Cầu Chúa ban cho con sự thanh thản để chấp nhận những thứ con không thể thay đổi, sự caN đảm để thay đổi những thứ con có thể, và sự khôn khoan để phân biệt những cái có thể thay đổi và không thể.

Dr. Reinhold Niebuhr

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 29
áng hôm sau, tôi dậy sớm rời nhà trọ. Vẫn còn quá sớm để tới chỗ cô
Havisham, vì thế tôi tha thẩn quanh vùng đồng quê về phía nhà cô Havisham
trong thị trấn - nghĩa là không phải phía nhà Joe; tôi có thể tới đó vào ngày
mai - nghĩ tới người bảo trợ của tôi, và vẽ ra những bức tranh tươi sáng về
các kế hoạch bà dành cho tôi.
Bà đã nhận nuôi Estella, và có thể nói coi như đã nhận nuôi tôi, và hiển
nhiên dự định của bà sẽ là đưa chúng tôi đến với nhau. Bà dành lại cho tôi
việc khôi phục lại ngôi nhà cô quạnh, cho phép ánh mặt trời chiếu vào những
căn phòng tối tăm, lên dây cho các đồng hồ chạy tiếp và nhóm lửa trong các
lò sưởi giá lạnh, quét sạch mạng nhện, tiêu diệt lũ sâu bọ - nói tóm lại là thực
hiện đủ loại chiến công huy hoàng của chàng Hiệp sĩ trẻ lãng mạn để rồi cưới
Công chúa. Tôi đã dừng chân ngắm nhìn ngôi nhà khi đi ngang qua; và
những bức tường gạch đỏ già nua, những khung cửa sổ bị bịt kín của ngôi
nhà cũng như dây thường xuân xanh tốt siết chặt lấy các cột ống khói bằng hệ
thống nhánh cành chằng chịt như thể đang dùng những cánh tay già lực lưỡng
mạnh mẽ tạo nên một bí ẩn đầy hấp dẫn, trong đó tôi chính là người hùng.
Estella chính là nguồn cảm hứng, là trái tim của nó, tất nhiên rồi. Nhưng cho
dù cô đã chiếm hữu tôi thật mạnh mẽ, cho dù mọi mơ tưởng và hy vọng của
tôi đều đặt cả vào cô, cho dù ảnh hưởng của cô lên cuộc sống và tính cách
của tôi khi còn là một cậu bé mạnh mẽ không gì sánh nổi, thậm chí ngay cả
vào buổi sáng đầy lãng mạn ấy, tôi cũng không thể dành cho cô bất cứ điều gì
ngoài những điều cô sở hữu. Tôi nói ra chuyện này ở đây vì một mục đích bất
di bất dịch, vì nó chính là cuộn chỉ dẫn đường mà tôi sẽ phải lần theo để dấn
bước vào mê cung khốn khổ của mình. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, khái
niệm thông dụng về một người tình không thể luôn luôn đúng. Sự thật không
thể chối bỏ là khi tôi yêu Estella bằng tình yêu của một người đàn ông, tôi
yêu cô chỉ đơn giản vì thấy cô hấp dẫn không thể cưỡng lại. Rốt cuộc thì; tôi
ý thức được đầy phiền muộn, rất thường xuyên, nếu không phải là luôn luôn,
rằng tôi yêu cô bất chấp lý trí, bất chấp hứa hẹn, bất chấp bình yên, bất chấp
hy vọng, bất chấp hạnh phúc hay mọi thứ có thể khiến người ta bỏ cuộc. Rốt
cuộc thì; tôi vẫn không hề bớt yêu cô dù ý thức được tất cả, và chúng cũng
chỉ có ảnh hưởng trong việc kiềm chế tôi tương tự như nếu tôi tin tưởng đầy
sùng kính rằng cô là nguyên mẫu hoàn hảo của con người.
Tôi cẩn thận canh giờ cho chuyến đi bộ để đến trước cổng đúng thời
gian như trước đây. Sau khi đã rung chuông bằng một bàn tay do dự, tôi quay
lưng lại cổng trong khi cố gắng thở đều đặn và kìm cho nhịp đập của tim
mình trở lại tương đối bình lặng. Tôi nghe thấy cánh cửa bên mở ra, và tiếng
bước chân vang lên băng qua sân; song tôi vẫn giả bộ không nghe thấy, ngay
cả khi cánh cổng mở ra trên những cái bản lề gỉ sét của nó.
Cuối cùng, khi bị vỗ lên vai, tôi giật mình quay lại. Thế rồi tôi giật
mình lần nữa tự nhiên hơn nhiều khi nhận ra mình đang đối diện với một
người đàn ông mặc đồ xám nghiêm chỉnh. Đó là người tôi không bao giờ
trông đợi sẽ thấy vào vai gác cổng tại nhà cô Havisham.
“Orlick!”
“À, cậu chủ, có nhiều thay đổi khác ngoài các thay đổi của cậu. Nhưng
cậu vào đi chứ, vào đi. Để cổng mở sẽ là trái với lệnh tôi nhận được.”
Tôi bước vào, anh ta liền đóng cổng và khóa nó lại, rút chìa khỏi ổ
khóa. “Phải rồi!” anh ta nói, quay mặt ngoái lại sau khi lầm lì đi trước tôi vài
bước về phía ngôi nhà. “Tôi ở đây!”
“Anh đến đây bằng cách nào?”
“Tôi tới đây,” anh ta độp lại, “bằng chân tôi. Tôi mang theo cái hòm
của mình cùng trên một cái xe cút kít.”
“Anh sẽ ở lại đây lâu dài chứ?”
“Tôi cho rằng tôi không ở đây để làm gì tai hại, phải không cậu chủ?”
Tôi thấy không chắc lắm về điều đó. Tôi từ tốn ngẫm nghĩ về câu vặn
vẹo trong đầu, cùng lúc anh ta chậm chạp nâng ánh mắt rời khỏi vỉa hè,
hướng lên chân tay tôi, rồi lên mặt tôi.
“Vậy là anh đã rời khỏi lò rèn,” tôi hỏi.
“Trông chỗ này giống lò rèn sao?” Orlick đáp, đưa mắt nhìn quanh
mình với vẻ bị tổn thương. “Bây giờ trông nó có giống chỗ đó không?”
Tôi hỏi anh ta đã rời khỏi lò rèn nhà Gargery được bao lâu. “Ngày nào
cũng giống ngày nào,” Orlick đáp, “đến mức tôi không biết được nếu không
đếm rõ ra. Tuy nhiên, tôi đã tới đây một thời gian sau khi cậu đi.”
“Nếu không đi thì hẳn là tôi cũng đã có thể nói như vậy với anh,
Orlick.”
“À!” anh ta khô khan nói. “Nhưng rồi cậu vẫn cứ phải thành một người
có học thức mới được cơ.”
Đến lúc này, chúng tôi đã tới ngôi nhà, tại đây tôi phát hiện thấy căn
buồng của anh ta kề ngay sát cửa bên với một tấm cửa kính nhỏ trông xuống
sân. Với kích thước nhỏ bé, nó trông giống như chỗ người ta vẫn dành cho
người gác cổng ở Paris. Có mấy chiếc chìa khóa treo trên tường, và đến lúc
này chìa khóa cổng được anh ta cho gia nhập cùng chúng; cái giường phủ
tấm vải vá víu của anh ta được kê vào một góc nhỏ tách biệt phía trong. Toàn
bộ gian buồng toát lên vẻ nhếch nhác, tù túng và im ắng, giống như một cái
lồng nuôi chuột sóc dành cho người; trong khi đó Orlick, một khối đen sẫm
nặng nề ẩn trong bóng tối ở góc buồng cạnh cửa sổ, trông giống như con
chuột sóc đội lốt người mà vì nó gian buồng đã được tạo ra - và quả đúng là
vậy thật.
“Tôi chưa bao giờ thấy căn buồng này trước đây,” tôi nhận xét, “nhưng
trước đây cũng không có người gác cổng nào ở nơi này.”
“Không” Anh ta nói, “cho tới khi mọi người biết là không có sự bảo vệ
nào dành cho nơi này, và người ta bắt đầu thấy thế là nguy hiểm, với đám tù
khổ sai và đủ hạng lưu manh du đãng lảng vảng khắp nơi. Thế rồi sau đó tôi
được giới thiệu đến nhà này như một người có thể chào mừng đúng kiểu bất
cứ loại người nào, và tôi nhận lấy việc này. Nó dễ hơn thổi bễ và quai búa.
Mấy việc ấy thật nặng nhọc, thế đấy.”
Ánh mắt tôi bắt gặp một khẩu súng có báng bọc đồng thau để trên bệ lò
sưởi, và anh ta cũng đưa mắt dõi theo tôi.
“Được rồi,” tôi nói, không thích phải trò chuyện thêm, “tôi lên gặp cô
Havisham được chứ?”
“Cứ việc đốt tôi đi nếu tôi biết!” anh ta vặc lại, trước hết vươn người ra
rồi sau đó lắc lư, “lệnh tôi nhận được kết thúc ở đây, cậu trẻ. Tôi sẽ gõ một
cái vào cái chuông này bằng cái búa này, và cậu đi dọc theo hành lang cho tới
khi gặp ai đó.”
“Tôi được chờ sẵn, phải vậy không?”
“Cứ việc đốt tôi hai lần nếu tôi có thể trả lời!” anh ta đáp.
Nghe xong, tôi quay người đi xuống dải hành lang dài tôi từng bước
lên lần đầu tiên với đôi ủng nặng trịch của mình, còn anh ta gõ cái chuông
của anh ta. Ở cuối hành lang, trong khi tiếng chuông vẫn còn ngân vang, tôi
bắt gặp Sarah Pocket, người lúc này có vẻ đã vì tôi mà trở nên xanh rớt và
vàng bủng.
“Ồ!” bà ta thốt lên. “Là cậu sao, cậu Pip?”
“Đúng là tôi đây, cô Pocket. Tôi rất vui được cho cô biết ông Pocket và
cả gia đình đều vẫn khỏe.”
“Bọn họ đã khôn lên tí nào chưa?” Sarah hỏi, kèm theo một cái lắc đầu
buồn nản, “họ nên khôn lên thì tốt hơn là khỏe. Ôi, Matthew, Matthew! Cậu
biết đường chứ, quý ngài?”
Cũng khá rõ, vì tôi đã leo lên cầu thang này nhiều lần trong bóng tối.
Lúc này tôi đang leo lên nó với đôi ủng nhẹ hơn ngày trước, và gõ lên cửa
phòng cô Havisham theo đúng kiểu ngày xưa. “Tiếng gõ của Pip,” lập tức tôi
nghe bà lên tiếng, “vào đi, Pip.”
Bà đang ngồi trên ghế của mình gần cái bàn cũ, vẫn trong bộ đồ cũ, với
hai bàn tay đan chéo đặt trên cây gậy chống, cằm tựa lên hai bàn tay, còn đôi
mắt bà hướng vào ngọn lửa trong lò sưởi. Ngồi cạnh bà, cầm trên tay chiếc
giày trắng chưa bao giờ được đi, đầu đang cúi xuống nhìn vào nó, là một tiểu
thư quý phái tôi chưa bao giờ nhìn thấy.
“Vào đi, Pip,” cô Havisham tiếp tục lẩm bẩm, chẳng hề đưa mắt nhìn
quanh hay ngước lên, “vào đi, Pip, cậu khỏe chứ, Pip? Vậy cậu hôn tay ta
như thể ta là nữ hoàng chứ hả? Thế nào?”
Bà đột ngột ngước lên nhìn tôi, chỉ di chuyển đôi mắt, và nhắc lại với
vẻ trêu cợt không lay chuyển:
“Thế nào?”
“Cháu được biết, thưa cô Havisham,” tôi lúng túng nói, “là bà đã tử tế
mà ngỏ ý muốn cháu tới đây gặp bà, và cháu đã tới ngay.”
“Thế nào?”
Cô tiểu thư tôi chưa bao giờ trông thấy trước đây ngước mắt lên nhìn
tôi đầy kênh kiệu, và rồi tôi nhận ra đôi mắt ấy là đôi mắt của Estella. Nhưng
cô đã thay đổi rất nhiều, trở nên đẹp hơn rất nhiều, nữ tính hơn nhiều, đã có
những bước tiến dài kỳ diệu, đáng ngưỡng mộ về mọi mặt, trong khi dường
như tôi chẳng hề tiến bộ lên được chút nào. Tôi thầm tưởng tượng trong khi
ngắm nhìn cô là mình đã lùi trở lại là một cậu nhóc thô kệch tầm thường như
xưa một cách vô vọng. Cảm giác về sự xa cách và chênh lệch bùng lên trong
tôi, cùng với cảm giác không thể với tới xuất phát từ cô!
Cô đưa tay cho tôi. Tôi lắp bắp gì đó về niềm vui cảm thấy khi gặp lại
cô, về việc tôi đã trông đợi nó trong suốt một thời gian rất, rất dài.
“Cậu có thấy cô bé thay đổi nhiều không, Pip!” cô Havisham hỏi, kèm
theo cái nhìn hau háu và gõ cây gậy xuống một chiếc ghế kê giữa hai người
họ, dấu hiệu yêu cầu tôi tới ngồi xuống đó.
“Khi cháu bước vào, cô Havisham, cháu nghĩ không có chút gì của
Estella trên khuôn mặt hay vóc dáng ấy; nhưng giờ đây tất cả đều lắp ghép lại
với nhau thật kỳ lạ thành như cũ…”
“Cái gì? Cậu không định nói là thành Estella như cũ đấy chứ?” cô
Havisham cắt ngang. “Cô bé kiêu kỳ và xúc phạm, còn cậu muốn rời xa nó.
Cậu còn nhớ chứ?”
Tôi bối rối nói đó là chuyện xảy ra đã lâu, và hồi đó tôi không biết gì
hơn, đại loại là vậy. Estella mỉm cười bình tĩnh một cách hoàn hảo, rồi nói cô
không nghi ngờ gì về chuyện tôi từng rất có lý, còn cô từng rất khó chịu.
“Cậu ấy có thay đổi không?” cô Havisham hỏi cô.
“Rất nhiều,” Estella vừa nói vừa nhìn tôi.
“Đỡ thô kệch và tầm thường hơn?” cô Havisham hỏi, trong khi mân mê
tóc Estella.
Estella bật cười, nhìn vào chiếc giày trên tay cô, rồi lại bật cười lần nữa
và nhìn sang tôi, rồi đặt chiếc giày xuống. Cô vẫn đối xử với tôi như một cậu
nhóc, nhưng lại quyến rũ tôi.
Chúng tôi ngồi trong căn phòng mơ màng, giữa những ảnh hưởng lạ
lùng xưa cũ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tôi, và tôi được biết cô thiếu nữ mới
từ Pháp quay về nhà, và sắp sửa lên London. Vẫn kiêu hãnh và ngang ngạnh
như xưa, cô đã mang hai nét tính cách này thấm đẫm vào nhan sắc của mình
đến nỗi tách riêng chúng khỏi vẻ đẹp của cô là không thể và trái lẽ tự nhiên -
hay ít nhất đó là những gì tôi nghĩ. Quả thực không thể tách rời sự hiện diện
của cô với những khao khát khốn khổ muốn chạy theo tiền bạc và cao sang
từng giày vò thời thơ ấu của tôi - với tất cả những thèm muốn thiếu kiểm soát
đã lần đầu tiên khiến tôi cảm thấy xấu hổ về nhà mình và Joe, với tất cả
những hình ảnh tưởng tượng đã làm khuôn mặt cô vụt hiện lên trong ngọn lửa
rừng rực, làm khuôn mặt ấy định hình từ phôi sắt trên đe, tách nó ra từ bóng
tối của màn đêm để ngó vào qua cửa sổ lò rèn rồi chập chờn tan biến mất.
Nói tóm lại, với tôi không thể tách rời cô, dù trong quá khứ hay hiện tại, khỏi
phần sâu kín nhất của cuộc đời tôi.
Theo dàn xếp, tôi sẽ ở lại đó cho tới cuối ngày, quay lại nhà trọ vào
buổi tối, rồi trở về London ngày hôm sau. Khi chúng tôi đã trò chuyện được
một hồi, cô Havisham bảo hai chúng tôi ra ngoài đi dạo trong khu vườn bị bỏ
mặc: khi chúng tôi quay vào, bà nói, tôi sẽ lại đẩy bà đi quanh quẩn một chút,
giống như ngày xưa.
Vậy là Estella cùng tôi ra ngoài khu vườn nằm bên cánh cổng tôi từng
đi qua để rồi chạm trán với cậu thiếu niên nhợt nhạt, giờ đây đã trở thành
Herbert; tôi run rẩy trong tâm hồn và tôn thờ thậm chí cả diềm chiếc váy cô
đang mặc; cô rất bình thản và kiên quyết không tôn thờ diềm áo của tôi. Khi
chúng tôi tới gần chỗ diễn ra cuộc ẩu đả, cô dừng bước và nói:
“Em chắc phải là một cô bé đặc biệt khi nấp xem trận đánh nhau hôm
ấy; nhưng em đã làm thế, và rất thích nó.”
“Em đã tưởng thưởng cho anh rất nhiều.”
“Đúng vậy không?” cô đáp lại, có vẻ tình cờ dửng dưng. “Em nhớ em
đã phản đối quyết liệt đối thủ của anh, vì em không thích chuyện anh ta được
đưa tới đây và quấy rầy em bằng sự hiện diện của mình.”
“Cậu ấy và anh giờ là những người bạn rất thân,” tôi nói.
“Thật thế sao? Em nghĩ là em nhớ ra rồi, anh đang học ở chỗ bố anh ta
đúng không?”
“Đúng thế.”
Tôi thừa nhận khá miễn cưỡng, vì việc này nghe có vẻ trẻ con, và cô
vốn đã cư xử với tôi như với một cậu nhóc quá đủ rồi.
“Từ sau thay đổi về vận hội và triển vọng của mình, anh cũng đã thay
đổi cả bạn bè nữa,” Estella nói.
“Một cách tự nhiên” tôi nói.
“Và cần thiết” cô nói thêm với giọng cao ngạo, “những bạn bè từng có
thời là thích hợp với anh bây giờ rõ ràng sẽ là không còn thích hợp.”
Trong lương tâm mình, tôi rất nghi ngờ khả năng mình còn lại chút
mong muốn nào tới gặp Joe; nhưng nếu còn, lời nhận xét kể trên đã xua tan
hẳn chúng đi.
“Hồi đó anh không hề biết gì về vận may sắp đến của mình đúng
không?” Estella nói, đồng thời khẽ vung vẩy bàn tay, ý muốn nhắc tới lúc
diễn ra cuộc ẩu đả.
“Không hề.”
Dáng vẻ trưởng thành và bề trên khi cô bước đi bên cạnh tôi, cùng với
vẻ non trẻ khuất phục khi tôi bước đi cạnh cô tạo ra một sự tương phản tôi
cảm thấy rất rõ rệt. Hẳn nó còn giày vò tôi ghê gớm hơn nếu tôi không nhìn
nhận mình chính là người khơi nguồn ra nó khi quá tôn thờ và ngưỡng mộ cô.
Khu vườn đã trở nên quá um tùm rậm rạp không thể thoải mái tản bộ,
nên sau khi đi vòng quanh nó hai hay ba lần, chúng tôi lại đi ra chỗ khoảng
sân trước xưởng ủ bia. Tôi dẫn cô tới nơi tôi từng thấy cô bước đi trên các vỏ
thùng vào ngày đầu tiên tôi tới đây hồi trước, và cô nói, trong khi lạnh lùng
đưa mắt nhìn dửng dưng về hướng đó. “Em đã làm thế sao?” Tôi chỉ cho cô
thấy nơi cô đã đi ra khỏi nhà mang thịt và đồ uống đến cho tôi, và cô nói,
“Em không nhớ.” “Không nhớ em đã làm anh khóc sao?” tôi hỏi. “Không,”
cô đáp, lắc đầu rồi nhìn quanh. Tôi thực sự tin cô không hề nhớ và cũng
chẳng buồn quan tâm, và điều đó lại khiến tôi khóc thầm trong lòng, và đó là
tiếng khóc day dứt nhất.
“Anh phải biết,” Estella nói, kẻ cả chiếu cố đến tôi như một phụ nữ
xinh đẹp thông minh phải làm, “là em không có tim - nếu cái đó có gì liên
quan tới trí nhớ của em.”
Tôi viện ra vài thứ diễn đạt biệt ngữ nhằm bày tỏ rằng tôi xin mạn phép
nghi ngờ điều đó. Rằng tôi biết rõ hơn. Rằng không thể có sắc đẹp nào như
vậy lại không có trái tim.
“Ồ! Em có một trái tim để có thể bị đâm hay bắn vào, không nghi ngờ
gì nữa,” Estella nói, “và tất nhiên nếu nó ngừng đập hẳn em cũng ngừng tồn
tại. Nhưng anh biết em muốn nói gì mà. Em không có chút mềm yếu nào ở
đó, không có sự cảm thông, cảm xúc, không gì hết.”
Cái gì đã được truyền vào tâm trí tôi trong khi cô đứng im đó, nhìn tôi
chăm chú? Một điều tôi từng thấy ở cô Havisham chăng? Không. Đôi lúc
trong ánh mắt và cử chỉ của cô phảng phất chút tương đồng với cô Havisham,
điều những đứa trẻ thường thu nhận từ người lớn chúng gắn bó cùng trong
cảnh tách biệt, để rồi khi tuổi thơ qua đi sẽ thỉnh thoảng tạo nên sự tương
đồng đáng chú ý trong biểu cảm của những khuôn mặt vốn khác biệt. Dẫu
vậy, tôi vẫn không thể truy nguyên điều này về tận cô Havisham. Tôi lại nhìn
lần nữa, và cho dù cô vẫn nhìn tôi, gợi ý mơ hồ ấy không còn nữa.
Cái gì vậy?
“Em nghiêm túc đấy” Estella nói, thậm chí không hề nhăn trán (vì vầng
trán của cô vẫn yên ả) hay tối sầm khuôn mặt lại, “nếu chúng ta sắp sửa được
đẩy đưa gặp nhau nhiều, tốt hơn anh hãy tin ngay vào điều đó. Không!” Cô
độc đoán ngăn tôi lại. “Em chưa đặt tình cảm vào bất cứ chỗ nào. Em chưa
bao giờ có thứ gì như thế.”
Một khoảnh khắc sau, chúng tôi đã ở trong xưởng ủ bia đã rất lâu
không còn được sử dụng, và cô chỉ lên hàng lan can cao nơi tôi đã thấy cô đi
ra cũng vào ngày đầu tiên đó, và nói với tôi cô nhớ từng ở trên đó, và thấy tôi
đứng sợ chết khiếp bên dưới. Trong khi đôi mắt tôi dõi theo bàn tay trắng nõn
của cô, gợi ý mơ hồ tôi không tài nào nắm bắt được lúc trước lại thoáng qua
trong đầu tôi. Cái giật mình bất giác của tôi làm cô áp bàn tay lên cánh tay
tôi. Lập tức bóng ma ấy lại vụt qua lần nữa rồi biến mất.
Cái gì vậy?
“Cái gì vậy?” Estella hỏi. “Anh lại thấy sợ à?”
“Anh nên thấy thế nếu tin những gì em vừa nói,” tôi đáp để xóa cảm
giác nọ đi.
“Vậy là anh không tin? Tốt thôi. Dù thế nào cũng đã được nói ra. Chắc
cô Havisham đang đợi anh quay lại đảm nhiệm vai trò cũ của anh rồi đấy,
cho dù em nghĩ chuyện đó giờ có thể dẹp sang bên, cùng những thứ cũ kỹ
khác. Chúng ta hãy đi thêm một vòng quanh vườn nữa rồi vào nhà. Đi nào!
Hôm nay anh sẽ không rơi nước mắt vì sự tàn nhẫn của em; anh sẽ là người
tháp tùng em, và dành cho em bờ vai của mình.”
Chiếc váy đẹp đẽ của cô đã xõa xuống đất. Estella lúc này dùng một
bàn tay giữ lấy nó, trong khi bàn tay còn lại đặt nhẹ lên vai tôi trong khi
chúng tôi dạo bước. Chúng tôi thả bước quanh khu vườn tàn tạ thêm hai ba
lần nữa, và cả khu vườn đều tưng bừng nở hoa vì tôi. Nếu sắc xanh lục và
vàng của những búi cỏ dại mọc ra từ các kẽ nứt của bức tường cũ kỹ có là
những bông hoa quý giá nhất từng bừng nở, tôi cũng không thể nâng niu
chúng hơn thế trong ký ức của mình.
Không có mấy chênh lệch về tuổi tác giữa hai chúng tôi để đẩy cô ra xa
khỏi tôi; hai chúng tôi gần như bằng tuổi, cho dù tất nhiên năm tháng để lại
dấu ấn trưởng thành ở cô nhiều hơn ở tôi; nhưng vẻ không thể với tới mà sắc
đẹp cũng như phong cách đem lại cho Estella vẫn giày vò tôi giữa lúc hân
hoan, và ở tâm trạng tin tưởng tột bậc, tôi cảm thấy người đỡ đầu của hai
chúng tôi đã lựa chọn chúng tôi để dành cho nhau. Thật là một cậu nhóc đáng
thương hại!
Cuối cùng, chúng tôi trở vào nhà, và ở đó tôi ngạc nhiên được biết
người giám hộ của tôi đã tới gặp cô Havisham có công chuyện, và sẽ trở lại
dùng bữa tối. Mấy giá nến cũ trong căn phòng bày cái bàn mủn nát đã được
thắp sáng trong lúc chúng tôi ở ngoài, và cô Havisham đang ngồi trong chiếc
ghế của mình chờ tôi.
Khi chúng tôi bắt đầu chuyến đi quen thuộc dạo xưa vòng quanh những
tàn tích còn lại của bữa tiệc định dành cho cô dâu, cảm giác cũng giống như
đẩy chiếc ghế trở lại vào quá khứ. Nhưng trong căn phòng âm u như phòng
tang lễ này, với thân hình như bước ra từ mộ chí đang ngả người trên ghế kia
nhìn đăm đăm vào cô, Estella trông càng lộng lẫy xinh đẹp hơn trước, và tôi
càng bị mê hoặc mãnh liệt hơn.
Thời gian cứ thế trôi dần, và đã sắp đến giờ của bữa tối ăn sớm, vậy là
Estella rời khỏi chúng tôi để đi sửa soạn. Chúng tôi đã dừng lại ở gần giữa cái
bàn dài, và cô Havisham, một cánh tay khẳng khiu vươn ra khỏi ghế, đặt bàn
tay siết chặt lên mặt khăn trải bàn ố vàng. Khi Estella ngoái lại nhìn trước khi
đi ra cửa, cô Havisham dùng bàn tay ấy gửi một cái hôn về phía cô gái, với sự
mãnh liệt dữ dội thật kinh khủng theo kiểu riêng của nó.
Khi Estella đã đi khỏi và chỉ còn lại hai chúng tôi, bà quay sang tôi, thì
thầm nói:
“Có phải cô bé rất xinh đẹp, duyên dáng, được nuôi dạy đàng hoàng
không nào? Cậu ngưỡng mộ nó chứ?”
“Ai nhìn cô ấy cũng phải thấy vậy thôi, cô Havisham.”
Bà quàng một cánh tay quanh cổ tôi, kéo đầu tôi gần xuống sát vào bà
trong khi bà vẫn ngồi trên ghế. “Hãy yêu nó, yêu nó, yêu nó! Nó cư xử với
cậu thế nào?”
Trước khi tôi có thể trả lời (nếu tôi có thể trả lời được một câu hỏi hóc
búa như thế), bà nhắc lại, “Hãy yêu nó, yêu nó, yêu nó! Nếu cô bé thích cậu,
hãy yêu nó. Nếu cô bé làm tổn thương cậu, hãy yêu nó. Nếu cô bé làm tim
cậu giằng xé - và khi trái tim già đi và mạnh mẽ lên, nó sẽ bị giằng xé tàn
khốc hơn - hãy yêu nó, yêu nó, yêu nó!”
Chưa bao giờ tôi thấy sự khẩn khoản mãnh liệt như cảm xúc đi kèm khi
bà nói ra những từ này. Tôi có thể cảm thấy từng sợi cơ của cánh tay gầy
guộc quàng quanh cổ tôi căng lên với tâm trạng kích động đang chiếm hữu bà
chủ nhà.
“Nghe ta nói, Pip! Ta đã nhận nuôi cô bé để được yêu. Ta nuôi nấng,
dạy dỗ nó để được yêu. Ta tạo ra cô bé như nó bây giờ để được yêu. Hãy yêu
nó!”
Bà nhắc lại từ này khá thường xuyên, và không nghi ngờ gì nữa, bà
thực sự có ý nói về nó; nhưng nếu từ được nhắc đi nhắc lại ấy là ghét thay vì
yêu - tuyệt vọng - báo thù - cái chết thảm khốc - từ đôi môi bà nó cũng không
thể vang lên giống một lời nguyền rủa hơn.
“Ta sẽ nói cho cậu biết,” bà nói, cũng với giọng thì thào vội vã đầy
phấn khích, “tình yêu đích thực là gì. Đó là sự hiến dâng mù quáng, sự nhún
nhường vô điều kiện, sự tuân phục tuyệt đối, tín nhiệm và tin tưởng bất chấp
bản thân, bất chấp cả thế giới, dành trọn cả trái tim và linh hồn ta cho kẻ giày
vò ta - như ta đã làm!”
Khi cô Havisham nói đến đó, theo sau là một tiếng thét hoang dại, tôi
vội ôm lấy eo bà. Vì bà đã bật dậy trên ghế trong bộ đồ như áo liệm, vùng
vẫy đập vào không khí như thể muốn lao mình đập vào tường để rồi ngã lăn
ra chết.
Tất cả diễn ra chỉ trong vài giây. Khi dìu bà ngồi lại xuống ghế, tôi cảm
nhận được một thứ mùi tôi biết rõ và quay lại để rồi trông thấy người giám hộ
của mình đang ở trong phòng.
Ông luật sư luôn mang theo một cái khăn tay lụa sang trọng có kích
thước khá lớn (tôi nghĩ mình vẫn chưa nói gì đến chuyện này), một vật cực
kỳ có giá trị với ông trong nghề nghiệp của mình. Tôi từng thấy ông làm một
khách hàng hay một nhân chứng chết khiếp bằng cách trang trọng mở cái
khăn tay này ra như thể ông sắp sửa hỉ mũi, rồi dừng lại; như thể ông biết
mình sẽ không thể có thời gian làm việc này trước khi vị khách hàng hay
nhân chứng kia chịu khuất phục, vậy là sự khuất phục tự nguyện liền diễn ra
ngay sau đó, như lẽ tự nhiên. Khi tôi thấy ông trong phòng, ông đang đỡ lấy
cái khăn tay ấn tượng này trên cả hai bàn tay và quan sát chúng tôi. Khi bắt
gặp ánh mắt tôi, ông lên tiếng nói thật đơn giản, sau một khoảnh khắc im lặng
với cùng thái độ, “Thật vậy sao? Thật độc đáo!” rồi dùng cái khăn vào đúng
công dụng của nó với hiệu quả thật thần kỳ.
Cô Havisham cũng thấy ông cùng lúc với tôi, và (cũng như những
người khác) e sợ ông. Bà cố trấn tĩnh lại, và lắp bắp nói ông vẫn đúng giờ
như thường lệ.
“Vẫn đúng giờ như thường lệ,” ông luật sư nhắc lại, bước tới gần
chúng tôi. “(Cậu vẫn khỏe chứ, Pip? Tôi có thể đưa bà đi một lát không, cô
Havisham? Một vòng?) Vậy là cậu đang ở đây sao, Pip?”
Tôi cho ông hay mình tới lúc nào, cũng như chuyện cô Havisham ngỏ ý
muốn tôi tới gặp Estella. Nghe xong, ông luật sư đáp, “À! Một quý cô trẻ tuổi
rất kiều diễm!” Sau đó, ông dùng một bàn tay to bản của mình mà đẩy cô
Havisham đang ngồi trên ghế đi, đồng thời đút bàn tay còn lại vào túi quần
như thể trong đó đầy ắp bí mật.
“Được rồi, Pip! Trước đây cậu thường gặp cô Estella không?” ông lên
tiếng hỏi khi dừng lại.
“Thường ư?”
“À! Bao nhiêu lần rồi? Mười nghìn chăng?”
“Ồ! Chắc chắn không nhiều đến thế đâu.”
“Hai lần chăng?”
“Jaggers,” cô Havisham chen vào, làm tôi vô cùng nhẹ nhõm, “hãy để
Pip của tôi yên và cùng cậu ấy đi ăn tối đi.”
Ông luật sư chấp thuận, và chúng tôi cùng nhau dò dẫm tìm đường
xuống theo cầu thang tối om. Trong khi chúng tôi còn đang trên đường tới
chỗ mấy căn phòng nằm tách biệt ở phía bên kia khoảng sân lát đá đằng sau
nhà, ông hỏi tôi đã bao nhiêu lần từng thấy cô Havisham ăn và uống; và như
thường lệ dành cho tôi lựa chọn thật rộng rãi giữa một trăm lần và một lần.
Tôi ngẫm nghĩ rồi nói, “Chưa bao giờ.”
“Và sẽ không bao giờ thấy đâu, Pip,” ông vặn lại, kèm theo một nụ
cười cau có. “Bà ấy không bao giờ cho phép mình bị nhìn thấy đang làm hai
việc đó, kể từ khi bắt đầu sống cuộc sống như hiện tại. Bà ấy lang thang đi
trong đêm, rồi sờ tay tìm những món đồ ăn vớ được.”
“Thưa ngài,” tôi nói, “tôi có thể hỏi ngài một câu được không?”
“Cậu có thể,” ông Jaggers nói, “và tôi có thể từ chối trả lời. Hỏi đi.”
“Họ của Estella. Có phải là Havisham hay…?” Tôi không còn gì để
thêm.
“Hay gì?” ông luật sư hỏi.
“Có phải là Havisham không?”
“Là Havisham.”
Câu trả lời này được đưa ra đúng lúc chúng tôi tới bàn ăn, nơi cô gái và
Sarah Pocket đang chờ ông Jaggers và tôi. Ông Jaggers ngồi vào ghế chủ tọa,
Estella ngồi đối diện với ông, tôi đối diện với quý bà xanh rớt và vàng bủng.
Chúng tôi dùng bữa rất ngon miệng, và được phục vụ bởi một cô hầu gái tôi
chưa từng gặp trong suốt những lần đi lại nơi này, nhưng theo những gì tôi
biết, người phụ nữ này đã có mặt trong ngôi nhà bí hiểm suốt quãng thời gian
đó. Sau bữa ăn, một chai rượu porto lâu năm hảo hạng được đặt xuống trước
mặt người giám hộ của tôi (có vẻ ông rất quen thuộc với loại rượu này), và
hai quý bà rời bàn để chúng tôi lại.
Tôi chưa bao giờ thấy ở bất cứ đâu thứ gì sánh ngang được với vẻ trầm
tĩnh quả quyết của ông Jaggers trong căn phòng đó, cho dù là ở chính ông.
Ông luật sư không để mắt đến ai, và hầu như chẳng nhìn về phía khuôn mặt
Estella lấy một lần. Khi cô nói với ông, ông lắng nghe, rồi sau đó trả lời rất
phải phép, nhưng không bao giờ nhìn cô, điều đó tôi có thể thấy rõ. Ngược
lại, cô gái thường xuyên nhìn ông đầy quan tâm và tò mò, nếu không phải là
ngờ vực, song khuôn mặt ông luật sư chẳng bao giờ để lộ ra chút cảm nhận
nào. Trong suốt bữa ăn, ông mua vui bằng cách làm cho Sarah Pocket càng
xanh rớt và vàng bủng mà thường xuyên nhắc tới các triển vọng của tôi khi
trò chuyện cùng tôi; nhưng cả trong chuyện này nữa, ông cũng chẳng để lộ
chút cảm xúc nào, thậm chí còn làm cho có vẻ ông đang moi móc - và đúng
là có làm thế thật, cho dù tôi không biết bằng cách nào - những lời viện dẫn
đó từ con người ngây ngô của tôi.
Và đến khi chỉ còn ông và tôi ở lại cùng nhau, ông Jaggers ngồi đó với
bộ dạng bất động, hệ quả từ những thông tin ông nắm trong tay, đến mức tôi
thực sự cảm thấy với mình thế là quá đủ. Ông kiểm tra món rượu vang của
mình khi trong tay chẳng còn gì khác. Ông giơ nó lên giữa mình và cây nến,
nếm rượu, đảo món đồ uống trong miệng, nuốt, rồi lại nhìn cái ly của mình,
ngửi rượu, nếm thử, uống cạn, lại rót thêm vào ly, rồi lại kiểm tra ly rượu lần
nữa, cho tới khi tôi bồn chồn đến mức như thể tôi biết thứ vang này đang nói
với ông Jaggers điều gì đó bất lợi cho tôi. Đã ba bốn lần tôi dè dặt thầm nghĩ
mình nên gợi chuyện; nhưng mỗi lần ông thấy tôi sắp sửa hỏi mình điều gì
đó, ông lại nhìn tôi với cái ly trên tay, đảo rượu trong miệng, như thể đề nghị
tôi nhớ cho là sẽ chỉ vô ích thôi, vì ông không thể trả lời.
Tôi nghĩ cô Pocket cũng ý thức được bóng dáng tôi khiến bà lâm vào
mối nguy hiểm bị đẩy tới chỗ hóa điên, hay thậm chí tự xé toạc cái mũ bà
đang đội - một món đồ thật thảm hại, kỳ thực là một mảnh vải muslin móp
méo - và rắc tóc mình ra đầy sàn - những sợi tóc chắc chắn chưa bao giờ mọc
ra trên đầu bà. Bà không hề xuất hiện khi ông Jaggers và tôi đi lên phòng cô
Havisham, và bốn chúng tôi cùng chơi bài whist. Trong quãng thời gian trước
khi chúng tôi quay lại, cô Havisham, theo một cách thật kỳ dị, đã lấy vài món
đồ trang sức thuộc loại đẹp nhất trên bàn trang điểm của mình cài lên mái tóc
Estella, cũng như lên trước ngực và hai cánh tay cô; và tôi thấy người giám
hộ của mình nhìn cô từ dưới đôi lông mày rậm, nhướng lên một chút khi dáng
vẻ yêu kiều của cô hiện ra trước mắt ông, với những tia sáng lấp lánh sang
trọng hòa lẫn ửng hồng trên đó.
Tôi không nói gì về cách thức cũng như chuyện ông liên tục thu về các
quân chủ bài của chúng tôi trong khi đến lượt mình chỉ nhả ra những lá bài
chẳng mấy giá trị trước lúc hạ bài với màn xuất hiện hoành tráng của các lá
bài K và Q; hay về cảm giác tôi cảm thấy về chuyện ông đã nhìn thấu chúng
tôi nhờ sự soi sáng của ba câu đố khốn khổ quá hiển nhiên đã bị ông giải đáp
từ lâu. Điều khiến tôi khổ sở chính là sự không tương thích giữa sự hiện diện
lạnh như băng của ông với các cảm xúc tôi dành cho Estella. Không phải
chuyện tôi biết mình không bao giờ có thể chịu nổi cảnh phải nói chuyện với
ông luật sư về cô, hay chuyện tôi biết mình không bao giờ chịu nổi phải nghe
ông làm đôi ủng của mình kêu răng rắc trước mặt cô, hay chuyện tôi biết
mình không bao giờ chịu nổi phải nhìn ông phủi tay phớt lờ cô; mà là chuyện
sự ngưỡng mộ của tôi phải nằm cách ông chỉ vài bước chân, là chuyện cảm
xúc của tôi phải ở cùng một chỗ với ông, đó mới chính là hoàn cảnh khiến tôi
khổ sở.
Chúng tôi chơi bài đến chín giờ, sau đó chúng tôi nhất trí là lúc Estella
tới London, tôi cần được báo trước thời điểm cô đến nơi và ra đón cô ở chỗ
xe trạm; rồi tôi tạm biệt cô, hôn tay cô và ra về.
Người giám hộ của tôi nghỉ lại tại nhà trọ Lợn Lòi Xanh trong căn
phòng sát vách phòng tôi. Tới tận đêm khuya, những lời cô Havisham nói,
“Hãy yêu nó, yêu nó, yêu nó!” vẫn vang vọng trong tai tôi. Tôi sử dụng
chúng để tạo nên bản điệp khúc riêng của mình, và nói thầm xuống gối,
“Mình yêu cô ấy, yêu cô ấy, yêu cô ấy!” đến hàng trăm lần. Sau đó, cảm xúc
biết ơn chợt bùng lên trong tôi khi nghĩ đến việc cô được định mệnh dành cho
tôi, một kẻ từng là cậu thợ rèn học việc. Rồi tôi chợt nghĩ nếu cô, đúng như
tôi e ngại, chưa hề cảm thấy biết ơn đến mê cuồng định mệnh đó, vậy đến khi
nào cô mới bắt đầu quan tâm đến tôi đây? Khi nào tôi có thể đánh thức con
tim giờ đây đang câm lặng ngủ yên trong cô?
Ôi, khổ thân tôi! Tôi nghĩ đó là những cảm xúc thật cao cả, vĩ đại.
Nhưng tôi lại chẳng bao giờ nghĩ có gì đó thấp hèn, nhỏ nhen trong chuyện
tôi tránh mặt Joe vì tôi biết Estella sẽ coi thường anh. Mới chỉ hôm qua thôi
Joe đã khiến tôi trào nước mắt; song những giọt nước mắt ấy đã sớm khô đi
mất rồi, xin Chúa hãy tha thứ cho tôi!
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)