Làm tốt thì tốt hơn là nói giỏi.

Benlamin Franklin

 
 
 
 
 
Tác giả: Charles Dickens
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Đình Chi
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 59 - chưa đầy đủ
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-21 21:12:42 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 26
ọi thứ diễn ra như Wemmick đã nói với tôi, nghĩa là tôi sẽ sớm có cơ
hội so sánh nơi ở của người giám hộ cho tôi với tư gia của vị thủ quỹ kiêm
trợ lý dưới quyền ông. Người giám hộ của tôi đang ở trong phòng ông rửa tay
bằng xà phòng thơm khi tôi từ Walworth về tới văn phòng; ông gọi tôi tới
gặp ông và chuyển tới tôi lời mời dành cho tôi và mấy cậu bạn mà Wemmick
đã chuẩn bị tinh thần trước cho tôi để đón nhận. “Không nghi thức,” ông ra
quy định, “không trang phục dạ tiệc, và thời điểm vào ngày mai.” Tôi hỏi
chúng tôi cần phải tới đâu (vì tôi không hề biết địa chỉ nhà ông), và tôi tin
ông có sự phản đối nói chung với việc làm bất cứ cái gì giống cho phép vào
cửa, vì ông luật sư đáp, “Tới đây, và tôi sẽ đưa các cậu về nhà cùng tôi.” Tôi
nhân cơ hội này để nói là tôi để ý thấy ông luật sư luôn rửa tay khi khách
hàng ra về, như thể ông là một bác sĩ giải phẫu hay nha sĩ. Trong phòng ông
có một chậu rửa được lắp đặt cho việc này, từ đó thoang thoảng mùi xà
phòng thơm hệt như trong hiệu nước hoa vậy. Có một cái khăn lau to quá khổ
mắc trên móc có con lăn ở phía trong cửa, vậy là ông luật sư có thể rửa tay,
lau khô với cái khăn này bất cứ khi nào ông từ tòa án trị an về hay tiễn một vị
khách hàng rời khỏi phòng mình. Khi tôi và mấy cậu bạn tới gặp ông như đã
hẹn lúc sáu giờ ngày hôm sau, ông luật sư dường như vừa xử lý một vụ án có
vẻ đen tối hơn bình thường, vì chúng tôi thấy ông đang cúi đầu xuống chậu
rửa, không chỉ rửa hai bàn tay mà cả mặt và súc họng. Ngay cả khi đã rửa
xong và đã ghé qua chỗ cái khăn lau, ông luật sư còn lấy dao nhíp ra cạy sạch
tàn dư của vụ án nọ khỏi các móng tay mình trước khi mặc áo khoác.
Vẫn có một vài người lượn lờ qua lại như thường lệ khi chúng tôi đi ra
ngoài phố, những nhân vật này hiển nhiên đang rất mong mỏi được thưa
chuyện với ông luật sư; song có điều gì đó một mực khẳng định sự kết thúc
trong mùi xà phòng thơm bao quanh sự hiện diện của ông, đến nỗi họ đành
bỏ cuộc trong ngày hôm đó. Trong lúc chúng tôi cùng đi về phía Tây, thỉnh
thoảng ông lại được ai đó nhận ra trong đám đông trên phố, và mỗi khi
chuyện này xảy ra, ông lại nói lớn tiếng hơn với tôi; nhưng ngoài ra ông
chẳng bao giờ có vẻ gì là nhận ra ai đó, hay bận tâm tới chuyện ai đó nhận ra
mình.
Ông luật sư dẫn chúng tôi tới phố Gerrard, khu Soho, đến một ngôi nhà
nằm ở phía Nam con phố này. Một ngôi nhà cũng khá oai vệ, song lại đang
cần được sơn lại gấp, với những ô cửa sổ cáu bẩn. Ông Jaggers lấy chìa khóa
ra mở cửa, rồi tất cả chúng tôi bước vào một gian sảnh lát đá trống trải, tối
tăm, có vẻ ít khi được dùng đến. Sau đó cùng leo lên một cầu thang màu nâu
sẫm dẫn vào một dãy ba căn phòng cũng màu nâu sẫm trên lầu một. Có
những hình vòng hoa được chạm trổ trên các bức tường lát ván gỗ, và khi ông
luật sư đứng giữa chúng nói lời chào mừng chúng tôi, tôi biết mình đang nghĩ
chúng giống với thứ vòng thòng lọng nào.
Bữa tối được dọn tại căn phòng khá nhất trong số mấy căn phòng này;
phòng thứ hai là phòng thay quần áo của vị chủ nhà; phòng thứ ba là phòng
ngủ của ông. Ông cho chúng tôi biết mình sở hữu cả ngôi nhà, nhưng hiếm
khi sử dụng nhiều hơn những gì chúng tôi đã thấy. Bàn ăn được bày rất tiện
nghi - không có đồ bạc, tất nhiên rồi - và đứng cạnh ghế của vị chủ nhà là
một cái xe để đồ uống rộng, trên đó bày một loạt chai và bình thon cổ cùng
bốn đĩa trái cây dùng tráng miệng. Tôi để ý thấy từ đầu tới cuối vị chủ nhà
luôn tự tay kiểm soát mọi việc và tự mình phân phát mọi thứ.
Trong phòng có một tủ sách; từ các gáy sách, tôi có thể thấy chúng viết
về bằng chứng, luật hình sự, tiểu sử tội phạm, các phiên xử án, các đạo luật
của Nghị viện, những thứ đại loại như thế. Chiếc tủ rất tốt, chắc chắn, giống
như sợi dây đeo đồng hồ của ông luật sư. Tuy nhiên, kiểu dáng của nó hoàn
toàn thực dụng, chẳng hề có chi tiết nào thuần túy chỉ để trang trí. Trong góc
phòng có một cái bàn nhỏ để giấy tờ và một cây đèn có chụp: có vẻ vị chủ
nhà mang cả văn phòng về nhà theo cách đó, để kéo cái bàn ra buổi chiều tối
và làm việc.
Vì ông gần như chưa hề thấy mặt ba người bạn đồng hành cho tới tận
bây giờ - vì ông và tôi đã đi bộ cùng nhau - vị chủ nhà đứng trên tấm thảm
trải trước lò sưởi sau khi rung chuông và nhìn họ dò xét. Tôi ngạc nhiên nhận
ra dường như ngay lập tức ông chỉ quan tâm chủ yếu, nếu không phải là duy
nhất, đến Drummle.
“Pip,” ông Jaggers lên tiếng, đặt bàn tay to bản lên vai tôi và đưa tôi tới
bên cửa sổ. “Tôi không biết ai vào ai cả. Cái con Nhện đó là ai vậy?”
“Nhện ạ?” tôi hỏi lại.
“Cái cậu mắt lấm chấm lờ đờ, sưng sỉa kia kìa.”
“Đó là Bentley Drummle,” tôi đáp, “còn cậu có khuôn mặt thanh tú là
Startop.”
Không hề để tâm chút nào tới “cậu có khuôn mặt thanh tú”, ông luật sư
đáp lại, “Tên cậu ta là Bentley Drummle phải không? Tôi thích vẻ mặt cậu
ta.”
Vị chủ nhà lập tức bắt đầu trò chuyện với Drummle: ông không hề nản
lòng trước cách trả lời dè dặt nặng nề của anh ta, mà có vẻ càng được nó thôi
thúc tìm cách bắt chuyện với anh chàng này. Tôi đang quan sát hai người họ
thì người quản gia xuất hiện chen giữa tôi và họ, mang theo chiếc đĩa đầu tiên
cho bàn ăn.
Đó là một phụ nữ chừng bốn mươi tuổi, tôi đoán vậy - nhưng rất có thể
phán đoán của tôi trẻ hơn tuổi thực của bà. Khá cao, dáng người nhanh nhẹn
uyển chuyển, làn da trắng bóc với đôi mắt to nhạt màu và mái tóc dày óng
mượt. Tôi không biết có phải một căn bệnh nào đó tác động đến trái tim đã
khiến đôi môi người phụ nữ luôn hé ra như thể bà đang thở dốc, và khuôn
mặt bà hiện rõ vẻ kích động đột ngột rất đáng tò mò; nhưng tôi nhớ mình đã
tới nhà hát xem Macbeth trước đó một hay hai tối, và với tôi khuôn mặt
người phụ nữ trông có vẻ như đang bị quấy rầy bởi bầu không khí nóng như
lửa, tương tự những khuôn mặt tôi đã thấy nhô ra khỏi cái vạc của các phù
thủy.
Người phụ nữ đặt đĩa xuống, khẽ chạm một ngón tay lên cánh tay
người giám hộ của tôi để báo hiệu bữa tối đã sẵn sàng, rồi ra ngoài. Chúng tôi
ngồi vào chỗ quanh chiếc bàn tròn, và người giám hộ của tôi giữ Drummle
ngồi một bên ông, trong khi Startop ngồi bên còn lại. Cái đĩa người quản gia
đặt lên bàn là một món cá vương giả, và tiếp theo chúng tôi được thưởng thức
món thịt cừu cũng chọn lọc không kém, rồi kế tiếp là một món chim cũng
ngon ngang ngửa. Nước xốt, rượu vang, mọi thứ đồ dùng kèm chúng tôi
muốn, và tất cả đều là loại hảo hạng nhất, được vị chủ nhà lấy ra từ xe để đồ
uống của ông; và khi chúng đã đi trọn một vòng quanh bàn, ông luật sư luôn
để trả chúng lại chỗ cũ. Tương tự như thế, ông đưa cho chúng tôi đĩa sạch
cùng dao nĩa mới cho từng món, và bỏ những thứ đã dùng vào hai cái sọt đặt
dưới sàn cạnh ghế của mình. Không có gia nhân nào khác xuất hiện ngoài
người quản gia. Bà mang vào tất cả các món; và tôi luôn thấy trên khuôn mặt
bà hình ảnh của một khuôn mặt nhô lên khỏi nồi. Nhiều năm sau này, tôi vẽ
một bức chân dung khủng khiếp của người phụ nữ đó bằng cách tạo ra một
khuôn mặt chẳng hề có chút tương đồng tự nhiên nào với nguyên bản ngoài
việc nó giống mái tóc bồng bềnh bay ngang qua đằng sau một bát rượu cồn
đang cháy sáng trong một căn phòng tối.
Bị thôi thúc để ý đặc biệt tới người quản gia, cả vì bề ngoài đáng kinh
ngạc của người phụ nữ này lẫn những lời rào đón trước của Wemmick, tôi
quan sát thấy mỗi khi ở trong phòng bà đều chăm chú để mắt vào người giám
hộ của tôi, và luôn rời tay khỏi bất cứ chiếc đĩa nào đặt xuống trước mặt ông
một cách do dự như thể sợ ông sẽ gọi bà lại, và muốn ông lên tiếng khi bà lại
gần, nếu ông có điều gì để nói. Tôi mơ hồ cảm thấy mình có thể nhận ra trong
thái độ vị chủ nhà là ông ý thức được chuyện này, cũng như cố ý luôn giữ
người phụ nữ phải hồi hộp.
Bữa tối trôi qua vui vẻ, và cho dù người giám hộ của tôi dường như
theo đuổi các chủ đề khá bình thường, tôi biết ông đang khiến mỗi chúng tôi
nói ra phần yếu nhất trong tính cách của từng người, về phần mình, tôi nhận
ra tôi đang giãi bày thiên hướng tiêu pha phung phí của mình, chuyện đánh
bạn với Herbert, và bốc đồng về những viễn cảnh lớn lao của bản thân trước
khi thực sự ý thức được mình đã mở miệng. Với tất cả chúng tôi đều thế cả,
nhưng rõ nhất là Drummle: quá trình hình thành của cả thói quen giễu cợt
người khác một cách đầy hằn học hoài nghi đã được moi ra từ miệng anh ta
trước khi món cá được dọn đi.
Mãi tới tận lúc chúng tôi chuyển sang dùng pho mát, cuộc trò chuyện
mới chuyển tới những cuộc đua thuyền của chúng tôi cũng như chuyện
Drummle bị chế nhạo vì đã tụt lại bơi đằng sau vào một tối theo cái cách
chậm rề rề như một con vật lưỡng cư đó của anh ta. Đến đây, Drummle cho
vị chủ nhà của chúng tôi biết anh ta ưa thích căn phòng của chúng tôi hơn
đánh bạn cùng chúng tôi nhiều, và về kỹ năng, anh ta còn hơn cả xứng đáng
làm thầy chúng tôi, và về sức mạnh anh ta có thể hất bay chúng tôi như mấy
cọng rơm. Bằng một cách thức vô hình nào đó, người giám hộ của tôi đã thúc
đẩy anh ta tới thái độ gần như hùng hổ khi động đến chủ đề cỏn con này; thế
là anh ta vén trần cánh tay ra gồng lên để thể hiện nó cơ bắp tới mức nào, vậy
là tất cả chúng tôi đều vén trần cánh tay ra gồng lên theo cùng cách ngớ ngẩn
như thế.
Đến lúc này người quản gia đang bận rộn thu dọn bàn; người giám hộ
của tôi không để ý gì đến bà, quay mặt khỏi người phụ nữ, ông đang tựa
người trên ghế cắn ngón tay trỏ và bày tỏ sự quan tâm tới Drummle, một
chuyện quả là khó lòng giải thích nổi với tôi. Đột nhiên, ông chộp bàn tay to
bản lên bàn tay người quản gia khi bà duỗi tay qua bàn như một cái bẫy sập
xuống. Ông luật sư làm việc này đột ngột và khéo léo đến mức khiến tất cả
chúng tôi ngừng bặt giữa màn khoe khoang ngớ ngẩn của mình.
“Nếu các cậu nói về sức mạnh,” ông Jaggers nói, “tôi sẽ cho các cậu
thấy một cái cổ tay. Molly, cho mấy cậu đây thấy cổ tay cô đi nào.”
Bàn tay bị giữ của người phụ nữ vẫn nằm trên bàn, nhưng bà đã giấu
bàn tay còn lại ra sau eo. “Ông chủ,” bà khẽ nói, đôi mắt chăm chú nhìn ông
luật sư van nài. “Đừng.”
“Tôi sẽ cho các cậu thấy một cái cổ tay,” ông Jaggers nhắc lại, với
quyết tâm thực hiện điều đó không chút lay chuyển. “Molly, cho mấy cậu đây
thấy cổ tay cô đi nào.”
“Ông chủ,” người phụ nữ lại khẽ nói. “Làm ơn!”
“Molly,” ông Jaggers nói, không nhìn người quản gia mà nhất mực
nhìn chằm chằm về phía đối diện căn phòng, “cho mấy cậu đây thấy cả hai
cổ tay cô. Chìa ra. Nào!”
Ông nhấc bàn tay lên khỏi tay người quản gia, và lật cổ tay ngửa ra trên
bàn. Bà chìa bàn tay còn lại từ sau lưng ra, và để hai bàn tay cạnh nhau, cổ
tay thứ hai bị biến dạng ghê gớm - bị những vết sẹo sâu ăn ngang ăn dọc. Khi
người phụ nữ chìa hai bàn tay ra, bà rời mắt khỏi ông Jaggers, quay sang
chăm chú nhìn lần lượt từng người còn lại trong số chúng tôi.
“Sức mạnh nằm ở đó,” ông Jaggers nói, bình thản lần ngón tay trỏ theo
các bắp cơ. “Rất ít đàn ông có được cổ tay mạnh mẽ như người phụ nữ này.
Chỉ nguyên lực nắm ẩn chứa trong hai bàn tay này đã thật đáng chú ý. Tôi đã
có cơ hội quan sát rất nhiều bàn tay; nhưng tôi chưa bao giờ thấy bàn tay nào
mạnh mẽ hơn về mặt đó so với hai bàn tay này, dù là của đàn ông hay phụ
nữ.”
Trong khi ông luật sư thong thả nói ra những lời này với vẻ bình luận,
người phụ nữ tiếp tục nhìn lần lượt qua từng người một trong chúng tôi, lúc
ấy đều đang ngồi. Khi vị chủ nhà ngừng lời, bà lại nhìn ông. “Được rồi,
Molly,” ông Jaggers nói, đồng thời khẽ gật đầu với người quản gia, “cô đã
được ngưỡng mộ, giờ cô có thể đi.” Người phụ nữ rút hai bàn tay lại và ra
khỏi phòng, còn ông Jaggers với lấy bình cổ thon từ xe để đồ uống, rót đầy ly
cho mình và chuyền rượu vang quanh bàn.
“Đến chín giờ ba mươi, thưa các quý ông,” ông nói, “chúng ta phải kết
thúc. Hãy tận dụng tối đa thời gian của các cậu. Tôi rất vui được gặp các cậu.
Cậu Drummle, tôi xin nâng cốc vì cậu.”
Nếu mục đích của vị chủ nhà khi chỉ đích danh Drummle ra là làm cho
anh ta càng thêm khó chịu thì ông đã thành công hoàn hảo. Đắc thắng một
cách vênh váo, Drummle thể hiện sự chê bai đầy sưng sỉa với mấy người còn
lại chúng tôi, một cách ngày càng gây hấn, cho tới khi anh ta trở nên hoàn
toàn không thể chịu đựng nổi. Qua tất cả các cung bậc của anh ta, ông
Jaggers dõi theo anh chàng với cùng vẻ quan tâm lạ lùng như trước. Dường
như anh ta thực sự là món gia vị cho rượu vang của ông Jaggers.
Với tính cách trẻ con thiếu chừng mực của mình, tôi dám nói chúng tôi
đã uống quá nhiều và biết chắc chúng tôi đã nói quá nhiều. Chúng tôi trở nên
đặc biệt nóng mặt trước vài lời dè bỉu quê kệch của Drummle về chuyện
chúng tôi quá tự do với tiền của mình. Điều đó làm tôi nhận xét, một cách
bốc đồng nhiều hơn là dè dặt, rằng điều đó xuất phát từ sự xấu tính của anh
ta, kẻ vừa được Startop cho mượn tiền ngay trước mặt tôi mới chỉ chừng một
tuần trước.
“Được rồi,” Drummle đốp lại, “cậu ta sẽ được hoàn lại.”
“Tôi không hề có ý nói cậu ấy sẽ không được trả tiền,” tôi nói, “nhưng
có thể chuyện này sẽ làm anh giữ mồm giữ miệng về chúng tôi và tiền của
chúng tôi, tôi nghĩ vậy đấy.”
“Cậu nghĩ vậy ư!” Drummle vặn lại. “Ôi Chúa ơi!”
“Tôi dám nói,” tôi tiếp tục, quyết tâm sẽ thật quyết liệt, “là anh hẳn
không đời nào cho bất cứ ai trong chúng tôi vay tiền nếu chúng tôi cần.”
“Cậu nói đúng đấy,” Drummle nói. “Tôi sẽ không cho ai trong các cậu
vay một đồng sáu penny. Tôi không đời nào cho bất cứ ai vay một đồng sáu
penny hết.”
“Nhưng vẫn có ý đi vay trong hoàn cảnh đó, tôi nghĩ vậy.”
“Cậu nghĩ vậy cơ đấy,” Drummle nhắc lại. “Ôi Chúa ơi!”
Chuyện này trở nên rất nghiêm trọng - đặc biệt vì tôi nhận ra mình
chẳng đi được đến đâu trước sự trì độn ương ngạnh của anh ta - vậy là tôi lại
lên tiếng, bất chấp nỗ lực của Herbert ngăn tôi lại.
“Nào, anh Drummle, vì chúng ta đang bàn đến chủ đề này, tôi sẽ nói
cho anh biết những gì diễn ra giữa Herbert đây và tôi, khi anh vay món tiền
đó.”
“Tôi không muốn biết những gì diễn ra giữa Herbert kia và cậu,”
Drummle gắt lên. Và tôi nghĩ anh ta có khẽ gầm gừ thêm là cả hai chúng tôi
cứ việc đi với quỷ.
“Tuy nhiên, tôi sẽ nói với anh,” tôi nói, “dù anh có muốn biết hay
không. Chúng tôi nói với nhau rằng khi nhét tiền vào túi và rất vui vẻ có được
nó, anh dường như vô cùng khoái chí với việc cậu ấy đủ yếu đuối để cho
vay.”
Drummle cười phá lên, và cứ thế ngồi cười vào mặt chúng tôi, hai tay
xỏ vào túi, đôi vai tròn vo nhô lên; công khai thể hiện rằng đúng là như thế,
và rằng anh ta khinh miệt tất cả chúng tôi như một lũ lừa.
Đến đây, Startop nắm lấy tay anh ta, cho dù với thái độ dễ chịu hơn
nhiều so với những gì tôi thể hiện, và kêu gọi anh ta cư xử chừng mực hơn.
Trong khi Startop là một thanh niên trẻ sáng láng, vui vẻ, Drummle lại chính
xác là điều đối lập, và anh ta luôn sẵn sàng bực bội với cậu ta như một sự xúc
phạm cá nhân trực tiếp nhằm vào mình. Lúc này, anh ta trả đòn một cách thô
thiển, ù lì, còn Startop cố lái sang một câu chuyện vui vẻ vặt vãnh làm tất cả
chúng tôi bật cười. Bực bội với thành công nho nhỏ này hơn bất cứ điều gì
khác, Drummle, không hề đe dọa hay cảnh báo, rút hai bàn tay ra khỏi túi, hạ
vai xuống, bật ra một câu, vớ lấy một cái ly to và hẳn đã lẳng nó vào đầu đối
thủ của mình nếu người thết đãi chúng tôi không khéo léo đoạt lấy cái ly
ngay khoảnh khắc nó được vung lên vì mục đích đó.
“Các quý ông,” ông Jaggers lên tiếng, bình tĩnh đặt cái ly xuống và
cầm sợi dây đeo đồ sộ giơ chiếc đồng hồ vàng có điểm chuông theo chu kỳ
của mình lên, “tôi vô cùng lấy làm tiếc phải thông báo đã chín giờ ba mươi.”
Nghe nhắc khéo, tất cả chúng tôi đứng lên để ra về. Trước khi chúng
tôi đi xuống cửa mở ra phố, Startop vui vẻ gọi Drummle là “ông bạn” như thể
chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhưng ông bạn còn lâu mới hưởng ứng lại; thậm
chí anh ta còn không đi bộ về Hammersmith ở cùng một bên đường; vậy là
Herbert và tôi, những người ở lại trong thành phố, nhìn họ đi xuôi xuống phố
ở hai bên đường đối diện, Startop đi trước, Drummle chậm chạp bám đằng
sau trong bóng các ngôi nhà, hệt như cách anh ta vẫn quen bám theo con
thuyền của cậu.
Vì cửa vẫn chưa đóng kín, tôi nghĩ mình nên để Herbert ở đó đợi một
lát và chạy trở lại lên lầu nói vài lời với người giám hộ của mình. Tôi tìm
thấy ông trong phòng thay đồ giữa kho ủng của mình, và đã kịp bận rộn với
chúng sau khi tiễn được chúng tôi về và rửa tay.
Tôi nói với ông tôi quay lại để xin lỗi nếu tôi lỡ có phần trách nhiệm
nào trong cuộc cãi vã đã xảy ra, và hy vọng ông không trách tôi nhiều.
“Ôi dào!” vị chủ nhà thốt lên, vã nước lên mặt và nói trong khi những
giọt nước rơi xuống, “không có gì đâu, Pip. Tuy nhiên tôi thích anh chàng
Nhện đó.”
Lúc này ông đã quay về phía tôi, lắc đầu, thổi và lấy khăn lau cho
mình.
“Cháu rất vui vì ngài thích anh ta, thưa ngài,” tôi nói, “nhưng cháu thì
không.”
“Không, không,” người giám hộ của tôi tán thành, “đừng dính dáng
nhiều đến cậu ta. Hãy tránh xa cậu ta hết mức có thể. Nhưng tôi thích anh
chàng đó, Pip; cậu ta quả là một người thực sự. Sao chứ, nếu tôi là thầy
bói…”
Ló mắt bên trên cái khăn lau, ông bắt gặp ánh mắt tôi.
“Nhưng tôi không phải là thầy bói,” ông luật sư nói, úp đầu vào một
cái khăn lau gấp thành nếp và bắt đầu lau hai bên tai. “Cậu biết tôi là người
thế nào, phải không? Chúc buổi tối tốt lành, Pip.”
“Chúc ngài buổi tối tốt lành.”
Chừng một tháng sau, thời gian Nhện lưu lại chỗ ông Pocket đi đến hồi
kết, và trong tâm trạng nhẹ nhõm tột độ của cả nhà ngoại trừ bà Pocket, anh
ta quay trở về xó xỉnh nhà mình.
Great Expectations (Tiếng Việt) Great Expectations (Tiếng Việt) - Charles Dickens Great Expectations (Tiếng Việt)