Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:35 +0700
Chương 4
K
hi Arkady thức dậy, tuyết đang thổi ngang cửa sổ và căn phòng như thể đang quay vòng. Wesley, George và Ray dừng cạnh giường. Họ đều mặc áo khoác dày. Chiếc ghế chặn cửa giờ nằm chỏng chơ trên sàn. Ray mang theo chiếc va li và George nắm chặt khẩu súng. Irina tỉnh dậy và kéo chăn che người.
“Anh muốn gì?” Arkady hỏi.
“Mặc quần áo vào,” Wesley nói. “Chúng ta sẽ rời khỏi đây.”
“Đi đâu?”
“Hôm nay chính là ngày đó,” Wesley nói.
“Vụ trao đổi của Osborne là ngày mai kia mà,” Arkady phản đối.
“Đẩy lên rồi. Chính là lúc này,” Wesley thêm vào.
“Nhưng giao hẹn ngày mai kia mà?” Arkady hỏi lại lần nữa.
“Đã thay đổi rồi.”
“Arkady à, có khác gì đâu?” Irina ngồi dậy, ôm chặt cái chăn. “Chúng ta sẽ được tự do ngay hôm nay.”
“Giờ hai người được tự do rồi. Cứ làm những gì tôi bảo,” Wesley nói.
“Anh đưa chúng tôi đến chỗ Osborne à?” Arkady hỏi.
“Đó không phải là thứ anh muốn sao?”
“Ra khỏi giường đi,” George ra lệnh.
“Để chúng tôi một mình rồi chúng tôi sẽ mặc quần áo,” Arkady yêu cầu.
“Không,” Wesley nói, “Chúng tôi phải chắc chắn hai người không che giấu cái gì.”
“Cô ấy sẽ không rời khỏi giường nếu hai người còn ở đây đâu,” Arkady nói.
“Tôi sẽ bắn anh nếu cô ta không làm vậy.” George chĩa súng vào Arkady.
“Thôi được rồi.” Irina kéo tay Arkady khi anh bắt đầu cử động.
“Chỉ để đề phòng thôi,” Wesley nói.
“Tôi có quần áo mới cho hai người đây.” Ray mở cái va li dưới chân giường. Có cả bộ trang phục hoàn chỉnh cho mỗi người.
“Đồng chí Renko?” Wesley ra hiệu cho Arkady dậy khỏi giường. Arkady đứng lên, mắt nhìn Irina. Cuộc sống đồng quê với Pribluda đã khiến anh thêm lực lưỡng. George chĩa một khẩu súng ngắn ở giữa vết sẹo chạy từ sườn của Arkady.
“Giờ anh sẽ bắn tôi và kết thúc mọi chuyện?” Arkady nói.
“Việc này chỉ để chắc chắn rằng hai người không giấu gì bí mật trong giày và quần áo thôi,” Wesley nói. “Làm thế sẽ dễ dàng hơn cho tất cả mọi người.”
Irina mặc quần áo, không còn quan tâm đến đám người Mỹ cứ như thể chỉ có cô và Arkady.
“Tôi cũng có đủ lo lắng rồi,” Wesley nói với Arkady.
Có quần lót, áo phông, quần, áo len, tất, giày và áo da có mũ trùm đầu cho Arkady.
“Đợt tuyết đầu tiên của chúng ta ở Mỹ đấy,” Irina nói.
“Cứ tự nhiên.” Ray đưa cái lược cho cô.
“Chúng ta đi đâu đây?” Arkady hỏi.
“Anh sẽ sớm đến đó và tự biết thôi,” Wesley nói.
Kirwill đã tìm thấy chồn zibelin chưa? Arkady tự hỏi. Làm sao anh ta có thể tìm được trong trời tuyết? “Tôi muốn để lại một lời nhắn cho trung úy Kirwill,” anh nói.
“Được. Đưa lời nhắn cho tôi,” Wesley đề nghị.
“Ý tôi là gọi và nói chuyện với anh ta.”
“Hừm, tôi thật sự cảm thấy việc đó sẽ làm hỏng kế hoạch, đặc biệt là sau vụ tối qua,” Wesley nói. “Anh không muốn phá hỏng mọi chuyện đâu.”
“Có để làm gì đâu, Arkady?” Irina hỏi. “Chúng ta tự do rồi.”
“Quý cô đây hoàn toàn đúng,” George nói và dịch khẩu súng sang hướng khác để chứng minh điều đó.
Ray giúp Arkady mặc áo trùm.
“Không có găng tay.” Anh lục tìm trong túi. “Anh quên găng rồi.”
Những viên đặc vụ thoáng bối rối.
“Anh mua sau được mà,” Wesley nói.
“Sau cái gì kia?” Arkady hỏi.
“Đến lúc đi rồi,” Wesley thúc giục.
Những bông tuyết nhỏ, đông cứng tối qua nay tơi xốp và ẩm ướt. Ở Moscow sẽ có những bà già dọn tuyết. Arkady và Irina được đưa vào ghế sau của xe với George. Wesley ngồi trước cùng Ray đang lái xe.
Cơn bão tạo ra một làn sương mù ẩm ướt: cái gạt tuyết trên xe chở rác trước những cái đèn pha, cảnh sát vẫy dùi cui màu cam, đèn đường còn nửa bóng. Giao thông trì trệ đến mức nghe cả tiếng lốp lạo xạo, những người đi bộ gù hẳn xuống. Trong xe, cửa sổ ám sương, chật chội vì những chiếc áo khoác dày nặng. Arkady chắc phải trườn qua người Wesley mới chạm được cửa, George và khẩu súng ở phía bên kia Irina.
“Xì gà không?” Wesley mở hộp thuốc và mời Arkady. Mặt anh ta rạng rỡ, đỏ hồng vì phấn khích.
“Tôi cứ tưởng anh không hút thuốc,” Arkady nói.
“Không bao giờ. Dành cho anh mà,” Wesley nói.
“Không, cảm ơn.”
“Nếu anh không lấy thì sẽ lãng phí đấy.” Wesley có vẻ tổn thương.
George giận dữ giật lấy điếu xì gà.
Họ lái xe trên đường phía tây dưới một cây cầu cao tốc che chắn cho họ khỏi tuyết. Những con tàu đột nhiên hiện ra giữa những vũng tàu.
“Tối qua anh đi đâu với Kirwill thế?” Wesley hỏi.
“Đó là lý do chúng ta trao đổi ngày hôm nay thay vì ngày mai à?” Arkady hỏi ngược lại.
“Kirwill là một gã rất nguy hiểm, tôi ngạc nhiên là anh còn sống đấy,” Wesley nói và lặp lại với Irina, “tôi ngạc nhiên là anh ta còn sống.”
Irina nắm tay Arkady. Thỉnh thoảng, tuyết lao vào những hố lớn trên đường cao tốc phía trên và cô dựa vào anh như thể họ đang ngồi xe trượt tuyết.
Bên trong cái áo trùm mới của Arkady, chiếc áo mới còn cứng, như chiếc áo giấy họ đi cho người chết. Xì gà là thứ đao phủ mời, anh nghĩ, găng tay là thứ chúng quên.
Anh có nên kể với Irina không? Anh tự nhủ. Anh nhớ lại lúc cô kể về cha của Kostia, gã khốn chuyên đuổi bắt những người bỏ trốn ở Siberia, cách gã săn người này, giả vờ như một thợ săn bình thường và làm quen với những kẻ đào tẩu, cùng chia sẻ một bữa ăn ấm áp và chai vodka, và trong lúc kẻ đào tẩu mơ màng với những giấc mộng đẹp đẽ, họ sẽ bị cắt cổ. Irina, Arkady nhớ lại, đã đồng ý. Chết với ảo mộng tự do, cô thấy, còn tốt hơn không có gì cả. Còn gì độc ác hơn tước đoạt ngay cả điều đó?
Và nếu anh sai thì sao? Nếu Osborne thật sự muốn đổi chồn zibelin lấy Irina và Arkady thì sao? Trong thoáng chốc, dường như anh cũng tự huyễn hoặc chính mình!
Osborne hẳn sẽ bắn, Arkady quả quyết. Thế là trong sạch và thành thật, những đặc vụ cũng là dạng trong sạch và thành thật. Arkady và Irina sẽ là kẻ xâm nhập? Đặc vụ của kẻ thù? Kẻ tống tiền? Chả quan trọng. Osborne là chuyên gia trong lĩnh vực này. Nếu so sánh thì Wesley chỉ là nhân viên bàn giấy.
Đường cao tốc trên không dần biến mất sau lưng họ và bầu trời lại hiện ra, rắc xuống những bông tuyết màu trắng sữa và Irina siết chặt bàn tay đang nắm chặt tay Arkady vì vui sướng. Cô đẹp đến mức anh thấy tự hào một cách ngớ ngẩn.
Có thể sẽ có chuyện xảy ra, có thể chiếc xe sẽ chạy mãi không bao giờ dừng. Sau đó, anh nghĩ đến cái máy ghi âm của Kirwill trong phòng khách sạn. Có lẽ Billy và Rodney đã nghe thấy mọi thứ và đang đuổi theo trong chiếc xe phía sau. Anh có cảm tưởng rằng Kirwill và Rats đã có kế hoạch vượt dòng Kill bằng một con thuyền nhỏ. Họ không thể làm thế trong thời tiết này được. Nếu Kirwill từ bỏ, có lẽ anh ta đang ở với Billy và Rodney.
“Sao anh lại cười thế?” Irina hỏi.
“Anh nhận ra anh mắc bệnh nan y,” Arkady nói.
“Nghe hay đấy.” Wesley trả lời. “Bệnh gì thế?”
“Hy vọng.”
“Tôi nghĩ thế,” Wesley nói.
Chiếc xe dừng bánh và Ray mua vé ở quầy trước tòa nhà xanh có dòng chữ CỤC HẢI QUÂN VÀ HÀNG HẢI. Arkady nhìn thẳng qua gầm tòa nhà đến vùng nước đen của cảng. Họ đã đến tận cùng Manhattan. Về một phía là căn nhà nổi, những cây cột gang đúc duyên dáng nổi lên trong tuyết. Một chiếc xe đỗ phía sau họ, lái xe là một người phụ nữ đang đặt tờ báo trước mặt, tay kia cầm cốc cà phê và điếu xì gà.
“Các anh sẽ làm gì nếu người ta dừng phà lại?” Arkady hỏi.
“Nếu có bão, bến tàu sẽ gặp khó khăn. Tuyết không bao giờ làm ngừng phà,” Wesley nói. “Chúng ta đúng lịch trình rồi.”
Nhanh và sớm hơn Arkady dự đoán, một chiếc phà cập bến. Cửa mở ra, công chức cùng công nhân hòa vào nhau, tay cầm ô và cặp táp lên che tuyết, cố tìm đường trong làn tuyết trong khi tránh những chiếc xe rời khỏi tàu. Sau đó, những chiếc xe đang đợi chạy lên. Xe Wesley là cái đầu tiên trong những cái ở hàng giữa của ba dãy, lăn bánh qua con tàu để đến mũi tàu đối diện. Người bộ hành lên tàu bằng cây cầu phía trên. Cái phà vẫn ép sát bến, chỗ gỗ lên từ động cơ nhô ra dọc đống ván gỗ. Thuyền nhanh chóng đầy. Phần lớn đám tài xe đi lên cầu thang đến tầng hạng nhất. Sau hai tiếng chuông, một thủy thủ trong chiếc áo khoác hạt đậu nâng một cái xi lanh từ trên sàn tàu và thả nó xuống để mở khóa bánh lái. Các động cơ trong ngừng và động cơ ngoài hoạt động. Cái phà nhẹ nhàng rời bến và trôi vào dòng nước.
Arkady ước lượng tầm nhìn ở khoảng cách một kilomet. Cái phà di chuyển vào một màn tĩnh lặng khiến tiếng động cơ của chính nó dường như bị bóp nghẹt lại. Họ bị bao quanh bởi màn tuyết dường như đang hòa vào làn nước. Chiếc phà hẳn có ra-đa, không phải lo đụng độ. Một con sóng lớn, hẳn là đuôi sóng, hiện lên mặt nước, chiếc phà chỉ thở dài một tiếng, rồi băng qua. Kirwill ở đâu? Arkady nhớ hình ảnh anh ta chạy dọc bờ sông băng Moskva.
Ray gập cửa sổ xuống và thở sâu. “Những con sò,” hắn nói.
“Cái gì?” George hỏi.
“Mùi này làm tôi nhớ đến lũ sò,” Ray nói.
“Anh đói hay đang lên cơn đấy?” George hỏi và liếc Irina. “Tôi biết tôi bị cái gì.”
Bên trong chiếc phà được sơn màu vàng sáng. Có cái neo màu đen, dây cáp, muối khoáng và ống dẫn giữa những dãy xe, đồ cứu hộ ở trên đầu và xuồng cứu sinh bên trên cầu thang. Có dòng chữ đỏ ghi NHỮNG NGƯỜI ĐIỀU KHIỂN XE CHÚ Ý DỪNG ĐỘNG CƠ, ĐẶT PHANH, TẮT ĐÈN, KHÔNG CÒI, KHÔNG HÚT THUỐC - QUY ĐỊNH CỦA TUẦN DUYÊN HOA KỲ. Tất cả những gì ngăn xe chạy thẳng xuống mạn thuyền chỉ là sợi dây lỏng lẻo. Có cái cổng được dựng lên mà một đứa trẻ cũng có thể xé tan.
“Anh có phiền nếu tôi ra ngoài không?” Arkady hỏi Wesley.
“Sao anh lại muốn ra ngoài trong thời tiết giá băng này?”
“Ngắm cảnh thôi.”
Trán Wesley, nhẵn bóng như đá cuội, nghiêng về một bên. “Cảnh tuyệt lắm. Tôi đặc biệt yêu cảnh vật những ngày như hôm nay khi chẳng thế nhìn thấy gì hết. Chắc ngắm cảnh cũng là một lý do đấy,” anh ta nói. “Nhưng tôi là người theo thuyết định mệnh. Một số người không có được những ngày nắng đẹp. Tôi cũng là kẻ bi quan. Anh có biết boong của cái phà này là một trong những điểm tự tử được yêu thích nhất ở New York không? Đúng thế. Hoặc anh có thể vô tình trượt xuống cái cổng đó. Thấy boong trơn thế nào chưa? Và bị cuốn vào chân vịt hay đông cứng trong làn nước lạnh buốt. Chà, khi tôi chịu trách nhiệm thì an toàn được đặt lên hàng đầu đấy.”
“Thế thì tôi hút thuốc vậy,” Arkady nói.
Đó là tuyết Nga, dày và bông. Trong thoáng chốc, cơn bão như một thực thể riêng biệt, một vòng tròn bao quanh thuyền, sau đó, nó vỡ thành những cơn gió mạnh xoáy tròn như con quay trên mặt nước đen ngòm. Sợi cáp trên mạn tàu phủ một lớp da băng giá.
Valerya, tên cướp Kostia và James Kirwill không biết điều gì đang ở đợi họ ở công viên Gorky. Ít ra họ trượt băng đến chết mà không biết gì. Nếu anh kể cho Irina, hai người họ có thể làm gì? Đánh bại ba đặc vụ có vũ trang? Gây chấn động? Ai có thể nhận ra hai trong số năm hành khách trong một chiếc xe trong cơn bão tuyết giữa cảng New York? Irina có tin nếu anh kể cho cô biết không? Valerya, Kostia và James Kirwill có tin anh nếu họ trượt tuyết qua đây không?
Cơn bão tách ra về hướng tây. Lướt qua họ là một bức tượng xanh đồng khổng lồ trên bệ đá, tay nâng một ngọn đuốc, vương miện tỏa ánh hào quang trên đầu, trông quen thuộc đến mức ngạc nhiên kể cả với Arkady. Rồi cơn bão tan và cô biến mất.
“Anh có nhìn thấy không?” Irina hỏi.
“Trong thoáng chốc,” Arkady nói.
“Đừng đi đâu đấy.” Wesley rời khỏi xe và biến mất trên những bậc thang.
Bề mặt vịnh có những chuyển động sâu như hơi thở mạnh. Những toa tàu hỏa vượt sông trên thanh xà lan được đẩy bởi một con tàu kéo, những con mòng biển trồi lên từ đám rác nổi lềnh phềnh. Arkady nhận ra Ray đang sốt ruột quan sát tấm kính chiếu hậu. Anh ta đang nhìn ai đó. Cuối cùng thì một người nào đó đã đi theo họ. Arkady hôn má Irina và liếc dãy xe phía sau. Ở tít bờ bên kia của phà có hai người. Một cơn gió mạnh che khuất họ và khi Arkady nhìn thêm lần nữa họ đã biến mất. Tuy thế, một người là Wesley và người kia là đặc vụ KGB tóc đỏ, Rurik.
Tuyết ập xuống, dòng nước đen chảy ra và một cái phao đỏ dập dềnh ở giữa, cái chuông của nó rung lên. Một thị trấn nhỏ trên những ngọn đồi của một hòn đảo hiện ra từ cơn bão khi Wesley trở về.
“Đây rồi,” anh ta nói với Irina khi chui vào xe.
“Chúng ta đang ở đâu?” Cô hỏi.
“Tên thị trấn này là St.George,” Wesley nói.
“Nó là đảo Staten,” Arkady nói.
“Chà, đúng đấy,” Wesley nói. “Và nó là một phần của thành phố New York, dù người ta có nói gì đi nữa.”
Arkady cảm thấy với Irina, cái vũng tàu cũ kỹ và những mái nhà phủ đầy tuyết cũng có thể là một hòn đảo nhiệt đới với những cây cọ và phong lan. Hoặc kem sữa béo trên bãi biển. Cô sắp chạm đến đích của một cuộc hành trình tuyệt vời.
Nước dâng vào bến tàu trước mặt họ và đoàn thủy thủ móc cái cầu nâng vào mũi tàu. Khi sợi cáp rơi xuống, cánh cổng bung ra và những chiếc xe chuyển bánh.
St. George gần như là một ngôi làng Nga. Những con đường ngập trong tuyết và các phương tiện giao thông gần như bất động. Những chiếc ô tô cũ kỹ và gỉ sét, người dân mặc đồ tối màu với mũ trùm và bốt. Những căn nhà nhỏ, với ống khói và khói thực sự. Có một bức tượng với màu xám tuyết. Nhưng cửa hàng thì có thịt tươi, bột và hài sản.
Một đại lộ được cào tuyết ra khỏi làng đến những khu ngoại ô mới hơn - những căn nhà đúc sẵn được phân cách bởi hàng rào dây xích. Một cái nhà thờ trông như tàu vũ trụ đang nổi lên, một ngân hàng trông như trạm xăng.
Họ đến đường cao tốc mà Arkady đã đi tối qua. Có rất ít xe cộ. Ba chiếc ô tô đi phía sau họ, Arkady nhận ra Nicky và Rurik. Anh không nhìn thấy những thám tử của Kirwill.
Hơi lệch pha, cần gạt của kính chắn gió đánh vào những bông tuyết. Tuyết rơi hay xe đang lên dốc? Arkady cảm nhận thấy lớp da lạnh lẽo của chiếc xe và những vòng quay của bánh, phần cặn whisky trong bụng anh, mồ hôi dưới cánh tay, mồ hôi trong lòng bàn tay George, dòng máu đen chạy qua mỗi người đàn ông trong xe và hơi thở của họ phả ra những làn khói trắng.
Ray dừng lại trước cây cầu bắc qua dòng Arthur Kill. Một chiếc xe đang theo sau. Họ tự dọn đường trên con đường hẹp chạy dọc dòng Kill, bằng nắp ga, dây điện và qua một đầm lầy với những cây cói bạc.
Arkady bỗng thấy cuộc đời anh trở nên thật đơn giản, nửa kết của nó. Những phần tử ngoại lai như Billy và Rodney không còn tồn tại. Biển chỉ đường viết một thứ ngôn ngữ lạ, nhưng con đường thì không thể tránh khỏi.
Arkady đã hiểu. Osborne sẽ giết anh và Irina khi KGB đang bị đánh lạc hướng cách xa đàn chồn zibelin hàng ngàn dặm. Và ở đây, Nicky và Rurik bị dẫn đến ngay chỗ họ. Còn hơn cả hiểu, Arkady nhìn thấy. Tất cả bọn gián điệp hai mang đều cùng bị hy sinh. Tệ hơn nữa là một gã giúp cho cả hai bên quá nhiều và đổi lại cũng đòi hỏi quá nhiều. Wesley còn lựa chọn nào khác? Osborne từ chối đi ẩn náu, sở phải bảo vệ không chỉ mình hắn mà còn cả một ngành công nghiệp chồn zibelin đang phát triển. Cuối cùng cũng hiểu ra, Arkady nhận thấy sự đối xứng. Rõ ràng như hai mắt và hai tay, có một sự cân bằng giữa hai đội quân đầy nhuệ khí với trái tim bằng kính. Osborne sẽ giết anh và Irina, và sau đó Wesley-George-Ray-Nicky-Rurik sẽ giết Osborne.
Họ đi qua một toa ngựa, nơi một con ngựa đen đứng trong tuyết nhìn họ bước đi.
Những ngón tay của Irina đan vào tay anh. Dù bà đã thắt thật chặt sợi dây quanh cổ tay mình, tay của mẹ anh vẫn mở, như thể bà đang cố chạm đến nhiều nước hơn.
Những cái xe tải gỉ sét, đánh rơi những bông tuyết vàng của chính chúng bên ngoài kho thóc.
Kể cả tên sát nhân điên loạn nhất - Osborne - cũng chỉ là một cá thể, không thể đoán định, cuối cùng cũng có thể bị thương tổn. Cảnh sát, cũng như tuyết, thu hẹp thế giới đến tận tâm. Ở đó, trên cánh đồng, là một cỗ máy của nông trại, một dãy lưỡi cày uốn cong đã biến thành những nét nguệch ngoạc.
Giờ là cái oằn mình đầy màu mỡ của những cái cây trĩu quả.
Cái xe thứ hai bị bỏ xa phía sau. Tuy nhiên, Arkady cảm nhận được nó, giống như một hạt mồ hôi trên lưng anh vậy.
Có gì dễ chịu không, anh tự hỏi, khi nhìn những nét phác thảo cuộc đời?
Mồ hôi anh cũng lạnh như tuyết.
Ray vòng qua cổng vào một cái sân phế liệu. Có vẻ như một biển tuyết đã trào đến từ dòng Kill, phủ kín mọi thứ bằng sắt. Toàn bộ những con tàu, thân tàu hỏng và đầu máy xe lửa đều cưỡi trên một con sóng trắng. Xe buýt chồng lên xe tải, những chiếc xe của trung tâm đường sắt New York xếp thành dãy liên tục, neo móc vào những căn nhà di động. Một dòng chữ được sơn khắp nơi: CẤM VÀO, NGHĨA LÀ CÁC VỊ ĐẤY VÀ CẨN THẬN LŨ CHÓ. Có một văn phòng với biển đăng ký, nhưng không ai ra ngăn họ vào. Arkady nhận ra họ đang đi theo vết bánh xe đã có ở đó khoảng ba đến bốn giờ, Ray lái xe như thể anh ta sẽ bị lạc nếu không có những vết đó. Cái xe lắc lư giữa những toa xe, cục đối trọng, cần trục, quanh những đống to nơi tuyết phủ lên tua-bin và đinh vít, qua những bãi dây xích và phế liệu. Con đường ra khỏi sân và xuyên qua những cây ngô đồng và cây đoan, rồi vào một cánh đồng đầy cần cẩu và dây leo. Qua những cái cây, có rất nhiều ô tô và xe buýt bị bỏ lại, như thể từ trên trời rơi xuống.
Nổi bật giữa nền tuyết trắng là cái hàng rào dây xích. Arkady chắc chắn rằng cái hàng rào có nền bê tông. Và có tấm cách điện trên cột, nên nó được điện hóa. Anh nhìn thấy một con chim nâu nhỏ nhảy từ hàng rào sang rào điện. Điện đang tắt. Trên một hộp điện thoại là cái bảng, TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN CHÓ TẤN CÔNG, GỌI ĐỂ VẬN CHUYỂN, CẨN THẬN CHÓ DỮ. Cổng hàng rào mở rộng, mời gọi họ vào.
Con đường dường như ngoằn ngoèo một cách có chủ ý qua những cái cây. Ở một khúc quanh, con đường chia làm hai nhánh. Một cái xe đi trước đã đi tiếp con đường, một cái khác đã chuyển lái, tự tạo đường xuyên bụi rậm.
Kirwill đang đợi ở khúc quanh tiếp theo. Anh ta giáp mặt họ, một tay giơ cao, trước một cây du lớn. Ray dừng xe cách anh ta một mét. Kirwill không di chuyển, mắt nhìn chòng chọc vào cái xe. Tuyết đã rơi dày trên vai với mũ, và trong ống áo của cái tay bị giơ lên.
Nằm dài trên nền tuyết dưới chân anh ta là hai con chó xám lớn đã chết. Arkady nhận thấy thò ra thành chùm từ cái áo khoác đang mở của Kirwill là bộ lòng, bị kéo ra và phủ đầy tuyết. Tuyết che lấp hai cái lỗ lớn trên ngực. Mặt anh ta hoàn toàn trắng bệch. Giờ Arkady mới thấy sợi dây quấn quanh eo và cổ tay cột anh ta vào cái cây. Khi xuống xe, họ thấy máu vương vãi khắp nơi. Những con chó giống chó Husky vùng Siberia nhưng gầy hơn, chân dài hơn và giống sói hơn. Đầu của một con chó bị đập nát. Mắt của Kirwill nhợt nhạt hơn bao giờ hết, đồng tử sụp xuống. Anh ta biểu lộ sự mệt mỏi, như thể đã bị nguyền rủa phải mang một cái cây trên lưng suốt cuộc đời.
“Lạy chúa!” Ray nói. “Chuyện này không nằm trong kế hoạch.”
“Đừng chạm vào anh ta,” George cảnh báo.
Arkady vuốt mắt cho Kirwill, cài áo khoác của anh ta lại và hôn cái má lạnh cóng.
“Tránh xa anh ta ra, làm ơn,” George nói.
Arkady lùi lại. Irina trông trắng bệch chả kém gì Kirwill, vết bớt trên má cô đen và đanh lại. Cuối cùng cô đã hiểu ư? Arkady tự hỏi. Cô có thấy hình ảnh của Kostia ở Kirwill không? Cô có biết Valerya có thể là ai không? Cuối cùng, cô đã nhận ra họ chỉ đi được một quãng rất ngắn từ công viên Gorky ư?
Osborne bước ra từ những cái cây phía sau họ mang theo một khẩu súng trường, con chó xám thứ ba ở ngay cạnh hắn. Con chó có đôi mắt viền đen, khoang cổ và mõm dính đầy máu khô.
“Hắn giết chó của tao,” hắn giải thích với Arkady, dùng một tay chỉ nòng súng vào Kirwill. “Đó là lý do tao giết hắn, vì hắn giết chó của tao.”
Hắn trò chuyện với Arkady như thể không còn ai khác hiện diện. Hắn đang mặc đồ săn, bốt cột dây, một cái mũ len và găng tay da lợn. Khẩu súng là loại bắn tỉa thể thao với tầm ngắm và báng súng vân gỗ tuyệt hảo. Một con dao to giắt nơi thắt lưng hắn. Arkady nhận ra tuyết đã ngừng rơi, không một bông tuyết nào rơi xuống, kể cả từ các cành cây trĩu nặng. Quang cảnh chưa bao giờ rõ ràng đến thế.
“Chà, đây là những người bạn của ông,” Wesley nói.
Tuy nhiên, Osborne quan sát xác chết. “Mày đáng ra phải giữ Kirwill khỏi tao,” hắn nói với Wesley. “Mày phải bảo vệ tao. Nếu không phải nhờ lũ chó, chắc nó giết được tao rồi.”
“Nhưng hắn đã không làm thế,” Wesley nói, “và giờ hắn không còn cản đường nữa.”
“Không phải nhờ mày,” Osborne nói.
“Điều quan trọng nhất là,” Wesley nói, “chúng tôi đã đưa đến những người bạn của ông đây. Họ là của ông tất.”
“Họ đem cả KGB đến nữa,” Arkady nói.
Wesley, George và Ray, những kẻ đã chuẩn bị rời khỏi Arkady và Irina, chợt dừng lại.
“Khá đấy,” Wesley nói với Arkady. Anh ta nhìn Osborne. “Ông đúng còn tôi thì sai. Người Nga thông minh đấy, nhưng anh ta chỉ tuyệt vọng nên dối trá thôi.”
“Sao anh lại nói thế, Arkady?” Irina hỏi. “Anh sẽ phá hỏng mọi thứ mất.”
Không, Arkady nghĩ, cô vẫn không hiểu.
“Sao mày lại nói thế?” Osborne hỏi Arkady.
“Wesley gặp một người trong số họ trên phà. Hắn ra khỏi xe để nói chuyện với gã,” Arkady nói.
“Có bão tuyết trên phà,” Wesley nói bằng tông giọng vừa phải. “Anh ta không thể nhìn bên ngoài xe, nói gì đến cuộc gặp bí mật.”
“Mày có nhận ra ai khác không?” Osborne hỏi Arkady.
“Khá khó quan sát,” Arkady thừa nhận.
“Sao ông còn hỏi hắn làm gì?” Wesley nói.
“Nhưng tôi sẽ nhận ra một gã tóc đỏ, đặc vụ bài trừ Do Thái của KGB, nếu tôi nhìn thấy,” Arkady nói, “dù trong cơn bão.”
“Tôi xin lỗi,” Wesley nói với Arkady, “nhưng không ai tin anh đâu.”
Arkady không thèm quan tâm đến Wesley, Osborne cũng thế. Dường như chỉ có mình họ. Còn ai đáng được ở riêng với nhau hơn tên sát nhân và điều tra viên của hắn? Hai người đàn ông tiếp cận người kia từ hai phía của người chết - cũng từ phía đối diện của một cái giường. Đó là một sự thân thiết nhân đôi mà cả Irina cũng không thể chia sẻ. Còn ai có thể cảm nhận sức nặng của tuyết vẫn còn trên bầu trời và gần như nghe thấy tiếng nhạc Tchaikovsky trong bầu không khí? Arkady để Osborne nhìn thẳng vào mắt. Kiểm nghiệm lời của tao đi, Arkady nghĩ, đánh hơi đi, nhai cho kĩ đi. Tao cảm nhận được mày đang ở bên trong tao, di chuyển như gan bàn chân của con sói trên tuyết. Thử tìm lòng căm thù của tao đi, nó đang ẩn giấu sau trái tim. Sự tất yếu luôn ở trong dạ dày. Đó là thứ duy nhất Kirwill thiếu. Tao có thứ đó. Giờ mày biết chưa?
Wesley nhìn chằm chằm hai gã đàn ông và vào phút chót, bước về phía Ray. Không cần nhắm, Osborne khai hỏa. Viên đạn trúng đầu Wesley, một nửa vầng trán nhẵn thúi biến mất, đầu gối gã sụp xuống đất, rồi đến ngực. Khi Ray cố lấy ra một khẩu súng lục từ bao súng ở vai trong áo khoác và áo choàng, Osborne lấy đạn ra, nạp đầy nòng súng và tiếp tục bắn. Ray quỳ xuống, nhìn bàn tay đầy máu. Anh ta chầm chậm đưa tay lên và nhìn cái khách sạn hiện ra qua lỗ hổng trên ngực, sau đó gục sang một bên. Con chó của Osborne tấn công George. Con chó bị George bắn khi còn ở trên không trung, rồi chết trước khi rơi xuống. Máu chảy ra từ vai Osborne. Arkady nhận ra một viên đạn khác đã được bắn từ đằng xa. George nấp sau một cái cây. Arkady kéo Irina nằm xuống tuyết và Osborne biến mất vào khu rừng.
Họ tiếp tục nằm sấp mặt xuống tuyết cho đến khi nghe thấy tiếng George và những bước chân khác chạy qua. Có tiếng la hét bằng tiếng Anh, đôi khi với giọng Nga. Anh nhận ra giọng của Rurik và Nicky. Arkady bò về phía Ray và lắc khẩu súng lục ra khỏi áo khoác của anh ta. Cả chìa khóa xe cũng rơi ra.
“Chúng ta có thể lấy cái xe,” Irina nói. “Rồi chạy trốn.”
Anh đặt chìa khóa vào tay cô và nắm chặt khẩu súng. “Em chạy đi,” anh nói.
Anh chạy vào khu rừng về hướng mà những người đàn ông khác đã biến mất. Anh tìm thấy chốt an toàn của súng phía bên trái cạnh cái xi lanh và đẩy nó đi. Rất dễ lần theo những vết chân trong tuyết: của George, của Osborne và của hai người nữa nhập vào từ phía đối diện. Anh nghe thấy tiếng họ ngay phía trước, la hét và đập những cành cây. Ngay sau tiếng đạn súng trường khô khốc là những loạt đạn của súng cầm tay.
Trận chiến cách xa hơn. Khi Arkady bò về phía trước, anh thấy Nicky nằm ngửa trong tuyết, đã chết, đôi chân xoắn lại như thể quay vòng vòng trước khi ngã. Xa hơn tí nữa là dấu chân hình chữ U của Osborne khi hắn lùi lại để tránh đợt tấn công.
Loạt đạn ngừng lại và mọi thứ trở nên yên tĩnh. Arkady di chuyển từ cây này sang cây kia. Hơi thở của anh trở nên thật ồn ào. Thỉnh thoảng, gió thổi tuyết từ cành cây và nó rơi bộp xuống đất và khiến anh phải nhảy lên. Anh nghe thấy những âm thanh khác, ban đầu anh tưởng đó là chim - những âm thanh lanh lảnh đến và đi cùng cơn gió. Đột nhiên, anh đi đến phần cuối khu rừng, khu vực hàng rào sắt bên trong với vải bạt ngăn cách hiện ra. Giữa hàng rào, mắc giữa đám vải bạt và chất cách điện là cái xe của Kirwill. Lái xe bị kẹt ở đó. Kính hậu thủng một lỗ và ở ghế trước Rats đang ngồi thẳng. Anh ta đã chết, máu nhỏ xuống từ cái mũ len rách đã khô lại thành những vệt dài.
Arkady đến một cánh cổng khác. Nó đang mở và trên con đường in vết bánh xe đã bị tuyết bao phủ và vết chân người chạy vẫn còn mới. Bên trong là những con chồn zibelin của Osborne.
Khoảng đất hình chữ nhật, dài khoảng một trăm và rộng sáu mươi mét, bài trí rất đơn giản. Ở đầu này là một khối tròn để chứa nước thải và căn lều cho chó, ba sợi xích treo trên đai. Vết bánh xe dẫn đến nơi chiếc limousine của Osborne đang đậu ngoài một căn nhà kho một tầng bằng xi măng. Cái nhà kho có vẻ đủ lớn để chứa tủ lạnh, khu vực chế biến thức ăn và kiểm dịch. Những dấu chân chạy đến trại chồn zibelin. Những vị tướng ở Điện Lông thú đã ước tính thấp hơn thực tế. Arkady đếm được mười chuồng được nâng cao, đang mở, mỗi cái dài hai mươi mét, với trần gỗ che hai dãy lồng và một lối đi ở giữa. Có bốn lồng một dãy, nghĩa là khoảng tám mươi con chồn tất cả: tám mươi con chồn zibelin ở thành phố New York. Anh không nhìn rõ những con thú, chúng đang kích động và không ngừng di chuyển. Anh cũng không nhìn thấy Osborne, George hay Rurik, dù có rất ít chỗ để trốn - chỉ có những cái chai nhựa ở cuối mỗi chuồng và rãnh xi măng dưới mỗi dãy lồng. Khẩu súng lục Mỹ cọc cạch và nòng ngắn, không dành cho những tay thiện xạ, và dù sao anh cũng không phải là thiện xạ, anh không thể nào bắn trúng ai từ cái kho hay cái lều. Anh chạy đến chuồng gần nhất.
Đầu tiên, anh nghe tiếng đạn trước rồi cảm nhận được viên đạn. Đáng ra phải ngược lại chứ, anh nghĩ. Anh loạng choạng nhưng ngay lập tức giữ thăng bằng. Một viên đạn súng lục rất khó xuyên qua ngực một người đàn ông, anh nghĩ, đây hẳn là đạn súng trường. Khi anh cúi rạp dưới chuồng, cơn đau ở sườn lan ra.
Phía trên anh, lũ chồn zibelin rú lên giận dữ. Chúng leo lên những bức tường lưới kẽm, chạy, nhảy, không bao giờ đứng yên. Chúng trông giống mèo, rồi bầy chồn, với những đôi tai lông lá vểnh lên nghe ngóng, đuôi dựng ngược đầy tức giận, di chuyển nhanh đến nỗi chỉ còn là những chấm đen trong chuồng. Sức sống của chúng thật đáng kinh ngạc. Chúng hoang dã, không bị thuần phục, tràn đầy sức sống mãnh liệt, kêu quang quác và cố chạm vào anh qua lưới bạc. Nhìn qua lưng, Arkady thấy một đôi chân người khác. Một khuôn mặt đang sấp xuống với đôi mắt tối sầm thêm cặp chân, rồi nòng súng lục. Đó là George. Gã nổ súng và đám phân động vật bắn tung tóe từ rãnh nước thải lên người Arkady. Arkady nhắm bắn. Vẫn quá xa. Anh lăn qua cái máng đến chuồng bên cạnh, gần George hơn, và nhắm lần nữa khi có tiếng súng lục. Arkady nhìn thấy chân George đang lùi lại, đầu vẫn cúi xuống, khẩu súng lục đung đưa trong ngón tay. Tay kia của George đang cố với lấy vai anh. Chân hắn cứng lại, đầu thấp hơn khi hắn lùi vào một cái can nhựa ở cuối trại. Cái can dốc ngược lên, đổ ra thứ súp đầu cá và thịt ngựa trên tuyết. George gục xuống trong thứ nước súp đó.
“Arkady Vasilevich,” Rurik nói.
Rurik bước ra từ chuồng của Arkady và đứng trước mặt anh, một khẩu Makarov tự động lơ lửng trong tay. Giờ chúng ta sẽ cùng săn Osborne, Arkady nghĩ, nhưng Rurik giỏi phán đoán kẻ thù hơn và được huấn luyện để không do dự. Với sự đồng cảm đầy châm biếm của vị trọng tài cuối cùng - chúng ta đều là con người, đặc biệt là những người Ukraina - đặc vụ KGB nâng súng lên và nhắm vào Arkady với cả hai tay. Trước khi hắn nổ súng, phần da đầu hắn tung ra khỏi hộp sọ, những vết lốm đốm màu xám dính vào mái tóc đỏ và Rurik sụp xuống, đầu gối và mặt ngã vào tuyết. Lần này, tiếng súng trường lại đến sau.
Từ đằng sau, Arkady nhìn dọc dãy chuồng và thấy chân Osborne cách đó ít nhất sáu chuồng. Đó là súng bắn tỉa. Osborne có thể nhìn qua một dãy chuồng và ngắm vào mục tiêu. Hắn làm thế dễ dàng hơn nhiều so với việc ngắm bắn từ dưới những cái chuồng, Arkady nghĩ. Arkady lăn qua thêm một cái chuồng nữa, gần Osborne hơn, và ở ngay dưới chân hắn.
Arkady tiến thêm khoảng hai trại nữa, lăn qua George trong bãi đồ ăn cho chồn. Ở trại tiếp theo, khi Osborne xuất hiện và giơ súng, Arkady núp vào hành lang gỗ giữa những cái chuồng. Vài con chồn trốn trong cái lồng bên trong chuồng, vài con khác đi theo Arkady, đi từ đầu này sang đầu kia, nhảy bổ vào lưới. Anh nhận ra mỗi cái chuồng có biểu đồ, chỗ để thức ăn và móc khóa riêng. Miễn là anh và bọn chồn cùng di chuyển, anh vẫn còn cơ hội. Nếu anh có thể đến gần hơn, có năm hay sáu viên đạn trong ổ quay để đấu với súng trường tự động. Anh đập tay vào chuồng khi chạy để làm náo động lũ chồn. Anh cảm nhận được tầm súng lục, bất lực, đang cố bắn anh mà không đụng vào lũ chồn zibelin.
Arkady giảm khoảng cách giữa những cái chuồng trong hai bước và nhảy vào hành lang tiếp theo, quát tháo lũ chồn khi anh đụng phải. Đuôi chúng dựng lên khi nhảy từ tường lên trần nhà xuống sàn nhà, khạc nhổ, đôi con tè ra trong cơn phẫn nộ. Tay anh chảy máu, một con chồn đã cắn anh qua lưới sắt. Rồi anh nằm xuống sàn hành lang, bị bắn, một viên đạn xuyên đùi. Không tồi, anh lau máu, rồi lại đi tiếp. Anh nhận ra mình vừa trườn qua một cái lồng rỗng, và Osborne không bỏ lỡ cơ hội nổ súng, thế nhưng viên đạn chệch hướng, nếu không anh đã chết rồi. Có thêm ván mới trên trần trại và cái rào mới được sơn lại, xà beng và hộp dụng cụ trên lối đi. Chắc đó là cái chuồng nơi con chồn trốn thoát. Anh thấy Osborne đuổi theo lúc ra khỏi cái chuồng. Arkady có thể nấp dưới dãy chuồng trong rãnh nước thải và nổ súng trước. Nhưng anh bị vấp, mất thăng bằng chân khi những cơn sốc truyền qua.
Rồi anh nghe tiếng hét của Irina. Cô đứng trong cái cổng ghép gọi tên anh. Cô không nhìn thấy anh. Osborne bảo cô đứng yên.
“Điều tra viên,” Osborne hét lên, “ra đây đi! Mày cứ giữ lấy khẩu súng của mày và tao sẽ thả cả hai đứa đi. Ra ngay không tao giết nó.”
“Chạy đi!” Arkady hét với Irina.
“Tao sẽ thả cả hai đứa, Irina ạ,” Osborne nói. “Mày có thể lên xe và chạy. Nhưng vết thương của thằng điều tra viên cần được chăm sóc đấy.”
“Em sẽ không đi mà không có anh!” Irina gọi Arkady.
“Bọn mày có thể đi cùng nhau, Arkady,” Osborne nói. “Tao hứa với mày đấy. Nhưng ra ngoài đi, ngay bây giờ, hoặc tao sẽ bắn nó. Ngay bây giờ.”
Arkady quay lại cái chuồng rỗng. Anh nhặt cái xà beng và nhét cái đầu hẹp của nó vào ổ khóa trong cái chuồng bên cạnh. Con chồn bên trong bất động quan sát. Arkady ấn vào thanh xà beng và khóa bật ra. Khi cánh cửa bật mở, con chồn nhảy vào ngực Arkady, ra lối đi rồi thoát khỏi trại. Anh chưa từng thấy thứ gì chạy nhanh đến thế trong tuyết. Con chồn lướt qua tuyết trên đệm chân mềm, đầy lông, cái đuôi làm tuyết phía sau bắn lên. Arkady lại nhét thanh xà beng vào cái khóa đối diện và ấn xuống.
“Không!” Osborne gào lên.
Arkady bắt được con chồn khi nó nhảy ra khỏi chuồng và tóm lấy khi nó cố trốn thoát. Osborne đứng ở cuối lối đi, nâng súng lên và bắn. Arkady nằm xuống sàn lối đi và nổ súng. Hai phát đạn đầu tiên xuyên qua bụng Osborne. Osborne thêm đạn vào nòng. Hai phát đạn tiếp theo của Arkady bắn trúng ngực Osborne. Phát thứ năm vào họng khi hắn đang ngã xuống. Phát thứ sáu bị chệch.
Arkady ra khỏi chuồng. Osborne ở đằng sau, với vô số viên đạn trong người, trông hắn vẫn không quá thảm hại. Hắn vẫn nắm chặt súng. Kì lạ thay, Arkady thấy hắn như vẫn còn sống, thậm chí không mặc đồ săn và giống một bộ com-lê đẹp hơn với những nét tinh tế. Arkady ngồi cạnh hắn. Mắt Osborne nhắm nghiền, như thể hắn đã có thời gian để tự trấn tĩnh lại. Arkady cảm nhận được hơi ấm đang rời cái xác và quá trình đông cứng đang bắt đầu. Anh mệt mỏi tháo thắt lưng Osborne ra và cột nó vào chân mình. Anh từ từ nhận ra Irina đang đứng giữa bọn họ. Cô nhìn trân trối. Cuối cùng, có phải có chút biểu cảm trên khuôn mặt Osborne như thế hắn đã thắng?
“Hắn từng nói hắn yêu tuyết,” Arkady nói. “Chắc thế thật.”
“Chúng ta đi đâu bây giờ?”
“Em đi đi.”
“Em quay lại vì anh,” Irina nói. “Chúng ta có thể chạy trốn, chúng ta có thể ở lại Mỹ.”
“Anh không muốn ở lại.” Arkady nhìn lên. “Anh chưa từng muốn ở lại. Anh chỉ đến vì biết Osborne sẽ giết em nếu anh không làm thế.”
“Thế thì hãy cùng về nhà.”
“Em đang ở nhà rồi. Em đã là người Mỹ, Irina ạ, em đã trở thành người em luôn muốn trở thành.” Anh mỉm cười. “Em không còn là người Nga nữa. Chúng ta luôn khác biệt và giờ anh đã biết sự khác biệt đó là gì.”
“Anh cũng sẽ thay đổi.”
“Anh là người Nga,” anh vỗ ngực. “Anh càng ở đây lâu hơn, anh càng giống một người Nga hơn.”
“Không.” Cô lắc đầu đầy giận dữ.
“Nhìn anh này.” Arkady quỳ xuống. Một chân anh đã tê cứng. “Đừng khóc. Nhìn xem anh là ai: Arkady Renko, cựu điều tra viên trưởng. Nếu em yêu anh, hãy thành thật nói cho anh biết anh có thể trở thành người Mỹ đến mức nào. Nói đi!” Anh gào lên. “Nói đi,” anh dịu dàng hơn, “hãy thừa nhận đi, không phải em đang nhìn thấy một người Nga sao?”
“Chúng ta đã đi cả quãng đường dài. Em sẽ không để anh quay về một mình, Arkady...”
“Em không hiểu.” Anh nắm lấy khuôn mặt Irina. “Anh không dũng cảm như em, không đủ dũng cảm để ở lại. Làm ơn hãy để anh quay về. Em cứ là người em đã trở thành và anh vẫn là chính anh. Anh sẽ luôn yêu em.” Anh hôn cô mãnh liệt. “Giờ đi đi, chạy đi.”
“Bầy chồn zibelin...”
“Cứ để anh lo. Đi đi.” Anh đẩy cô. “Đường về không khó lắm đâu. Đừng đến sở, đến đồn cảnh sát hoặc Bộ ngoại giao, chỗ nào cũng được trừ FBI.”
“Em yêu anh.” Cô cố níu tay anh.
“Anh phải ném đá à?” Anh hỏi.
Irina thả anh ra. “Em sẽ đi vậy,” cô nói.
“Chúc may mắn.”
“Chúc may mắn, Arkady.”
Cô ngừng khóc, vuốt sợi tóc lòa xòa trước mắt, nhìn xung quanh và hít một hơi thật sâu. “Tuyết dày thế này thì lẽ ra em phải đi ủng mới đúng, anh nhỉ,” cô nói.
“Anh biết.”
“Em là tay lái cừ khôi mà. Đèn có vẻ sáng hơn rồi đấy.”
“Ừ.”
Cô đi thêm hai bước. “Anh sẽ báo tin cho em chứ?” Cô quay đầu lại, đôi mắt hốc hác sũng nước.
“Dĩ nhiên. Tin nhắn đúng không? Thời đại thay đổi rồi.”
Khi đến cánh cổng, cô dừng lại lần nữa. “Sao em có thể rời xa anh được?”
“Là anh rời xa em!”
Irina đi qua cổng. Arkady nhìn thấy hộp xì gà trên người Osborne, anh hút và lắng nghe tiếng cành cây xào xạc trong cơn gió cho đến khi nghe thấy tiếng xe khởi động từ phía xa. Bầy chồn zibelin cũng nghe thấy âm thành, tai chúng rất thính.
Cuối cùng, Arkady nghĩ, có ba vụ trao đổi. Đầu tiên là vụ của Osborne, rồi của Kirwill và giờ là anh. Anh sẽ trở về Liên bang Xô Viết và để Irina ở lại Mỹ. Anh nhìn xuống Osborne. Xin lỗi nhé, anh nghĩ, nhưng tao còn gì để trao đổi ngoài bản thân mình? Bầy chồn zibelin, dĩ nhiên rồi. Chúng cũng phải được xử lý.
Anh lôi khẩu súng trường ra khỏi tay Osborne và tập tễnh về phía nhà kho. Hắn còn bao nhiêu viên đạn nữa? Anh băn khoăn. Bầu trời bừng sáng và trong trẻo. Bầy chồn đã yên lặng, mắt chúng dí vào lưới sắt.
“Tao xin lỗi,” Arkady nói to. “Tao không biết người Mỹ sẽ làm gì với bọn mày. Sau tất cả những chuyện này thì chúng ta không thể tin ai được nữa.”
Chúng bám vào lưới và nhìn anh, bộ lông đen như than, mắt vẫn chăm chú nhìn.
“Họ đã bổ nhiệm tao làm đao phủ rồi,” Arkady nói. “Và họ sẽ biết được sự thật từ tao, những người anh em ạ. Họ là những người đàn ông sẽ chấp nhận những lời nói dối hay chuyện cổ tích hoặc mơ mộng. Tao xin lỗi.”
Anh nghe thấy tiếng tim của chúng đập, dường như đang chạy cùng với chúng, cũng như anh vậy.
“Thế thì...”
Arkady hạ súng xuống và nhặt cái xẻng lên. Khập khiễng trên một chân, anh đập vỡ một ổ khóa. Con chồn nhảy đến tự do, và giây tiếp theo đã đến hàng rào. Anh đã thuần thục hơn, chỉ cần một cái đẩy và kéo ở mỗi chuồng. Xì gà thật là liều an thần tuyệt hảo. Anh rùng mình khi mỗi cửa chuồng mở ra và những con chồn zibelin hoang dại nhảy vào lớp tuyết - màu đen trên tuyết trắng, màu đen trên tuyết trắng và rồi biến mất.