Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Chương 27
Em viết thư này theo đề nghị của ông Gargery để báo cho anh
biết ông ấy sắp lên London cùng ông Wopsle và sẽ rất vui nếu
được phép tới gặp anh. Ông ấy sẽ tới khách sạn Barnard lúc
chín giờ sáng thứ Ba, và nếu không gặp được anh làm ơn để lại
lời nhắn. Chị gái tội nghiệp của anh vẫn như hồi anh đi. Chúng
em vẫn nói chuyện về anh trong bếp mỗi buổi tối, và băn khoăn
không biết anh đang nói gì và làm gì. Nếu giờ đây anh thấy
chuyện này có hơi quá tự tiện, hãy làm ơn tha thứ vì tình cảm
dành cho những ngày khốn khó trước đây.
Anh Pip thân mến, đây là tất cả những gì em muốn nói, từ người
luôn yêu quý và biết ơn anh.
BIDDY.
T.B. Ông Gargery đặc biệt mong em hãy viết có chuyện vui. Ông
ấy nói anh sẽ hiểu. Em hy vọng và không nghi ngờ rằng anh sẽ
đồng ý gặp ông ấy, cho dù giờ anh đã là một quý ông, vì anh
luôn có một trái tim nhân hậu, và ông ấy là một người rất, rất
đáng quý. Em đã đọc cho ông ấy nghe toàn bộ lá thư này, ngoại
trừ câu cuối cùng nhỏ bé trên kia, và ông ấy lại đặc biệt mong em
hãy viết là có chuyện vui.”
Tôi nhận được lá thư qua bưu điện vào sáng thứ Hai, do đó cuộc hẹn sẽ
diễn ra hôm sau. Hãy cho phép tôi tự bộc bạch chính xác những gì cảm thấy
khi chờ đón Joe tới.
Không phải với tâm trạng vui vẻ, cho dù tôi gắn bó với anh bởi rất
nhiều mối quan hệ; không; với khá nhiều cảm giác bị quấy rầy, một chút xấu
hổ, và cảm nhận sâu sắc về sự chênh lệch đẳng cấp. Nếu có thể giữ anh tránh
xa bằng cách trả tiền, chắc chắn tôi đã làm thế. Trấn an lớn nhất cho tôi là
anh sắp tới nhà trọ Barnard chứ không phải tới Hammersmith, và như vậy
không thể chạm trán với Bentley Drummle. Tôi không mấy phản đối chuyện
anh bị Herbert hay bố cậu trông thấy, với cả hai người này tôi đều tôn trọng;
song tôi lại cực kỳ nhạy cảm với việc anh bị Drummle, kẻ tôi khinh thường,
nhìn thấy. Vậy đấy, trong cả cuộc đời, những hành vi yếu đuối ti tiện nhất của
chúng ta thường đều được gây ra vì kẻ chúng ta khinh thường nhất.
Tôi đã bắt đầu luôn luôn trang hoàng các căn phòng theo một cách khá
là không cần thiết và không hợp lý nào đó, và những cuộc vật lộn với
Barnard này đã chứng tỏ chúng cực kỳ tốn kém. Lúc này thì các căn phòng
đã khác xa so với khi tôi thấy lần đầu, và tôi cũng có vinh hạnh chiếm một
vài trang nổi bật trong sổ của một nhà chuyên bọc da đồ nội thất gần đó. Gần
đây tôi tiến bộ nhanh chóng mặt, đến mức thậm chí tôi đã bắt đầu thuê một
anh hầu mang ủng - những đôi ủng ống cao hết bắp chân - và có thể nói tôi
trải qua cả ngày trong cảnh bị trói buộc làm nô lệ cho anh ta. Bởi vì sau khi
tôi đã tạo nên con quái vật (đồ thừa của gia đình bà thợ giặt của tôi) và đã
trang hoàng cho y một cái áo khoác xanh da trời, áo gi lê màu hoàng yến, cà
vạt trắng, quần ống túm màu kem và những đôi ủng đã được nhắc tới ở trên,
tôi buộc phải tìm cho y ít nhiều việc gì đó để làm và rất nhiều thứ để ăn; và y
ám ảnh cuộc sống của tôi với cả hai đòi hỏi khủng khiếp đó.
Con quỷ báo oán này được lệnh phải có mặt làm nhiệm vụ lúc tám giờ
ngày thứ Ba ở ngoài phòng chờ (rộng bốn foot vuông, theo như hóa đơn tính
tiền thảm trải sàn) và Herbert đề nghị một vài thứ cho bữa sáng mà cậu nghĩ
Joe sẽ thích. Trong khi thực lòng biết ơn cậu vì đã quan tâm chu đáo đến vậy,
tôi có một cảm giác ngờ vực kỳ quặc nửa khiêu khích nửa luẩn quẩn trong
đầu rằng giá như Joe tới để gặp cậu ta, anh bạn tôi đã chẳng sốt sắng đến thế.
Tuy nhiên, tôi vẫn vào thành phố từ tối thứ Hai để sẵn sàng đón Joe, và
dậy sớm vào buổi sáng, sửa soạn để phòng khách và bàn ăn sáng có được
dáng vẻ lộng lẫy nhất. Thật không may, sáng hôm đó trời lại mưa phùn, và cả
một thiên thần cũng chẳng thể che giấu nổi thực tế là Barnard đang không
ngớt tuôn ra những dòng nước mắt đen sì bồ hóng bên ngoài ô cửa sổ, hệt
như một anh chàng nạo ống khói khổng lồ yếu đuối.
Khi giờ hẹn tới gần, tôi những muốn chạy trốn, song Kẻ Báo thù tuân
theo mệnh lệnh đã có mặt ngoài phòng chờ, và rồi tôi nghe thấy tiếng Joe trên
cầu thang. Tôi biết đó là Joe qua cách leo cầu thang vụng về của anh - đôi
ủng anh đi luôn quá rộng với chân anh - và quãng thời gian cần thiết để anh
đọc những cái tên ghi trên các tầng khác trên đường leo lên. Cuối cùng, khi
anh dừng lại trước cửa phòng tôi, tôi có thể nghe thấy ngón tay anh lần theo
những chữ cái sơn viết tên tôi, và sau đó nghe thấy rõ anh thở phả vào qua lỗ
khóa. Cuối cùng, anh khẽ gõ cửa một lần duy nhất, và Pepper* - đó là cái tên
đầy thỏa hiệp của anh chàng người hầu kiêm kẻ báo oán - thông báo “Ông
Gargery!” Tôi nghĩ chắc anh sẽ chẳng bao giờ chùi chân xong, và tôi nhất
thiết phải ra nhấc anh lên khỏi tấm thảm trải sàn, nhưng cuối cùng anh cũng
bước vào.
Có nghĩa là hạt tiêu, ớt hoặc hàm ý “chua cay”.
“Joe, anh khỏe chứ, Joe?”
“Pip, cậu khẻ chứ, Pip?”
Khuôn mặt trung thực nhân hậu của Joe sáng lên rạng rỡ, cái mũ được
để xuống sàn giữa hai chúng tôi, anh cầm lấy cả hai tay tôi rồi nhấc lên hạ
xuống như thể tôi chính là cái bơm mới nhất được cấp bằng sáng chế.
“Em rất vui được gặp anh, Joe. Đưa em mũ nào.”
Nhưng Joe, đang cẩn thận cầm cái mũ lên bằng cả hai bàn tay như thể
đó là một tổ chim có trứng bên trong, nhất định không chịu chia tay với món
tài sản đó, khăng khăng một mực đứng nói chuyện trong khi cầm nó theo
cách vô cùng bất tiện.
“Cậu cao lên nhiều quá,” Joe nói, “và lớn phổng ra đến thế này, và quý
phái thế này”; Joe ngẫm nghĩ một lát trước khi tìm ra từ thích hợp, “chắc
chắn cậu là một vinh hạnh cho đức vua và đất nước mình.”
“Còn anh, Joe, trông anh khỏe lắm.”
“Ơn Chúa,” Joe nói. “Anh cũng như phần lớn mọi người thôi. Còn về
chị cậu, cô ấy cũng không tệ hơn dạo trước. Còn Biddy, cô bé vẫn luôn đúng
mực và sốt sắng. Và tất cả bạn bè cũng không sấu đi, dù không tất lên. Chừ
Wopsle; ông ấy thì tụt dốc.”
Trong suốt quãng thời gian đó (với hai bàn tay vẫn cẩn thận nâng niu
cái tổ chim), Joe đảo mắt nhìn quanh đi quanh lại khắp phòng, ngó tới ngó lui
những họa tiết hoa trên áo mặc trong nhà của tôi.
“Tụt dốc sao, Joe?”
“Sao chứ, đúng thế,” Joe nói, hạ giọng xuống, “ông ấy rời khỏi Giáo
hội và chuyển sang diễn kịch. Và việc diễn kịch, cũng như thế, đưa ông ấy tới
London cùng với anh. Và ước muốn của ông ấy là,” Joe nói, lúc này anh đã
kẹp cái tổ chim vào dưới cánh tay trái, còn tay phải thò vào trong đó như thể
dò dẫm tìm một quả trứng, “anh đưa cho cậu cái này.”
Tôi đón lấy thứ Joe đưa, và nhận ra đó là một tờ quảng cáo kịch nhàu
nhĩ của một nhà hát nhỏ trong thành phố, trên đó thông báo lần đầu ra mắt,
ngay trong tuần đó, của “nghệ sĩ Nghiệp dư Tỉnh lẻ danh tiếng, với màn trình
diễn độc nhất vô nhị trong vở bi kịch bi tráng nhất từ Thi sĩ Quốc gia* của
chúng ta mới gần đây đã tạo ra sự xúc động mãnh liệt trong giới ham mê sân
khấu địa phương.”
Tức William Shakespeare.
“Anh có xem ông ấy diễn không, Joe?” tôi hỏi.
“Có,” Joe nói, nhấn mạnh một cách nghiêm trang.
“Mọi người xúc động mãnh liệt thật chứ?”
“Sao chứ,” Joe đáp, “đúng thế, đúng là có vô số vỏ cam được ném ra*.
Nhất là khi ông ấy trông thấy hồn ma. Cho dù anh muốn hỏi cậu liệu có phải
chuyện người ta cứ liêm tục ‘Amen!’* chen ngang vào giữa ông ấy và Hồn
ma đã được tính tán để làm một người đàn ông trở nên tương xứng công việc
của anh ta với một trái tim tử tế chăng. Ai đó vẫn có thể gặp cảnh không may
và ở trong Giáo hội,” Joe hạ giọng xuống, âm điệu đầy cảm xúc và lý luận,
“nhưng đó không phải là lý do để nhất thiết bắt ông ấy phải trải qua một
quãng thời gian như thế. Ý anh mún nói là, nếu hồn ma ông bố của ai đó
không được phép lên tiếng đòi hỏi sự chú ý của người con thì còn cái gì có
thể nữa đây, hả ngài? Hơn nữa, cái mũ tang của ông ấy thật không may lại
được làm quá nhỏ đến mức sức nặng của những cái lông đen làm nó cứ rơi
xuống, cho dù ông ấy đã cố giữ nó trên đầu bằng đủ cách.”
Khán giả thời đó ném vỏ cam để bày tỏ không thích màn trình diễn của diễn viên.
Thực ra đây là thói quen của khán giả hô “Adieux” (Vĩnh biệt) khi họ muốn xua diễn viên khỏi sân
khấu, ở đây tác giả muốn ám chỉ đến trình độ diễn xuất quá tệ của Wopsle. Vì không biết thói quen
London này, Joe hiểu nhầm đó là những tiếng “Amen” có ý ám chỉ chuyện không may của Wopsle
khi dính dáng tới nhà thờ và tin rằng đối xử với ông này như thế là không công bằng.
Bộ dạng như nhìn thấy ma trên chính nét mặt Joe cho tôi hay Herbert
đã bước vào phòng. Vậy là tôi giới thiệu Joe với Herbert, cậu lập tức chìa tay
ra; nhưng Joe không đón nhận mà vẫn nắm khư khư lấy cái tổ chim.
“Sẵn sàng phục vụ ngài, thưa ngài,” Joe nói, “cũng như tôi hy vọng với
Pip và ông đây” - nói đến đây mắt anh dừng lại ở Kẻ Báo thù, lúc ấy đang
bày ít bánh mì nướng lên bàn, và qua đó rõ ràng thể hiện ý định coi quý ông
trẻ tuổi này như một người trong gia đình, vậy là tôi cau mày nhận chìm nó
xuống và làm anh càng thêm bối rối - “Ý tôi mún nói là hai quý ông đây - tôi
hy vọng hai người vẫn khẻ ở nơi chật chội này chứ? Cho dù chỗ này có thể là
một nhà trọ rứt tốt theo quan điểm London,” Joe tự tin nói, “và tôi tin tính
chất của nó xứng đáng với điều đó; nhưng nếu là mình, tôi sẽ không để một
con lợn ở trong đó - không đời nào, nếu tôi mong muốn nó béo tròn và có
được thứ thịt thơm ngon hơn.”
Sau khi đưa ra nhận xét đầy tâng bốc này dành cho đẳng cấp của nơi
chúng tôi cư ngụ và vô tình để lộ ra xu hướng gọi tôi là “ngài”, Joe, lúc này
đã được mời ngồi vào bàn, đưa mắt nhìn quanh phòng tìm một chỗ thích hợp
để đặt mũ - như thể chỉ có vài chất liệu hiếm hoi trong tự nhiên thích hợp làm
nơi tạm nghỉ cho nó - để rồi cuối cùng dựng cái mũ vào tận góc trong cùng lò
sưởi, từ chỗ đó chốc chốc cái mũ lại rơi xuống.
“Ông dùng trà hay cà phê, ông Gargery?” Herbert hỏi, cậu luôn đóng
vai chủ trì vào các buổi sáng.
“Cảm ơn ngài,” Joe nói, người cứng đơ từ đầu đến chân, “tôi sẽ uống
bất cứ thứ gì ngài thấy họp ý nhất.”
“Ông nói sao về cà phê?”
“Cảm ơn ngài,” Joe đáp, rõ ràng không mấy hào hứng với lời đề nghị,
“vì ngài đã vui lòng trọn cà phê, tôi sẽ không đi ngực lại quan điểm của ngài.
Nhưng chẳng lẽ ngài không thấy nó hơi nóng quá sao?”
“Vậy thì trà,” Herbert vừa nói vừa rót trà.
Đến đây, cái mũ của Joe rơi từ mặt bệ lò sưởi xuống, và anh đứng dậy
khỏi ghế nhặt nó lên, đặt vào đúng chỗ cũ. Cứ như thể đó là một vị trí vô
cùng lễ độ*, chẳng mấy chốc cái mũ lại rơi xuống.
Ám chỉ thói quen bỏ mũ chào nhau của người châu Âu, ở đây muốn nói Joe để mũ vào chỗ dễ rơi.
“Ông lên đến đây lúc nào vậy, ông Gargery?”
“Có phải là chiều qua không nhỉ?” Joe nói, sau khi đưa tay lên che
miệng và ho, như thể anh đã có đủ thời gian để mắc phải chứng ho gà kể từ
lúc đến. “Không, không phải. Mà đúng. Đúng thế. Từ chiều hôm qua.” (Với
vẻ mặt pha trộn hiểu biết, nhẹ nhõm và cực kỳ khách quan.)
“Ông đã kịp thấy qua gì của London chưa?”
“Sao chứ, có, thưa ngài,” Joe nói, “tôi và Wopsle đi thẳng tới xem
Blacking Ware’us. Nhưng chúng tôi chẳng hề thấy nó giống như hình vẽ trên
các tấm áp phích màu đỏ dán trên cửa các cửa hàng; ý tôi mún nói,” Joe nói
thêm với vẻ phân trần, “có vẻ nó được vẽ quá kiến túc úc úc.”
Tôi thực sự tin Joe hẳn đã ngân dài từ này ra (gợi lên trong tâm trí tôi
ấn tượng cực kỳ mạnh về một kiến trúc tôi biết rõ) thành một đoạn điệp khúc
hoàn hảo, nếu sự chú tâm của anh không bị sao nhãng một cách thật định
mệnh bởi cái mũ lại vừa rơi xuống. Kỳ thực, món đồ vật này đòi hỏi anh phải
chú ý liên tục cũng như phải thật nhanh tay nhanh mắt, giống hệt những gì
đòi hỏi một người giữ tam trụ môn cricket. Anh thể hiện một màn trình diễn
ngoại hạng với cái mũ, trưng ra kỹ năng tuyệt hảo; lúc lao vụt tới chộp gọn
ghẽ khi nó rơi xuống; lúc chỉ đơn thuần chặn được nó giữa đường, hất tung
nó lên, đuổi theo nó qua nhiều khu vực trong phòng và không ít lần tiếp xúc
với giấy dán tường trước khi anh cảm thấy an toàn để lại gần nó; và cuối
cùng hất nó rơi vào chậu đựng nước cặn ở bàn ăn làm nước bắn tóe lên, đến
đây tôi đành mạo muội đặt tay lên cái mũ.
Còn về cổ cồn áo sơ mi và áo khoác của anh, cả hai đều khiến người ta
bối rối khi nhìn đến - cả hai đều là những bí ẩn không lời giải. Tại sao một
người đàn ông lại phải khiến mình xây xát đến mức độ đó trước khi có thể coi
bản thân thắng bộ đầy đủ chứ? Tại sao anh ta lại nghĩ nhất thiết phải thanh
tẩy bản thân bằng cách hành xác vì bộ đồ mặc vào ngày lễ như vậy? Thế rồi
anh rơi vào từng chặp trầm tư mặc tưởng không tài nào hiểu nổi, với cái nĩa
lửng lơ nửa đường giữa đĩa và miệng anh; đôi mắt anh bị lôi kéo về những
hướng thật lạ lùng; anh phải chịu đựng những cơn ho thật đáng chú ý, ngồi
cách bàn thật xa và đánh rơi ra ngoài nhiều hơn hẳn so với những gì ăn được
vào miệng trong khi giả bộ không hề đánh rơi; tới mức tôi chân thành cảm
thấy vui mừng khi Herbert chia tay chúng tôi để đi vào khu City.
Tôi chẳng hề có trực giác nhạy bén hay cảm nhận tinh tế để biết tất cả
chuyện này đều là lỗi của tôi, và rằng nếu tôi tỏ ra thoải mái hơn với Joe, hẳn
Joe đã thoải mái hơn khi ở cạnh tôi. Tôi cảm thấy mất hết kiên nhẫn và bình
tĩnh với anh; đã thế trong hoàn cảnh đó anh lại còn đổ thêm dầu vào lửa.
“Giờ hai chúng ta chỉ có một mình, thưa ngài,” Joe bắt đầu.
“Joe,” tôi cau có cắt ngang, “sao anh lại có thể gọi em là ngài chứ?”
Joe nhìn tôi trong chỉ một khắc với vẻ gì đó thoáng qua như trách móc.
Cho dù cái cà vạt anh đeo trông hoàn toàn lố bịch, chẳng khác gì mấy cái cổ
cồn, tôi vẫn ý thức được một vẻ tự trọng đầy phẩm cách trong ánh mắt anh.
“Giờ chỉ còn lại mình hai chúng ta,” Joe nói tiếp, “và vì tôi có dự định
và khả năng ở lại không mấy phút nữa, bây giờ tôi sẽ kết luận - hay ít nhứt
cũng bắt đầu - nói đến chuyện cái gì đã dẫn tới chỗ tôi có được vinh hạnh
hiện tại. Vì nếu không phải,” Joe nói, với cách trình bày tỉnh táo quen thuộc
của anh, “mong ước duy nhất của tôi là có ích cho cậu, hẳn tôi đã không có
hân hạnh được ăn sáng cùng các quý ông.”
Tôi không sẵn sàng phải nhìn lại ánh mắt đó đến mức không hề phản
đối cách nói của anh.
“Vậy đấy, thưa ngài,” Joe nói tiếp, “chuyện là thế này. Tối hôm ấy tôi
đang ở quán Ba Thủy Thủ Vui Vẻ, Pip,” cứ mỗi khi xúc động, anh lại gọi tôi
là Pip, và cứ lúc nào trở lại phép lịch sự, anh lại gọi tôi là ngài, “thì
Pumblechook xuất hiện, đi trên cái xe của ông ta. Cũng chính con người
này,” Joe nói, chuyển sang một cung bậc khác, “thỉnh thoảng làm tôi phát
bực, thật khó chịu, khi cứ đi rêu rao khắp nơi như thể chính ông ta mới luôn
là người thân thiết nhất của cậu hồi bé và được chính cậu coi như bạn.”
“Vớ vẩn. Người ấy chính là anh, Joe.”
“Tôi cũng hoàn toàn tin là thế, Pip,” Joe nói, khẽ hất đầu một cái, “cho
dù chuyện đó giờ cũng chẳng có ý nghĩa mấy nữa, thưa ngài. Vậy đấy, Pip;
chính con người này, với thái độ khoe khoang ầm ĩ, tới gặp tôi ở quán Ba
Thủy Thủ Vui Vẻ (hứt một tẩu thuốc và cạn một vại bia thực sự làm một
người làm việc nặng nhọc thấy nhẹ nhõm, thưa ngài, và không gây kích thứt
quá mức), và ông ta nói thế này, ‘Joseph, cô Havisham, bà ấy muốn nói
chuyện với anh.’”
“Cô Havisham sao Joe?”
“ ‘Bà ấy muốn’, đó là lời của Pumblechook, ‘nói chuyện với anh’.” Joe
nói và đảo mắt ngước lên trần.
“Vậy thì sao, Joe? Anh làm ơn nói tiếp đi nào.”
“Ngày hôm sau, thưa ngài,” Joe vừa nói vừa nhìn tôi như thể tôi đang ở
rất xa, “sau khi tắm rửa, tôi tới và tôi gặp cô A.”
“Cô A. nào, Joe? Cô Havisham à?”
“Như tôi nói, thưa ngài,” Joe đáp, với vẻ nghiêm chỉnh như thể đang
thảo di chúc cho mình, “cô A., hay Havisham. Lúc đó bà ấy nói thế nài: ‘Ông
Gargery. Ông có lên lạc với cậu Pip chứ?’ Vì có trong tay một lá thư của cậu,
tôi đã có thể nói ‘Tôi có (Khi tôi cưới chị gái cậu, thưa ngài, tôi cũng đã nói
Tôi có (đồng ý); và khi tôi trả lời bạn cậu, Pip, tôi đã nói Tôi có.’) ‘Vậy ông
vui lòng báo cho cậu ấy biết,’ bà ấy nói, ‘là Estella đã trở về nhà và rất vui
được gặp cậu ấy.’”
Tôi cảm thấy mặt mình nóng rực lên khi tôi nhìn Joe. Tôi hy vọng một
nguyên do xa xôi khiến nó nóng rực lên như thế là ý thức của bản thân mình
rằng nếu biết trước mục đích anh ghé thăm, chắc tôi đã đón chào anh niềm nở
hơn nhiều.
“Biddy,” Joe nói tiếp, “khi tôi về nhà và nhờ cô ấy viết lời nhắn cho
cậu, đã hơi do dự. Biddy nói, ‘Em biết anh ấy sẽ rất vui khi được nghe báo tin
trực tiếp bằng miệng, bây giờ lại đang kỳ nghỉ, ông cũng muốn gặp anh ấy,
hãy đi đi!’ Giờ tôi đã nói xong, thưa ngài,” Joe vừa nói vừa đứng dậy khỏi
ghế, “và, Pip, tôi chúc cậu luôn khỏe, luôn ngày càng thành đạt và vươn lên
ngày càng cao hơn.”
“Nhưng không phải anh định đi ngay đấy chứ, Joe?”
“Đúng vậy đấy,” Joe nói.
“Nhưng anh sẽ quay lại dùng bữa tối chứ, Joe?”
“Không đâu,” Joe nói.
Mắt chúng tôi gặp nhau, và mọi ám ảnh về “Ngài” tan biến khỏi trái
tim nhân hậu đó khi anh chìa tay cho tôi.
“Pip, anh bạn thân mến, cuộc đời được tạo thành từ vô số cuộc chia tay
gắn vào nhau, như tôi có thể nói, và một người trở thành thợ rèn, một người
thành thợ thiếc, một người thành thợ kim hoàn, và một người thành thợ đồng.
Luôn phải có sự pân chia như thế, và cần được đón nhận đúng như chúng
xuất hiện. Nếu hôm nay có sai lầm nào thì đó là của tôi. Cậu và tôi không
phải là hai người để ở cùng nhau tại London; hay ở bất cứ nơi nào khác ngoài
những gì riêng tư, được biết và hiểu rõ giữa những người bạn. Không phải vì
tôi kiêu hãnh, mà vì tôi muốn đúng đắn, vì thế cậu sẽ không bao giờ thấy tôi
trong bộ quần áo này nữa. Tôi không hợp với những thứ quần áo này. Tôi
không còn ở đúng chỗ khi rời xa lò rèn, nhà bếp hay đồng bùn. Cậu sẽ không
thể tìm thấy nhiều khiếm khuyết dù chỉ bằng một nửa hiện tại ở tôi nếu cậu
nghĩ đến tôi trong bộ đồ thợ rèn, búa trong tay, hay thậm chí là cái tẩu của
tôi. Cậu sẽ không tìm thấy nhiều khiếm khuyết dù chỉ bằng một nửa hiện tại ở
tôi nếu, giả dụ như có lúc nào đó cậu muốn gặp tôi, cậu tới ló đầu vào cửa sổ
lò rèn và thấy anh thợ rèn Joe ở đó, bên cái đe cũ, khoác cái tạp dề cũ cháy
sém, đang làm công việc xưa cũ quen thuộc. Tôi rất tối dạ, nhưng tôi hy vọng
cuối cùng mình cũng nói ra được gì đó đúng đắn về chuyện này. Vậy nên
Chúa ban phước cho cậu, Pip yêu quý, anh bạn thân mến, Chúa ban phước
cho cậu!”
Tôi đã không nhầm với dự cảm của mình về một thứ phẩm giá chất
phác hiện diện trong anh. Cách anh ăn mặc giờ chẳng còn đáng bận tâm nữa
khi anh nói ra những lời này, cũng như nó chẳng còn đáng bận tâm nữa trên
Thiên đàng. Anh dịu dàng chạm tay lên trán tôi rồi ra về. Ngay khi đủ trấn
tĩnh trở lại, tôi vội vàng chạy theo tìm anh trên các con phố xung quanh;
nhưng anh đã đi mất dạng.