Số lần đọc/download: 7574 / 93
Cập nhật: 2016-08-01 22:05:00 +0700
Chương 27
M
i-rô-nốp và Lu-ga-nốp vừa kịp đến sân bay lúc máy bay sắp cất cánh. Thật ra suốt dọc đường, anh lái xe đã phải mở hết tốc độ, không kể gì đến luật giao thông cả. Đây không phải lần đầu tiên họ phải chạy như vậy. Ngay chiều hôm đó hai người đã tới Ri-ga và lập tức liên hệ với ban chỉ huy đơn vị biên phòng. Sau khi thông báo cho họ biết về kế hoạch công tác sắp tới, Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp đi đến thành phố Ven-xpin-xơ để gặp ông lão ngư dân.
Để thuận tiện cho việc "nhập vai", An-đrây Mi-rô-nốp và Va-xi-li Lu-ga-nốp chờ trời tối mới đầu đến nhà ông lão. Trong những ngày vừa qua Xéc-gây Xa-vê-li-ép đã sống ở đây. Ông già và Xa-vê-li-ép đang chuẩn bị đi ngủ. Khi thấy Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp đến, Xéc-gây vui mừng chạy ra đón hai người. Nhìn phong cách, nét mặt và những cử chỉ nhanh nhẹn, dứt khoát của Xa-vê-li-ép, có thể thấy rõ là một tuần lễ sống ở bờ biển đã có tác dụng tốt đối với anh.
-- Thế nào, Xéc-gây, -- Mi-rô-nốp vui vẻ nói. -- Cậu đang dần dần nhập vai người địa phương rồi đấy nhỉ?
-- Tại sao lại "nhập vai"? Sao lại "dần dần"? -- Xa-vê-li-ép trả lời. -- Tôi đã là người địa phương rồi, đồng chí An-đrây I-va-nô-vích ạ, là người địa phương thực thụ đấy. Đồng chí có thể tin như vậy. Nếu không cứ hỏi bác I-man mà xem. Phải không?
-- Ồ, phải đấy, -- ông già nói, -- cậu cháu tôi nhập vai rất tốt, rất tốt. Các anh cứ yên tâm.
Mặc cho Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp từ chối, bác I-man và Xéc-gây vội đi nhóm lò, đánh vẩy cá để làm món dấm cá.
-- Này, nhập gia tùy tục đấy! -- Ông già nghiêm nghị nói khi Mi-rô-nốp đề nghị ông không nên mất thì giờ về việc cơm nước. -- Anh cứ nếm thử món dấm cá của chúng tôi rồi mới có thể nói được. Còn nếu có ngủ muộn một tiếng đồng hồ -- thì có việc quái gì! Chúng tôi vẫn thường thức đêm làm việc. Nghề cá chúng tôi là như vậy đó.
Trong khi nấu cá, An-đrây đã báo cho ông già và Xa-vê-li-ép biết là tối mai Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin sẽ tới đây. Trong khi ăn mọi người không muốn nói đến chuyện công tác: An-đrây và Lu-ga-nốp không muốn làm cho ông già mến khách này mất vui, nên không đả động gì đến chuyến đi công tác của mình, mà chỉ tấm tắc khen món cá ngon (mà quả là ngon thật).
Khi bữa ăn tối đã xong, Mi-rô-nốp liền mở một "cuộc họp bàn về công tác", theo như anh nói. Sau khi báo cho bác I-man và Xa-vê-li-ép biết về kế hoạch hành động, An-đrây thảo luận kỹ với họ về nhiệm vụ của từng người. Khi mọi việc đã rõ, An-đrây hỏi là anh có thể ẩn ở chỗ nào để Vôi-xê-khốp-xcai-a không nhìn thấy khi cô ta đến đây. Ông già hiểu ý anh ngay: ông im lặng đứng dậy và ra hiệu mời Mi-rô-nốp đi theo. Ở ngoài sân, có một gian kho nhỏ chứa dụng cụ nghề cá. Ông già I-man dẫn Mi-rô-nốp vào kho. Sau khi xem xét, An-đrây thấy rằng không còn chỗ nào tốt hơn chỗ này nữa. Bây giờ thì có thể yên tâm mà nghỉ ngơi.
...Ngày hôm sau, Vôi-xê-khốp-xcai-a -- cô ta chính là Pơ-sê-glôn-xcai-a, và Xa-vin đã đáp máy bay rời Crai-xcơ. Họ đi riêng từng người tới sân bay, ngồi riêng từng người trong máy bay và khi đến Ri-ga họ cũng tách ra từng người một. Nhưng ở cửa ra vào sân bay, Vôi-xê-khốp-xcai-a gật đầu ra hiệu cho Xtê-pan: bây giờ thì có thể đến gần được. Sau đó hai người cùng đi với nhau. Xtê-pan rất kích động, anh thấy rét run người: có gì đâu, lần đầu tiên anh tham gia vào công việc này. "Phải, -- anh mỉm cười thầm nghĩ. -- Việc này không giống như mình lái một chiếc máy bay mới. Ngồi trong máy bay mình thấy vững vàng hơn".
Vôi-xê-khốp-xcai-a thì ngược lại: cô ta bình tĩnh đến nỗi rất khó nhận thấy cô ta đang suy nghĩ gì. Trong những ngày này, cô ta luôn nói với Xtê-pan bằng một giọng hách dịch. Cô ta lạnh lùng, bình tĩnh như không hề chú ý đến việc gì cả.
Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin không nán lại lâu ở Ri-ga. Sau khi ăn lót dạ, hai người liền đi đến Ven-xpin-xơ ngay.
Trong khi ở Crai-xcơ, các tình báo viên cũng không ngồi yên: ngay sau khi Xcơ-vô-re-xki biết tin là máy bay chở Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin đã cất cánh, thì một tổ nhân viên Cục an ninh nhà nước đã kéo đến nhà của Vôi-xê-khốp-xcai-a. Đại tá thân chinh hướng dẫn tổ này. Xcơ-vô-re-xki cũng không hy vọng gì nhiều: ông hiểu rằng một địch thủ có nhiều mánh lới như Pơ-sê-glôn-xcai-a chắc gì đã để lại dấu vết ở đây. Nhưng ông vẫn còn một hy vọng: biết đâu vẫn còn cái gì đó, vẫn còn một mảy may gì đó có tác dụng tốt trong việc phát hiện, điều tra.
Nhưng xem ra những hy vọng của ông mong manh lắm. Những người điều tra đã xem tất cả: quần áo, sách vở, bàn ghế (đồ đạc trong phòng xếp đặt rất ngăn nắp. Ngoài những đồ vật tối cần thiết, Vôi-xê-khốp-xcai-a hầu như không đem theo gì cả) và nói chung họ không phát hiện được gì khả nghi cả.
Nhưng bỗng Ki-rin Pê-tơ-rô-vích để mắt tới chiếc xắc du lịch: một cái xắc bình thường, đơn giản, không mới lắm, nhưng còn lành lặn, nằm lẻ loi ở một góc nhà, cạnh chiếc đi-văng.
Mọi người đã xem xét chiếc xắc du lịch này, không thấy có gì khả nghi nên đã vất nó vào một chỗ. Nhưng Xcơ-vô-re-xki vẫn thấy băn khoăn về cái xắc. Vì sao? Đại tá bỗng nhớ tới một việc: chính Vôi-xê-khốp-xcai-a đã đến nhận cái xắc này chứ không phải cái va-li, ở phòng gửi hành lý trên sân bay. Đây chính là cái xắc du lịch mà chìa khóa và biên lai nhận xắc để ở trong bao diêm, dấu trong ống máng nước. Trước mặt ông, có đúng là cái xắc mà Vôi-xê-khốp-xcai-a đã quên không thủ tiêu tang chứng đi không? Phải, chính là cái xắc ấy đây.
"Nhưng nếu đây quả là cái xắc du lịch ấy, thì sự việc sẽ ra sao? -- Xcơ-vô-re-xki chợt nghĩ. -- Bởi vì lúc bấy giờ ở ngoài sân bay, Lu-ga-nốp đã xem xét kỹ và hầu như không phát hiện thấy gì cả. Nhưng... nhưng đã thật sự đã xem xét kỹ lưỡng chưa? Bởi vì lúc ấy thời gian và hoàn cảnh chưa cho phép xem xét kỹ được. Mặt khác, nếu lúc ấy trong xắc có cái gì, thì có lẽ cái đó từ lâu đã không còn ở trong xắc nữa".
Xcơ-vô-re-xki cầm lấy cái xắc và chăm chú xem xét. Đúng như vậy: cái xắc trống rỗng, cả ngoài, cả trong đều không có gì đáng chú ý. Nhưng... khoan đã... Cái gì thế này nhỉ? Tại sao ở đây, ở góc xắc, lần vải lót lại bị tháo chỉ? Đúng, đúng là bị tháo chỉ chứ không phải là rách. Lần vải lót bị tháo chỉ, tháo một cách cẩn thận, không bị xây cứt,có thể dễ dàng nhận thấy, nhưng không phải ai cũng có thể chú ý đến việc này, mà chỉ có Xcơ-vô-re-xki nhận thấy, vì ông đã biết lai lịch của cái xắc đó. Các nhân viên trong đội điều tra không nắm được toàn bộ quá trình theo dõi nên họ không biết gì về cái xắc. Vì vậy lần vải lót trong xắc bị tháo chỉ, cũng không làm cho họ phải chú ý. Nhưng Xcơ-vô-re-xki thì biết rõ về cái xắc. Ông thận trọng và từ từ sờ vào đáy chiếc xắc từ phía ngoài vào phía trong, hết sức chăm chú xem xét khoảng giữa lần vải lót bị tháo chỉ: trống rỗng! Trong đó không có gì. Phải, bây giờ thì không có gì, nhưng có lẽ lúc nào đó đã có cái gì đấy. Có thể là dưới lần vải lót đã có một tập giấy được xếp cẩn thận, nếu như không tháo lần vải lót ra thì không thể nhìn thấy được. Cái đó hoàn toàn có thể có. Hơn nữa rất có thể cho rằng trong đó không phải để một tập giấy mà là một tập phim ảnh rất mỏng.
Tất nhiên trong những điều kiện mà Lu-ga-nốp đã xem xét chiếc xắc, anh không thể tìm ra được "bức thông điệp", nếu như nó có nằm trong xắc.
Xcơ-vô-re-xki ra lệnh đình chỉ việc khám xét, rồi ông ra về, đem theo cả chiếc xắc của Vôi-xê-khốp-xcai-a. Sau đó một tiếng rưỡi, theo lệnh của Xcơ-vô-re-xki, Ôn-ga Dê-len-cô được mời đến Cục an ninh nhà nước. Cô rụt rè, bước vào phòng. Ki-rin Pê-tơ-rô-vích, sau khi xin lỗi đã làm phiền đến cô, liền chìa cho cô xem chiếc xắc du lịch để trên bàn.
-- Thế nào, trước đây chị đã có dịp nhìn thấy cái này chưa?
-- Thật quả, tôi không biết, -- Dê-len-cô ngập ngừng nói. -- Hình như cái xắc này của Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích thì phải, tức là Trê-nhi-a-ép ấy mà, đồng chí biết chứ? Nhưng tôi không nhớ chắc chắn lắm, không, không chắc lắm. Có lẽ không phải cái này, mà chỉ là giống nhau thôi...
Dê-len-cô vừa ra về một lúc thì bà Lép-cô-vích đến.
-- Ối, trời ơi! -- Bà ta vung tay khi nhìn thấy cái xắc. -- Sao lại thế này nhỉ? Mới đầu ở ngoài ga đã tìm thấy cái va-li của Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na,bây giờ lại thấy cái này ở đây, ở chỗ đồng chí... đây là cái xắc phải không? Ồ, đúng là đồ dùng của Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích.
-- Bà muốn nói là cái xắc này của Trê-nhi-a-ép phải không? -- Xcơ-vô-re-xki hỏi lại. -- Bà không nhầm chứ?
-- Không đâu, thưa đồng chí cục trưởng. Sao lại nhầm được. Chính là cái xắc của ông ta, của Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích đấy. Đúng là như vậy.
Sau khi bà Lép-cô-vích ra về, Ki-rin Pê-tơ-rô-vích Xcơ-vô-re-xki suy nghĩ. Ông hồi tưởng lại toàn bộ quá trình diễn biến các sự việc. Phải, Xcơ-vô-re-xki nghĩ, có lẽ là thế này: sau khi thu thập được một số tài liệu cần thiết cho bọn chủ, tên nặc danh Trê-nhi-a-ép (trước hắn, có thể là Cô-nhi-lê-va) đã treo cái bảng thông báo lên để làm dấu hiệu thông báo, hắn đã viết báo cáo và chụp ảnh bản báo cáo vào những tấm phim rất mỏng, hắn dấu những tấm phim này dưới lần vải lót xắc du lịch và gửi vào phòng bảo quản hành lý. Chìa khóa và biên lai đến nhận xắc hắn để trong bao diêm và dấu ở ống máng nước. Vôi-xê-khốp-xcai-a sau khi đã đọc được bản thông báo, liền tới chỗ hẹn, lấy biên lai đi nhận xắc. Sau đó cô ta dán những tấm phim mỏng vào bao diêm và trao cho Xê-mê-nốp đem đi Mát-xcơ-va chuyển cho tên B. Quả là khéo thật! Mặc dầu sự việc khá phức tạp, nhưng rất khéo léo tinh vi. Ở đây, giả dụ có nắm được một mắt xích -- nắm được Xê-mê-nốp hay là thậm chí nắm được Vôi-xê-khốp-xcai-a, thì vẫn chưa biết gì thêm ngoài mắt xích này. Không có đầu, không có cuối -- sợi dây xích bị gián đoạn. Cần phải phát hiện ra toàn bộ sự việc kể từ Cô-nhi-lê-va và Trê-nhi-a-ép cho đến tên B., thì mới có thể hoàn toàn tháo gỡ được cuộn chỉ rối. Mặc dầu sợi chỉ bền, nhưng rất mỏng manh, ôi, thật là mỏng manh!
"Nhưng chúng ta vẫn phát hiện được, -- Xcơ-vô-re-xki vui mừng nghĩ, -- đã phát hiện được rồi!" Nhưng ông lại nghĩ: "Phải, đã phát hiện được. Có đúng thế không? Sợi dây nối từ Trê-nhi-a-ép đến Vôi-xê-khốp-xcai-a hầu như đã rõ ràng, còn tiếp theo đó thì sao? Chưa có đoạn tiếp theo nào cả. Chưa có cơ sở để xác định rằng tên B. nhận tài liệu của chính Trê-nhi-a-ép chứ không phải người nào khác? Vì chưa có một bằng chứng nào cả. Mà đây lại là một mắt xích quan trọng nhất trong toàn bộ dây xích. Nếu cho rằng tên B. không nhận tài liệu của Trê-nhi-a-ép hoặc Vôi-xê-khốp-xcai-a, thì như vậy sẽ có rất nhiều điểm thắc mắc... Nhưng không! Tên B. phải nhận tài liệu của Trê-nhi-a-ép chứ không phải ai khác. Nhất định là như vậy!"
Ki-rin Pê-tơ-rô-vích tự phân tích một mình: "Được, đoạn dây từ Cô-nhi-lê-va -- Trê-nhi-a-ép đến tên B. đã được phát hiện ra. Cái đó không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng vẫn chưa rõ vai trò của Vôi-xê-khốp-xcai-a. Có lẽ cô ta đã nhận nhiệm vụ thay thế Cô-nhi-lê-va trong sợi dây xích này. Khi Cô-nhi-lê-va không cần thiết nữa, người ta đã thủ tiêu cô ta đi. Nhưng ai là người núp dưới danh nghĩa Trê-nhi-a-ép? Hắn là người như thế nào, ở đâu ra? Cuối cùng, Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na Cô-nhi-lê-va thực chất là người như thế nào? Cô ta là ai: là liên lạc, là người đi tuyển lựa hay là đại diện của một cơ quan tình báo nào? Biết bao nhiêu điều chưa rõ trong bài toán rắc rối này, cái của nợ ấy!"
Ki-rin Pê-tơ-rô-vích đang tự mình lý luận và phân tích thì có điện thoại Mát-xcơ-va gọi. Tướng Va-xi-li-ép đang gọi ông. Thiếu tướng vui mừng báo tin cho cục trưởng an ninh nhà nước Crai-xcơ biết rằng bản mật mã in trong tấm phim mỏng đã được khám phá. Nội dung bản mật mã là báo cáo về một số công trình quốc phòng và những số liệu về công trường xây dựng, nơi tên giả danh Trê-nhi-a-ép đã làm việc.
-- Tác giả bản mật mã này chính là tên mạo danh Trê-nhi-a-ép, chứ không phải ai khác, -- thiếu tướng khẳng định.
Ông nhận xét rằng, nói chung thì bản mật mã này cũng không giá trị lắm: nội dung rời rạc, không có hệ thống. Các chuyên gia được mời đến phân tích đã nhất trí rằng người viết mật mã đó phải là kẻ đã biết, am hiểu nhiều vấn đề bí mật. Nhưng vì vội vàng, không cẩn thận, nên đọc rất khó hiểu toàn bộ nội dung.
Sau khi chăm chú nghe thiếu tướng nói, Ki-rin Pê-tơ-rô-vích kể cho thiếu tướng biết về cái xắc du lịch và những dự đoán của ông về cái xắc này.
-- Hiện nay chưa tìm ra đầu mối sợi dây xích, -- Xcơ-vô-re-xki kết luận. -- Đoạn dây từ Trê-nhi-a-ép đến tên B. thì đã rõ rồi...
-- Này, -- thiếu tướng ngắt lời ông, -- cái anh chàng tự xưng là Trê-nhi-a-ép ấy hiện giờ như thế nào nhỉ, vẫn chưa tỉnh à? Vẫn kêu la như chó ấy à?
-- Vẫn kêu la, -- Xcơ-vô-re-xki thở dài.
-- Thế việc xét nghiệm đến đâu rồi? Đã có kết quả gì chưa? Sao lâu vậy?
-- Việc xét nghiệm rất dở, -- Ki-rin Pê-tơ-rô-vích nói. -- Phần lớn các chuyên gia xét nghiệm đều cho rằng Trê-nhi-a-ép bị điên: do hắn không chịu nổi sự căng thẳng về thần kinh. Nhưng cũng có một số cho rằng hắn chỉ giả vờ điên. Hiện giờ các chuyên gia xét nghiệm vẫn chưa nhất trí với nhau.
-- Như vậy không được, -- thiếu tướng khẳng định. -- Chúng ta không thể chờ đợi lâu hơn được. Vậy như thế này nhé: ngày mai đồng chí cho tên Trê-nhi-a-ép đi máy bay đến đây, đến Mát-xcơ-va. Ở đây có các chuyên gia về thần kinh giỏi hơn, có cả viện chuyên nghiên cứu về thần kinh nữa. Người ta sẽ xác định nhanh chóng hơn.
-- Vâng, -- Xcơ-vô-re-xki thở dài. -- Xin chấp hành. Nhưng cần gì phải để đến mai? Ngay hôm nay chúng tôi sẽ giải hắn đi...
Sau khi ra lệnh đưa tên Trê-nhi-a-ép giả đi Mát-xcơ-va và làm xong các việc trong ngày hôm đó, Ki-rin Pê-tơ-rô-vích ra về. Ông thích đi dạo trên các đường phố vui vẻ, sầm uất của thành phố Crai-xcơ vào những buổi tối như thế này. Trong khi đi đường, ông thường ngắm nhìn những người qua lại, lắng nghe tiếng cười ròn rã của đám thanh niên, và những đoạn câu vô tình lọt vào tai ông. Nhưng lần này, những ý nghĩ của ông lại tập trung vào việc khác: vào sự việc ở Lát-vi-a, nơi đây đang diễn biến giai đoạn cuối cùng của đợt công tác. "Các đồng chí ấy hiện giờ đang làm gì? -- Ki-rin Pê-tơ-rô-vích thầm nghĩ. -- Mọi việc có trôi chảy không? Vì đối phó với một kẻ địch như con Pơ-sê-glôn-xcai-a này, không phải chuyện đơn giản".
Nhưng thực ra, Xcơ-vô-re-xki không cần phải lo lắng nhiều. Ở Lát-vi-a mọi việc đều tiến hành theo đúng kế hoạch đã định. Xa-vin và Vôi-xê-khốp-xcai-a tới Ven-xpin-xơ vào buổi tối và đến ngay nhà ông già chở thuyền. Ông già I-man và người cháu (Xa-vê-li-ép đóng vai này rất đạt) tiếp đón hai người không nhiệt tình lắm, như là bị bắt buộc đón tiếp những người khách không ưa thích. Ông già mời Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin ngồi vào bàn ăn và đặt trước mặt hai người một chảo cá tươi rán.
-- Xin cảm ơn, nhưng tôi không muốn ăn. -- Vôi-xê-khốp-xcai-a từ chối.
-- Không, như vậy không nên, -- ông già kiên quyết mời. -- Khi nào đi ra biển cũng cần phải ăn. Chúng ta sẽ đi bao nhiêu lâu, năm hay mười tiếng đồng hồ, ai mà biết được?
Ngay lúc đó ông già I-man để ý tới áo khoác da của Xa-vin vứt lăn lóc trên ghế, bên cạnh là chiếc áo măng-tô của Vôi-xê-khốp-xcai-a được gấp xếp cẩn thận. Ông liền ra hiệu cho Xa-vê-li-ép: cất những cái này xuống nhà dưới. Xa-vin định đứng dậy để đi cất áo măng-tô, nhưng Vôi-xê-khốp-xcai-a bỗng phản đối.
-- Anh muốn mang áo của anh đi đâu tùy ý, -- cô ta nói nhỏ, -- nhưng đừng đụng đến áo măng-tô của tôi. Cứ để nó ở đây, ở phòng này.
-- Chậc, chậc, chậc, như vậy không nên! -- Ông già chậc lưỡi trách móc. -- Sao lại để áo khoác ngoài ở phòng ăn, phòng nghỉ như thế này được. Không nên.
Ông già cầm lấy chiếc áo khoác của Xa-vin và ôm chiếc áo măng-tô của Vôi-xê-khốp-xcai-a đi ra khỏi phòng, không chú ý đến phản ứng của Vôi-xê-khốp-xcai-a. Cô ta hiểu rằng dẫu sao cũng nên giữ quan hệ tốt với ông già trước khi rời khỏi đây, nên đành nhượng bộ.
Ông già I-man sau khi đem áo xuống nhà dưới, liền trở vào phòng.
-- Chúng ta sắp lên đường, -- ông già chậm rãi nói. -- Trời bắt đầu tối là chúng ta lên đường. Đi đêm tốt hơn vì trời tối công an biên phòng sẽ không nhìn thấy. Không nên đi ban ngày, vì mọi cái đều nhìn thấy rõ. Đi ban ngày nhiều khi phải quay lại.
Ông già im lặng, rít một vài hơi thuốc lá trong tẩu thuốc, rồi nhả khói lên trần nhà. Ông hỏi:
-- Tiền đâu? Trả tiền bây giờ đi.
-- Sao, ngay bây giờ à? -- Xtê-pan bực mình nói. -- Sao lại thế? Chúng ta đã thỏa thuận với nhau là chỉ trả tiền đầy đủ khi nào sang đến bên kia, bên kia bờ...
-- Cụ đã nhận tiền đặt trước rồi chứ? -- Vôi-xê-khốp-xcai-a tiếp lời anh.
-- Tiền đặt trước thì nhận rồi, nhưng phải trả tất cả, trả tiền đô-la kia. Cậu chưa đưa tiền đô-la cho tôi. Sang bên kia bờ, các người sẽ đi mất, mà tôi thì cần phải gấp rút quay trở về. Không có thời gian. Rồi sẽ ra sao? Vậy phải trả đô-la ngay bây giờ.
Bắt đầu một cuộc tranh cãi gay gắt. Ông già không chịu nhượng bộ, Vôi-xê-khốp-xcai-a cũng không chịu thua. Xa-vin không tham gia vào cuộc. Còn Xa-vê-li-ép thì đi ra khỏi phòng: "Tôi ở ngoài cuộc, việc gì phải dính vào?.."
Hai người tranh cãi hồi lâu. Cuối cùng Vôi-xê-khốp-xcai-a khoát tay và nói giọng gay gắt:
-- Thôi được, bây giờ tôi sẽ đưa trước một số đô-la nhưng chỉ ít thôi. Khi nào đến nơi sẽ trả đầy đủ. Tôi nói dứt khoát đấy. Dứt khoát... Nếu cụ không muốn thì mặc kệ cụ.
Giữa lúc đó thì "người cháu" trở vào phòng, bác I-man buồn rầu nhìn anh rồi vội ngừng tranh cãi.
-- Thôi được, -- bác nói lầu bầu, -- đưa đô-la đây. Số còn lại để sau. Sắp đến giờ lên đường rồi.
Vôi-xê-khốp-xcai-a xoay người về phía tường, cô ta lấy người che chiếc ví tiền mà lúc nào cũng giữ khư khư trong tay. Cô ta rút trong ví ra một tệp giấy bạc, đếm xong, rồi ném qua bàn cho ông già.
Ông già nhanh nhẹn bắt lấy tiền, ông cũng cẩn thận đếm lại, rồi đem tiền cất vào cái tráp để trong tủ ở góc phòng. Sau đó ông ngồi xuống bàn và lấy bút chì hý hoáy viết vào mảnh giấy.
-- Gì vậy? -- Vôi-xê-khốp-xcai-a sẵng giọng hỏi. -- Cụ viết gì vậy?
-- Giấy biên nhận, -- ông già bình tĩnh đáp. -- Tôi viết giấy biên nhận rằng, tôi đã nhận tiền đô-la, còn chị là người trả đô-la. Việc gì cũng phải theo nguyên tắc...
-- Giấy biên nhận à? -- Vôi-xê-khốp-xcai-a ngạc nhiên. -- Tôi cần gì phải có giấy biên nhận? Nhưng... -- Cô ta mỉm cười tinh quái. -- Nhưng cụ cứ đưa cho tôi... có lẽ cũng cần.
Cô ta nghĩ thầm: "Lão già ngốc này, mày sẽ khốn khổ. Tự mình đi chui vào tròng".
-- Phải chuẩn bị lên đường, -- ông già nói sau khi đưa giấy biên nhận cho Vôi-xê-khốp-xcai-a, và cô ta cẩn thận cất tờ giấy vào ví. -- Nhanh lên, nhanh lên. Đã đến giờ rồi!
"Người cháu" vội đi xuống nhà dưới, rồi quay trở lại, mang theo áo khoác của khách và mấy chiếc áo mưa dày cộp có cả mũ. Anh đưa cho Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin hai chiếc áo mưa. Mọi người cùng choàng áo mưa bên ngoài áo ấm.
Ông già I-man vừa soi đèn cho khách vừa dẫn họ đi ra bến. Ở cạnh bến có con thuyền đánh cá đang bồng bềnh trên mặt nước.
-- Mong sao chuyến đi này được bình an, -- Xa-vin khẽ nói vào tai Vôi-xê-khốp-xcai-a. -- Đi chậm như rùa.
-- Thôi, im đi -- cô ta càu nhàu -- miễn sao đi được tới nơi...
Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin trèo lên thuyền và ngồi xuống mạn thuyền. Ông già lẩn vào bóng tối một lúc, rồi quay lại cùng với "người cháu", hai người kéo ra một tấm lưới nặng.
-- Để ngụy trang, -- ông già giải thích. -- Để che mắt công an biên phòng. Chúng tôi đi đánh cá...
Tấm lưới được ném xuống đáy thuyền, dưới chân khách. Bác I-man và "người cháu" nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền, bắt đầu nổ máy. Các dây chão được cởi ra, chiếc thuyền lao nhanh ra biển.
Mười lăm, hai mươi phút trôi qua, trên bến lại xuất hiện một người nữa. Người đó dừng lại một lúc, lắng nghe tiếng sóng vỗ vào bờ cát. Khi tiếng động cơ của con thuyền đã chìm trong biển khơi, người đó bật đèn pin lên vài lần soi dọc bờ biển. Để trả lời tín hiệu đó, ở đâu đấy trên mặt biển, liền vang lên tiếng động cơ, ánh đèn chiếu bỗng lóe lên và chiếc xuồng máy của đơn vị biên phòng đang lao nhanh đến bến, nơi có một bóng người đang đứng.
Cách bờ khoảng một trăm mét, chiếc xuồng máy bỗng dừng lại, làm cho mặt nước dâng lên thành những ngọn sóng lớn. Tiếng động cơ tắt hẳn, chiếc xuồng từ từ tiến vào bến.
-- Thế nào, -- từ trên xuồng vang lên giọng nói của Lu-ga-nốp. -- Mọi việc đều trôi chảy chứ?
-- Đâu vào đấy cả rồi, -- Mi-rô-nốp trả lời (anh đã đứng chờ trên bến) và nhanh nhẹn nhảy xuống boong xuồng máy.
-- Này các đồng chí ạ, -- An-đrây nói với người thuyền trưởng, sau khi soi đèn xem đồng hồ. -- Chúng ta có thể đi dạo loanh quanh một lúc trên biển. Còn những bốn mươi bảy phút nữa mới tới giờ quy định. Hãy tắt đèn đi, bây giờ chưa cần thiết.
-- Xin tuân lệnh, thưa đồng chí thiếu tá, -- thuyền trưởng trả lời.
Ánh đèn chiếu vụt tắt, động cơ mở hết tốc lực và chiếc xuồng lao nhanh ra biển.
...Gần một tiếng đồng hồ trôi qua, kể từ lúc bác I-man rời bến. Tiếng động cơ và tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền vang lên đều đều. Ông lão ngậm tẩu thuốc lá ngồi ở cạnh tay lái. Còn "người cháu" thì cứ loanh quanh bên cạnh máy nổ. Vôi-xê-khốp-xcai-a chăm chú nhìn vào bóng tối. Cô ta vừa đến bên mạn thuyền, kéo chiếc mũ áo mưa xuống, trông như đang ngái ngủ. Có gì đáng lo ngại? Mọi việc đều trôi chảy cả. Chỉ còn một vài tiếng đồng hồ nữa là họ đã tới đất nước mà cô ta đang mong đợi. Ở đó... ở đó cô ta sẽ vứt bỏ cái mặt nạ đáng ghét mà cô ta đã phải đeo đẳng trong bao nhiêu năm trời...
Giữa lúc đó, bỗng vang lên tiếng động cơ đều đều nghe rất gần, không rõ là ở phía bên phải hay ở đằng sau thuyền. Tiếng động cơ mỗi lúc một to hơn. Ông già lặng lẽ ngồi yên bên tay lái chăm chú nhìn vào bóng tối, còn "người cháu" thì sợ hãi chạy loanh quanh bên cạnh máy nổ. Vôi-xê-khốp-xcai-a vội đứng thẳng lên và níu lấy tay áo Xa-vin.
-- Anh có nghe thấy không? -- Cô ta nói thầm qua kẽ răng. -- Nghe thấy không? Như thế là thế nào nhỉ?
Xa-vin chưa kịp trả lời thì ở phía trước, cách con thuyền khoảng trăm mét, một ngọn đèn pha lóe sáng. Ánh đèn sáng chói xuyên qua đầu các ngọn sóng, chiếu thẳng vào con thuyền như muốn nuốt chửng cả thuyền lẫn khách. Động cơ của con thuyền bỗng rú lên một vài hồi rồi im bặt. Tiếng động cơ của xuồng máy từ phía xa vang lên mỗi lúc một rõ dần. Ở đâu đó, lại xuất hiện một ngọn đèn pha thứ hai, hắt ánh sáng quét thành những vệt dài từ phía này sang phía khác, cắt ngang luồng ánh sáng của ngọn đèn thứ nhất và soi thẳng vào con thuyền cô độc, đang chồng chềnh trên mặt sóng.
-- Sao lại tắt máy đi? -- Vôi-xê-khốp-xcai-a rít giọng hỏi, cô ta đứng dậy. -- Mở máy ngay đi...! Phải chạy, phải chạy...
-- Chạy đi đâu? -- Ông già buồn rầu nói. -- Đi đâu được? Chẳng chạy đâu được cả. Các ông công an biên phòng...
-- Ô hay, cái lão già này! -- Vôi-xê-khốp-xcai-a sẵng giọng nói. -- Phải mở máy ngay lập tức và chạy thôi! Còn mày nữa, phải nhúc nhắc chân tay lên chứ, đồ chó ghẻ! -- Cô ta giận dữ quay về phía "người cháu". -- Việc của mày đấy hả? Mày sợ hãi đến nỗi phải tắt máy đi à, đồ hèn! Nào, nhanh lên!
Trong tay cô ta lấp lánh ánh kim loại của cây súng lục. Mọi việc sau đó xảy ra rất nhanh chóng. Vôi-xê-khốp-xcai-a hết sức kinh ngạc vì bộ mặt của "người cháu" dưới ánh sáng xanh của ngọn đèn chiếu vẫn bình tĩnh, không hề lộ vẻ sợ hãi. "Người cháu" hơi khom lưng và nhảy một bước táo bạo từ chỗ anh đến chỗ Vôi-xê-khốp-xcai-a. Cô ta chĩa thẳng súng vào anh, nhưng vô ích. Phát súng nổ đúng lúc tay cô ta bị hất ngược lên trên và, trong khoảnh khắc, khẩu súng lục đã nằm gọn trong tay Xa-vin.
-- An-na Ca-di-mi-rốp-na, chị điên đấy à? -- Xtê-pan thét lên và gạt tay cô ta ra. -- Ai lại bắn súng trước mặt công an biên phòng bao giờ? Thật là... thật là điên...
-- A...a, -- Vôi-xê-khốp-xcai-a rít lên, -- mày cũng theo đuôi phỏng? Đồ hèn nhát, đồ phản bội!
Với sức mạnh không phải của phụ nữ, cô ta tát vào mặt anh. Cô ta tát một cái, định tát thêm cái nữa, nhưng Xa-vê-li-ép đã kịp nắm chặt lấy tay cô ta. Xtê-pan nhìn cô ta với vẻ mặt khinh bỉ.
-- Xin cảm ơn, cô An-na Ca-di-mi-rốp-na, -- anh dằn giọng nói. -- Cảm ơn cô đã dạy bảo...
Nhưng Vôi-xê-khốp-xcai-a không nghe anh nói: ả cố hết sức giằng ra khỏi bàn tay sắt của Xa-vê-li-ép. Giữa lúc đó thì các xuồng máy của công an biên phòng từ hai phía tiến dần lại chiếc thuyền như hai gọng kìm khép lại.
-- Thuyền nào thế kia? -- Tiếng quát vang lên trong ống loa từ một chiếc xuồng vọng lại. -- Ở đâu đến? Từ cảng nào đến đây? Đi đâu? Tại sao lại vi phạm hải phận đã quy định? Các người làm gì mà lại có tiếng súng nổ?
Không có tiếng trả lời -- mọi người ngồi trên thuyền im lặng.
-- Dừng thuyền lại! -- Mệnh lệnh vang lên. -- Tiến đến bên cạnh xuồng, lấy dây cáp kéo thuyền lại và những người trên thuyền phải lên xuồng máy.
"Thế là hết, -- Vôi-xê-khốp-xcai-a nghĩ. -- Trò chơi đã chấm dứt. -- Không thể thoát được". Nhưng cô ta không muốn bị sa vào tay các tình báo viên. Vôi-xê-khốp-xcai-a ngả đầu ra phía sau, hai hàm răng cắn chặt vào một góc cổ áo măng-tô. Cô ta nghiến chặt răng và nhắm mắt lại. Cô ta biết rằng: chỉ trong phút chốc, An-nhê-li-a Pơ-sê-glôn-xcai-a sẽ không còn sống nữa. Ống thuốc độc sẽ dập vỡ giữa hai hàm răng, và trong khoảnh khắc chất độc sẽ có công hiệu... Nhưng... sao thế này? Một giây, hai giây rồi ba giây trôi qua, mà trong hai hàm răng vẫn không thấy gì cả. Cô ta vẫn sống, vẫn còn sống...
-- Thế là lại gặp nhau! Chị An-na Ca-di-mi-rốp-na nhỉ? -- Bỗng từ một góc xuồng máy vang lên giọng nói rất quen thuộc. -- Chị đã cố gắng vô ích, "tiểu thư" An-nhê-li-a Pơ-sê-glôn-xcai-a ạ. Ống thuốc độc không còn trong cổ áo chị nữa rồi. Tôi đã nhìn thấy và vứt nó đi khi chị còn trao đổi tiền nong với chủ nhân của chiếc thuyền này ở nhà, ở Ven-xpin-xơ.
"Lạy đức mẹ Ma-ri-a đồng trinh! Tiếng ai thế nhỉ? Sao người này lại ở đây? -- Pơ-sê-glôn-xcai-a kinh hoảng nghĩ. -- Hắn ta đang nói gì vậy, cái tay thanh tra này? Chẳng lẽ hắn ta biết tất cả rồi sao? Nhưng, lạy Chúa, có phải đúng là viên thanh tra không? Hắn ở đâu ra? Sao vậy?" Pơ-sê-glôn-xcai-a chợt nghĩ ra: "Tình báo, viên thanh tra này là cán bộ tình báo cải trang, cả Xa-vin, cả ông già đánh cá, cả người cháu của ông ta... tất cả đều là tình báo. Ở cái đất nước khó hiểu này, mọi người đều là tình báo cả!"
Nhưng "tiểu thư" Pơ-sê-glôn-xcai-a không có thì giờ để suy nghĩ nhiều: các công an biên phòng, Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp đã nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền. Người ta đưa Pơ-sê-glôn-xcai-a và Xa-vin lên hai chiếc xuồng, mỗi người ngồi ở một xuồng. Hai chiếc xuồng mở máy và phóng nhanh về phía bờ biển đất nước Liên-xô.