Every breath we take, every step we make, can be filled with peace, joy and serenity.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 35
ây là lần đầu tiên một huyệt mộ mở ra trên con đường đời của tôi, và
khoảng trống nó tạo nên trên mặt đất bằng phẳng thật kỳ lạ. Hình ảnh chị tôi
ngồi trên ghế bên lò lửa trong bếp ám ảnh tôi ngày đêm. Việc nơi đó lại có
thể vắng bóng chị là một điều dường như không thể hình dung nổi trong tâm
trí tôi; và cho dù trong thời gian gần đây chị hiếm khi, hoặc không hề, hiện
diện trong những ý nghĩ của tôi, giờ đây tôi lại có ý nghĩ thật lạ lùng là chị
đang đi về phía tôi trên phố, hay chị có lẽ sắp gõ cửa. Cả trong những căn
phòng của tôi, nơi chưa bao giờ có mối liên hệ nào với chị, cũng đồng thời
ngự trị không khí trống rỗng của cái chết cùng sự nhắc nhở thường trực về
giọng nói, một cử chỉ quay đầu hay những đường nét khuôn mặt của chị, như
thể chị tôi vẫn còn sống và từng thường xuyên ở đó.
Cho dù vận hội của tôi có thế nào đi chăng nữa, tôi cũng khó lòng nhớ
về chị mình với nhiều tình cảm. Nhưng tôi đoán một cú sốc vì ân hận vẫn có
thể tồn tại mà không cần đến nhiều tình cảm. Dưới ảnh hưởng của nó (và có
thể để bù đắp lại sự thiếu vắng một cảm xúc dịu dàng hơn), tôi chợt bùng lên
một con phẫn nộ mãnh liệt với kẻ thủ ác đã khiến chị phải khổ sở nhiều như
vậy; và tôi cảm thấy nếu có đủ bằng chứng, hẳn tôi đã đeo đuổi báo thù
Orlick, hay bất cứ kẻ nào khác, tới tận tột cùng.
Sau khi viết thư cho Joe để chia buồn và cam đoan với anh rằng tôi sẽ
về dự tang lễ, tôi trải qua những ngày sau đó trong trạng thái tinh thần kỳ lạ
như tôi đã kể qua. Tôi xuống nhà từ sáng sớm, và đặt chân xuống trước nhà
trọ Lợn Lòi Xanh đủ sớm để kịp đi bộ tới lò rèn.
Lúc này đã lại đến lượt thời tiết đẹp của mùa hè, và trong khi tôi rảo
bước, thời thơ ấu khi tôi còn là một sinh linh nhỏ bé bất lực và có một người
chị không bao giờ chịu buông tha cho tôi lại trở về thật sống động. Nhưng
chúng trở lại với một âm hưởng thật dịu dàng, làm cho thậm chí cả Cây Cù
cũng trở nên êm dịu. Vì giờ đây, cả tiếng xào xạc từ những cây đậu và cỏ ba
lá cũng thì thầm vào trái tim tôi rằng chắc chắn cũng có ngày sẽ tốt cho ký ức
của tôi khi những người khác trong lúc bước đi dưới ánh mặt trời cũng dịu lại
khi họ nghĩ về tôi.
Cuối cùng, tôi cũng thấy ngôi nhà trong tầm mắt, đồng thời nhận ra
Trabb và Cộng sự đã giành lấy việc tổ chức tang lễ và chiếm cứ cả ngôi nhà.
Hai nhân vật lố bịch rầu rĩ, mỗi người đều phô trương ra một cây can quấn
vải đen - như thể món đồ này có thể đem lại chút an ủi cho bất cứ ai - được
cắt cử đứng ngoài cửa trước; và tôi nhận ra một trong hai nhân vật này là anh
chàng cưỡi ngựa xe trạm bị sa thải khỏi Lợn Lòi Xanh vì đã làm một đôi
uyên ương trẻ lao xuống hố thợ xẻ vào đúng sáng thành hôn của họ, hậu quả
của một chầu say mèm khiến anh ta phải cưỡi con ngựa của mình bằng cách
ôm chặt lấy cổ nó bằng cả hai cánh tay. Tất cả trẻ con trong làng, và phần lớn
phụ nữ đang đến chiêm ngưỡng hai người trực cửa mặc đồ đen này cũng như
những khung cửa sổ đóng kín của ngôi nhà và lò rèn; và khi tôi đến trước
cửa, một trong hai người trực cửa (anh chàng cưỡi ngựa xe trạm) gõ lên cánh
cửa - với ngụ ý là tôi đã kiệt sức vì đau khổ đến mức chẳng còn hơi đâu để tự
gõ cửa.
Người trực cửa còn lại (một thợ mộc từng có lần chén hết hai con
ngỗng trong một cuộc cá cược) mở cửa ra, mời tôi vào căn phòng tiếp khách.
Tại đây, ông Trabb đã chọn cho mình cái bàn tốt nhất, gom hết lá lại và có vẻ
như đang bày ra một phiên chợ bán đồ đen với sự trợ giúp của một lượng lớn
những cây kim cài màu đen. Khi tôi xuất hiện, ông này vừa hoàn tất biến mũ
của ai đó thành áo dài đen như một cậu nhóc người Phi; vậy là ông chìa tay
cho tôi. Nhưng vừa hiểu nhầm hành động đó vừa bối rối trước hoàn cảnh, tôi
lại bắt tay ông đầy niềm nở.
Joe yêu quý tội nghiệp, mắc kẹt trong cái áo choàng đen nhỏ xíu được
buộc lại bằng một cái nơ lớn dưới cằm, đang ngồi tách riêng ở đầu trên căn
phòng; là người chủ tang, hẳn anh đã bị Trabb phân công ngồi đó. Khi tôi cúi
xuống nói với anh, “Joe yêu quý, anh thế nào?” anh liền nói, “Pip, anh bạn,
cậu từng biết cô ấy khi cô ấy còn là một phụ nữ thật tuyệt…” rồi vỗ vỗ lên
bàn tay tôi và không nói thêm gì nữa.
Biddy, trông thật gọn gàng khiêm nhường trong bộ váy đen, lặng lẽ đi
tới đi lui lo lắng mọi việc thật chu đáo. Sau khi đã chào hỏi Biddy, vì nghĩ
rằng lúc này không phải là lúc nói chuyện, tôi liền tới ngồi xuống gần Joe và
bắt đầu tự hỏi người đã khuất - chị tôi - đang ở đâu trong nhà. Không khí
trong phòng khách thoang thoảng mùi bánh ngọt, vì thế tôi đưa mắt nhìn
quanh tìm bàn bày đồ ăn; thật khó lòng nhìn rõ cái bàn đó cho tới khi người
ta đã làm quen với bóng tối mờ mờ, nhưng đúng là trên bàn có một cái bánh
mận được cắt miếng sẵn, rồi có cả cam bổ sẵn, cùng với xăng uých và bánh
quy, cùng hai cái bình tôi vẫn biết rất rõ trong vai trò vật trang trí, song cả đời
tôi chưa bao giờ thấy chúng được sử dụng; một bình đựng đầy rượu porto,
bình còn lại đựng rượu sherry. Đến đứng bên cái bàn này, tôi liền nhận ra
Pumblechook khúm núm trong một cái áo choàng đen và dải băng đen quấn
mũ dài hàng thước*, ông này liên tục nhồi cho mình hết món này tới món
khác và bày ra những cử chỉ khúm núm để tôi chú ý. Ngay khi thành công,
ông ta lập tức tới chỗ tôi (với hơi thở sặc mùi rượu sherry và vụn bánh) và
dịu giọng nói, “Ngài cho phép tôi chứ, thưa ngài?” rồi làm điều ông ta muốn.
Sau đó tôi nhận ra ông bà Hubble; bà vợ đang rơi vào một cơn kịch phát
không lời cũng kha khá trong góc phòng. Tất cả chúng tôi đều phải “theo”, và
đều đang lần lượt từng người một bị trói buộc lại (trong tay Trabb) thành
những mớ bùng nhùng lố bịch.
Thời đó, trong tang lễ nam giới quấn băng đen lên vành mũ và để thả một đầu rủ xuống.
“Điều anh muốn nói, Pip,” Joe thì thầm với tôi khi chúng tôi đang trải
qua cái mà ông Trabb gọi là “sắp xếp” trong phòng khách, cứ hai người một -
một chuyện cũng kinh khủng như chuẩn bị cho một vũ điệu tàn nhẫn nào đó,
“ý tôi muốn nói, thưa ngài, chẳng là tôi vốn muốn tự mình đưa cô ấy đến nhà
thờ cùng ba bốn người thân hữu sẵn sàng làm việc ấy với cả trái tim và cánh
tay, nhưng người ta lại nghĩ xóm giềng sẽ nhìn vào chuyện này và thể nào
cũng cho rằng làm thế là thiếu tôn trọng.”
“Lấy khăn tay trong túi ra, tất cả!” đến đây ông Trabb hô lên với giọng
công chuyện đầy ngán ngẩm. “Lấy khăn tay trong túi ra! Chúng ta sẵn sàng
rồi!”
Vậy là tất cả chúng tôi cùng lấy khăn tay ra áp lên mặt như thể mũi
đang chảy máu, và đi ra thành hàng đôi; Joe và tôi; Biddy và Pumblechook;
ông bà Hubble. Linh cữu bà chị tội nghiệp của tôi đã được khiêng vòng ra
theo cửa bếp, và, vì một quy định của lễ di quan là sáu người khiêng linh cữu
phải chịu ngột ngạt và bị che kín tầm mắt dưới một tấm mái che bằng nhung
đen kinh khủng có viền trắng, tất cả trông giống như một con quái vật mù lòa
với mười hai cái chân người lảo đảo lúng túng lê bước đi dưới sự hướng dẫn
của hai người trực cửa - anh chàng cưỡi ngựa xe trạm cùng vị đồng nghiệp
của anh ta.
Tuy thế, những người láng giềng lại đánh giá rất cao các thủ tục này,
và chúng tôi rất được ngưỡng mộ khi đi qua làng; những thành viên trẻ trung
hiếu động nhất trong cộng đồng dân cư chốc chốc lại chạy vụt cắt ngang qua
chúng tôi, rồi nằm xuống đợi chúng tôi ở những chỗ dễ quan sát. Vào những
lúc như thế, những nhân vật hồ hởi nhất đám lại rối rít reo lên đầy phấn khích
khi chúng tôi xuất hiện từ sau một khúc quanh nơi chúng tôi đang được mong
ngóng, “Họ tới rồi!” “Họ đây rồi!” và chúng tôi chỉ còn thiếu nước được
hoan hô. Trong quá trình di quan, tôi rất khó chịu về ông bác Pumblechook
quỵ lụy đi ngay đằng sau tôi và khắp dọc đường cứ không ngừng tay chăm
chút nắn chỉnh cho băng vải trên mũ tôi và tỉ mẩn vuốt phẳng cái áo choàng
tôi mặc. Dòng suy nghĩ của tôi càng bị quấy rối thêm trước vẻ tự hào thái quá
của ông bà Hubble, cả hai đều dương dương tự đắc và cao ngạo tột độ khi
được làm thành viên trong một đám rước danh giá đến vậy.
Và lúc này dãy đầm lầy đang mở ra rõ ràng phía trước chúng tôi, vươn
lên trên là những cánh buồm của tàu thuyền trên sông; và chúng tôi đi vào
khu nghĩa địa nhà thờ, gần chỗ mấy ngôi mộ của các bậc sinh thành tôi chưa
hề biết mặt, Philip Pirrip, con chiên quá cố của giáo khu này, cũng như
Georgiana vợ ông. Và tại đó, chị tôi được lặng lẽ đặt xuống lòng đất, trong
khi trên cao những con chiền chiện líu lo vui vẻ, và cơn gió nhẹ vẽ lên mặt
đất những cái bóng đẹp đẽ của các đám mây và thân cây.
Về những gì ông bác Pumblechook trải đời đã làm trong khi quá trình
này diễn ra, tôi không muốn nói gì hơn ngoài chuyện tất cả đều được dành
cho tôi; và ngay cả khi những từ ngữ cao thượng của bài kinh cầu nguyện
được đọc lên để nhắc nhở nhân loại về việc họ không mang gì theo khi đến
với thế giới này và cũng không thể mang gì rời khỏi nó, cũng như cuộc đời
luôn lướt qua như một cái bóng và không bao giờ ở lại lâu một chỗ, tôi nghe
thấy ông bật ho để nhắc nhở tới trường hợp một quý ông trẻ tuổi bỗng dưng
có được một gia tài lớn. Khi chúng tôi quay về, ông ta lại đủ trơ trẽn để nói
với tôi ông ước gì chị tôi biết được tôi đã đem đến cho chị nhiều vinh hạnh
đến thế nào, đồng thời ám chỉ hẳn chị tôi cũng sẽ thấy phải chăng nếu phải
mua chúng bằng tính mạng của mình. Sau đó, ông uống sạch chỗ rượu sherry
còn lại, còn ông Hubble cạn nốt rượu porto, rồi hai người họ trò chuyện với
nhau (một điều mà kể từ hồi ấy tôi đã để ý thấy là một thói quen trong những
dịp như vậy) như thể họ thuộc về một giống loài hoàn toàn khác so với người
quá cố, và hoàn toàn bất tử. Cuối cùng, ông ta ra về cùng ông bà Hubble - để
ăn mừng buổi tối hôm đó, tôi cảm thấy chắc như vậy, cũng như để loan báo
với cả quán Ba Thủy Thủ Vui Vẻ rằng ông ta chính là người tạo dựng nên
vận hội của tôi, là người bảo trợ đầu tiên tôi có.
Khi mấy người họ đã đi cả, và khi Trabb cùng người của ông ta -
nhưng không có cậu giúp việc; tôi đã để ý tìm cậu ta - đã thu dọn những món
đồ quái gở dùng cho tang lễ của họ vào các túi và cũng về hết, ngôi nhà trở
nên bình lặng hơn. Một lát sau đó, Biddy, Joe và tôi cùng ăn chiều với nhau
bằng đồ nguội; nhưng chúng tôi dùng bữa trong phòng khách chứ không phải
trong căn bếp cũ, và Joe tỉ mẩn quá đáng với những gì anh làm khi động tới
dao, nĩa, lọ muối và những gì không làm, khiến cho tất cả chúng tôi đều cảm
thấy gò bó. Nhưng sau bữa chiều, khi tôi đã bắt anh hãy cầm lấy tẩu thuốc,
rồi cùng anh tha thẩn đi quanh trong lò rèn cho đến khi chúng tôi cùng nhau
ngồi xuống tảng đá lớn bên ngoài, hai chúng tôi đã thấy thoải mái với nhau
hơn. Tôi nhận thấy sau tang lễ Joe đã thay đồ, như thể để đưa ra một thỏa
hiệp giữa bộ đồ đi lễ ngày Chủ nhật và đồ mặc làm việc; trong bộ đồ này,
người bạn thân thiết của tôi trông thật tự nhiên, giống với con người của anh
hơn.
Anh rất vui khi tôi hỏi liệu tôi có thể ngủ trong căn phòng nhỏ của tôi
không, và cả tôi cũng thấy vui; vì tôi cảm thấy mình đã làm một điều thật
tuyệt khi đưa ra đề nghị ấy. Khi bóng tối sắp buông xuống, tôi tìm cơ hội
cùng Biddy ra vườn đi dạo một lát.
“Biddy,” tôi nói, “anh nghĩ đáng lẽ em phải viết cho anh biết về những
chuyện buồn này.”
“Thật vậy sao, anh Pip?” Biddy nói. “Chắc em đã viết nếu em nghĩ về
chúng.”
“Đừng nghĩ là anh có ý không hay, Biddy, khi anh nói anh cho rằng
đáng lẽ em phải nghĩ tới điều đó.”
“Thật vậy sao, anh Pip?”
Cô thật kiệm lời, và luôn có tính cách thật ngăn nắp, nhân hậu và đáng
mến, vì thế tôi không thể chấp nhận nổi chuyện làm cô phải khóc lần nữa.
Sau khi nhìn một chút vào đôi mắt luôn cụp xuống của Biddy trong khi cô
bước đi bên tôi, tôi liền gạt chuyện đó đi.
“Anh chắc bây giờ em sẽ khó mà lưu lại đây đúng không, Biddy yêu
quý?”
“Ôi! Em không thể làm thế, anh Pip,” Biddy nói, giọng đầy ân hận
nhưng vẫn có sức thuyết phục thầm lặng. “Em đã nói chuyện với bà Hubble,
và mai em sẽ tới chỗ bà ấy. Em hy vọng em và bà ấy có thể cùng nhau chăm
sóc ít nhiều cho ông Gargery cho tới khi ông ấy bình tâm lại.”
“Em rồi sẽ sống thế nào, Biddy? Nếu em muốn bất cứ…”
“Em sẽ sống thế nào ư?” Biddy nhắc lại, tiếp tục bước đi, khuôn mặt
đỏ bừng lên trong giây lát. “Em sẽ cho anh biết, anh Pip. Em sẽ cố tìm lấy
một chỗ làm cô giáo trong ngôi trường mới sắp xây xong ở đây. Em có thể
được tất cả láng giềng giới thiệu một cách tích cực, và hy vọng em có thể nỗ
lực và kiên nhẫn, tự học cho mình trong khi dạy những người khác. Anh biết
đấy, anh Pip,” Biddy nói tiếp, nở một nụ cười khi cô ngước mắt nhìn lên
khuôn mặt tôi, “trường học mới sẽ không giống như lớp học cũ, nhưng em đã
học được rất nhiều từ anh sau quãng thời gian đó, và kể từ hồi ấy em cũng có
thời gian để tiến bộ.”
“Anh nghĩ em sẽ luôn tiến bộ, Biddy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào.”
“A! Ngoại trừ trong khía cạnh xấu về bản chất con người của em,”
Biddy thì thầm.
Đó không phải là một lời trách cứ mà giống một suy nghĩ không thể
đừng nổi được nói lên thành tiếng hơn. Được thôi! Tôi nghĩ mình cũng nên từ
bỏ cả ý tưởng này nữa. Vậy là tôi đi dạo thêm một lúc nữa với Biddy, im lặng
nhìn vào đôi mắt luôn cúi xuống của cô.
“Biddy này, anh vẫn chưa biết gì về hoàn cảnh cụ thể cái chết của chị
anh.”
“Cũng chẳng có gì nhiều để kể, tội nghiệp bà ấy. Bà ấy đã rơi vào tình
trạng xấu - cho dù gần đây tình hình của chị anh đã khá lên thay vì xấu đi -
được bốn ngày thì bà ấy qua được vào buổi tối ngay đúng giờ ăn và nói khá
rõ ràng, ‘Joe.’ Vì chị anh đã không hề nói lấy một từ nào trong suốt một thời
gian dài, em đã chạy ra lò rèn gọi ông Gargery về. Bà ấy ra dấu với em muốn
ông Gargery ngồi xuống cạnh mình, và muốn em đặt tay bà ấy ôm lấy cổ
ông. Vậy là em đặt tay bà quanh cổ ông ấy, và chị ông tựa đầu lên vai chồng
mình, rất hài lòng mãn nguyện. Rồi chị anh lại nói ‘Joe’ lần nữa, rồi thêm
một lần ‘Xin lỗi’ và một lần ‘Pip’. Và bà ấy không còn ngẩng đầu lên nữa, và
chỉ một giờ sau em và chồng bà đặt bà nằm xuống giường, vì em và ông ấy
biết chị anh đã đi rồi.”
Biddy bật khóc; khu vườn đang tối dần, con đường mòn, những vì sao
bắt đầu mọc, tất cả đều nhòa đi trong mắt tôi.
“Biddy, vậy là chưa bao giờ tìm ra nguyên nhân?”
“Chẳng có gì hết.”
“Em có biết Orlick bây giờ thế nào không?”
“Theo màu sắc quần áo anh ta mặc, em nghĩ anh ta đang làm việc ở mỏ
đá.”
“Tất nhiên là lúc đó em đã thấy anh ta phải không? Tại sao em lại nhìn
vào cái cây tối đen bên đường kia vậy?”
“Em trông thấy anh ta ở đó, vào tối chị anh mất.”
“Và đó cũng không phải là lần cuối cùng, phải không Biddy?”
“Không; em đã thấy anh ta ở đó, từ lúc anh và em đang đi dạo ở đây.
Vô ích thôi,” Biddy nói, áp bàn tay lên cánh tay tôi khi tôi định lao đi, “anh
biết em không dối anh mà; mới chỉ một phút trước thôi anh ta còn ở đó, rồi
anh ta biến mất.”
Cơn phẫn nộ tột cùng của tôi lại bùng lên khi biết cô vẫn bị gã kia bám
theo, và tôi cảm thấy ghét cay ghét đắng gã. Tôi nói với Biddy như vậy, và
bảo cô tôi sẽ dành hết tiền hay bỏ ra tất cả công sức cần thiết để tống khứ
Orlick khỏi vùng. Dần dà, Biddy dẫn dắt tôi trở lại nói chuyện bình tĩnh hơn,
và cô kể cho tôi biết Joe yêu quý tôi đến mức nào, cũng như chuyện Joe
không bao giờ phàn nàn về bất cứ điều gì - cô không nói là về tôi; Biddy
không cần phải làm thế; tôi biết ý cô muốn nói gì - mà luôn làm tròn trách
nhiệm của anh trong cuộc sống với bàn tay mạnh mẽ, một đôi môi kiệm lời
và một trái tim nhân hậu.
“Quả thực, khó mà nói quá nhiều được về anh ấy,” tôi nói, “và Biddy
này, chúng ta cần thường xuyên nói về những chuyện này, vì tất nhiên giờ
anh sẽ thường xuyên về đây. Anh sẽ không để Joe tội nghiệp một mình.”
Biddy không nói một lời.
“Biddy, em không nghe anh nói sao?”
“Có chứ, anh Pip.”
“Đó là chưa nhắc đến chuyện em gọi anh là anh Pip* - một cách gọi
anh thấy rất khó chịu, Biddy - ý em là sao?”
Dịch chữ Mr. Pip. Biddy thường xuyên gọi Pip là Mr. Pip sau khi cậu có triển vọng hưởng gia tài,
một cách trịnh trọng và xa cách.
“Ý em là sao ư?” Biddy rụt rè hỏi.
“Biddy,” tôi nói với vẻ tự khẳng định đầy chính trực, “anh buộc phải
biết ý em là sao?”
“Là sao ư?” Biddy nói.
“Nào, đừng có nhắc lại thế,” tôi vặn vẹo. “Em đâu từng quen nhắc lại
thế, Biddy.”
“Từng không thế!” Biddy nói. “Ôi, anh Pip! Từng!”
Thế đấy! Tôi chợt nghĩ mình đành phải bỏ cuộc cả lần này nữa. Sau
một hồi im lặng nữa trong vườn, tôi lui trở lại điều tôi quan tâm nhất.
“Biddy,” tôi nói, “anh đã nói về việc sẽ thường xuyên về đây để thăm
Joe, và được em đón nhận với sự im lặng rất đáng chú ý. Biddy, làm ơn hãy
cho anh biết tại sao.”
“Vậy liệu anh có chắc là anh SẼ thường xuyên tới thăm ông ấy
không?” Biddy hỏi, cô dừng lại trên con đường mòn hẹp trong vườn, đôi mắt
chân thành trong trẻo nhìn tôi dưới bầu trời sao.
“Ôi, Chúa ơi!” tôi thốt lên, như thể nhận thấy mình bị buộc phải bỏ
mặc Biddy trong cảnh tuyệt vọng. “Đây thực sự là một khía cạnh rất tiêu cực
của bản chất con người! Biddy, làm ơn đừng nói thêm gì nữa. Chuyện này
làm anh choáng váng quá.”
Vì lý do đầy thuyết phục này, tôi giữ khoảng cách với Biddy trong bữa
ăn đêm, và trước khi đi lên căn phòng nhỏ của mình, tôi chào cô trịnh trọng
hết mức có thể, và trong tâm hồn đang thì thầm của mình, tôi coi như đã hòa
giải với nghĩa địa nhà thờ và biến cố của ngày hôm ấy. Như thường gặp, tôi
trằn trọc cả đêm, và cứ mỗi mười lăm phút tôi lại nghĩ đến việc Biddy đã đối
xử với tôi tàn nhẫn, bất công và khiến tôi tổn thương đến mức nào.
Sáng sớm hôm sau tôi phải lên đường. Tôi ra ngoài từ sáng sớm, và
nhìn vào một trong những khung cửa sổ gỗ của lò rèn trong khi không bị nhìn
thấy. Tôi đứng đó nhiều phút liền, quan sát Joe, lúc ấy đã bận rộn làm việc
với sức khỏe và sức mạnh bừng sáng trên khuôn mặt anh như thể ánh mặt trời
rực rỡ của sự sống dành cho anh đang tỏa ra trên đó.
“Tạm biệt, Joe yêu quý! - Không, đừng chùi nó đi - vì Chúa, hãy bắt
tay em bằng bàn tay đen muội của anh - em sẽ sớm về thăm, và về thường
xuyên.”
“Không bao giờ là quá sớm, thưa ngài,” Joe nói, “và không bao giờ là
quá thường xuyên, Pip!”
Biddy đang chờ tôi bên cửa bếp với một bình sữa mới và một ổ bánh
mì. “Biddy,” tôi nói trong khi nắm tay cô tạm biệt, “anh không giận, nhưng
anh thấy bị tổn thương.”
“Không, đừng bị tổn thương,” cô luống cuống van nài, “hãy để chỉ
mình em bị tổn thương thôi, nếu em đã hẹp hòi.”
Thêm một lần nữa, màn sương mù lại dâng lên khi tôi bước đi. Nếu
chúng tiết lộ với tôi, như tôi ngờ là thế, rằng tôi sẽ không trở lại, và rằng
Biddy đã nói rất đúng, thì tất cả những gì tôi có thể nói là - cả chúng cũng rất
đúng.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)