An ordinary man can... surround himself with two thousand books... and thenceforward have at least one place in the world in which it is possible to be happy.

Augustine Birrell

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 33
rong bộ váy lông thú đi đường, Estella dường như càng đẹp tinh tế
hơn bao giờ hết, ngay cả trong mắt tôi. Phong thái của cô càng thêm thu hút
so với những gì cô từng bận tâm mà cố ý thể hiện với tôi, và tôi nghĩ có thể
thấy ảnh hưởng của cô Havisham trong thay đổi này.
Chúng tôi đứng giữa sân nhà trạm trong khi cô chỉ cho tôi thấy hành lý
của mình, và khi tất cả đã được nhận đủ, tôi chợt nhớ - vì đã quên khuấy mọi
thứ trừ cô cho tới tận lúc đó - là tôi không biết cô cần tới đâu.
“Em sẽ tới Richmond,” cô cho tôi hay. “Theo như em được học, có hai
nơi tên là Richmond, một ở Surrey và một ở Yorkshire, em sẽ tới Richmond
tại Surrey. Quãng đường là mười dặm. Em sẽ có xe, và anh sẽ đưa em đi. Đây
là tiền của em, và anh sẽ dùng nó trả các món chi phí cho em. Ô, anh phải
cầm lấy túi tiền! Anh và em, chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài tuân
theo các chỉ dẫn. Chúng ta không được tự do làm theo ý mình, anh và em!”
Trong lúc cô vừa nhìn tôi vừa đưa túi tiền, tôi hy vọng còn có một ẩn ý
bên trong những lời cô nói. Estella đã nói ra một cách coi thường, nhưng
không hề khó chịu.
“Estella, xe sẽ được gọi tới. Em sẽ nghỉ lại ở đây một chút chứ?”
“Vâng, em sẽ nghỉ lại đây một chút, và em sẽ dùng trà, còn anh sẽ lo
mọi thứ cho em trong thời gian này.”
Cô luồn cánh tay vòng qua cánh tay tôi, như thể cần phải làm vậy, và
tôi liền yêu cầu người phục vụ vẫn đứng nhìn cỗ xe trạm chằm chằm như thể
chưa bao giờ thấy qua thứ gì tương tự trong đời tìm cho chúng tôi một phòng
nghỉ chân riêng. Nghe xong, anh ta lấy ra một cái khăn ăn như thể đó là vật
chỉ lối thần kỳ nếu thiếu đi anh ta sẽ không thể tìm được lối lên cầu thang, rồi
dẫn chúng tôi tới một góc hũ nút bé tẹo tối tăm, có trang bị một chiếc gương
lõm* (một món đồ vật thật là thừa thãi nếu tính đến kích thước của góc
buồng), một lọ mắm cá trổng, và đôi giày lội bùn của ai đó. Khi tôi phản đối
nơi này, anh ta liền dẫn hai chúng tôi vào một căn phòng khác với bàn ăn đủ
chỗ cho ba mươi người, và trong lò sưởi là một trang vở tập viết đã cháy sém
nằm dưới một đống bụi than. Sau khi nhìn qua đống lửa đã tắt ngóm và lắc
đầu, anh ta quay sang chờ tôi yêu cầu phục vụ; và tất cả yêu cầu này chỉ vẻn
vẹn, “Một ít trà cho tiểu thư đây,” làm anh ta rời khỏi phòng trong tâm trạng
khá ủ ê.
Loại gương này có chủ đích làm cho ảnh các vật trong gương nhỏ lại so với kích thước thật.
Lúc ấy tôi có cảm giác, và giờ vẫn thế, là bầu không khí của căn phòng
này, một thứ mùi hỗn hợp đặc sệt giữa chuồng ngựa và nước súp hầm, rất có
thể từng khiến người ta có liên tưởng rằng bộ phận xe ngựa trạm đang làm ăn
không tốt lắm, và người chủ hoạt động làm ăn này đã luộc lũ ngựa lên cho bộ
phận phục vụ ăn uống. Dẫu vậy căn phòng vẫn là tất cả những gì tôi ao ước,
vì Estella đang ở bên trong nó. Tôi nghĩ có cô bên cạnh, hẳn tôi có thể hạnh
phúc ở lại đó cả đời. (Thế nhưng tôi lại chẳng hề hạnh phúc ở đó lúc ấy, và
biết rõ vậy.)
“Em sẽ đi tới đâu ở Richmond?” tôi hỏi Estella.
“Em sẽ tới sống, một cách xa hoa với một quý bà ở đó,” cô nói, “bà có
nhiều quyền lực - hay bà nói là có - để đưa em đi chơi, giới thiệu em, em làm
quen với mọi người và mọi người với em.”
“Anh đoán em sẽ rất vui với cuộc sống muôn màu muôn vẻ đó cùng sự
ngưỡng mộ nhận được phải không?”
“Vâng, em chắc là vậy.”
Cô trả lời thật dửng dưng, đến mức tôi thốt lên, “Em nói về bản thân cứ
như thể em là ai khác ấy.”
“Từ đâu anh biết được cách em nói về người khác vậy? Nào, nào,”
Estella vừa nói vừa mỉm cười vui vẻ, “anh không thể trông đợi em học theo
anh được; em cần nói theo cách riêng của em. Anh thành công đến đâu với
ông Pocket rồi?”
“Anh sống khá vui vẻ ở đó; chí ít…” Tôi cảm thấy có vẻ mình đang
đánh mất một cơ hội.
“Chí ít sao cơ?” Estella hỏi lại.
“Cũng vui vẻ như anh có thể ở bất cứ nơi nào khác khi xa em.”
“Chàng trai ngốc nghếch ơi,” Estella nói, khá bình thản, “làm sao anh
có thể nói lung tung vậy chứ? Em tin là bạn anh, ông Matthew, hơn hẳn so
với phần còn lại của gia đình ông ấy, đúng không?”
“Hơn rất nhiều, quả vậy. Ông ấy chẳng là kẻ thù của ai…”
“Đừng có nói thêm trừ là chính ông ấy,” Estella cắt ngang, “vì em ghét
loại đàn ông như thế. Nhưng ông ấy thực sự không vụ lợi, ở trên hẳn những
ghen tuông thù oán nhỏ mọn, em nghe nói vậy có phải không?”
“Anh tin chắc mình có mọi lý do để nói thế.”
“Anh không thể có mọi lý do để nói thế về các thành viên còn lại của
gia đình ông ấy,” Estella nói, gật đầu về phía tôi với vẻ mặt vừa nghiêm trang
vừa giễu cợt, “vì bọn họ đã vây quanh cô Havisham với những lời kể lể gièm
pha và ám chỉ bóng gió rất bất lợi cho anh. Họ theo dõi anh, xuyên tạc về
anh, viết thư đặt điều về anh (đôi khi là thư nặc danh), và anh là nỗi ám ảnh,
bận tâm trong cuộc sống của họ. Anh không thể hình dung ra những con
người đó căm ghét anh đến thế nào đâu.”
“Anh hy vọng họ không làm được gì bất lợi với anh chứ?”
Thay vì trả lời, Estella bật cười. Phản ứng này thật lạ với tôi, và tôi
nhìn cô khá bối rối. Khi Estella ngừng lại - và cô không bật cười một cách uể
oải mà thực sự thích thú - tôi liền nói, vẫn với sự thiếu tự tin tôi luôn có với
cô:
“Anh hy vọng anh có thể cho rằng em sẽ không thấy vui nếu họ gây ra
điều gì có hại cho anh chứ.”
“Không, không, anh có thể tin chắc về chuyện ấy,” Estella nói. “Anh
có thể tin chắc em cười vì bọn họ thất bại. Ôi, đám người đó với cô
Havisham, và những tra tấn họ phải chịu đựng!” Cô lại bật cười, và thậm chí
ngay cả lúc này, khi Estella đã cho tôi biết lý do, tiếng cười của cô với tôi vẫn
thật lạ lùng, dù tôi không thể nghi ngờ sự chân thành của nó, song dường như
tiếng cười ấy có phần hơi thái quá vào lúc ấy. Tôi nghĩ chắc chắn ở đây phải
có gì đó nhiều hơn so với tôi biết; Estella nhìn ra ý nghĩ đó trong đầu tôi, và
trả lời.
“Ngay cả với anh,” Estella nói, “cũng chẳng dễ gì biết được em hài
lòng đến mức nào khi thấy những người đó bị phá ngang, hay em cảm thấy
vui ra sao khi những kẻ lố bịch ấy bị làm cho trở nên lố bịch. Vì anh không
phải lớn lên trong ngôi nhà lạ lùng đó khi mới chỉ là một đứa trẻ. Em thì có.
Anh không có trí khôn được mài sắc nhờ những trò mưu mô họ bày ra chống
lại anh, một đứa trẻ bị chèn ép không có khả năng tự vệ, dưới tấm mặt nạ của
cảm thông và thương hại cùng những thứ chẳng hề dịu dàng dễ chịu. Em thì
có. Anh chưa bao giờ từng dần dần mở đôi mắt trẻ con của mình ra mỗi lúc
một to hơn để khám phá ra người đàn bà lừa lọc luôn tính toán để cảm thấy
yên tâm khi bà ta thức dậy ban đêm. Em thì có.”
Giờ thì Estella không còn cười nữa, cô cũng không cười khi hồi tưởng
lại những ký ức này từ một nơi nông cạn nào đó. Bất chấp tất cả những triển
vọng đột nhiên ập đến với tôi, tôi không thể nào là nguyên nhân tạo ra cái vẻ
đó ở cô.
“Có hai điều em có thể nói với anh,” Estella nói. “Thứ nhất, bất chấp
câu thành ngữ vẫn nói nước chảy đá mòn, anh có thể yên tâm rằng mấy người
đó sẽ không bao giờ - không bao giờ có thể, cho dù trong cả trăm năm - làm
tổn hại đến vị trí của anh với cô Havisham, dù ít hay nhiều, về bất cứ khía
cạnh nào. Thứ hai, em chịu ơn anh vì đã là nguyên nhân làm cho bọn họ phải
bận bịu và ti tiện như thế một cách vô ích, và em xin lấy bàn tay mình làm
chứng.”
Khi cô tinh nghịch cô chìa bàn tay cho tôi - vì tâm trạng u ám của
Estella chỉ vụt qua trong thoáng chốc - tôi đón lấy bàn tay cô đưa lên môi.
“Cậu bé ngốc nghếch,” Estella nói, “chẳng lẽ anh không bao giờ chịu nghe
những lời cảnh cáo sao? Hay anh sẽ hôn tay em với cùng cảm giác như trước
đây em từng có lần để anh hôn má em vậy?”
“Cảm giác nào cơ?” tôi hỏi.
“Em phải nghĩ một chút đã. Một cảm giác coi thường dành cho những
kẻ a dua nịnh hót và những kẻ mưu mô.”
“Nếu anh nói là đúng thế, liệu anh có thể hôn má em lần nữa không?”
“Đáng ra anh nên hỏi trước khi cầm tay em. Nhưng được chứ, nếu anh
thích.”
Tôi cúi xuống, khuôn mặt bình thản của cô giống như mặt một bức
tượng. “Còn bây giờ,” Estella vừa nói vừa tránh đi lập tức ngay khi tôi chạm
vào má cô, “anh phải để ý sao cho em có trà uống, và anh phải đưa em tới
Richmond.”
Cô lại quay về với giọng điệu này như thể chúng tôi bị ép buộc mà có
mối giao kết hiện tại, còn chúng tôi chỉ đơn thuần là những con rối, khiến tôi
nhói đau; nhưng mọi thứ trong cuộc tiếp xúc này đều làm tôi nhói đau. Cho
dù giọng nói Estella dành cho tôi có tình cờ là thế nào đi nữa, tôi cũng không
thể đặt niềm tin vào nó, không thể nuôi dưỡng bất cứ hy vọng nào về nó; ấy
vậy nhưng tôi vẫn tiếp tục bất chấp niềm tin, bất chấp hy vọng. Lặp lại điều
đó đến cả ngàn lần cũng để làm gì? Vì vẫn luôn là vậy.
Tôi rung chuông gọi trà, và người phục vụ, xuất hiện trở lại cùng vật
chỉ lối thần kỳ của anh ta, mang theo có đến cả năm chục thứ phụ trợ cho
món đồ uống ấy với lượng nhiều ít khác nhau, song trà thì chẳng thấy bóng
dáng tăm hơi. Một khay trà, tách và đĩa tách, đĩa, dao và nĩa (bao gồm cả dao
lạng thịt), thìa (đủ loại), lọ muối, một cái bánh nướng nhỏ xíu khiêm tốn được
bảo quản với sự cảnh giác tột bậc dưới một cái nắp đậy bằng sắt nặng trịch,
và cả câu chuyện về Moses trong đám cỏ nến được hình tượng hóa bằng một
mẩu bơ mềm tí xíu lọt thỏm giữa mênh mông mùi tây, một miếng nhạt màu
với một cái đầu rắc bột, hai vết in từ các thanh vỉ trên mặt bếp trên những
miếng bánh mì hình tam giác, và cuối cùng là một cái bình có phần bụng
phình to; tất cả được anh chàng phục vụ loạng choạng bê vào, vẻ bề ngoài
của anh ta hiện rõ sự khổ sở vì gánh nặng. Sau một hồi vắng mặt khá lâu khỏi
sân khấu trình diễn của mình, anh ta quay lại cùng một cái tráp nhỏ trông có
vẻ rất quý giá đựng cành trà. Tôi trút chúng vào nước nóng, rồi từ đó chiết ra
được một tách thứ chất lỏng tôi không biết là thứ gì cho Estella.
Sau khi hóa đơn được thanh toán, người phục vụ được nhớ tới, người
coi chuồng ngựa không bị quên, cô hầu phòng cũng được tính đến - nói tóm
lại là cả nhà trạm đã được lót tay tới mức chuyển sang một trạng thái khinh
miệt và oán hận, còn túi tiền của Estella thì nhẹ đi đáng kể - chúng tôi leo lên
xe bưu vụ và lên đường. Rẽ vào Cheapside rồi đi ngược lên phố Newgate,
chẳng mấy chốc chúng tôi đi qua dưới những bức tường đã khiến tôi cảm
thấy hổ thẹn đến thế.
“Nơi này là gì vậy?” Estella hỏi tôi.
Thoạt đầu tôi giả bộ thật ngốc nghếch là không nhận ra nó, rồi nói cho
cô hay. Khi Estella nhìn vào tòa nhà, rồi lại thu đầu vào trong xe và thì thầm,
“Những kẻ khốn khổ!” tôi không thể nào thú nhận về chuyến tới thăm nhà tù
của tôi để phải chịu bất cứ nhận xét nào.
“Ông Jaggers,” tôi nói, để dứt khoát dồn tất cả sang một người khác,
“có tiếng là người biết rõ những bí mật ở nơi ảm đạm đó hơn bất cứ ai khác
tại London.”
“Em nghĩ ông ấy luôn biết rõ các bí mật ở mọi nơi,” Estella khẽ nói.
“Anh đoán em cũng đã quen với việc thường xuyên gặp ông ấy rồi phải
không?”
“Em đã quen nhìn thấy ông ấy sau những khoảng thời gian không cố
định, kể từ lúc em có thể nhớ được. Nhưng em có thể nói thẳng thắn rằng cho
đến giờ em vẫn chẳng biết nhiều về ông ấy hơn trước đây. Bản thân anh cảm
thấy ông ấy thế nào? Anh có tiến triển gì với ông ấy không?”
“Một khi đã quen với tính khí ngờ vực của ông ấy,” tôi nói, “anh đã
xoay xở rất tốt.”
“Anh và ông ấy có thân nhau không?”
“Anh đã ăn tối cùng ông ấy tại nhà riêng.”
“Em đoán,” Estella thu mình lại nói, “nơi đó hẳn phải là một chỗ rất lạ
lùng.”
“Đó là một chỗ lạ lùng.”
Đáng ra tôi phải thận trọng với chuyện bình phẩm quá tự do về người
giám hộ của mình, thậm chí cả với Estella; nhưng có lẽ tôi đã tiếp tục về chủ
đề ấy xa tới mức kể lại bữa tối ở phố Gerrard nếu lúc ấy chúng tôi không đột
ngột đi vào một quầng sáng của đèn khí đốt. Khi còn ở trong quầng sáng,
dường như mọi thứ đều rạng rỡ, sống động với thứ cảm giác không lý giải
nổi tôi từng cảm thấy trước đó; và khi chúng tôi ra khỏi quầng sáng, tôi vẫn
tiếp tục bị lóa mắt thêm vài khoảnh khắc như thể còn ở trong quầng sáng.
Vậy là hai chúng tôi lại bắt đầu một cuộc trò chuyện nữa, lần này về
con đường chúng tôi đang đi qua, về những vùng của London nằm ở bên này
hay bên kia đường. Thành phố lớn trải ra xung quanh gần như hoàn toàn mới
lạ với Estella, cô nói với tôi như vậy, vì cô chưa bao giờ đi xa khỏi nhà cô
Havisham cho tới lúc sang Pháp, và cũng mới chỉ đi ngang qua London dạo
đó lúc đi và khi quay về. Tôi hỏi Estella liệu người giám hộ của tôi có trách
nhiệm gì với cô khi cô ở trên thủ đô không? Cô đáp thật dứt khoát “Ơn Chúa
là không!” và không thêm lời nào nữa.
Tôi không khỏi nhận thấy Estella cố ý thu hút tôi; rằng cô đang thể
hiện mình là người thắng cuộc, và hẳn đã khuất phục tôi cho dù nếu nhiệm vụ
đó có buộc cô phải lao tâm khổ tứ. Song phát hiện này cũng chẳng hề làm tôi
thấy hạnh phúc hơn, vì cho dù Estella không còn dùng đến giọng điệu như
thể hai chúng tôi đang do người khác an bài, tôi vẫn cảm thấy cô đang nắm
trái tim tôi trong tay vì chủ tâm muốn vậy, chứ không phải vì nếu bóp nát nó
và ném nó đi sẽ làm rung lên một chút cảm xúc nào trong cô.
Khi chúng tôi đi ngang qua Hammersmith, tôi chỉ cho Estella thấy nơi
ông Matthew Pocket ở, và nói rằng nơi này cũng không xa Richmond là mấy,
thế nên tôi hy vọng thỉnh thoảng được gặp cô.
“À phải, anh sẽ phải đến gặp em; anh sẽ phải đến gặp em khi nào anh
thấy thích hợp; anh sẽ được nhắc đến trong gia đình; kỳ thực anh đã được
nhắc đến rồi.”
Tôi hỏi liệu có phải cô sắp trở thành thành viên của một gia đình lớn
hay không?
“Không; chỉ có hai người thôi; bà mẹ và người con gái. Bà mẹ là một
phu nhân ít nhiều có địa vị, song cũng chẳng ngại tìm cách làm tăng thu nhập
cho mình.”
“Anh không ngờ cô Havisham có thể lại chia tay em sớm đến vậy.”
“Đó là một phần kế hoạch dành cho em của cô Havisham, Pip,” Estella
nói, kèm theo một tiếng thở dài, như thể cô rất mệt mỏi, “em sẽ phải viết thư
cho bà liên tục, thường xuyên gặp bà và kể lại xem em tiến bộ ra sao - em và
những món đồ trang sức - vì bây giờ gần như tất cả chúng đều là của em.”
Đây là lần đầu tiên cô gọi tôi bằng tên riêng. Tất nhiên Estella làm thế
có chủ đích, và biết tôi sẽ rất trân trọng việc này.
Chúng tôi tới Richmond quá sớm, và đích đến của chúng tôi là một
ngôi nhà gần khu cung điện cũ - một ngôi nhà cũ trầm lặng, nơi những cái
gọng nâng váy, bột rắc tóc và nốt ruồi giả, áo khoác thêu, những đôi tất dài
đến gối, những diềm đăng ten trên cổ và tay áo cùng những thanh kiếm* từng
có thời ngự trị khá lâu. Mấy cây cổ thụ trước nhà vẫn được cắt tỉa theo phong
cách hình thức và không tự nhiên chẳng kém gì những cái gọng nâng váy,
những bộ tóc giả và những bộ váy cứng đờ; nhưng vị trí đã được định sẵn của
chúng trong quá trình vĩ đại của cái chết chẳng còn xa, và chẳng bao lâu nữa
chúng sẽ đổ gục vào đó và lặng lẽ ra đi như mọi thứ khác trên đời.
Tất cả đều là những món đồ liên quan tới thời trang thượng lưu cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, ý tác giả
muốn nói tới quá khứ hoàng kim của ngôi nhà.
Một cái chuông với âm thanh thật cổ xưa - mà tôi dám chắc vào thời
hoàng kim của nó từng thường xuyên báo với chủ nhà, Đây là bộ váy phồng
xanh lục, Đây là thanh kiếm đốc nạm kim cương, Đây là đôi giày gót đỏ có
đính một cái nơ trang trí màu xanh - vang lên nghiêm nghị dưới ánh trăng, và
hai cô hầu gái hồng hào khuôn mặt đỏ ửng bước ra đón Estella.
Các rương hành lý của cô nhanh chóng được khung cửa nuốt chửng, và
cô chìa tay ra cho tôi kèm theo một nụ cười, chào tạm biệt, rồi cũng mất hút
vào trong y như vậy. Ấy thế nhưng tôi vẫn đứng nhìn vào ngôi nhà, thầm
nghĩ hẳn tôi sẽ hạnh phúc biết chừng nào nếu được sống ở đó cùng cô, và biết
tôi sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc với Estella mà chỉ luôn khổ sở.
Tôi leo lên xe ngựa và được đưa trở lại Hammersmith, chui vào trong
xe mang theo nỗi đau tồi tệ, để rồi chui ra với một nỗi đau còn khủng khiếp
hơn. Trước cửa nhà, tôi bắt gặp cô bé Jane Pocket trở về nhà từ một bữa tiệc
nhỏ, được hôn phu bé nhỏ của cô bé tháp tùng; tôi thấy ghen tị với cậu người
tình bé nhỏ của cô bé, bất chấp chuyện cậu phải chịu đựng Flopson.
Ông Pocket ra ngoài đi giảng bài; vì ông là một diễn giả thú vị hạng
nhất về chuyện tề gia, và những bài giảng của ông về quản lý con cái cũng
như người làm được coi là những giáo trình tốt đầu bảng về mấy chủ đề này.
Nhưng bà Pocket thì có nhà, và đang gặp chút khó khăn nhỏ về chuyện đứa
bé đã được đưa cho một cái ống đựng kim để giữ nó im lặng trong quãng thời
gian vắng mặt không thể lý giải nổi (cùng với một người bà con là lính bộ
binh) của Millers. Và có quá nhiều kim bị biến mất so với số lượng có thể
được coi là vô hại cho một bệnh nhân còn ở tuổi măng sữa như thế, dù là sử
dụng bên ngoài hay đưa vào trong cơ thể.
Vì ông Pocket vẫn được ca tụng rất chính đáng về việc đưa ra những
lời khuyên thiết thực tuyệt hảo nhất, cũng như về việc có cách nhìn nhận rõ
ràng, đúng đắn về mọi việc cùng một đầu óc sáng suốt, trong nỗi đau lòng
của mình tôi đã loáng thoáng nghĩ đến chuyện cầu xin ông lắng nghe những
tâm sự sâu kín của mình. Nhưng rồi tình cờ ngước nhìn lên bà Pocket trong
lúc bà ngồi đó đọc cuốn sách về các tước vị của bà sau khi kê Cái Giường
làm đơn thuốc toàn năng cho đứa bé, tôi liền nghĩ - À không, tôi sẽ không
làm thế.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)