Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 28
Đ
ã quá rõ ràng là tôi nhất thiết phải quay về thị trấn của chúng tôi ngay
hôm sau, và trong cơn ăn năn đầu tiên, cũng rõ ràng không kém là tôi phải ở
lại nhà Joe. Nhưng sau khi đã đặt xong chỗ trên xe ngựa trạm cho ngày hôm
sau, đã xuống chỗ ông Pocket và quay trở lại, tôi không còn bị thuyết phục về
điểm thứ hai nữa, và bắt đầu nghĩ ra đủ lý do, viện ra đủ cớ để nghỉ lại ở nhà
trọ Lợn Lòi Xanh. Sự có mặt của tôi tại nhà Joe sẽ rất bất tiện; tôi không hề
được trông đợi, vì vậy chắc hẳn giường của tôi chưa được chuẩn bị sẵn; tôi sẽ
ở quá xa chỗ cô Havisham, còn bà lại là người khó tính và có thể sẽ không
thích thế. Tất cả những loại người lừa đảo khác trên trái đất đều chẳng là gì
so với những kẻ lừa dối chính mình, và nhất là với những cái cớ tôi đưa ra để
dối trá với bản thân. Quả là một điều đáng tò mò. Kể cũng vẫn là bình thường
nếu tôi vô tình vớ phải một đồng nửa crown giả mạo do người khác đúc ra;
nhưng đằng này tôi lại vớ lấy đồng tiền giả do chính mình đúc ra một cách có
ý thức cứ như thể đó là tiền thật! Một người lạ mặt sốt sắng, lấy cớ quấn chặt
xấp tiền của tôi lại để cho an toàn, lấy bớt vài tờ và thay vào đó bằng những
tờ bạc giả; song bàn tay của kẻ đó có là gì so với bàn tay của chính tôi, khi tôi
tự cuộn những tờ bạc giả của mình lại, đưa chúng cho chính mình như tiền
thật!
Sau khi quyết định cần tới nhà trọ Lợn Lòi Xanh, tâm trí tôi chuyển
sang bận bịu với nỗi băn khoăn liệu có nên mang Kẻ Báo thù đi cùng hay
không.
Thật cám dỗ khi nghĩ tới tay lính đánh thuê tốn kém này công khai
trưng đôi bốt của anh ta diễu qua cổng Lợn Lòi Xanh; gần như có thể coi là
trang nghiêm khi tưởng tượng ra anh ta hững hờ bước vào cửa hàng của ông
thợ may và làm tiêu tan thái độ thiếu tôn trọng của cậu nhóc giúp việc cho
Trabb. Mặt khác, cậu giúp việc của Trabb rất có thể sẽ mon men làm quen
với anh ta và kể cho anh ta nhiều chuyện; hay, đúng là cậu nhóc khinh suất
liều lĩnh nhất tôi từng biết, có thể sẽ rao toáng anh ta trên phố High. Và cả
quý bà bảo trợ cho tôi có thể cũng nghe nói về anh ta và không tán thành.
Tóm lại, tôi quyết định không mang Kẻ Báo thù theo.
Tôi đã đặt chỗ trên chuyến xe trạm buổi chiều, và vì giờ đã đến mùa
đông, hai hay ba giờ sau khi trời tối hẳn tôi mới tới nơi. Xe khởi hành từ
Cross Keys lúc hai giờ. Tôi đến chỗ đợi xe sớm mười lăm phút, với Kẻ Báo
thù tháp tùng - nếu tôi có thể gắn liền cách diễn đạt đó với một kẻ chưa bao
giờ bận lòng quan tâm tới tôi nếu có thể miễn được cho mình trách nhiệm
này.
Vào thời đó, người ta vẫn thường dùng xe trạm để chở tù khổ sai tới
các bến tàu. Vì tôi vẫn hay nghe nói về bọn họ với tư cách hành khách ngồi
ngoài xe, và từng hơn một lần thấy họ trên đường lớn đung đưa đôi chân đeo
xiềng sắt trên nóc xe trạm, tôi chẳng có lý do gì để ngạc nhiên khi Herbert,
tình cờ gặp tôi ở sân chờ, bước lại gần và cho tôi hay có hai tù khổ sai đi
cùng chuyến xe với tôi. Nhưng tôi có một lý do, giờ đây đã trở thành xưa cũ,
để bồn chồn mỗi khi nghe thấy mấy chữ “tù khổ sai”.
“Cậu không ngại bọn chúng chứ, Handel?” Herbert hỏi.
“Ồ, không!”
“Tớ nghĩ cậu có vẻ không thích chúng thì phải?”
“Tớ không thể giả bộ là thích chúng, và tớ đoán cậu cũng vậy thôi.
Nhưng tớ không bận tâm đến chúng.”
“Nhìn xem! Chúng kia kìa,” Herbert nói, “từ quán rượu chui ra. Một
cảnh tượng mới tha hóa xấu xa làm sao!”
Tôi đoán mấy tay tù đã thết đãi người áp giải chúng, vì hai gã đi cùng
một cai ngục, và cả ba đi ra trong khi tay vẫn đang chùi miệng. Hai người tù
khổ sai bị còng tay vào nhau, chân đeo xiềng sắt - thứ xiềng sắt có hình dạng
tôi biết rất rõ. Cả hai đều mặc thứ trang phục tôi cũng lại biết rất rõ. Người áp
giải chúng có một cặp súng ngắn và kẹp dưới cánh tay một cái dùi cui đầu to
tướng; nhưng ông ta có vẻ đang rất ăn ý với hai người tù, đứng bên cạnh bọn
họ xem người ta thắng ngựa vào xe với thái độ dường như cho rằng hai tay tù
khổ sai là một cuộc triển lãm thú vị chưa chính thức mở cửa vào lúc này, còn
ông ta là phụ trách bảo tàng. Một trong hai tù nhân cao và vạm vỡ hơn người
kia, và theo những quy luật bí ẩn chi phối thế giới này, cho dù là của tù khổ
sai hay người tự do, dường như đã được phát cho bộ đồ nhỏ hơn. Tay chân y
trông giống như những cái gối cắm kim lớn mang hình dáng của chân và tay,
và bộ đồ y mặc làm y méo mó đi một cách kệch cỡm; nhưng chỉ cần liếc mắt
qua một cái tôi đã nhận ra ngay con mắt khép hờ của y. Đứng đó chính là
người đàn ông tôi đã gặp qua tại quán Ba Thủy Thủ Vui Vẻ vào một tối thứ
Bảy, cũng chính là kẻ đã bắn hạ tôi bằng khẩu súng vô hình của y!
Rất dễ để biết chắc y không biết tôi cũng như cả đời y chưa bao giờ
thấy tôi. Người tù đưa mắt nhìn sang tôi, và mắt y đánh giá sợi dây đeo đồng
hồ của tôi, rồi sau đó y bất giác nhổ nước bọt và nói gì đó với gã tù còn lại,
và cả hai cùng phá lên cười và cùng xoay người lại trong tiếng lách cách của
cái còng chung, rồi nhìn về phía thứ gì đó. Sau lưng hai người tù là những
con số lớn, như thể đó là hai cánh cửa mở ra phố; ngoại hình bọn họ thật tàn
tạ bẩn thỉu khó ưa, như thể đó là những con vật hạ đẳng; đôi chân bị xiềng
được trang hoàng thảm hại bằng những chiếc khăn tay của họ; tất cả, cùng
với cách mọi người có mặt nhìn ngó và tránh xa hai người tù, đã biến họ (như
Herbert đã nói) thành một cảnh tượng khó chịu và thảm hại tột độ.
Nhưng đó vẫn chưa phải là điều tệ nhất. Điều tệ nhất là chuyện toàn bộ
phần sau xe đã bị một gia đình rời khỏi London bao trọn, và không còn chỗ
nào cho hai người tù ngoài băng ghế trước đằng sau người đánh xe. Biết
chuyện, một quý ông nóng tính, người đã đặt trước chỗ thứ tư trên băng ghế
đó, nổi cơn thịnh nộ dữ dội và nói rằng buộc ông ta phải ngồi lẫn lộn với
những kẻ đồng hành xấu xa như thế là vi phạm hợp đồng, và chuyện này thật
độc hại, nguy hiểm, ghê tởm, đáng xấu hổ, và còn những gì nữa thì tôi cũng
không rõ. Lúc đó cỗ xe đã sẵn sàng và người đánh xe rất sốt ruột, còn tất cả
chúng tôi đều chuẩn bị để lên xe và hai tù nhân đã đi đến cạnh xe cùng người
áp giải - và đem theo họ thứ mùi kỳ dị của bánh mì ôi, vải len tuyết, sợi dây
thừng và bột lau lò sưởi, tất cả cùng tháp tùng sự hiện diện của hai tay tù khổ
sai.
“Đừng làm nghiêm trọng lên thế, thưa ngài,” người áp giải can ngăn vị
hành khách đang nổi xung, “đích thân tôi sẽ ngồi cạnh ngài. Tôi sẽ buộc họ
ngồi ra mé ngoài băng ghế. Chúng sẽ không động chạm gì đến ngài cả. Ngài
không cần phải biết chúng có mặt ở đó.”
“Và đừng có trách cứ tôi,” gã tù khổ sai tôi quen mặt gầm gừ. “Tôi đâu
có muốn đi. Tôi rất sẵn sàng ở lại. Về phần tôi mà nói, tôi vui lòng chào
mừng bất cứ ai thay chỗ cho tôi.”
“Hay của tôi,” người tù còn lại nói cộc lốc. “Nếu được, tôi đã chẳng
quấy quả bất cứ ai trong các vị.” Rồi cả hai cùng bật cười, và bắt đầu cắn hạt
dẻ ăn, nhổ vỏ ra xung quanh. Đúng như tôi thực sự nghĩ mình sẽ thích làm
nếu ở vào vị trí của họ và bị khinh bỉ đến thế.
Cuối cùng, tất cả thống nhất là chẳng còn cách nào khác cho quý ông
đang tức tối kia, và ông này đành phải chấp nhận những người đồng hành
tình cờ hoặc ở lại. Vậy là ông khách ngồi vào chỗ của mình, miệng vẫn tiếp
tục phàn nàn, người áp giải tù ngồi xuống chỗ bên cạnh ông ta, và hai tù nhân
loay hoay cố hết sức có thể để tự leo lên xe, gã tôi biết mặt ngồi ngay đằng
sau tôi, hơi thở của y phả vào tóc trên đầu tôi.
“Tạm biệt, Handel!” Herbert gọi theo khi chúng tôi xuất phát. Tôi nghĩ
thật may mắn khi cậu đã tìm được cho tôi một tên gọi khác thay cho Pip.
Không thể diễn tả thành lời cảm giác ớn lạnh tôi cảm thấy từ hơi thở gã
tù khổ sai, không chỉ đằng sau gáy, mà xuống dọc sống lưng. Cảm giác đó
cũng giống như bị một thứ acid mạnh bỏng rát gặm nhấm vào cốt tủy, nó làm
cả răng tôi cũng ơn ớn. Dường như y bận rộn với chuyện thở hơn người khác,
và gây ra nhiều tiếng ồn hơn; tôi cũng ý thức được một bên vai mình đang
nhô lên cao dần, trong nỗ lực thu mình lại để tránh y.
Thời tiết ẩm ướt rét căm căm, và cả hai gã tù cùng nguyền rủa cái lạnh.
Nó làm tất cả chúng tôi lịm đi khi mới đi được chưa bao xa, và lúc rời khỏi
nhà trạm nằm ở nửa đường, chúng tôi đã chìm vào trạng thái ngủ lơ mơ đều
đều, co ro vì lạnh và im bặt. Bản thân tôi cũng lơ mơ ngủ gật trong khi cân
nhắc xem liệu mình có buộc phải trả lại hai bảng cho kẻ kia hay không trước
khi y mất dạng, và cần làm việc đó thế nào cho tốt nhất. Trong lúc đang đổ
người dần về phía trước như thể sắp lao vào giữa lũ ngựa, tôi giật mình
choàng tỉnh và tiếp tục ngẫm nghĩ về câu hỏi vừa rồi.
Nhưng chắc hẳn tôi đã quên bẵng nó trong một thời gian dài hơn đã
nghĩ, vì dù không thể nhận ra được gì trong bóng tối cùng những quầng sáng
nhỏ và những cái bóng do đèn xe tạo ra, tôi cảm nhận được vùng quê đầm lầy
trong cơn gió ẩm lạnh buốt thổi hắt vào chúng tôi. Co người ra phía trước để
tìm chỗ ấm và chắn mình khỏi cơn gió, hai người tù khổ sai trở nên gần sát
tôi hơn lúc trước. Những lời đầu tiên tôi nghe thấy bọn họ trao đổi với nhau
khi định thần lại cũng là những từ chính tôi đang nghĩ tới, “Hai tờ một bảng.”
“Làm thế nào hắn lại có chúng?” người tù tôi không biết mặt hỏi.
“Làm sao tao biết được?” gã kia đáp. “Hắn đã giấu chúng đi bằng cách
nào đó. Chắc của bạn hắn đưa, tao đoán vậy.”
“Ước gì,” người tù còn lại nói, kèm theo một tiếng rủa cay độc dành
cho cái lạnh, “tao có chúng ở đây.”
“Hai tờ một bảng, hay bạn bè?”
“Hai tờ một bảng. Tao sẵn sàng bán tuốt lũ bạn tao từng có để đổi lấy
một tờ và nghĩ rằng đó là một cuộc đổi chác cực hời. Thế nào? Vậy là hắn nói
thế…?”
“Vậy là hắn nói,” gã tù khổ sai tôi biết mặt nhắc lại, “tất cả được nói và
làm trong nửa phút, đằng sau một đống gỗ ở bến tàu, ‘Mày sắp được thả à?’
Phải, đúng là thế. Và tao có đi tìm thằng nhóc đã cho hắn ăn và giữ bí mật về
hắn, rồi đưa cho nó hai tờ một bảng không? Có, tao sẽ làm thế. Và tao đã
làm.”
“Đồ ngốc,” gã còn lại hầm hừ. “Nếu là tao, tao đã tiêu sạch cho đồ ăn
đồ uống. Hắn chắc phải là một thằng còn ngố đặc. Nghĩa là hắn chẳng biết gì
về mày đúng không?”
“Chẳng hề biết gì. Hội khác, tàu khác. Hắn bị xử lại vì tội vượt ngục,
và phải chịu án chung thân.”
“Và có phải - thề danh dự đi! - đó là lần duy nhất mày lần mò đến vùng
này không?”
“Lần duy nhất.”
“Vậy mày nghĩ thế nào về nơi đó?”
“Một nơi kinh tởm. Bãi bùn, sương mù, đầm lầy rồi làm khổ sai; làm
khổ sai, đầm lầy, sương mù và bãi bùn.”
Cả hai tù nhân cùng tỏ vẻ ghét cay ghét đắng nơi đó với thứ ngôn ngữ
cực kỳ gay gắt, và dần dà gầm gừ hết không còn gì để nói nữa.
Sau khi nghe lỏm được đoạn hội thoại, chắc chắn tôi đã xuống xe và bị
bỏ mặc lại trong cảnh cô tịch và bóng tối của con lộ nếu như tôi không cảm
thấy chắc chắn người đàn ông kia không có chút ngờ vực nào về thân thế của
tôi. Quả thực, tôi không chỉ đã thay đổi rất nhiều một cách tự nhiên, mà còn
ăn mặc khác hẳn, và vì thế trở nên khác biệt rất nhiều, đến mức nếu không có
một sự giúp đỡ tình cờ nào đó, y khó lòng có thể nhận ra tôi. Dẫu vậy, việc
hai chúng tôi tình cờ cùng có mặt trên chuyến xe cũng đủ lạ lùng để khiến tôi
lo sợ rằng một sự tình cờ nào khác nữa có thể khiến tôi bị gọi bằng tên trong
tầm tai gã. Vì lý do này, tôi quyết định xuống xe ngay khi về tới thị trấn và để
người tù nọ không thể nghe được về tôi. Giải pháp này được tôi thực hiện
thành công. Cái va li nhỏ của tôi đang nằm trong hộc ngay dưới chân tôi; tôi
chỉ cần mở bản lề để lấy nó ra; tôi thả nó xuống xe, nhảy xuống theo, và được
bỏ lại ở chỗ ngọn đèn đầu tiên cạnh những viên đá lát đầu tiên trên vỉa hè thị
trấn, về phần mấy tù nhân, họ tiếp tục cuộc hành trình trên cỗ xe trạm, và tôi
biết đến chỗ nào bọn họ sẽ bị đưa ra sông. Trong trí tưởng tượng của mình,
tôi nhìn thấy chiếc thuyền với đội tù nhân khổ sai chèo thuyền đang đợi
chúng ở chỗ cầu thang trơn tuột, và thêm lần nữa nghe thấy tiếng cộc cằn
nghe như “Mày, chèo đi!” và tiếng quát ra lệnh cho lũ chó, lại lần nữa nhìn
thấy Con thuyền Noah ma quái nằm dài trên mặt nước đen kịt.
Tôi khó lòng nói rõ mình sợ cái gì, vì nỗi sợ của tôi hoàn toàn vô định,
mơ hồ, song quả là có một nỗi sợ hãi ghê gớm đè nặng lên tôi. Trong lúc rảo
bước tới nhà trọ, tôi cảm thấy một điều kinh khủng, vượt xa việc đơn thuần bị
nhận ra trong khi không hề mong muốn, đang làm tôi run rẩy. Tôi tin chắc nó
không hiện hữu dưới bất cứ hình hài rõ rệt nào, và rằng đó chỉ là vài phút
kinh hoàng thời thơ ấu bỗng dưng sống dậy.
Tiệm cà phê tại nhà trọ Lợn Lòi Xanh vắng tanh, và tôi không chỉ đã
đặt bữa tối tại đó, mà còn ngồi vào bàn sẵn, trước khi người hầu bàn nhận ra
tôi. Ngay sau khi xin lỗi vì trí nhớ cẩu thả của mình, anh ta hỏi liệu có cần cử
người đi báo ông Pumblechook không?
“Không,” tôi nói, “chắc chắn là không.”
Người hầu bàn (cũng chính anh ta là người đi lên chuyển lời từ các
thương nhân dưới nhà vào ngày tôi ký giao kèo học việc) có vẻ ngạc nhiên,
và tranh thủ cơ hội sớm nhất có được để đưa một tờ báo địa phương cũ cáu
bẩn ngay trước mắt tôi nhằm khiến tôi nhặt nó lên và đọc đoạn này:
Độc giả của chúng tôi sẽ biết được, không phải không có ít nhiều
quan tâm, có liên quan tới sự thăng tiến đầy lãng mạn gần đây
trong vận hội của một thợ rèn học việc vùng ta (nhân tiện, đây
quả là một chủ đề tuyệt vời cho ngòi bút thần kỳ của vị công dân
vẫn chưa được thừa nhận trọn vẹn TOOBY của thị trấn chúng ta,
thi sĩ trên các cột báo của chúng tôi!) rằng người bảo trợ, tri kỷ
và người bạn đầu tiên của chàng trai trẻ là một con người rất
được tôn trọng không hoàn toàn không có liên hệ với việc kinh
doanh lương thực và hạt giống, người có những cơ sở kinh
doanh rất thuận tiện và rộng rãi tọa lạc trong phạm vi một trăm
dặm quanh phố High. Không khỏi có một phần cảm nhận cá
nhân của chúng tôi khi ghi nhận ÔNG như người đỡ đầu cho
chàng Telemachus* trẻ tuổi của chúng ta, vì thật tốt khi được biết
thị trấn chúng ta đã sinh ra người tạo dựng nên vận hội cho cậu
thanh niên đó. Liệu có phải những vầng trán nhíu lại vì suy tư
của Nhà thông thái địa phương hay đôi mắt long lanh của Người
đẹp địa phương đang gặng hỏi đó là vận hội của ai chăng?
Chúng tôi tin rằng Quintin Matsys* là NGƯỜI THỢ RÈN của
Antwerp. VERB.SAP*
Theo thần thoại Hy Lạp, Telemachus là con của Odysseus và Penelope. Nữ thần Athena đã biến
thành người bạn cũ của cha chàng để giúp đỡ chàng.
Matsys (1486-1529): họa sĩ Flander, theo giai thoại khởi nghiệp là thợ rèn nhưng khi theo đuổi cô gái
sau này trở thành vợ ông, để gây ấn tượng với người đẹp đã trở thành một họa sĩ.
Verbum sapienti satis (tiếng Latinh): Một từ với người khôn ngoan là đủ.
Tôi vẫn nuôi dưỡng niềm tin, dựa trên quá nhiều kinh nghiệm, rằng nếu
vào hồi sung túc tôi đi tới Bắc Cực, hẳn tôi đã gặp ở nơi ấy ai đó, một người
Esquimaux lang thang hay một người văn minh, chắc chắn sẽ nói với tôi rằng
Pumblechook chính là người đỡ đầu đầu tiên của tôi và cũng là người tạo
dựng nên vận hội cho tôi.