Số lần đọc/download: 1137 / 9
Cập nhật: 2018-04-05 07:28:05 +0700
Chương 30
xám trên bờ sông Thames không xa công viên Westminster bao nhiêu, gần cả Bộ thương mại lẫn Bộ Hầm mỏ. Cả hai bộ ấy đều lần lượt hết bỏ rơi lại tranh giành nhau quyền phụ trách Ủy ban này.
Ngày 10 tháng 8, một buổi sáng trong trẻo mát mẻ, Andrew khỏe khoắn và hớn hở bước lên mấy bậc thềm của tòa nhà đồ sộ đó với ánh mắt của một người sắp đi chinh phục London. Anh nói với người gác cổng mặc đồng phục nhân viên Cục bảo vệ công sở:
- Tôi là bác sĩ thanh tra mới.
- Vâng, vâng. – Người gác cổng đáp lại với giọng hiền lành. Andrew hài lòng thấy hình như người ta chờ đón anh thì phải. – Chắc ông cần gặp ông Gill của chúng tôi. John! Đưa ông bác sĩ mới lên phòng ông Gill.
Buồng thang máy lên từ từ, cho khách thấy những hành lang lát gạch men xanh và rất nhiều tầng, tầng nào cũng có những bộ đồng phục của Cục bảo vệ công sở đi lại khoan thai. Sau đó Andrew được đưa vào một gian phòng rộng, ngập nắng. Ông Gill đang ngồi ở bàn giấy. Ông đặt tờ “Thời báo” đang xem xuống, đứng dậy bắt tay Andrew.
Anh mạnh dạn nói:
- Tôi đến hơi muộn một chút. Xin ông thứ lỗi. Chúng tôi vừa mới ở Pháp về hôm qua. Nhưng tôi sẵn sàng bắt tay vào việc ngay.
- Tốt quá!
Gill là một người nhỏ nhắn, vui tính, đeo kính trắng gọng vàng, mặc một bộ đồ xanh sẫm với cổ áo gần giống cổ áo tu sĩ, chiếc ca-vát cũng xanh sẫm và chiếc kẹp ca-vát bằng vàng. Ông ta nhìn Andrew với một vẻ nghiêm nghị ưng ý.
- Mời ông ngồi. Ông dùng trà hay sữa nóng? Tôi có thói quen dùng trà vào lúc mười một giờ trưa. A, mà đã gần đến giờ ấy rồi…
- Thưa vâng. – Andrew ngập ngừng, rồi đánh bạo hỏi: – Có lẽ xin ông cho biết về công việc của tôi sắp tới trong khi…
Năm phút sau, một nhân viên mặc đồng phục của Cục Bảo vệ công sở đem đến một tách trà và một cốc sữa nóng.
- Thưa ông Gill, chắc ông sẽ vừa ý. Thưa ông, tôi đã đun nóng rồi.
- Cám ơn Stevens nhé.
Khi Stevens đã ra ngoài, Gill quay sang Andrew tươi cười:
- Cậu này được việc lắm, rồi ông sẽ thấy. Cậu ta biết làm món bánh mì nướng phết bơ bóng ròn ngon tuyệt. Tìm được những tay chạy giấy thực sự được việc, khó lắm. Ở đây toàn là người tứ phương tập hợp lại: Bộ Nội vụ, Bộ Hầm mỏ, Bộ Thương mại… còn tôi – Gill hắng giọng, pha một chút hãnh diện, – tôi ở bên hải quân sang.
Trong khi Andrew hớp mấy ngụm sữa nóng và băn khoăn muốn biết về công việc của mình thì Gill vui vẻ nói chuyện về thời tiết, về miền Bretagne, về đề án tiền hưu trí và hiệu quả của việc khử trùng cho sữa. Sau đó, Gill đứng dậy, đưa Andrew sang phòng của anh.
Đây cũng là một gian phòng yên tĩnh, sáng sủa, dải thảm dày, có cửa sổ trông ra sông cảnh rất đẹp. Một con nhặng to tướng bay húc đầu vào cửa kính kêu thành một tiếng vè vè ra ngủ. Gill ân cần bảo:
- Tôi chọn cho ông gian phòng này. Cần dọn dẹp lại một chút. Có một lò sưởi than, mùa đông rất tiện lợi, rồi ông sẽ thấy. Tôi mong nó sẽ vừa ý ông.
- Chà! Gian phòng thật là tuyệt, nhưng…
- Bây giờ tôi sẽ giới thiệu ông với người nữ thư ký của ông là cô Mason.
Gill gõ cửa mấy cái rồi đẩy cánh cửa thông sang phòng bên, ở đó cô Mason, một cô gái sắp về già, chững chạc, gọn ghẽ và điềm đạm, đang ngồi trước một chiếc bàn nhỏ. Cô Mason đứng dậy, đặt tờ “Thời báo” xuống bàn.
- Chào cô Mason.
- Chào ông Gill.
- Cô Mason, tôi xin giới thiệu với cô đây là bác sĩ Manson.
- Chào ông Manson.
Andrew hơi bàng hoànng trước những câu chào hỏi này nhưng anh cố trấn tĩnh và tham gia câu chuyện.
Năm phút sau, khi Gill vui vẻ cáo lui, ông nói với Andrew, giọng khích lệ:
- Tôi sẽ bảo đem các hồ sơ tài liệu đến cho ông.
Hồ sơ tài liệu được Stevens đem đến với một vẻ trìu mến. Ngoài tài nướng bánh và pha sữa, Stevens còn là người đưa công văn giỏi nhất sở này. Cứ một giờ một, anh ta vào phòng làm việc của Andrew mang theo một chồng công văn mà anh ta âu yếm đặt xuống cái khay sơn mài đề chữ “công văn đến” ở trên bàn, trong khi con mắt anh ta náo nức nhìn sang cái khay đề chữ “công văn đi” xem có gì không. Khi khay ấy không có gì thì Stevens thật sự khổ tâm. Trong tình huống đáng buồn ấy, Stevens tiu nghỉu len lén bỏ đi.
Lạc lõng, hoang mang, bực bội, Andrew lướt mắt nhanh qua đống hồ sơ. Đó là biên bản các cuộc họp trước của Ủy ban Lao động hầm mỏ, nhạt nhẽo, nặng nề, vô vị. Anh bèn sang hỏi cô Mason, nhưng cô thư ký này chỉ là một nguồn cung cấp tin tức rất nghèo nàn, vì như lời cô giải thích, cô mới ở bên Cục Kiểm tra thịt ướp của Bộ Nội vụ chuyển sang. Cô thông báo cho Andrew biết giờ làm việc ở đây là từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Cô kể cho Andrew nghe về đội khúc côn cầu của văn phòng – “cố nhiên là đội nữ, bác sĩ Manson ạ.” – mà cô làm phó lãnh đội. Cô hỏi Andrew có muốn mượn tờ “Thời báo” của cô không. Cái nhìn của cô Mason như khuyên nhủ Andrew hãy bình tĩnh.
Nhưng Andrew không bình tĩnh được. Vừa mới đi nghỉ về, khao khát làm việc, anh bắt đầu vạch ra một kế hoạch trên tấm thảm phòng anh. Anh cau có nhìn cảnh náo nhiệt trên sông, những tàu kéo xình xịch chạy đi chạy lại và những dãy xà lan chở than dài xẻ nước ngược dòng. Anh bèn xuống hỏi gin:
- Bao giờ thì tôi mới bắt đầu?
Gill giật thót người trước câu hỏi sỗ sàng.
- Ông bạn thân mến, ông làm tôi thực sự kinh ngạc. Tôi tưởng đã đưa ông tài liệu đủ để ông đọc trong một tháng rồi cơ mà. – Ông ta nhìn đồng hồ – Thôi ta đi nào, đến giờ ăn trưa rồi.
Vừa ăn đĩa cá bơn nóng hổi, Gill vừa khéo léo cắt nghĩa cho Andrew đang loay hoay với một miếng sườn cừu hiểu rằng cuộc họp sắp tới của Ủy ban đã được ấn định vào ngày 18 tháng 9 và cũng không thể được triệu tập trước ngày đó. Giáo sư Challis hiện đang ở Na Uy, bác sĩ Maurice Gadsby đang ở Scotland, Huân tước Williams Dewar, chủ tịch Ủy ban, thì đang ở bên Đức còn thủ trưởng trực tiếp của Andrew là ông Blades hiện đang ở Frinton cùng gia đình.
Tối hôm ấy, Andrew về nhà với Christine, trong bụng rất hoang mang. Đồ đạc của hai vợ chồng vẫn còn ký gửi. Để có thời giờ tìm một căn nhà thích hợp, hai vợ chồng thuê một căn nhà có sẵn đồ đạc tại khu Earl’s Court trong một tháng.
- Em có thể tưởng tượng được không, ngay đến cả giao việc cho anh, họ cũng chưa sẵn sàng. Anh đã được cho cả một tháng để nốc sữa, đọc báo, ký tên vào hồ sơ, ôi dào lại còn một buổi chuyện trò thân mật dài về khúc côn cầu với cô gái già Mason nữa.
- Nếu anh không thấy phiền, thì xin anh hãy chỉ chuyện trò với cô vợ già của anh thôi nhé. Này, anh ạ, sau Aberalaw, đến đây thấy dễ chịu quá. Chiều nay em có đến Chelsea[8] một lát. Em tìm được ngôi nhà của Carlyle[9] và viện bảo tàng Tate. Ôi chao, em đã dự định cho chúng mình nhiều việc rất thú. Ta có thể đi tàu thủy đến Kew chỉ mất có một pen-ny. Lại còn khu công viên nữa anh ạ. Tháng sau thì Kreisler sẽ biểu diễn tại Hội trường Albert. Ấy, chúng mình lại phải đến tham quan Đài kỷ niệm nữa chứ, để hiểu tại sao ai cũng cười giễu nó. Lại còn có một vở diễn của đoàn kịch Niu Yoóc. Và một hôm nào đó, em được đi ăn hiệu với anh thì thú vị quá. – Christine duỗi dài về phía anh bàn tay nhỏ nhắn run rẩy. Anh ít khi thấy nàng xúc động đến nhường ấy. – Anh yêu, chúng mình sẽ đi ăn hiệu chứ? Có một hiệu ăn Nga ở phố này. Trông có vẻ khá lắm. Nếu anh không mệt thì chúng mình có thể…
- Ơ kìa! – Andrew phản đối khi nàng kéo tay anh ra cửa – Anh cứ tưởng em được coi là người có đầu óc thiết thực trong nhà này. Nhưng thôi, em ạ, sau ngày làm việc “vất vả” đầu tiên, anh cũng đáng được hưởng một tối vui vẻ.
Sáng hôm sau, đọc hết sạch đống hồ sơ trên bàn và ký tên vào từng tờ, đến 11 giờ Andrew lại lồng lộn đi lại trong phòng làm việc. Chẳng mấy chốc cái lồng đó trở nên quá nhỏ hẹp không giữ nổi chân anh nữa, anh hùng hổ bỏ ra ngoài đi thăm thú tòa nhà. Anh thấy tòa nhà này chán ngán như một cái nhà xác không có xác chết, cho đến khi leo đến tới tầng chót, anh bỗng bước vào một gian phòng dài, trang bị gần giống một phòng thí nghiệm, ở đó, ngồi trên một cái hòm trước dùng để đựng lưu huỳnh có một người trẻ tuổi mặc áo bờ-lu trắng dài bẩn thỉu đang buồn bã cắt móng tay trong khi điếu thuốc lá làm vàng thêm màu ni-cô-tin trên môi anh ta.
- Chào anh! – Andrew nói.
Im lặng một lát rồi người kia thủng thỉnh đáp:
- Nếu ông lạc lối thì cầu thang máy ở cửa thứ ba về bên phải.
Andrew tựa người vào bàn thí nghiệm, rút một điếu thuốc và hỏi:
- Anh không dùng trà ở đây à?
Lần đầu tiên, người trẻ tuổi ngẩng đầu lên, mái tóc anh ta đen nhánh, bóng mượt, tương phản đặc biệt với cổ áo bẻ cong lên của chiếc áo bờ-lu nhầu bẩn trên người. Anh ta hứng thú trả lời:
- Chỉ dành riêng cho loài chuột trắng dùng thôi. Lá chè đối với loài vật ấy là một thức ăn đặc biệt nhiều chất dinh dưỡng.
Andrew cười phá lên, có lẽ bởi vì người có câu nói đùa ấy còn kém anh chừng năm tuổi. Anh tự giới thiệu.
- Tên tôi là Manson.
- Tôi cũng đã đoán ra. Thế là ông đã đến gia nhập đám người bị bỏ quên rồi quên. – Ngừng một chút – Tôi là bác sĩ Hope. Ít ra, tôi nghĩ trước đây tôi là Hope, còn bây giờ tôi chỉ là “Hope tan vỡ”[10] mà thôi.
- Anh làm gì ở đây?
- Có Trời biết, hay họa là có “Billy thừa khuy” tức là Dewar biết! Một phần thời gian tôi ngồi ở đây và suy nghĩ. Nhưng phần lớn thời gian, tôi chỉ ngồi không. Thỉnh thoảng, người ta đem đến cho tôi những mảnh xác thợ mỏ đã bị phân hủy và hỏi tôi nguyên nhân gì đã gây ra vụ nổ dưới lò.
- Thế anh bảo cho họ biết chứ – Andrew hỏi.
- Không – Hope thô lỗ đáp – Tôi mà có thừa hơi nói với họ thì thà đánh bủm một cái còn hơn.
Sau cái chữ hết sức thô tục ấy, hai người cảm thấy thân thiện với nhau hơn và cùng đi ăn trưa. Bác sĩ Hope giải thích rằng đi ăn trưa là công việc duy nhất trong ngày cho phép anh ta lấy lại lý trí. Hope kể nhiều chuyện khác nữa cho Andrew nghe. Anh là nghiên cứu sinh được học bổng Backhouse học tại trường đại học Cambridge; anh đã qua trường Birmingham, điều đó có lẽ – anh cười khẩy – là nguồn gốc của những câu nói bất nhã thường hay có ở anh. Vì giáo sư Dewar cứ nằn nì xin anh nên Hope bị đem cho Ủy ban Lao động hầm mỏ mượn. Nhiệm vụ của anh chỉ là làm những việc thuần túy máy móc, có thể giao cho bất kỳ một nhân viên phụ tá phòng thí nghiệm nào. Hope nói anh chắc chắn sẽ phát điên mất vì sự nhàn rỗi và lối làm việc trì trệ ở Ủy ban này mà anh bây giờ đặt cho cái tên ngắn gọn là “Cái khoái của kẻ rồ”. Đó là nét điển hình của hầu hết các cơ quan nghiên cứu ở Anh: những cơ quan này đặt dưới sự cai quản của một nhóm người ngốc nghếch nhưng có tiếng tăm, họ quá mê mải với những lý thuyết riêng của họ và quá bận cãi vã nhau nên không đưa nổi con thuyền theo một hướng đi nhất định. Hope hết bị kéo theo chiều này lại bị lôi theo chiều khác, anh bị người ta bắt phải làm việc này việc nọ chứ không được tự ý làm những công việc anh muốn làm, mà công việc lại luôn luôn bị gián đoạn đến nỗi không bao giờ anh được làm liền một việc trong sáu tháng.
Hope vẽ ra cho Andrew những bức tranh châm biếm sinh động về cái Ủy ban này. Huân tước Williams Dewar, vị chủ tịch ngoài chín mươi tuổi, đi đứng thì lập cà lập cập nhưng tính tình thì ngang bướng bất trị, được Hope đặt cho cái tên là ngài “Billy thừa khuy” này là chủ tịch của hầu hết các ủy ban khoa học ở Anh. Ngoài ra, chính cụ là người giữ tiết mục “Câu chuyện khoa học dành cho trẻ em” trên đài phát thanh được khắp nơi say mê theo dõi.
Rồi có giáo sư Whinney, được các sinh viên của ông gọi bằng một cái tên rất hợp là “nghẽo còm”; có Challis, một người không đến nỗi tồi cho lắm khi nào ông quên đề cao mình là Rabelais Pasteur Challis; và có bác sĩ Maurice Gadsby.
- Anh có biết Gadsby không? – Hope hỏi.
- Tôi đã gặp ông ta. – Andrew kể lại kỳ thi của anh.
- Đúng, đúng là ông Maurice của chúng tôi đấy – Hope chua chát nói – Đâu đâu ông ta cũng thích sục vào. Một ngày nào, ông ấy sẽ len vào được cả Hội dược học Hoàng gia cho mà xem. Gadsby là một kẻ rất mực khôn khéo, nhưng ông ta lại không chú trọng đến nghiên cứu. Ông ta chỉ chú trọng đến bản thân mình. – Hope bỗng cười phá lên – Robert Abbey có một chuyện rất hay về Gadsby. Gadsby muốn gia nhập câu lạc bộ “Mông bò”, một trong những hội ăn uống thường có ở London, mà đây hình như là một hội khá lịch sự. Thế là Abbey, một tay có thần thế và hay thích giúp đỡ, hứa sẽ hết sức vận động cho Gadsby được vào hội, nào ai biết được vì lẽ gì. Một tuần sau, gặp Abbey, Gadsby hỏi: “Tôi được vào hội rồi chứ?” Abbey đáp: “Không, ông không được vào”. Gadsby nổi nóng: “Bú dù! Ông không muốn nói là tôi bị tẩy chay đấy chứ?” Abbey bảo: “Đúng là bị tẩy chay. Này Gadsby, ông đã bao giờ được nhìn một đĩa trứng cá muối chưa?” – Hope ngả người ra đằng sau cười sặc sụa. Một lát sau, anh nói thêm – Abbey cũng là một người trong Ủy ban ta. Ông ta là một người thẳng thắn. Nhưng ông ta thừa thông minh để không mấy khi ló mặt đến Ủy ban này.
Đây là bữa tiệc đầu tiên của nhiều bữa trưa mà Andrew và Hope ăn cùng với nhau. Mặc dầu vẫn còn giữ lối châm chọc của tuổi sinh viên và bản tính cợt nhả, suồng sã, nhưng Hope rất thông minh. Những lời xấc xược của anh có một âm điệu lành mạnh, thành thật, Andrew cảm thấy một ngày kia Hope sẽ làm được những việc to tát, đáng kể. Thực vậy, những lúc nói chuyện nghiêm túc, Hope nhiều khi tỏ ra khao khát trở lại công việc chân chính mà anh đã tự đề ra cho mình là phân lập men dạ dày.
Thỉnh thoảng Gill đến ăn trưa cùng với họ. Hope đánh giá Gill bằng một câu đặc sắc: “một tay nhỏ người tốt bụng!” Gill đã từ một nhân viên cạo giấy phấn đấu leo tới chức chủ sự, và đằng sau cái vỏ bề ngoài do ba mươi năm làm việc trong ngành hành chính tạo nên, ông là một con người tử tế. Ở sở, Gill làm việc như một cái máy nhỏ trơn dầu, dễ sử dụng. Ông đáp xe lửa từ Sunbury đến nơi làm việc, sáng nào cũng đúng chuyến tàu ấy, và tối nào cũng về nhà bằng con tàu ấy, trừ phi bị “mắc bận”. Ở Sunbury, Gill sống với vợ và ba cô con gái; nhà có một mảnh vườn nhỏ trồng hồng. Bề ngoài, Gill trông rất đúng loại người mà ông có thể được coi là kiểu mẫu hoàn hảo: người ngoại ô đỏm dáng. Tuy nhiên, bên trong là một ông Gill thực, một ông Gill yêu mến cảnh vật mùa đông ở Yarmouth và tháng chạp năm nào cũng về đấy nghỉ, là người có một quyển kinh thánh kỳ lạ đã gần như thuộc lòng đó là một quyển sách nhan đề “Hadji Baba”; là người trong suốt mười lăm năm làm việc ở Ủy ban này vẫn say mê một cách ngốc nghếch những con chim cánh cụt trong vườn nhà.
Một lần, bàn ăn có thêm người thứ tư là Christine. Gill tỏ ra niềm nở ân cần hơn hẳn mọi ngày. Ngay Hope cũng giữ một thái độ hòa nhã đáng khen. Hope thổ lộ với Andrew là ngày gặp bà Andrew, Hope không còn kiên quyết sống mãi cuộc sống độc thân như trước nữa.
Ngày tháng trôi nhanh. Trong thời gian chờ đợi kỳ họp của Ủy ban, Andrew cùng với Christine đi tìm hiểu London. Hai người đi chơi bằng tàu thủy đến Richmond. Họ vào xem thử một rạp hát tên là “Già Vic”. Họ được biết nhiều cảnh đồi lộng gió ở Hampstead, được hưởng cái thú uống cà phê ngoài quán giữa nửa đêm. Họ đi bộ dạo chơi trên xa lộ Row và bơi thuyền trên hồ Serpentine. Họ đã hiểu thế nào là khu Soho[11]. Khi họ không cần phải giở bản đồ ra xem trước khi bước xuống các ga xe điện ngầm nữa thì họ đã có thể bắt đầu cảm thấy họ là người London.