Hầu hết những thành quả quan trọng trên đời đều được tạo ra bởi những người dù chẳng còn chút hy vọng nào nhưng vẫn kiên trì theo đuổi điều mình mong ước.

Dale Carnegie

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 30
au khi đã ngẫm nghĩ chu đáo trong lúc mặc quần áo tại nhà trọ Lợn
Lòi Xanh vào buổi sáng, tôi quyết định sẽ nói với người giám hộ của mình
việc tôi ngờ rằng Orlick không phải là loại người thích hợp để đảm nhiệm
một vị trí cần sự tin cẩn ở nhà cô Havisham. “Sao chứ, Pip, tất nhiên anh ta
không phải là loại người phù hợp,” người giám hộ của tôi nói, rõ ràng đã
thoải mái hài lòng từ trước về sự lựa chọn này, “vì chẳng có loại người nào
phù hợp để đảm nhiệm một vị trí cần sự tin cẩn cả.” Có vẻ ông rất hào hứng
khi thấy vị trí cụ thể này không thành ngoại lệ vì được loại người phù hợp
đảm nhiệm, và lắng nghe một cách cực kỳ hài lòng trong khi tôi kể cho ông
nghe những gì tôi biết về Orlick. “Tốt lắm, Pip,” ông nhận xét khi tôi đã nói
xong, “Bây giờ tôi sẽ đi ra ngoài một chút và thanh toán tiền cho anh bạn của
chúng ta.” Thay vì phát hoảng vì hành động ngắn gọn này, tôi nghiêng về
một chút trì hoãn, thậm chí còn bóng gió rằng anh bạn của chúng tôi có lẽ
cũng không dễ đối phó. “Ô, không, anh ta sẽ không thế đâu,” người giám hộ
của tôi nói, diễn lại màn khăn tay kèm theo sự tự tin hoàn hảo, “tôi sẽ rất
thích được thấy anh ta tranh luận vấn đề này với tôi.”
Vì chúng tôi sẽ quay về London cùng nhau trên chuyến xe trạm buổi
trưa, và vì tôi đã phải ăn sáng dưới sự khủng bố kinh hoàng của Pumblechook
đến mức hầu như chẳng có cơ hội chạm vào cái cốc của mình, chuyện này
đem đến cho tôi một cơ hội để nói tôi muốn tản bộ một chuyến, và tôi sẽ đi
dọc theo con đường tới trạm đến London trong khi ông Jaggers bận bịu giải
quyết công chuyện nếu ông vui lòng báo để người đánh xe biết tôi sẽ lấy lại
chỗ của mình khi xe trạm bắt kịp tôi. Vậy là tôi có thể chuồn khỏi Lợn Lòi
Xanh ngay sau bữa sáng. Đi vòng chừng hai dặm qua vùng đồng quê trống
trải đằng sau nhà Pumblechook, tôi đi vòng vào lại phố High ở quá phía trên
cái cạm bẫy đó một chút, và cảm thấy mình tương đối được an toàn.
Thật thú vị khi một lần nữa lại ở giữa một thị trấn cổ kính yên bình, và
việc đột nhiên được ai đó nhận ra và nhìn chằm chằm ở nơi nọ nơi kia kỳ
thực cũng không hề khó chịu. Một vài người buôn bán thậm chí còn lao ra
khỏi cửa hàng và đi xuống phố một quãng đằng trước tôi để có thể quay lại
như thể vừa quên mất gì đó và đi ngang qua tôi mặt đối mặt - vào những dịp
như vậy, tôi không biết giữa họ và tôi, ai là kẻ giả vờ tệ hơn; họ không làm
thế, hay tôi không nhìn thấy chuyện đó. Dẫu vậy, vị thế của tôi vẫn khá nổi
bật, và tôi không hề phiền lòng chút nào vì nó, cho tới khi số mệnh đẩy tôi cắt
ngang con đường của kẻ ti tiện vô hạn đó, cậu chàng giúp việc của Trabb.
Đưa mắt nhìn dọc theo con phố trong lúc đang dạo bước, tôi trông thấy
cậu nhóc giúp việc của Trabb tiến lại gần, dùng một cái túi rỗng không màu
xanh quất vào mình. Cho rằng một màn coi thường nghiêm trang và dửng
dưng dành cho cậu ta sẽ là thích hợp nhất về phía mình, và rất có thể làm tắt
ngóm tâm hồn xấu xa của cậu chàng, tôi dấn bước tới trưng ra vẻ mặt này,
đồng thời thầm tự chúc mừng thành công của mình, thì bỗng dưng hai đầu
gối của cậu chàng giúp việc cho Trabb va vào nhau, tóc cậu ta dựng đứng lên,
cái mũ trên đầu rơi xuống, cả tứ chi cậu ta run lẩy bẩy dữ dội, cậu ta loạng
choạng bước ra phố, rồi hét tướng lên với bàn dân thiên hạ, “Nhìn tôi xem!
Tôi sợ quá!” vờ làm ra vẻ đang kinh hoàng tột độ trước màn xuất hiện đầy
kiêu hãnh của tôi. Khi tôi đi ngang qua, răng cậu ta va vào nhau cành cạch
thành tiếng, và với tất cả biểu hiện của sự quỵ lụy tột cùng, cậu ta phủ phục
quỳ xuống đất.
Đây là một cảnh tượng thật khó chịu đựng, nhưng vẫn chưa là gì cả.
Tôi đi chưa được hai trăm yard nữa thì trong tâm trạng kinh ngạc, phẫn nộ
pha lẫn kinh hoàng không thể diễn tả nổi, tôi lại thấy cậu chàng phụ việc của
Trabb tiến lại gần. Cậu ta đang vòng tới qua một góc đường hẹp. Cái túi xanh
của cậu ta vắt qua vai, đôi mắt sáng lên đầy trung thực, quả quyết đi tới chỗ
cửa hàng của Trabb với dáng đi vui vẻ nhanh nhảu. Cậu ta choáng váng khi
nhận ra tôi, và lại bị chấn động dữ dội hệt như lần trước; nhưng lần này
chuyển động của cậu ta đi theo hướng quay vòng và cậu ta lảo đảo đi vòng
vòng quanh tôi, hai đầu gối trở nên nặng trĩu hơn, hai bàn tay giơ cao lên như
thể cầu khẩn sự khoan dung. Nỗi thống khổ của cậu ta được một nhóm khán
giả đón chào trong sự hân hoan tột độ, và tôi cảm thấy bối rối cùng cực.
Tôi chỉ mới đi xuống phố tới chỗ bưu điện thì lại bắt gặp cậu phụ việc
của Trabb lao vụt ra từ một đường hẻm. Lần này, cậu ta hoàn toàn thay đổi.
Cậu ta khoác lên mình cái túi màu xanh giống như cách tôi mặc áo khoác, và
đang khệnh khạng đi trên vỉa hè về phía tôi ở bên kia đường, được tháp tùng
bởi một đám bạn bè trẻ trung hớn hở, thỉnh thoảng cậu ta lại xua tay la lên
với đám này, “Không biết các người!” Không từ ngữ nào có thể diễn tả được
mức độ bực bội tổn thương cậu chàng phụ việc của Trabb đã trút xuống đầu
tôi khi cậu ta đi ngang qua tôi và kéo cổ áo sơ mi lên, vuốt tóc mai, đưa một
cánh tay lên chống nạnh rồi mỉm cười ngạo mạn thật ngông cuồng đi tiếp,
uốn éo hai khuỷu tay và cả thân mình trong khi dài giọng lè nhè về phía đám
người bám theo xem, “Không biết các người, không biết các người, thề trên
linh hồn tôi, không biết các người!” Nỗi hổ thẹn ập tới ngay sau khi cậu ta lao
bổ như một con quạ truy đuổi tôi qua cầu cùng cả bầy quạ đồng hành của
mình, cũng như từ một đám đông cực kỳ thất vọng từng quen biết tôi khi tôi
còn là một cậu chàng thợ rèn học việc, là đỉnh điểm của nỗi hổ thẹn khi tôi
rời khỏi thị trấn, hay nói đúng hơn là bị nó tống khứ ra ngoài đồng quê trống
trải.
Nhưng trừ phi lấy mạng cậu chàng phụ việc của Trabb ngay khi đó,
bằng không thì thậm chí đến tận bây giờ tôi cũng thực sự không thấy mình có
thể làm gì khác ngoài cam chịu. Vật lộn với cậu ta trên phố, hay bắt cậu ta
phải trả bất cứ cái giá nào thấp hơn thứ máu tươi nhất từ tim cậu ta, hẳn cũng
đều vô nghĩa và mất thể diện. Hơn nữa, cậu ta là một kẻ mà không người đàn
ông nào có thể gây tổn thương; một con rắn không thể bị trúng đòn và lắt léo
luôn biết cách luồn qua giữa hai chân kẻ săn đuổi để vừa hét lên đầy nhạo
báng vừa tẩu thoát mỗi khi bị dồn vào góc. Tuy nhiên, tôi vẫn viết thư cho
ông Trabb và gửi bưu điện ngày hôm sau để thông báo rằng ông Pip buộc
phải từ chối có thêm giao dịch với một người đã quá sao nhãng trách nhiệm
của mình với xã hội đến mức thuê một kẻ khiến cho mọi tâm hồn đáng kính
đều thấy ghê tởm làm phụ việc.
Chiếc xe trạm, có ông Jaggers ngồi trong, tới đúng giờ hẹn, và tôi lại
lên ngồi vào chỗ của mình và an toàn về tới London - nhưng không hoàn toàn
lành lặn, vì trái tim tôi đã chết lặng, về đến nơi, tôi lập tức gửi một con cá
tuyết và một thùng hào như lời ăn năn tới Joe (để đền bù cho việc không đích
thân tới thăm anh), rồi quay lại nhà trọ Barnard.
Tôi gặp Herbert đang ăn tối với món thịt nguội, cậu vui vẻ chào đón tôi
quay về. Sau khi đã đẩy Kẻ Báo thù tới tiệm cà phê để lấy thêm đồ ăn tối, tôi
cảm thấy nhất thiết phải cởi mở tâm sự ngay tối hôm ấy với người bạn tâm
giao của mình. Vì không thể có chuyện tâm sự riêng tư trong lúc Kẻ Báo thù
còn lù lù ngoài phòng chờ, tình trạng cũng tương đương với ghé tai vào lỗ
khóa, tôi đẩy anh ta đi xem kịch. Khó có thể đưa ra bằng chứng nào rõ rệt
hơn về mức độ nghiêm trọng của mối ràng buộc giữa tôi với vị đốc công kia
cho bằng nhịp độ đáng xấu hổ tôi bị ép phải liên tục tìm ra công ăn việc làm
cho anh ta. Mức độ quẫn bách tệ hại đến mức đôi lúc tôi sai anh ta tới tận góc
công viên Hyde để xem đã mấy giờ rồi.
Khi đã xong bữa tối và chúng tôi đang ngồi để chân lên tấm chắn lò
sưởi, tôi nói với Herbert, “Herbert thân mến, tớ có một điều rất đặc biệt cần
nói với cậu.”
“Handel thân mến,” cậu đáp, “tớ sẽ trân trọng và tôn trọng bí mật của
cậu.”
“Chuyện này liên quan đến tớ,” tôi nói, “và một người khác.”
Herbert gác tréo hai bàn chân, ngả đầu sang một bên nhìn vào ngọn
lửa, và sau khi đã mất công vô ích nhìn nó được một hồi, chuyển sang nhìn
tôi vì tôi vẫn chưa chịu lên tiếng.
“Herbert,” tôi nói, đặt bàn tay lên đầu gối cậu, “Tớ yêu - tớ tôn thờ -
Estella.”
Thay vì sững sờ, Herbert thoải mái đáp lại như thể đương nhiên,
“Chính xác. Thế thì sao?”
“Thế thì sao ư, Herbert? Đó là tất cả những gì cậu nói ư? Thế thì sao?”
“Ý tớ là tiếp theo là gì,” Herbert nói. “Tất nhiên là tớ biết chuyện đó.”
“Làm thế nào cậu biết được?” tôi hỏi.
“Làm thế nào tớ biết chuyện đó ư, Handel? Sao chứ, từ cậu thôi.”
“Tớ chưa bao giờ nói gì với cậu.”
“Nói với tớ! Cậu chưa bao giờ nói với tớ cậu đi cắt tóc lúc nào, nhưng
tớ có giác quan để nhận ra chuyện đó. Cậu luôn tôn thờ nàng, từ khi tớ quen
cậu. Cậu vác cả sự tôn thờ ấy lẫn va li của cậu đến đây cùng một lúc. Nói với
tớ! Sao chứ, cậu vẫn kể với tớ suốt cả ngày. Khi cậu kể cho tớ nghe câu
chuyện của mình, cậu đã nói rõ như ban ngày là tôn thờ nàng từ lần đầu tiên
gặp nàng, khi quả thật cậu còn rất trẻ.”
“Thế thì tốt lắm,” tôi nói, với tôi đây là một sự khai sáng mới mẻ và
không hề khó chịu, “tớ chưa bao giờ thôi tôn thờ nàng. Và nàng đã trở về, tạo
vật kiều diễm nhất, thanh lịch nhất. Tớ vừa gặp nàng hôm qua. Nếu trước đây
tớ đã tôn thờ nàng rồi, thì giờ tớ còn tôn thờ gấp đôi.”
“Thật may cho cậu, Handel,” Herbert nói, “vì cậu đã được lựa chọn và
định đoạt để dành cho nàng. Chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng không còn
chút nghi ngờ nào giữa cậu và tớ về sự thật đó mà không ngại động chạm đến
bất cứ điều gì kiêng kỵ. Cậu đã biết gì về thái độ của Estella với sự tôn thờ
này chưa?”
Tôi ủ rũ lắc đầu. “Ô! Nàng ở cách xa tớ cả ngàn dặm,” tôi nói.
“Hãy kiên nhẫn, Handel thân mến: còn đủ thời gian, còn đủ thời gian.
Nhưng cậu còn gì thêm để nói nữa không?”
“Tớ rất xấu hổ phải nói ra,” tôi đáp, “nhưng nói ra cũng chẳng tệ hơn
nghĩ về nó. Cậu gọi tớ là một anh chàng may mắn. Tất nhiên đúng thế rồi.
Mới hôm qua thôi tớ chỉ là một cậu nhóc thợ rèn; còn hôm nay - tớ nên nói
mình là gì nhỉ?”
“Hãy nói là một người tốt, nếu cậu cần một cách nói,” Herbert mỉm
cười đáp, rồi vỗ bàn tay lên bàn tay tôi, “một người tốt, với những lúc bốc
đồng và do dự, can đảm và e dè, hành động và mơ mộng, tất cả cùng được
pha trộn lại thật kỳ lạ trong cậu ta.”
Tôi dừng lại khoảnh khắc để ngẫm nghĩ xem thứ phức hợp này có thực
sự tồn tại trong tính cách mình không, về tổng thể, tôi không hề thừa nhận sự
phân tích này, song lại nghĩ chuyện đó không đáng để tranh luận.
“Khi tớ hỏi tớ nên gọi mình là gì hôm nay, Herbert,” tôi nói tiếp, “tớ
muốn nói tới những gì tớ đang nghĩ tới. Cậu nói tớ may mắn. Tớ biết tớ đã
không làm gì để vươn lên trong cuộc sống, và chỉ mình vận may đã nâng tớ
lên; điều đó quả là rất may mắn. Thế nhưng khi tớ nghĩ tới Estella…”
(“Và có khi nào cậu không nghĩ đến nàng đâu chứ, cậu biết mà?”
Herbert chen vào, mắt nhìn lò lửa; tôi nghĩ cậu thật nhân hậu, biết cảm
thông.)
“Thế nên, Herbert thân mến, tớ không thể cho cậu hay tớ cảm thấy bị
phụ thuộc và bất an đến mức nào, bị giằng xé giữa hàng trăm khả năng ra
sao. Cho dù đã tránh xa cấm kỵ như cậu vẫn đang làm, tớ vẫn có thể nói tất
cả triển vọng của tớ phụ thuộc vào sự kiên định của một con người (tớ không
muốn nói tên ai cả). Và khá nhất, thật mông lung và thất vọng làm sao, thì tớ
cũng chỉ biết được một cách rất lờ mờ rằng những triển vọng ấy là cái gì!”
Nói đến đây, tôi đã ít nhiều giải tỏa được những điều vẫn nằm trong tâm trí từ
lâu, dù không nghi ngờ gì rằng hầu hết chúng phải đến ngày hôm qua mới
xuất hiện ở đó.
“Còn bây giờ, Handel,” Herbert đáp với giọng nói vui vẻ đầy hy vọng
của cậu, “theo tớ, dường như trong nỗi thất vọng của một đam mê mong
manh, chúng ta đang quá băn khoăn vô nghĩa về món quà nhận được. Cũng
như vậy, theo tớ khi tập trung chú ý vào xem xét, chúng ta đã hoàn toàn bỏ
qua mất những điểm tuyệt nhất của món quà. Chẳng phải cậu có nói với tớ là
người giám hộ của cậu, ông Jaggers, đã bảo cậu ngay từ đầu là cậu không chỉ
được hưởng gia tài đó sao? Và dù nếu ông ấy không bảo cậu như thế - dẫu
rằng đó là một chữ Nếu rất to, tớ phải thừa nhận - liệu cậu có thể tin trong tất
cả mọi người ở London, ông Jaggers lại là người chấp nhận duy trì những
mối quan hệ như hiện tại với cậu nếu ông ấy không chắc chắn về vị thế của
mình hay sao?”
Tôi nói tôi không thể phủ nhận đây là một điểm rất có lý. Tôi nói ra
như thế (người ta vẫn thường làm vậy trong những trường hợp tương tự) như
một sự nhượng bộ miễn cưỡng trước sự thật và công lý; cứ như thể tôi muốn
phủ nhận nó vậy!
“Tớ cũng nghĩ đó là một điểm rất có lý,” Herbert nói, “và tớ nghĩ cậu
sẽ rất khó đưa ra được lý lẽ nào thuyết phục hơn; còn về những chuyện khác,
cậu cần tuân theo thời gian của người giám hộ của mình, còn ông ấy phải
tuân theo thời gian của thân chủ. Cậu sẽ đến tuổi hai mươi mốt trước khi kịp
nhận ra, và đến lúc ấy có lẽ cậu sẽ được khai sáng thêm ít nhiều. Dù gì đi
nữa, cậu cũng đang gần có được nó, vì dứt khoát cuối cùng nó sẽ phải tới.”
“Cậu thật lạc quan làm sao!” tôi nói, thầm ngưỡng mộ tính cách vui vẻ
của cậu một cách đầy biết ơn.
“Tớ buộc phải thế thôi,” Herbert nói, “vì tớ chẳng có gì nhiều ngoài nó.
Song nói cho thật, tớ phải thừa nhận sự sáng suốt trong những điều tớ vừa nói
không thuộc về tớ, mà của bố tớ. Nhận xét duy nhất tớ từng nghe ông nói về
câu chuyện của cậu là nhận xét cuối cùng, ‘Chuyện này đã được thu xếp và
thực hiện xong xuôi, nếu không ông Jaggers sẽ không đời nào nhúng tay.’ Và
bây giờ, trước khi tớ nói thêm gì về bố tớ, hay cậu con trai của ông, và đáp lại
sự tin cậy bằng sự tin cậy, tớ muốn làm mình trở nên khó chịu với cậu trong
một khoảnh khắc - cực kỳ đáng ghét.”
“Cậu sẽ không thành công đâu,” tôi nói.
“Ô có, tớ sẽ thành công!” cậu nói. “Một, hai, ba, giờ tớ bắt đầu đây.
Handel, anh bạn thân mến”; cho dù cậu nói với giọng bông lơn, Herbert rõ
ràng rất chân thành, “tớ đã nghĩ mãi từ khi tớ và cậu bắt đầu gác chân lên tấm
chắn lò sưởi này nói chuyện với nhau, rằng Estella rõ ràng không phải là một
điều kiện cho quyền thừa kế của cậu, nếu người giám hộ cho cậu chưa bao
giờ nhắc tới nàng. Tớ có đúng không khi hiểu như thế từ những gì cậu đã nói
với tớ, rằng ông ấy chưa bao giờ nhắc tới nàng, dù trực tiếp hay gián tiếp,
theo bất cứ cách nào? Chẳng hạn, chưa bao giờ ám chỉ rằng người bảo trợ
cho cậu có thể đã có chủ định về đám cưới giữa hai người?”
“Chưa bao giờ.”
“Bây giờ, Handel, có linh hồn và danh dự của tớ làm chứng, tớ hoàn
toàn không có ý ‘nho xanh chẳng đáng miệng người phong lưu’ đâu! Một khi
không hề bị ràng buộc với nàng, chẳng lẽ cậu không thể thản nhiên với nàng
sao? Tớ đã nói là tớ sẽ trở nên khó chịu.”
Tôi ngoảnh đầu sang bên, vì hệt như những cơn gió từ biển thổi qua
đồng lầy ngày trước, một cảm xúc chợt ập tới giống hệt thứ đã nhận chìm tôi
vào buổi sáng tôi rời khỏi lò rèn, khi màn sương mù dần dà nghiêm nghị dâng
lên, khi tôi áp bàn tay lên tấm biển chỉ đường ra khỏi làng, lại một lần nữa
siết chặt lấy tim tôi. Hai chúng tôi cùng im lặng hồi lâu.
“Phải; nhưng Handel thân mến,” Herbert nói tiếp, như thể chúng tôi
vừa trò chuyện thay vì im lặng, “việc cảm xúc ấy đã bắt rễ quá chắc trong trái
tim của một cậu con trai bị bản chất và hoàn cảnh làm cho trở nên quá lãng
mạn đã khiến nó trở nên rất nghiêm túc. Hãy nghĩ tới cách nàng được nuôi
dạy, hãy nghĩ về cô Havisham. Hãy nghĩ về bản thân nàng (giờ thì tớ thật khó
chịu và cậu ghê tởm tớ). Chuyện này có thể dẫn tới những hậu quả rất đau
khổ.”
“Tớ biết vậy, Herbert,” tôi nói, đầu vẫn ngoảnh đi, “nhưng tớ không
thể đừng được.”
“Cậu không thể đoạn tuyệt được sao?”
“Không. Không thể!”
“Cậu không thể cố thử sao, Handel?”
“Không. Không thể!”
“Được rồi!” Herbert nói, nhổm dậy, lắc đầu thật mạnh như thể cậu vừa
ngủ say, và cời ngọn lửa, “giờ tớ sẽ cố trở lại dễ chịu!”
Rồi cậu đi quanh phòng, kéo rèm cửa ra, kê ghế về chỗ cũ, sắp xếp lại
những cuốn sách và những thứ khác đang nằm bừa bãi, ngó ra ngoài lối vào,
nhìn qua thùng thư, đóng cửa, rồi trở lại chỗ cái ghế của mình bên lò sưởi;
Herbert ngồi xuống ghế, đưa cả hai cánh tay ôm lấy bên chân trái.
“Handel, tớ sắp sửa nói vài lời về bố tớ và con trai ông. Tớ e rằng con
trai ông cũng không cần thiết phải nhận xét rằng người bố không được xuất
chúng cho lắm trong việc chăm lo cho gia đình.”
“Mọi thứ luôn dư dả mà, Herbert,” tôi nói, cố thể hiện ra điều gì đó tích
cực.
“À phải! Đó là những gì người hốt rác vẫn nói, tớ tin là vậy, một cách
đầy tán thưởng, cũng như ông chủ cửa hàng bán đồ cũ ở con hẻm đằng sau.
Nghiêm trọng lắm, Handel, vì vấn đề này đúng là nghiêm trọng, cậu biết rõ là
thế chẳng kém gì tớ. Tớ chắc từng có thời bố tớ vẫn chưa buông xuôi mọi
thứ; nhưng nếu từng có lúc như thế thì nó đã qua rồi. Tớ muốn hỏi liệu đã
bao giờ cậu có cơ hội để thấy ở quê cậu rằng những đứa không thực sự thích
hợp cho hôn nhân lại luôn đặc biệt nóng lòng kết hôn nhất hay không?”
Đây quả là một câu hỏi độc đáo, đến mức tôi hỏi lại cậu, “Thật thế
sao?”
“Tớ không rõ nữa,” Herbert nói, “đó là điều tớ muốn biết. Vì chắc chắn
đó là trường hợp gia đình tớ. Cô em gái Charlotte tội nghiệp của tớ, đứa em
kế ngay sau tớ và đã mất trước khi tròn mười bốn tuổi, là một ví dụ rõ ràng.
Cô bé Jane cũng thế. Với khao khát được yên bề gia thất của cô bé, cậu có thể
cho rằng cô bé đã trải qua cả cuộc đời ngắn ngủi của nó không ngừng chờ đợi
niềm hạnh phúc gia đình. Thằng bé Alick còn đeo yếm dãi cũng đã được thu
xếp chuyện hôn nhân với một quý cô trẻ tuổi phù hợp ở Kew. Và quả thực tớ
nghĩ tất cả mấy anh em tớ đều đã hứa hôn, trừ bé út.”
“Vậy là cậu đã hứa hôn rồi?” tôi hỏi.
“Đúng thế,” Herbert nói, “nhưng đó là một bí mật.”
Tôi cam đoan với cậu sẽ giữ bí mật, và nài nỉ được biết nhiều hơn. Cậu
đã nói thật sinh động và đầy cảm xúc về sự yếu đuối của tôi, vì thế tôi muốn
biết ít nhiều về sự mạnh mẽ của cậu.
“Tớ có thể hỏi tên nàng được chứ?” tôi nói.
“Tên là Clara,” Herbert đáp.
“Sống ở London?”
“Phải, có lẽ tớ cần phải nói rõ,” Herbert nói, cậu đã trở nên ỉu xìu hẳn
xuống một cách thật lạ từ lúc chúng tôi đề cập tới chủ đề thú vị này, “là nàng
có lẽ hơi thấp kém so với những khái niệm phù phiếm về gia đình của mẹ tớ.
Công việc của bố nàng trước đây có liên quan tới cung cấp thực phẩm cho
các tàu chở khách. Tớ nghĩ ông là một thủ quỹ.”
“Giờ ông ấy làm gì?” tôi hỏi.
“Giờ ông là người tàn tật,” Herbert nói.
“Và đang sống…?”
“Ở lầu hai,” Herbert nói. Đây hoàn toàn không phải là điều tôi muốn
hỏi, vì tôi định hỏi về nguồn sống của ông ta. “Tớ chưa bao giờ gặp ông, ông
luôn ở rịt trong phòng trên kia kể từ khi tớ quen Clara. Nhưng tớ thường
xuyên nghe thấy tiếng ông nói. Ông gây ra những tiếng động đinh tai - la hét,
nện xuống sàn bằng một món đồ kinh khủng nào đó.” Nhìn tôi rồi bật cười
thật thoải mái, lúc này Herbert đã tìm lại được vẻ hoạt bát bình thường của
cậu.
“Cậu không trông đợi gặp ông ấy sao?” tôi hỏi.
“Ồ có chứ, tớ luôn trông đợi gặp ông,” Herbert đáp, “vì tớ chưa bao giờ
nghe thấy tiếng động ông gây ra mà không trông đợi ông sẽ rơi từ trên trần
xuống. Nhưng tớ không rõ các rui xà còn chịu được bao lâu nữa.”
Sau khi đã cười sảng khoái thêm lần nữa, cậu lại trở nên ủ rũ, và nói
với tôi rằng ngay từ khoảnh khắc bắt đầu tạo dựng vốn liếng, cậu đã có ý
định kết hôn với cô gái trẻ. Bạn tôi nói thêm như một dẫn chứng về bản thân,
kéo theo tâm trạng thật nặng nề, “Nhưng cậu biết đấy, cậu không thể kết hôn
được khi còn thăm dò cơ hội.”
Trong lúc hai chúng tôi ngắm nhìn ngọn lửa, trong lúc tôi thầm nghĩ
đôi khi hiện thực hóa món vốn liếng vừa được nhắc đến là một triển vọng thật
khó khăn, tôi bất giác đút hai bàn tay vào túi. Một mảnh giấy được gấp lại
trong một bên túi khiến tôi chú ý. Tôi liền mở nó ra và thấy đó là cái vé xem
kịch nhận được từ tay Joe, liên quan tới vị nghệ sĩ nghiệp dư tình lẻ danh
tiếng. “May làm sao chứ,” tôi buột miệng thốt lên thành tiếng, “đúng là tối
nay.”
Sự kiện này lập tức làm thay đổi chủ đề trò chuyện, hối thúc chúng tôi
đến quyết định đi xem kịch. Vậy là khi tôi đã hứa với mình sẽ thoải mái và
khích lệ Herbert trong câu chuyện tình duyên của cậu bằng mọi phương cách
cả khả thi lẫn bất khả thi, còn Herbert đã nói với tôi rằng vị hôn thê của cậu
đã biết qua danh tiếng của tôi và nhất định cậu phải giới thiệu tôi với nàng và
hai chúng tôi đã nồng nhiệt bắt tay nhau vì sự tin cậy lẫn nhau, chúng tôi thổi
tắt nến, dập lò sưởi khóa cửa phòng và lên đường tìm đến với ông Wopsle và
xứ Đan Mạch*
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)