There is a great deal of difference between an eager man who wants to read a book and a tired man who wants a book to read.

G.K. Chesterton

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 40
hật may mắn là tôi đã phải hết sức đề phòng đảm bảo (hết mức tôi có
thể) an toàn cho vị khách đáng sợ; vì ý nghĩ này lập tức đè nặng tôi khi tôi
tỉnh giấc và khiến những ý nghĩ đang chen nhau khác phải lùi ra xa.
Tất nhiên là không thể giấu kín ông ta trong mấy căn phòng này.
Chúng tôi không thể làm thế, và việc cố thử làm sẽ không tránh khỏi gây ra
nghi ngờ. Đúng là giờ tôi chẳng còn Kẻ Báo thù nào phục vụ mình, nhưng tôi
lại bị canh chừng bởi một bà lão hung dữ, được hỗ trợ bởi một cái túi vải te
tua di động mà bà ta gọi là cháu gái, và việc giữ bí mật về một căn phòng với
họ cũng đồng nghĩa với mời gọi sự tò mò và những tin thất thiệt được phóng
đại. Cả hai người phụ nữ kia đều kém mắt, một hệ quả từ lâu tôi đã quy cho
thói quen kinh niên nhìn trộm qua lỗ khóa, và họ cũng luôn xuất hiện khi
chẳng hề được cần đến; quả thực, đây là phẩm chất đáng tin cậy duy nhất của
họ ngoài ăn cắp. Để không tạo ra điều gì bí hiểm với hai người bọn họ, tôi
quyết định thông báo ngay buổi sáng là ông bác tôi từ dưới quê vừa lên chơi
không báo trước.
Tôi quyết định dùng phương cách này trong lúc vẫn còn đang mò mẫm
trong bóng tối tìm thứ gì đó để thắp nến. Cuối cùng, không tài nào tìm được
cái mình muốn, tôi buộc phải ra phòng gác cổng gần đó và mời người gác
đêm mang cây đèn lồng của ông ta tới. Lúc này đây, trong khi mò mẫm
xuống cầu thang tối om, tôi vấp phải thứ gì đó, và thứ đó chính là một người
đàn ông nằm co quắp trong xó.
Vì người đàn ông không hề trả lời khi tôi hỏi ông ta làm gì ở đó mà
lặng lẽ né tránh không để tôi chạm vào, tôi liền chạy tới phòng gác cổng thúc
giục người gác đêm đến gấp, đồng thời kể cho ông ta hay chuyện vừa xảy ra
trên đường quay lại. Gió vẫn thổi dữ dội như trước, chúng tôi không dám gây
nguy hiểm cho ngọn đèn lồng bằng cách thắp lại những ngọn đèn chiếu sáng
cầu thang đã tắt, mà kiểm tra cầu thang từ dưới lên trên nhưng không tìm
thấy ai ở đó. Thế rồi tôi chợt nghĩ rất có thể người đàn ông nọ đã lẻn vào
phòng tôi; vậy nên sau khi châm nến nhờ lồng đèn của người gác đêm và để
ông ta đứng ngoài cửa, tôi đi vào kiểm tra kỹ lưỡng các căn phòng, kể cả nơi
vị khách đáng sợ của tôi đang ngủ. Tất cả đều im lặng, và chắc chắn không
còn ai khác trong mấy căn phòng này.
Tôi thấy lo lắng là có thể có một kẻ lẩn trốn trên cầu thang, không đêm
nào mà lại vào đúng đêm đó, vậy là tôi hỏi người gác đêm với hy vọng tìm
được một lời giải thích trấn an nào đó trong khi đưa cho ông ta một cốc rượu
nhỏ ngoài cửa, liệu ông ta có mở cửa cho quý ông nào ra ngoài ăn chiều
không? Có, người gác cổng nói; ba lần khác nhau trong buổi tối. Một người
sống tại Fountain Court, hai người kia sống ở hẻm Lane, và ông ta đã tận mắt
thấy tất cả họ đi về nhà. Còn nữa, người duy nhất còn lại đang sống trong
ngôi nhà có khu phòng của tôi đã về quê vài tuần, và chắc chắn ông này
không hề quay lại trong buổi tối, vì khi lên cầu thang chúng tôi đã thấy cửa
phòng ông ta bị niêm phong.
“Tối nay trời xấu quá, thưa ngài,” người gác đêm nói khi trả cốc lại cho
tôi, “nên có rất ít người đi qua cổng chỗ tôi. Ngoài ba quý ông tôi đã kể tới,
tôi không thể nhớ ra thêm ai khác kể từ lúc mười một giờ, khi một người lạ
mặt đến hỏi thăm ngài.”
“Bác tôi,” tôi lẩm nhẩm. “Phải rồi.”
“Ngài gặp ông ấy rồi chứ, thưa ngài?”
“Rồi. À tất nhiên, gặp rồi.”
“Cũng như người đi cùng ông ấy?”
“Người đi cùng ông ấy?” tôi nhắc lại.
“Tôi đoán người ấy đi cùng bác ngài,” người gác đêm đáp. “Ông ta
dừng lại khi bác ngài dừng lại hỏi thăm tôi, và người đó vào trong này khi
bác ngài vào trong này.”
“Người đó trông như thế nào?”
Người gác đêm không để ý lắm; ông ta cho rằng đó là một người lao
động; theo những gì ông ta tin chắc nhất, người đó mặc bộ đồ nhem nhuốc
sẫm màu, đội cái mũ sẫm màu. Người gác đêm đã làm chuyện này sáng tỏ
hơn nhiều so với tôi, và một cách thật tự nhiên; vì ông không có lý do như
của tôi để cảm thấy quá nghiêm trọng về nó.
Khi đã tống tiễn được ông ta, tôi nghĩ nên làm vậy mà không dông dài
thêm những lời giải thích, tâm trí tôi cực kỳ căng thẳng vì hai hoàn cảnh này
cùng dồn tới đồng thời. Trong khi thật dễ có những lời giải thích an toàn
riêng rẽ - chẳng hạn, ai đó ra ngoài ăn tối hay ăn tối ở nhà không đi gần qua
chỗ cổng của người gác đêm rất có thể đã lạc vào chỗ cầu thang dẫn lên
phòng tôi và lăn ra ngủ tại đó - và vị khách không tên của tôi có thể đã dẫn
theo ai đó để chỉ đường cho ông ta - nhưng khi kết hợp lại với nhau, hai
chuyện này trở nên thật ám muội với một người vốn đã ở trong trạng thái
hoài nghi lo sợ thường trực vì những thay đổi trong vài giờ qua như tôi.
Tôi nhóm lò sưởi, ngọn lửa trong lò cháy bập bùng nhợt nhạt vào lúc
sáng sớm đó, rồi ngồi trước nó gà gật thiếp đi. Tôi dường như đã gà gật ngủ
suốt một đêm thì đồng hồ điểm chuông sáu giờ. Vì giữa tôi và ngày mới còn
cả một giờ rưỡi đồng hồ nữa, tôi lại thiếp đi gà gật; để rồi lúc thì bừng tỉnh
đầy lo âu với những cuộc chuyện trò dài dòng vô nghĩa bên tai; lúc lại tưởng
tiếng gió thổi vào qua ống khói lò sưởi là tiếng sét; rồi cuối cùng ngủ thiếp đi
thật sâu cho tới lúc bị ánh sáng ban ngày làm giật mình tỉnh giấc.
Trong suốt thời gian này, tôi chưa lúc nào được ngẫm nghĩ đến tình thế
của chính mình, mà cũng chưa hề làm thế. Tôi không có sức lực để lo đến nó.
Tôi cực kỳ chán nản đau khổ, nhưng theo một cách chung chung không rõ
ràng. Còn về việc hình thành bất cứ kế hoạch nào cho tương lai, chẳng thà
nghĩ cách tạo nên một con voi còn khả thi hơn. Lúc tôi mở cửa chớp nhìn ra
buổi sáng hoang dại ướt sũng, tất cả tuyền một màu xám chì; lúc tôi bước đi
từ phòng này sang phòng khác; lúc tôi lại ngồi xuống rùng mình trước lò
sưởi, chờ đợi bà thợ giặt xuất hiện; tôi nghĩ mình khốn khổ biết bao, nhưng
không biết vì sao, hay tôi đã vậy bao lâu rồi, hay vào ngày nào trong tuần tôi
đã nảy ra suy nghĩ đó, hay thậm chí liệu có phải tôi là người đã nghĩ ra nó
không.
Cuối cùng, bà già và cô cháu gái bước vào - cô cháu với cái đầu không
dễ phân biệt được với cái chổi bụi bặm của cô ta - và tỏ vẻ ngạc nhiên khi
thấy tôi và lò sưởi. Tôi liền cho hai người họ biết bác tôi đã tới vào buổi tối
và còn đang ngủ, đồng thời yêu cầu việc chuẩn bị bữa sáng cần được điều
chỉnh cho thích hợp. Sau đó, tôi rửa ráy thay quần áo trong khi họ xô lùa đồ
đạc trong phòng đi mà quét bụi; vậy là trong một tình trạng có thể coi như
giấc mơ hay cơn mộng du, tôi nhận ra mình lại ngồi bên lò sưởi, chờ đợi -
Ông Ta - dậy ra ăn sáng.
Vừa đúng lúc ấy, cửa phòng vị khách mở, ông ta bước ra ngoài. Tôi
không tài nào buộc mình nhìn ông ta, và tôi nghĩ dưới ánh sáng ban ngày
nom ông ta còn tồi tệ hơn.
“Thậm chí bây giờ,” tôi nói thật khẽ trong lúc vị khách ngồi vào bàn,
“tôi cũng không biết gọi ông thế nào. Tôi đã rao rằng ông là bác tôi.”
“Đúng rồi, chàng trai! Hãy gọi tôi là bác.”
“Tôi đoán ông có dùng một cái tên nào đó trên tàu chứ?”
“Có, chàng trai. Tôi lấy tên là Provis.”
“Ông có định tiếp tục giữ cái tên đó không?”
“Sao chứ, có, chàng trai, nó cũng hay như bất cứ cái tên nào khác - trừ
phi cậu thích một cái tên khác.”
“Vậy họ tên thật của ông là gì?” tôi thì thầm hỏi.
“Magwitch,” vị khách đáp, cũng thì thầm như thế, “tên thánh là Abel.”
“Vậy ông đã được nuôi dạy để làm nghề gi?”
“Sâu mọt thôi, chàng trai.”
Vị khách trả lời khá nghiêm túc, và dùng từ đó như thể nó nói rõ về
một nghề nghiệp nào đó.
“Khi ông vào khu Temple tối qua…” tôi nói, dừng lại để tự hỏi liệu có
thực sự là tối qua hay không, vì dường như đã một thời gian dài trôi qua.
“Sao cơ, chàng trai?”
“Khi ông tới cổng và hỏi người gác cổng đường lên đây, có ai đi cùng
ông không?”
“Đi cùng tôi ư? Không, chàng trai.”
“Nhưng có ai ở đó chứ?”
“Tôi không thực sự để ý,” vị khách nói khá mơ hồ, “vì không rõ đường
đi lối lại ở chỗ này. Nhưng tôi nghĩ còn có một người khác đến cùng lúc với
mình.”
“Hiện ở London có ai biết ông không?”
“Tôi hy vọng là không!” vị khách nói, đồng thời đưa ngón trỏ quẹt
nhanh ngang qua cổ một cái khiến tôi rùng mình như sắp phát ốm.
“Vậy trước đây ở London từng có ai biết ông chưa?”
“Chưa từng và không hề, chàng trai. Phần lớn thời gian tôi sống dưới
tỉnh.”
“Vậy có phải ông… đã bị xử… ở London không?”
“Lần nào?” vị khách hỏi kèm theo một cái nhìn sắc lẹm.
“Lần gần nhất.”
Ông gật đầu. “Nhờ vậy mà ban đầu tôi quen ông Jaggers. Jaggers bào
chữa cho tôi.”
Tôi đã chực hỏi ông ta bị xử vì tội gì, nhưng vị khách đã cầm dao ăn,
vung nó lên, và cùng với mấy lời, “Và những gì tôi đã làm thì đã làm xong và
trả giá!” trước khi lao vào bữa sáng.
Ông ăn ngốn ngấu rất chướng mắt, và tất cả cử chỉ của vị khách đều
thô lỗ, ồn ào, tham lam. Ông ta đã mất đi vài chiếc răng so với hồi tôi từng
thấy ông ta ăn trong đầm lầy, và trong lúc vị khách đảo thức ăn trong miệng,
quay đầu đi để mang những chiếc răng khỏe nhất tới mà nhai, trông ông ta
giống hệt một con chó đói. Nếu lúc bắt đầu bữa tôi có từng cảm thấy chút
ngon miệng nào thì vị khách cũng đã làm tan biến hết, và tôi đành ngồi như
đã làm - bị một ác cảm không thể vượt qua được đẩy xa khỏi ông ta, ủ dột
nhìn xuống khăn trải bàn.
“Tôi là người ăn rất khỏe, chàng trai,” vị khách nói, như một cách xin
lỗi lịch sự khi ông ta đã ăn xong bữa, “nhưng tôi luôn thế. Nếu như con người
tôi bớt phàm ăn hơn, có lẽ tôi đã ít gặp rắc rối hơn. Cũng như thế, tôi cần phải
hút thuốc. Khi tôi mới được thuê làm người chăn cừu ở đầu kia thế giới, tôi
tin hẳn chính tôi cũng đã biến thành một con cừu ủ dũ nếu không có món
thuốc lá của mình.”
Vừa nói vị khách vừa đứng dậy khỏi bàn, đút tay vào ngực chiếc áo
khoác vải len ngắn đang mặc lấy ra một cái tẩu ngắn màu đen cùng một
nhúm thuốc rời loại được gọi là Đầu Người Da Đen. Sau khi nhồi đầy tẩu, vị
khách cất trả chỗ thuốc lá còn thừa về chỗ cũ, như thể túi áo ông ta là một cái
ngăn kéo. Tiếp theo, ông ta dùng kẹp gắp một viên than hồng từ trong lò
sưởi, dùng nó châm tẩu thuốc, rồi quay người trên tấm thảm trải trước lò
sưởi, quay lưng lại ngọn lửa, và lặp lại hành động ưa thích đưa cả hai bàn tay
tới cầm lấy hai bàn tay tôi.
“Và đây,” ông ta nói, vừa nói vừa hất nhẹ lên xuống hai bàn tay tôi ông
ta đang cầm trong khi rít tẩu thuốc, “và đây là quý ông tôi đã tạo nên! Một
quý ông chân chính! Tôi thấy thật vui khi nhìn cậu, Pip. Tất cả những gì tôi
muốn, chàng trai, là đứng đây và ngắm nhìn cậu!”
Tôi rụt tay đi ngay khi có thể, và thấy mình bắt đầu từ từ bình tĩnh để
xem xét tình hình của bản thân. Những thứ tôi đang bị trói buộc vào, cũng
như mức độ nặng nề của chúng, trở nên thật rõ ràng với tôi trong lúc nghe
thấy giọng nói khàn khàn của vị khách, và ngồi đó ngước nhìn lên cái đầu hói
đầy trán nếp nhăn của ông ta với những món tóc xám ở hai mé đầu.
“Tôi không thể thấy quý ông của tôi phải đặt chân lên mặt bùn trên
phố; không được phép có chút bùn nào dính lên ủng của cậu ấy. Quý ông của
tôi phải có ngựa, Pip! Ngựa để cưỡi, và ngựa để kéo xe, cũng như ngựa để
người hầu của cậu ấy cưỡi và dùng kéo xe nữa. Chẳng lẽ đám người thuộc
địa có ngựa của họ (và là ngựa thuần chủng, cậu biết đấy, lạy Chúa!) mà quý
ông London của tôi lại không có sao? Không, không. Chúng ta sẽ cho bọn họ
thấy nhiều hơn thế, Pip, phải vậy không nào?”
Vị khách lấy từ trong túi ra một cái ví dày nặng trịch, đựng đầy giấy
đến chặt cứng, rồi ném nó lên mặt bàn.
“Có một thứ đáng để chi dùng trong cái ví này, chàng trai. Nó là của
cậu. Tất cả những thứ tôi có không phải của tôi; nó là của cậu. Không cần
phải e ngại về nó. Vẫn còn nhiều hơn từ nơi cung cấp chúng. Tôi đã trở về cố
quốc để thấy quý ông của tôi sử dụng tiền bạc như một quý ông. Đó sẽ là
niềm vui của tôi. Niềm vui của tôi sẽ là được thấy cậu ấy làm điều đó. Và
quỷ bắt tất cả các người đi!” ông ta đi đến hồi kết, đưa mắt nhìn quanh phòng
và búng ngón tay làm vang lên một tiếng tách thật to, “quỷ bắt hết các người
đi, từ tay thẩm phán đội tóc giả, cho tới đám dân thuộc địa thúc ngựa làm bụi
bay mù mịt, ta sẽ cho thấy một quý ông còn tốt hơn tất cả đám các người gộp
lại!”
“Dừng lại!” tôi nói, gần như phát hoảng vì sợ và khó chịu, “tôi muốn
nói chuyện với ông. Tôi muốn biết cần phải làm gì. Tôi muốn biết cần làm
thế nào để tránh cho ông khỏi gặp nguy hiểm, ông sẽ ở lại bao lâu, ông có
những dự định gì.”
“Hãy nghe này, Pip,” vị khách nói, áp bàn tay lên cánh tay tôi, thái độ
đột nhiên thay đổi, trở nên cam chịu, “trước hết, hãy nghe này. Nửa phút
trước tôi đã cư xử kém. Những gì tôi nói thật thấp kém; chúng là thế đấy;
thấp kém. Hãy nghe này, Pip. Hãy quên chuyện đó đi. Tôi sẽ không thấp kém
nữa đâu.”
“Trước hết,” tôi lên tiếng, nửa rên rẩm, “cần đề phòng thế nào để ông
không bị phát hiện và bắt giữ?”
“Không, chàng trai thân mến,” vị khách nói, vẫn với giọng như lúc
trước, “đầu tiên sẽ không phải là chuyện đó. Trước hết là sự thấp kém. Tôi đã
không mất quá nhiều năm để tạo nên một quý ông, và không phải không biết
những gì cần cho cậu ta. Hãy nghe này, Pip. Tôi là một kẻ thấp kém; đó chính
là con người tôi; thấp kém. Hãy bỏ qua điều đó, chàng trai thân mến!”
Một cảm giác buồn cười không kìm nổi khiến tôi bật cười cáu kỉnh
trong lúc trả lời, “Tôi đã bỏ qua rồi. Có Chúa chứng giám, đừng nhắc chuyện
đó nữa!”
“Được, nhưng hãy nghe này,” vị khách khăng khăng. “Chàng trai thân
mến, tôi không đi xa thế này để rồi thấp kém. Giờ hãy nói tiếp đi, chàng trai.
Cậu vừa nói…”
“Cần làm thế nào để bảo vệ ông khỏi mối nguy hiểm ông đang gặp
phải?”
“À, chàng trai, mối nguy hiểm cũng không quá lớn đâu. Nếu tôi không
bị tố cáo lần nữa, mối nguy hiểm cũng không lớn đến mức đáng kể. Có
Jaggers, rồi Wemmick, và cả cậu nữa. Còn ai nữa để đi tố cáo nhỉ?”
“Liệu có nguy cơ ai đó nhận ra ông ngoài đường không?” tôi hỏi.
“À,” vị khách đáp, “cũng không nhiều đâu. Mà tôi cũng không hề có ý
định thông báo về bản thân trên báo dưới cái tên A.M.* trở về từ Vịnh
Botany*; và nhiều năm đã trôi qua rồi, và ai được lợi gì từ chuyện này chứ?
Dù sao hãy nghe này, Pip. Nếu mối nguy hiểm có lớn hơn năm mươi lần thì
tôi cũng sẽ tới gặp cậu.”
Abel Magwitch.
Một vùng dùng để làm nơi lưu đày tù khổ sai tại Australia hồi thế kỷ 19.
“Vậy ông sẽ ở lại bao lâu?”
“Bao lâu ư?” vị khách nói, lấy chiếc tẩu đen trên miệng xuống, há hốc
nhìn tôi chằm chằm. “Tôi sẽ không quay lại nữa. Tôi trở về hẳn.”
“Ông định sống ở đâu?” tôi hỏi. “Cần phải làm gì cho ông đây? Liệu ở
đâu ông sẽ được an toàn?”
“Chàng trai thân mến,” vị khách đáp, “có những bộ tóc giả để hóa trang
chỉ cần bỏ tiền ra mua, và còn có cả thuốc nhuộm tóc, kính và đồ đen - quần
ống túm. Những người khác từng làm chuyện này an toàn trước đây rồi, và
điều gì người khác từng làm, sẽ có người làm lại. Còn về chuyện sống ở đâu
và như thế nào, chàng trai, hãy cho tôi biết ý kiến của cậu về việc này.”
“Bây giờ ông có vẻ rất thoải mái,” tôi nói, “nhưng tối qua ông lại rất
nghiêm chỉnh khi thề rằng đó là án tử.”
“Và tôi xin thề đó là án tử,” vị khách nói, lại ngậm lấy tẩu, “và án tử
với một cái thòng lọng, ngay ngoài phố không xa nơi này, và điều nghiêm túc
là cậu cần hiểu rõ chuyện đó. Khi đã hiểu rõ chuyện đó rồi thì sao nhỉ? Tôi
đang ở đây. Bây giờ mà quay trở lại thì cũng tồi tệ như cứ ở lại đây - không,
tồi tệ hơn. Hơn nữa, Pip, tôi ở đây vì tôi vẫn có ý muốn tìm gặp cậu, từ nhiều
năm trước rồi. Còn về những gì tôi mạo hiểm, giờ tôi đã là một con chim già
nua rồi, đã bất chấp đủ loại cạm bẫy từ lúc nó mới ra ràng, và tôi sẽ không sợ
đậu trên một con bù nhìn đâu. Nếu bên trong nó ẩn giấu án tử, thế thì cứ để
nó lộ diện đi, tôi sẽ đối mặt với nó, đến khi ấy tôi sẽ tin vào nó chứ không
phải trước đó. Còn bây giờ, hãy để tôi được lần nữa ngắm nhìn quý ông của
tôi.”
Thêm một lần nữa, vị khách cầm lấy cả hai bàn tay tôi và quan sát tôi
với vẻ sở hữu đầy ngưỡng mộ, và trong suốt thời gian đó hút thuốc một cách
rất hài lòng.
Với tôi, có vẻ như tôi không thể làm gì tốt hơn ngoài tìm cho ông ta
một chỗ ở yên tĩnh nào đó ngay gần kề để ông ta chuyển tới khi Herbert quay
về: tôi đang chờ cậu về trong hai hay ba ngày nữa. Ngay cả khi có không
màng tới cảm giác nhẹ nhõm ghê gớm sẽ có được khi chia sẻ với cậu, tôi vẫn
thấy việc phải tiết lộ bí mật này với Herbert hiển nhiên là một sự cần thiết
không thể tránh khỏi. Nhưng nó lại chẳng hiển nhiên đến thế với ông Provis
(tôi quyết định gọi ân nhân của mình bằng cái tên đó), người dè dặt chưa tán
thành sự can dự của Herbert cho tới khi đã tận mắt thấy cậu và có đánh giá
tích cực về con người cậu. “Và ngay cả khi đó nữa, chàng trai,” ông ta nói,
lấy một quyển Kinh Thánh nhỏ bìa trơn nhẫy màu đen có móc cài từ trong túi
ra, “chúng ta sẽ phải buộc cậu ta thề.”
Nói rằng người bảo trợ kinh khủng của tôi mang cuốn sách nhỏ màu
đen này đi khắp thế giới chỉ để bắt người khác thề trong những trường hợp
khẩn cấp sẽ là nói điều tôi chẳng bao giờ tìm hiểu được xác thực - nhưng điều
này thì tôi có thể nói, đó là tôi chưa bao giờ biết ông ta dùng nó vào bất cứ
việc gì khác. Bản thân cuốn Kinh Thánh có vẻ như đã bị đánh cắp từ một
phòng xử án nào đó, và có thể những gì ông ta biết về các chủ nhân trước của
nó, cộng với kinh nghiệm của chính ông ta theo hướng đó đã khiến ông ta
trông cậy vào sức mạnh của nó như một thứ phù chú hay bùa hộ mệnh pháp
lý. Trong lần đầu tiên được thấy ông ta lấy nó ra này, tôi nhớ lại ông ta từng
bắt tôi thề giữ lời ở nghĩa địa nhà thờ trước đó đã lâu, cũng như việc tối hôm
trước ông ta mô tả bản thân như một người luôn thề khi hạ quyết tâm trong
cảnh cô độc.
Vì lúc này ông ta đang mặc một bộ đồ may sẵn dành cho người đi biển,
trong bộ đồ đó trông ông ta như thể sở hữu vài con vẹt và ít xì gà phải vứt đi,
tiếp theo tôi bàn bạc với vị khách xem ông ta nên mặc đồ ra sao. Ông ôm ấp
cái niềm tin lạ lùng vào giá trị của những món đồ “quần ống túm” như một
thứ ngụy trang, và đã tự phác ra trong đầu một bộ trang phục cho bản thân sẽ
biến ông ta thành nhân vật nào đó lấp lửng giữa một linh mục và một nha sĩ.
Phải khá khó nhọc tôi mới thuyết phục được ông chấp nhận một kiểu trang
phục trông giống một chủ trại khá giả hơn; và chúng tôi thỏa thuận là ông ta
cần cắt tóc ngắn và dùng một ít bột. Cuối cùng, vì ông ta vẫn chưa bị bà thợ
giặt hay cô cháu bà này trông thấy, vị khách cần tránh khỏi tầm mắt họ cho
đến khi đã thay đổi xong trang phục.
Dường như việc đi đến quyết định về những biện pháp đề phòng này là
chuyện đơn giản; nhưng trong trạng thái choáng váng nếu không muốn nói là
mụ mị của tôi, nó cũng khá mất thời gian, đến mức phải tới hai ba giờ chiều
tôi mới có thể ra ngoài xúc tiến. Vị khách sẽ phải khóa trái mình ẩn kín trong
phòng trong khi tôi đi vắng, và không được mở cửa trong bất cứ trường hợp
nào.
Vì biết có một ngôi nhà cho thuê phòng rất có uy tín trên phố Essex,
đằng sau nhà nhìn vào Temple, và gần như nằm trong tầm tiếng gọi từ cửa sổ
phòng tôi, trước hết tôi tới ngôi nhà đó, và may mắn thuê được lầu hai cho
bác tôi, ông Provis. Tiếp theo, tôi đi từ cửa hàng này qua cửa hàng khác, mua
sắm tất cả những gì cần thiết cho việc thay đổi diện mạo vị khách. Xong xuôi,
tôi đi tới Little Britain để lo việc riêng. Ông Jaggers đang ngồi tại bàn làm
việc, nhưng khi thấy tôi bước vào, ông lập tức đứng dậy đến đứng trước lò
sưởi đang cháy.
“Bây giờ, Pip,” ông nói, “hãy thận trọng.”
“Tôi sẽ thận trọng, thưa ngài,” tôi đáp. Vì trên đường đến đây tôi đã
nghĩ kỹ lưỡng về những gì sẽ nói.
“Đừng làm liên lụy bản thân cậu,” ông Jaggers nói, “và đừng làm liên
lụy đến bất cứ ai. Cậu hiểu đấy - bất cứ ai. Đừng nói gì với tôi hết. Tôi không
muốn biết bất cứ điều gì; tôi không tò mò.”
Tất nhiên tôi thấy ngay ông luật sư biết người tù khổ sai đã tới nơi.
“Ông Jaggers, tôi chỉ muốn,” tôi nói, “đảm bảo là những gì tôi được
nghe kể đều đúng. Tôi không hề hy vọng chúng không đúng, nhưng ít nhất
tôi có thể xác minh điều đó.”
Ông Jaggers gật đầu. “Nhưng cậu đã nói ‘được kể’ hay ‘được nghe tin’
nhỉ?” ông luật sư hỏi tôi, đầu nghiêng qua một bên, không nhìn tôi mà nhìn
xuống sàn như đang lắng nghe. “Được kể dường như có ngụ ý là trao đổi
bằng lời nói. Cậu không thể trao đổi bằng lời nói với một người đang ở New
South Wales được, cậu biết đấy.”
“Tôi sẽ nói là được nghe tin, ngài Jaggers.”
“Tốt.”
“Tôi đã được thông tin từ một người tên là Abel Magwitch rằng ông ta
chính là người bảo trợ bấy lâu tôi chưa biết.”
“Đó chính là người đàn ông ở New South Wales,” ông Jaggers nói.
“Và chỉ có ông ấy?” tôi hỏi.
“Và chỉ có ông ấy,” ông Jaggers nói.
“Thưa ngài, tôi không phải là người vô lý đến mức nghĩ ngài phải chịu
hoàn toàn trách nhiệm về những sai lầm và những kết luận thiếu chính xác
của tôi; song tôi vẫn cho rằng người đó là cô Havisham.”
“Như cậu vừa nói đấy, Pip,” ông Jaggers đáp, đưa mắt nhìn tôi bình
thản, rồi cắn ngón trỏ, “tôi không hề chịu trách nhiệm về điều đó.”
“Ấy vậy nhưng mọi thứ có vẻ thật giống như thế, thưa ngài,” tôi nói
với trái tim nặng trĩu.
“Không hề có chút bằng chứng nào, Pip,” ông Jaggers nói, lắc đầu và
vén vạt sau áo đuôi tôm của mình lại. “Đừng phỏng đoán gì theo bề ngoài;
hãy dựa mọi thứ trên bằng chứng. Không có nguyên tắc nào tốt hơn thế.”
“Tôi không còn gì thêm để nói nữa,” tôi thở dài nói, sau khi đứng lặng
im một lát. “Tôi đã xác minh thông tin của mình, và thế là kết thúc.”
“Và Magwitch - ở New South Wales - cuối cùng cũng đã lộ diện,” ông
Jaggers nói, “cậu sẽ hiểu, Pip, việc tôi liên hệ với cậu từ đầu đến giờ luôn
chặt chẽ, tôi luôn bám sát đường lối. Chưa bao giờ có một chút chệch khỏi
đường lối. Hẳn cậu cũng ý thức được điều đó chứ?”
“Cũng có, thưa ngài.”
“Tôi đã liên lạc với Magwitch - ở New South Wales - khi ông ta lần
đầu tiên viết thư cho tôi - từ New South Wales - để cảnh báo là ông ta không
nên trông đợi tôi trong bất cứ trường hợp nào đi chệch khỏi đường lối. Tôi
cũng báo với ông ta một cảnh báo khác. Theo tôi, ông ta có vẻ đã mơ hồ ám
chỉ qua thư một vài ý tưởng xa xôi nào đó về chuyện tới đây gặp cậu ở Anh.
Tôi đã cảnh báo ông ta là tôi sẽ không muốn biết thêm gì về chuyện đó nữa;
rằng khó có khả năng ông ta nhận được ân xá; rằng ông ta đã bị lưu đày
chung thân; và rằng việc ông ta xuất hiện trên đất nước này sẽ bị coi là một
tội nghiêm trọng, khiến ông ta phải chịu hình phạt cao nhất của pháp luật. Tôi
đã gửi tới Magwitch lời cảnh báo đó,” ông Jaggers nói, đồng thời nhìn tôi
chằm chặp, “tôi đã viết như thế tới New South Wales. Không nghi ngờ gì
nữa, ông ta đã để nó dẫn dắt.”
“Không nghi ngờ gì nữa,” tôi nói.
“Tôi đã được thông tin từ Wemmick,” ông Jaggers nói tiếp, vẫn nhìn
tôi chằm chặp, “là ông ấy đã nhận được một lá thư, đề gửi từ Portsmouth, của
một cư dân thuộc địa có tên là Purvis, hay…”
“Hay Provis,” tôi gợi ý.
“Hay Provis - cảm ơn cậu, Pip. Hay có lẽ là Provis nhỉ? Có thể cậu biết
cái tên ấy là Provis chăng?”
“Phải,” tôi nói.
“Cậu biết cái tên ấy là Provis. Một lá thư, đề gửi từ Portsmouth, của
một cư dân thuộc địa có tên là Provis, hỏi thăm địa chỉ cụ thể của cậu, nhân
danh Magwitch. Theo tôi hiểu, Wemmick đã gửi địa chỉ cho người đó theo
đường bưu vụ. Có thể thông qua Provis cậu đã nhận được lời giải thích của
Magwitch - đang ở New South Wales - chăng?”
“Nó tới thông qua Provis,” tôi đáp.
“Chúc một ngày tốt lành, Pip,” ông Jaggers nói, chìa tay ra, “rất vui
được gặp cậu. Khi viết thư gửi bưu vụ cho Magwitch - ở New South Wales -
hay liên hệ với ông ấy thông qua Provis, hãy làm ơn đề cập rằng các giấy tờ
biên lai chi tiết trong thời gian quan hệ lâu dài của chúng ta sẽ được gửi tới
cậu cùng với số dư; vì vẫn còn lại một số dư nữa. Chúc một ngày tốt lành,
Pip.”
Chúng tôi bắt tay, và ông luật sư nhìn tôi chằm chặp suốt quãng thời
gian ông có thể nhìn tôi. Tôi quay người trên ngưỡng cửa ra vào, và ông vẫn
nhìn tôi chằm chặp, trong khi hai bộ mặt xấu xa trên giá dường như đang cố
mở mắt ra, và hét lên từ cổ họng sưng phồng của chúng, “Ôi, ông ta là một kẻ
như thế đấy!”
Wemmick đang ra ngoài, nhưng cho dù có mặt tại bàn làm việc chắc
ông cũng không làm gì cho tôi. Tôi quay về thẳng Temple, tại đây tôi thấy
ông Provis khủng khiếp kia đang uống rượu rum pha nước, hút thuốc lá đen
một cách an toàn.
Ngày hôm sau, những món quần áo tôi yêu cầu đều được mang tới nhà,
và vị khách mặc chúng vào. Cho dù ông ta mặc gì lên người, món đồ đó cũng
ít hợp với ông ta (tôi khổ sở nhận thấy dường như là vậy) hơn so với những
gì ông ta mặc trước đó. Theo tôi nghĩ, có điều gì đó ở ông ta làm cho mọi nỗ
lực hóa trang đều trở nên vô vọng. Tôi càng thử nhiều trang phục, càng mặc
lên người ông ta những món quần áo đàng hoàng hơn, ông ta trông lại càng
giống kẻ đào tẩu rách rưới ngoài đầm lầy. Không nghi ngờ gì nữa, một phần
tạo nên ảnh hưởng này trong trí tưởng tượng đầy lo âu của tôi là việc khuôn
mặt già nua và cử chỉ của ông ta đã trở nên quen thuộc hơn với tôi; nhưng tôi
cũng tin ông ta kéo lê một bên chân khi đi, như thể vẫn còn sức nặng xiềng
sắt gắn vào, và từ đầu đến chân vị khách vẫn là một gã Tù Khổ Sai.
Ngoài ra, những ảnh hưởng từ cuộc sống cô độc trong túp lều, đem đến
cho ông ta vẻ hoang dã không trang phục nào thuần hóa được; thêm vào đó
còn có ảnh hưởng của quãng đời bị dè bỉu sống giữa những người khác, và
trên hết, ý thức rằng ông ta đang phải trốn tránh. Trong cách ông ta đứng
ngồi, ăn uống, trong cách ông ta lo lắng với đôi vai nhô cao lên miễn cưỡng,
cách ông lấy con dao gấp to cán sừng của mình ra, chùi nó lên chân và dùng
nó cắt thức ăn, nâng ly tách nhẹ lên miệng như thể đó là những cái ca sắt
nặng nề thô kệch, cách ông ta cắt một góc bánh mì, rồi quệt vòng vòng quanh
đĩa để lấy hết sạch chỗ nước thịt còn lại, như thể tận dụng hết mức khẩu
phần, rồi quẹt cho hết nước thịt ở mấy đầu ngón tay lên miếng bánh trước khi
nuốt chửng nó - trong những cử chỉ này và cả ngàn khoảnh khắc vụn vặt
không tên khác xuất hiện mỗi phút trong ngày, luôn hiện hữu Tù Nhân, Kẻ
Tội Phạm, Kẻ Lưu Đày, rõ mồn một ngay trước mắt.
Việc dùng phấn bột cho tóc là ý tưởng của chính ông ta, và tôi đã
nhượng bộ chuyện này sau khi vượt qua được chuyện quần ống túm. Nhưng
khi thực hiện, tôi chẳng thể so sánh hiệu quả của nó với thứ gì khác ngoài
hiệu quả của son môi lên người chết; kết quả tồi tệ đến mức tất cả những gì
cần che giấu đi nhất ở ông ta đều bộc lộ dưới lớp màn giả bộ mỏng manh, và
dường như đang hiện lên rõ mồn một trên đỉnh đầu vị khách. Ý tưởng này bị
loại bỏ ngay sau khi thử, và vị khách hài lòng với mái tóc xám cắt ngắn của
mình.
Từ ngữ không thể nói lên được những gì tôi cảm thấy cùng lúc đó về bí
mật đáng sợ mà ông ta chính là hiện thân. Vào một buổi tối, khi ông ta ngủ
thiếp đi với hai bàn tay đầy mấu xương gồ lên bấu chặt lấy hai bên tay dựa
chiếc ghế bành, cái đầu hói đầy những vết nhăn hằn sâu đổ gục xuống ngực,
tôi liền ngồi xuống nhìn ông ta, tự hỏi ông đã làm gì, rồi quy cho ông đủ loại
tội ác được ghi trong cuốn niên giám nhà tù Newgate, cho tới khi sự thôi thúc
mạnh mẽ dồn ép lên tôi, giục giã tôi vùng dậy chạy trốn khỏi ông ta. Mỗi giờ
trôi qua càng làm tăng thêm sự thù ghét tôi dành cho ông, đến mức tôi thậm
chí từng nghĩ mình có thể đã đầu hàng sự thôi thúc này trong cơn khủng
hoảng đầu tiên khi bị ám ảnh như thế, bất chấp tất cả những gì ông đã làm
cho tôi, những rủi ro ông đang chịu, nếu không vì tôi biết rõ Herbert sẽ sớm
quay về. Một lần, tôi thực sự bật dậy khỏi giường giữa đêm khuya và bắt đầu
mặc những món quần áo bệ rạc nhất của mình lên người, hối hả định bỏ mặc
vị khách lại đó với tất cả những thứ còn lại tôi sở hữu và đăng ký đi Ấn Độ
làm lính đánh thuê.
Tôi không rõ liệu một hồn ma có thể kinh khủng hơn nữa với mình hay
không, khi ở trong những căn phòng cô quạnh đó qua những buổi tối và đêm
dài đằng đẵng, trong khi gió và mưa luôn vần vũ bên ngoài. Một hồn ma vì
tôi mà không thể bị bắt và treo cổ, và ý nghĩ rằng vị khách có thể bị lâm vào
cảnh đó, và ông ta sẽ thật khốn khổ, cũng làm tăng thêm không ít nỗi kinh
hoàng của tôi. Khi ông ta không ngủ, hay bận rộn chơi một dạng bài Kiên
nhẫn phức tạp với bộ bài sờn rách của mình - một kiểu chơi tôi chưa bao giờ
thấy trước đó hay kể từ đó, trong trò chơi này vị khách ghi lại điểm thắng
bằng cách cắm con dao gấp xuống bàn - mỗi khi không bận bịu với mấy
chuyện này, ông ta lại đề nghị tôi đọc sách cho ông ta nghe - “Tiếng nước
ngoài, chàng trai!” Trong lúc tôi làm theo, ông ta sẽ ngồi trước lò sưởi theo
dõi tôi như một ông bầu chuyên tổ chức trưng bày những thứ giật gân gây tò
mò, cho dù không hiểu lấy một từ, và tôi sẽ nhìn thấy ông qua kẽ các ngón
tay của bàn tay tôi dùng che mặt, đang trong màn trình diễn kịch câm kêu gọi
đám đồ đạc chú ý tới sự xuất sắc của tôi. Học giả tưởng tượng đang bị truy
đuổi bởi tạo vật méo mó anh ta đã tạo ra một cách bất kính* cũng không
khốn khổ bằng tôi, bị truy đuổi bởi tạo vật đã tạo nên tôi, và phải trốn tránh
ông bởi một sức đẩy càng mạnh mẽ hơn khi ông ngưỡng mộ và quý mến tôi
hơn.
Đoạn này tác giả muốn nhắc tới bác sĩ Victor Frankenstein và con quái vật anh này tạo ra từ các xác
chết trong tiểu thuyết Frankenstein của Mary Shelley. Frankenstein đã tạo ra một con quái vật để rồi
sau này nó truy đuổi anh vì bị bỏ rơi.
Khi viết về quãng thời gian này, tôi cảm thấy như nó đã kéo dài cả
năm. Thực ra nó kéo dài chừng năm ngày. Luôn trông đợi Herbert trở về, tôi
không dám ra ngoài, ngoại trừ khi tôi đưa Provis đi hít thở không khí sau khi
màn đêm buông xuống. Cuối cùng, vào một buổi tối, khi bữa ăn đã xong và
tôi đã mệt rũ chìm vào giấc ngủ - vì các buổi tối của tôi luôn bồn chồn, giấc
ngủ luôn bị ngắt quãng bởi những giấc mơ kinh hoàng - tôi bị tiếng bước
chân quen thuộc trên cầu thang đánh thức. Provis, vốn cũng đã ngủ thiếp đi,
lảo đảo bật dậy do tiếng động tôi gây ra, và ngay lập tức tôi thấy con dao gấp
lóe sáng trên tay ông ta.
“Im lặng! Herbert đấy!” tôi nói; và Herbert ào vào, mang theo cả không
khí tươi mát của sáu trăm dặm đường nước Pháp trên người cậu.
“Handel, anh bạn thân mến, cậu khỏe chứ, một lần nữa cậu khỏe chứ,
và thêm lần nữa cậu khỏe chứ? Tớ có cảm tưởng đã đi vắng cả năm rồi! Sao
chứ, nhất định là thế rồi, vì trông cậu gầy và xanh quá! Handel, anh bạn - Xin
chào! Tôi xin lỗi.”
Cậu sững lại trong khi đang lao vào bắt tay tôi vì trông thấy Provis.
Provis, nhìn cậu bạn tôi hết sức chăm chú, từ từ gập con dao lại và lục lọi
trong một túi áo khác tìm thứ gì đó.
“Herbert, anh bạn thân mến,” tôi nói rồi đóng cửa ra vào lại, trong lúc
Herbert đứng tròn mắt băn khoăn nhìn chằm chằm, “một chuyện rất lạ lùng
đã xảy ra. Đây là… một vị khách của tớ.”
“Được rồi, chàng trai!” Provis vừa nói vừa bước tới, cầm theo quyển
Kinh Thánh nhỏ màu đen có quai cài của ông ta, rồi sau đó quay sang nói với
Herbert. “Hãy đặt bàn tay phải của cậu lên nó. Chúa sẽ đánh chết cậu ngay tại
chỗ nếu có lúc nào đó cậu để lộ theo bất cứ cách nào với bất kỳ ai! Hãy hôn
lên nó đi!”
“Làm thế đi, như ông ấy muốn,” tôi nói với Herbert. Vậy là Herbert,
nhìn tôi với vẻ kinh ngạc và bối rối thân thiện, làm theo, và Provis lập tức bắt
tay cậu và nói, “Bây giờ cậu đã thề rồi, cậu biết đấy. Và về phần mình tôi sẽ
không bao giờ tin cậu, nếu Pip không chứng tỏ được cậu là một quý ông.”
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)