn toàn nằm tách biệt với khu cậu sống
cũng như khu phố lớn nhỏ cậu hay lui tới. Thứ hai. Không cần phải đích thân
tới gần nơi đó, cậu vẫn luôn có thể biết được sự an toàn của Tom, Jack hay
Richard thông qua cậu Herbert. Thứ ba. Sau một thời gian và nếu vì thận
trọng, cậu muốn kín đáo đưa Tom, Jack hay Richard lên một con tàu nước
ngoài, thì ông ta đã ở đó - sẵn sàng.”
Phấn chấn lên nhiều nhờ những cân nhắc này, tôi cảm ơn Wemmick
hết lần này tới lần khác, rồi khẩn khoản đề nghị ông ta nói tiếp.
“Được thôi! Cậu Herbert đã vào việc rất khẩn trương, và đến chín giờ
tối hôm qua cậu ấy đã đưa Tom, Jack hay Richard - là ai cũng được, cậu và
tôi không muốn biết - tới chỗ ở mới khá thành công. Tại nơi ở cũ người ta
được biết ông ta có việc phải tới Dover, còn trên thực tế ông ta được đưa đi
theo con đường xuống Dover rồi rẽ rời khỏi đó. Còn một lợi thế lớn nữa
trong toàn bộ chuyện này, đó là nó được thực hiện không cần đến cậu, và nếu
ai đó bận tâm đến hành tung của cậu, rõ ràng cậu đã ở xa thành phố nhiều
dặm và đang bận bịu vào việc khác. Như thế sự nghi ngờ sẽ bị đánh lạc
hướng và gây hoang mang; và cũng vì lý do đó tôi đã khuyên cậu dù có quay
về tối qua cũng không nên vào nhà. Hành động đó đem tới thêm nhiều lẫn
lộn, và cậu muốn sự lẫn lộn.”
Wemmick, lúc này đã ăn sáng xong, bèn nhìn đồng hồ và bắt đầu mặc
áo khoác.
“Còn bây giờ, cậu Pip,” vị chủ nhà nói, hai bàn tay vẫn còn ở trong hai
ống tay áo, “chắc tôi đã làm hết những gì có thể; nhưng nếu có lúc nào đó tôi
có thể làm nhiều hơn - từ quan điểm kiểu Walworth, và với tư cách hoàn toàn
riêng tư và cá nhân - tôi sẽ vui lòng làm thế. Đây là địa chỉ. Sẽ không có gì
nguy hiểm nếu cậu tới chỗ này tối nay để tự mình đoan chắc mọi thứ vẫn ổn
với Tom, Jack hay Richard trước khi cậu về nhà - thêm một lý do nữa để cậu
không vào nhà tối qua. Nhưng sau khi đã về nhà rồi, đừng quay lại chỗ đó
nữa. Cậu sẽ rất được chào đón, tôi chắc thế, cậu Pip,” đến lúc này hai bàn tay
vị chủ nhà đã chui ra ngoài hai ống tay áo, và tôi liền bắt tay ông, “và cuối
cùng cho phép tôi nhấn mạnh với cậu một điểm quan trọng.” Ông đặt hai bàn
tay lên vai tôi, và nói thêm bằng giọng thì thầm nghiêm nghị: “Cậu hãy tận
dụng tối nay để nhận lấy những tài sản có thể mang theo người của ông ấy.
Cậu không thể biết chuyện gì sẽ xảy đến với ông ấy. Đừng để có gì xảy ra với
tài sản có thể mang theo người.”
Không tài nào nói rõ được những gì tôi nghĩ với Wemmick về việc
này, tôi đành nói sẽ cố thử.
“Đến giờ rồi,” Wemmick nói, “và tôi phải đi thôi. Nếu cậu không có gì
gấp gáp cần làm hơn là ở yên tại đây đến tối, đó là điều tôi sẽ khuyên cậu
làm. Trông cậu rất lo lắng, và sẽ tốt cho cậu nếu có một ngày hoàn toàn bình
yên cùng Người Già - ông cụ sẽ dậy ngay thôi - và một chút của - cậu còn
nhớ con lợn chứ?”
“Tất nhiên,” tôi nói.
“À; và một chút của nó. Cái xúc xích cậu nướng là nó, và về mọi mặt
nó quả là hạng nhất. Hãy thử qua nó, cho dù chỉ vì mối quen biết trước đây.
Tạm biệt, Bố Già!” vị chủ nhà cất tiếng chào thật vui vẻ.
“Được rồi, John; được rồi, con trai!” ông lão lớn tiếng đáp lại từ phía
trong.
Chẳng mấy chốc tôi đã ngủ thiếp đi trước lò sưởi nhà Wemmick, và
Người Già cùng tôi khoan khoái đánh bạn cùng nhau bằng cách gật gù ngủ
trước lò sưởi gần như cả ngày. Chúng tôi có thịt lưng lợn cho bữa chiều cùng
rau xanh trồng tại nhà; và tôi gật đầu với Người Già với thiện ý mỗi khi
không làm vậy vì ngủ gật. Khi trời đã tối, tôi để Người Già ngồi lại nhóm lửa
nướng bánh mì; và tôi suy đoán từ số tách uống trà cũng như những lần ông
lão liếc mắt lên hai cánh cửa nhỏ trên tường là cô Skiffins sẽ đến chơi.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)